Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 03:03:26 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Quân tình nguyện và Chuyên gia quân sự Việt Nam tại K  (Đọc 196073 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
binhyen1960
Moderator
*
Bài viết: 3862


HOT nhất forum năm 2009


« Trả lời #50 vào lúc: 10 Tháng Sáu, 2010, 11:14:17 pm »

Sư đoàn 7 khi thành lập trong KCCM gồm 3 trung đoàn lấy phiên hiệu 12 (tức 165A/312), 14 (141A/312), 16 (101A/325A).
[/quote Vậy thì E209 hay 42 chúng tôi khi đó thuộc đơn vị nào trong 3 trung đoàn bộ binh của F7 đây ? Grin
 Xưa nay E209 luôn nằm trong F312 hoặc  F7 sau này . Chắc có sự nhầm lẫn rồi Chang ạ .
Logged

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, đình tiền tạc dạ nhất chi mai
Bodoibucket
Thành viên
*
Bài viết: 913


« Trả lời #51 vào lúc: 10 Tháng Sáu, 2010, 11:19:35 pm »

Thì 1 e của f7 (E320) chạy xuống miền Tây, E209 quẳng hết mặt nạ phòng độc với mũ sắt ở miền Trung vào nhập vô F7!
Thế là 209 lại về 1 nhà với 141, 165 (toàn là từ F312 đi B cả)
« Sửa lần cuối: 11 Tháng Sáu, 2010, 09:16:15 am gửi bởi Bodoibucket » Logged
Bodoibucket
Thành viên
*
Bài viết: 913


« Trả lời #52 vào lúc: 11 Tháng Sáu, 2010, 09:24:06 am »

Trong thời kỳ đầu, nhiệm vụ truy quét tàn quân địch, tiêu diệt các căn cứ, các tổ chức phản động, giữ vững chính quyền cách mạng được xác định là nhiệm vụ hàng dầu của Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự ta trên chiến trường Campuchia. Thực hiện chủ trương của Quân ủy Trung ương, các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam (gồm một số đơn vị thuộc các quân đoàn 2, 3, 4; các quân khu 5, 7, 9 và một số đơn vị quân chủng, binh chủng tăng cường) phối hợp chặt chế với lực lượng vũ trang yêu nước Campuchia mở nhiều đợt truy quét tàn quân dịch, dồn chúng về biên giới phía Tây Bắc Campuchia.

Trên hướng Quân đoàn 2, sau khi hoàn thành các nhiệm vụ được giao trong đợt tổng tiến công, Quân đoàn tổ chức lực lượng đứng chân trên hai khu vực: Sư đoàn 304 và các đơn vị tăng cường đảm nhiệm khu vực đường số 4  cảng Côngpông Xom. Sư đoàn 325 và một số đơn vị binh chủng truy quét dịch ở khu vực tỉnh Campốt.

Sau khi truy quét, tiêu diệt địch ở các căn cứ vùng rừng núi đông đường số 3 (thung lũng, điểm cao 46), đẩy địch ra xa, bảo đảm an toàn cho thị xã Campốt và hậu phương chiến dịch, cuối tháng 1 năm 1979, Sư đoàn 325 chuyển hướng lên hoạt động ở bắc đường số 3, đánh địch ở khu vực từ bắc điểm cao 127 đến tây nam núi Con Sâu, đèo 24. Sau 15 ngày chiến đấu, ta và Bạn loại khỏi vòng chiến đấu gần 700 tên địch, thu một số vũ khí, tạo bàn đạp chuẩn bị tiến công tiêu diệt quân địch ở Trốpsala.

Trong thời gian này, Sư đoàn 304 vừa khẩn trương củng cố khu vực đứng chân, vừa cùng lực lượng Bạn tổ chức tiến công địch từ bắc cầu Côngpông Sơmách đến  Vênhriêng và đánh chiếm khu vực từ Vênhriêng đến nam cầu Tànày. Cuối tháng 1, địch dùng một lực lượng lớn bộ binh, có xe tăng, xe bọc thép yểm trợ chia thành nhiều mũi đánh vào các khu vực phòng thủ của ta từ nam cầu Tànày đến Vênh riêng; ta bắn cháy 3 xe tăng, đập tan các cuộc phản kích của địch, nhưng lực lượng của ta cũng bị tổn thất do chưa nắm chắc thủ đoạn tác chiến của địch, giải quyết cách đánh chưa tốt, còn nặng về đánh chính diện, đánh xua đuổi, không tích cực thực hiện luồn sâu, bao vây chặt nên đã để địch chạy thoát nhiều và bắt dân đi theo.

Đầu tháng 2 năm 1979, Quân đoàn 2 bước vào đánh địch đợt hai, giúp Bạn truy quét tàn quân địch, bảo vệ vùng giải phóng. Phối hợp tác chiến với Quân đoàn có Sư đoàn 320 (Quân đoàn 3) trên hướng Campốt; Sư đoàn 339 và Sư đoàn 4 (Quân khu 9) hoạt động ở Đông Bắc Salakhum; ở hướng đường số 4 và cảng Côngpông Xom có bộ đội Hải quân Vùng 5 và Lữ đoàn Hải quân đánh bộ 126. Rút kinh nghiệm chiến đấu đợt 1,  trong đợt hai, Quân đoàn 2 quyết tâm tập trung lực lượng tiến công liên tục, không cho địch kịp hồi sức; vừa tập trung lực lượng bộ binh đẩy mạnh tiến công địch ở phía trước; đồng thời sử dụng một lực lượng cùng các đơn vị binh chủng tổ chức phòng thủ vững chắc các vùng căn cứ ở phía sau, bảo đảm an toàn giao thông. Trong tác chiến kết hợp chặt chẽ đánh nhỏ, đánh vừa và đánh lớn; kết hợp đánh chính diện với đánh vu hồi; đánh dứt điểm từng khu vực, đánh trúng chỉ huy, phá căn cứ địch; chú trọng dưa dân trở về làng cũ; thu gom triệt để vũ khí trang bị và các kho tàng của địch giao cho Bạn quản lý, triệt nguồn tiếp tế của địch; kết hợp chặt chẽ với lực lượng Bạn thực hiện tiến công về quân sự và đẩy mạnh công tác binh vận; cùng Bạn vận động, tổ chức nhân dân củng cố, xây dựng các vùng giải phóng về mọi mặt.

Ở khu vực Campốt, ngày 2 tháng 2 năm 1979, Trung đoàn 95 Sư đoàn 325 sử dụng 1 tiểu đoàn luồn sâu vào điểm cao 177 (Đông Bắc Trốpsala); đồng thời sử dụng lực lượng còn lại bao vây chặt quân địch co cụm ở Trốpsala. Sau 4 ngày chiến đấu, Trung đoàn 95 diệt và bắt nhiều tên địch, làm chủ Trốpsala. Phối hợp với Trung đoàn 95, Trung đoàn 101 vừa làm nhiệm vụ phòng thủ ở tuyến sau, vừa sử dụng lực lượng đánh địch từ tây điểm cao 23 đến bắc điểm cao 54. Ta tổ chức nhiều mũi truy quét tàn quân địch, giải phóng hàng nghìn dân bị chúng cầm giữ ở Trốpsala; đồng thời (p.087) tổ chức tốt các đợt đánh địch phản kích từ Kaosala xuống hòng chiếm lại khu vực này.

Tại khu vực bắc đèo 244 ngày 7 tháng 2 năm 1979, Trung đoàn 18 liên tiếp đẩy lùi nhiều đợt tiến công của địch, giữ vững trận địa. Ngày 10 tháng 2, Trung đoàn tổ chức trận vận động tiến công trên đường số 37, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, mở rộng địa bàn phòng thủ. Sau đợt tác chiến này, theo lệnh của trên, Sư đoàn 325 phối hợp với các sư đoàn 4, 339, 320 và lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia mở cuộc hợp vây lớn tiêu diệt lực lượng của Quân khu Đông Nam địch đang trập trung ở Chúc và các vùng xung quanh.
Nhận nhiệm vụ tổ chức tiến công truy quét địch từ đông bắc điểm cao 244 đến Kaosala và từ Kasăng đến Chúc, ngày 13 tháng 2 năm 1979, Sư đoàn 325 (thiếu Trung đoàn 101) tổ chức luồn sâu áp sát các căn cứ địch.

Sáng ngày 14 tháng 2, các đơn vị của Sư đoàn đồng loạt nổ súng. Trung đoàn 18 đánh chiếm Trêpêng Sđen, Trung đoàn 95 đánh chiếm Kaosala. Sau khi làm chủ các mục tiêu, Sư đoàn 325 phát triển chiến dấu đánh chiếm Kasăng, Taken, điểm cao 55 tây bắc Chúc và tiếp tục đánh sâu vào vùng căn cứ địch.

Chiều ngày 17 tháng 2, các đơn vị của Sư đoàn 325 chiếm được khu vực Trapengpreng và điểm cao 154, sau đó phối hợp với các đơn vị của Quân khu 9 phát triển chiến đấu ra đường số 3 tiến công địch ở Rútsét, Vátăngcôi và các điểm cao 87, 50. Sau hơn 1 tuần phối hợp chiến đấu cùng các đơn vị Bạn, Sư đoàn 325 đã hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ được giao. Bộ đội ta tiêu diệt sở chỉ huy Quân khu Đông Nam, đánh thiệt hại nặng sư đoàn 230 và trung đoàn 123 địch, góp phần cùng các đơn vị Bạn giải phóng một vùng rộng lớn nằm giữa Chúc, Campốt và Côngpông Trạch, giải phóng gần 100.000 dân.

Ở khu vực đường số 4, Sư đoàn 304 sử dụng Trung đoàn 9 phòng thủ phía sau; Trung đoàn 24 và Trung đoàn 66 phát triển tiến công địch từ bắc cầu Tànày đến đèo Píchnin và khu vực cảng Côngpông Xom. Kết hợp chặt chẽ giữa tiến công chính diện với thọc sâu vu hồi, các đơn vị của Sư đoàn 304 tiêu diệt nhiều sinh lực địch, bảo vệ đường số 4 và khu vực cảng Côngpông Xom. Từ ngày 17 đến 19 tháng 2 năm 1979, được Quân đoàn tăng cường xe tăng, xe bọc thép và pháo tầm xa của Lữ đoàn 164 chi viện, Sư đoàn 304 sử dụng Trung đoàn 66 tiến công khu vực đèo Píchnin. Sau hai ngày chiến đấu, bộ đội ta và Bạn tiêu diệt 2 tiểu đoàn địch, làm chủ khu vực đèo Píchnin, trong đó có nhà máy thủy diện công suất 10.000KW.

Trong 40 ngày đêm phối hợp cùng lực lượng Bạn và các đơn vị của Quân khu 9 truy quét địch trên cả hai hướng Cam Pốt và Côngpông Xom, các đơn vị của Quân đoàn 2 đã tiêu diệt nhiều sinh lực dịch, góp phần giải phóng nhiều vùng dân cư rộng lớn ở Quân khu Đông Nam và Đặc khu Côngpông Xom, giải phóng gần 350.000 dân, thu nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh của địch, giúp Bạn ổn định đời sống nhân dân, củng cố chính quyền cách mạng.

Hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, ngày 27 tháng 2 năm 1979, Quân đoàn 2 được lệnh trở về Tổ quốc nhận nhiệm vụ mới. Quân đoàn 2 vinh dự được Quốc hội và Chính phủ ta tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh; Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Campuchia trao tặng Huân chương Ăng co kèm theo bức trướng mang dòng chữ "Tinh thần quốc tế vô sản trong sáng, tuyệt vời". Trung đoàn 24 (Sư đoàn 304), Đại đội 7 (Lữ đoàn 203 xe tăng) được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang lần thứ hai; 163 tập thể, 1.260 cán bộ, chiến sĩ có thành tích xuất sắc trong hoạt động giúp Bạn được thưởng Huân chương Quân công và Chiến công các hạng.  Trong khi Quân đoàn 2 rút quân về nước thì Quân đoàn 3 nhận lệnh chuyển đội hình lên phía bắc và tây bắc Campuchia. Quân đoàn chuyển lên vùng sâu, vùng xa, tiếp tế rất khó khăn, địch liên tục đánh phá. Nhiều thử thách dồn dập đến với cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn.
-----------------
Anh em nhà chú G.17 đấy nhá. Bảo mấy lão 325 đọc xong vào đây bắn tùm lum đê! Hỏi xem có lão nào ở E95 không?
Logged
Bodoibucket
Thành viên
*
Bài viết: 913


« Trả lời #53 vào lúc: 11 Tháng Sáu, 2010, 09:36:29 am »

Vững tin vào sự lãnh dạo của Đảng, Bộ tư lệnh Quân đoàn 3 quyết định phát động phong trào "Giết giặc lập công", thi đua với quân dân các tỉnh phía Bắc. Với tinh thần "bám dân, bám địa bàn, truy quét triệt để tàn quân địch", ngay trong đợt truy quét đầu, các đơn vị của Quân đoàn đã phối hợp chặt chẽ với các lực lượng Bạn đánh các đồn biên phòng Poipét, Concoóc, tiêu diệt nhiều tàn quân địch trên biên giới Tây Bắc Campuchia.

Ngày 18 tháng 3 năm 1979, Tiền phương Bộ Quốc phòng tăng cường cho Quân đoàn 3 Sư đoàn bộ binh 309; Trung đoàn 726 (Quân khu 5) và Tiểu đoàn 9 (p.090) (Trung đoàn 113 đặc công của Bộ) để mở "chiến dịch 3", phối hợp cùng các đơn vị Bạn truy quét tàn quân địch, tiêu diệt cơ quan Trung ương của Pôn Pốt - Iêng Xari ở khu vực phía tây Báttambang.

Thực hiện nhiệm vụ được giao, từ ngày 22 tháng 3 đến 24 tháng 4, Quân đoàn 3 tập trung 3 sư đoàn bộ binh (10, 31, 309), Trung đoàn 726 và một số đơn vị xe tăng, thiết giáp, pháo binh mở chiến dịch truy quét địch ở phía tây Báttambang, chủ yếu là khu vực Tàsanh, Sămlốt, Tứcsóc.

Mở đầu chiến dịch, từ ngày 22 đến ngày 26 tháng 3, Sư đoàn 10 sử dụng Trung đoàn 66 đánh chiếm các bàn đạp Chisăng, Păngrôlin; Trung đoàn 24 chốt chặn đường 43 ở nam Sămlốt. Sư đoàn 31 sử dụng Trung đoàn 866 tiến công Sênôtức, Thơmin, Trung đoàn 977 làm nhiệm vụ mở rộng hành lang, Trung đoàn 922 đánh chiếm Taghen. Ngày 27 tháng 3, Sư đoàn 10 và Sư đoàn 31 tiến công Tàsanh - Sămlốt từ hai hướng. Sư đoàn 10 đánh vào Sămlốt và ngăn chặn đường rút lui của quân địch sang biên giới Thái Lan. Sư đoàn 31 từ phía đông, đông bắc tiến công căn cứ Tàsanh, sau đó phát triển chiến đấu truy quét tàn quân địch dọc biên giới phía tây nam và tây bắc tỉnh Báttambang.

Ngày 29 tháng 3, ta đánh chiếm dài phát thanh và một số cơ quan trung ương địch đặt ở phum Tứcsóc.

Trong 4 ngày đêm hoạt động, cán bộ, chiến sĩ Quân đoàn 3 tiêu diệt hơn một nghìn tên địch, thu hàng nghìn súng các loại, 5 xe tăng, hàng chục chiếc ô tô và nhiều đồ dùng quân sự.
Phát huy thắng lợi, từ ngày 1 đến 24 tháng 4 năm 1979, Sư đoàn 10 phối hợp với Sư đoàn 309 và Trung đoàn 726 tiến công tiêu diệt tàn quân địch tại Lôvia, Nimít, Poipét, Kaomêlai và Khaocalon, giải phóng một dải biên giới dài hơn 150 kilômét. Trong chiến dịch này, các đơn vị của Quân đoàn đã loại khỏi vòng chiến đấu gần 4.000 tên dịch, thu hàng nghìn khẩu súng các loại và nhiều vũ khí đạn dược, quân trang, quân dụng, giải phóng hơn 7 vạn dân.

Nhằm triệt phá cơ sở hậu cần chiến lược của quân Pôn Pốt ở thung lũng Kravanh, từ ngày 29 tháng 4 đến 30 tháng 5 năm 1979, Quân đoàn 3 sử dụng hai sư đoàn bộ binh (10 và 31), Lữ đoàn xe tăng 273 và lực lượng của trên tăng cường (các lữ đoàn 7; 234; Trung đoàn 29) phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia tiến công tiêu diệt địch ở phía tây tỉnh Puốcxát. Bước vào chiến dịch, từ ngày 29 tháng 4 đến 3 tháng 5, Sư đoàn 10 sử dụng Trung đoàn 24 chốt chặn chiến dịch ở phía tây Pramôi, Trung đoàn 66 đánh chiếm Sapiêng. Sư đoàn 31 sử dụng Trung đoàn 977 tiến công Phlếch; đồng thời sử dụng hai trung đoàn 28 và 866 thực hành luồn sâu, tiến công đánh chiếm các mục tiêu then chốt. Tiểu đoàn 9 đặc công (Bộ tăng cường) đánh chiếm Sơnai Pra. Do nắm chắc tình hình địch và địa hình, các đơn vị đã thực hiện được ý định của bộ chỉ huy chiến dịch là: đánh vỡ thế trận của địch, đánh trúng chỉ huy, truy diệt địch, làm chủ địa bàn, thu vũ khí, phương tiện chiến tranh, kho tàng, giải phóng được nhiều dân bị dịch bắt đi theo.

Trong khi chiến dịch ở phía tây Puốcxát đang tiếp diễn thì ngày 3 tháng 5 năm 1979, Bộ Quốc phòng chỉ thị cho Quân đoàn 3 trong tháng 6 phải hoàn thành nhiệm vụ truy quét địch ở địa bàn tỉnh Puốcxát bàn giao cho đơn vị Bạn và tiến hành cơ động toàn bộ lực lượng, binh khí kỹ thuật ra phía Bắc làm lực lượng dự bị của Bộ.  Thực hiện chỉ thị của bộ, từ ngày 4 đến 30 tháng 5 năm 1979, Quân đoàn 3 tiếp tục tổ chức các đợt truy quét, triệt phá các cơ sở hậu cần của địch, giúp bạn mở rộng vùng giải phóng và phát động nhân dân xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng. Trong chiến dịch này, bộ đội ta đã triệt phá hoàn toàn căn cứ chiến lược Kravanh của địch, giải phóng biên giới phía tây tỉnh Puốcxát, loại khỏi chiến đấu hàng nghìn tên, thu hàng nghìn súng các loại cùng nhiều tài liệu quan trọng của Pôn Pốt, thu hàng trăm tấn lúa gạo, hàng trăm tấn muối, hàng nghìn mét vải, hàng nghìn lít xăng dầu, hàng chục kiện thuốc chữa bệnh bàn giao cho chính quyền cách mạng tỉnh Puốc xát, giải phóng 145.000 dân. Cùng với việc truy quét, đánh dịch, Quân đoàn còn giúp Bạn xây dựng 1 đội du kích, thành lập chính quyền ở 6 phum, tuyên truyền giác ngộ cho 116.641 lượt người, khám chữa bệnh cho 959 người, cứu đói cho dân 115 tấn lương thực.

Sau khi cơ bản hoàn thành nhiệm vụ truy quét tàn quân địch, những ngày đầu tháng 6 năm 1979, Quân đoàn 3 tiến hành bàn giao địa bàn tác chiến cho các đơn vị Bạn. Sư đoàn 320 tăng cường cho Quân khu 9 từ tháng 1 đến tháng 6 cũng hoàn thành tốt nhiệm vụ và được lệnh bàn giao địa bàn trở về dội hình chiến đấu của Quân đoàn[1]. Ngày 17 tháng 6 năm 1979, đơn vị đầu tiên của Quân đoàn 3 rời Campuchia trở về Tổ quốc.

Đến đầu tháng 8 năm 1979, toàn bộ đội hình Quân đoàn hoàn thành việc rút quân khỏi Campuchia về phía Bắc (Việt Nam) nhận nhiệm vụ mới. Đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ quốc tế của Quân đoàn 3 ở Campuchia, Đại tướng Văn Tiến Dũng, ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ghi nhận: Quân đoàn 3 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Quân ủy Trung ương giao cho, thực hiện được yêu cầu: "Đi đến đâu là Bạn tin, dân mến, kẻ thù khiếp sợ và ta thì trưởng thành"[2].
-------------------------------------------------------
1. Từ cuối tháng 1 đến đầu tháng 6 năm 1979, Sư đoàn bộ binh 320 và một phân đội xe tăng của Quân đoàn 3 được phối thuộc cho Quân khu 9 làm nhiệm vụ truy quét tàn quân địch ở phía nam thủ đô Phnôm Pênh. Trong gần 6 tháng đầu năm 1979, Sư đoàn đã đánh hàng trăm trận, tiêu diệt tàn quân của các sư đoàn 210, 250, 270, 805 quân Pôn Pốt, bảo vệ thị xã Tàkeo, khai thông các tuyến đường số 3, 33, 42. Đồng thời giúp Bạn xây dựng chính quyền cách mạng cơ sở và lực lượng vũ trang địa phương. Đầu tháng 6 năm 1979, Sư đoàn 320 được lệnh trở về đội hình Quân đoàn 3.

2. Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3, Lịch sử bộ đội chủ lực Mặt trận Tây Nguyên - Quân đoàn 3 - Biên niên sự kiện (1964-2000), Nxb QĐND, H. 2002, tr. 560.

Logged
Bodoibucket
Thành viên
*
Bài viết: 913


« Trả lời #54 vào lúc: 11 Tháng Sáu, 2010, 09:43:23 am »

Trên hướng quân đoàn 4, sau khi cùng các đơn vị Bạn hỗ trợ lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia giải phóng đất nước, Quân đoàn 4 tổ chức 1 lực lượng làm nhiệm vụ tiếp quản thủ đô Phnôm Pênh; đồng thời điều Sư đoàn 9 phối hợp với Quân khu 9 truy quét địch ở Uđông, Longvéc, giải toả đường số 5 và đường sắt từ Uđông, Kravanh lên Rômia, bảo đảm giao thông đường sông từ Phnôm Pênh đi Côngpông Chnăng. Sư đoàn 7 cơ động đánh địch ở phía tây sân bay Pôchentông và phía tây bắc thành phố. Sư đoàn 341 sử dụng một lực lượng đánh địch xung quanh thị xã Côngpông Spư, một lực lượng phối hợp với Sư đoàn 2 đánh địch ở khu Bàu Diu, giữ vững đường số 4.

Sau khi phối hợp với Quân khu 9 và lực lượng Bạn giải toả đường số 5, khôi phục khu vực Uđông, Longvéc, mở rộng địa bàn kiểm soát từ Phnôm Pênh lên Côngpông Chnăng và Puốcxát, hình thành vành đai vững chắc bảo vệ thủ đô Phnôm Pênh, thực hiện nhiệm vụ của Tiền phương Bộ giao, Quân đoàn 4 tiếp tục phối hợp với các đơn vị Bạn đánh phá căn cứ địch ở tây nam Côngpông Chnăng. Tại khu vực này, lực lượng Quân khu Tây Nam của địch sau khi rút vào dãy núi Tượng và vùng rừng núi tây nam thị xã Côngpông Spư đã xây dựng các căn cứ, bàn đạp, tiếp tục phản kích ra đường số 2, đường số 4 và thị xã Tàkeo.

Để tiêu diệt chỉ huy địch, triệt phá các kho tàng, căn cứ của chúng trong khu vực từ núi Tượng đến nam đường số 4, tây nam và nam thị xã Côngpông Spư, không cho chúng rút lên phía bắc đường số 4, hỗ trợ Quân khu 9 và Quân đoàn 2 tiến công phá vỡ hệ thống căn cứ địch, Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 quyết định sử dụng Sư đoàn 341, được tăng cường Trung đoàn Ba Gia, tiến công trên hướng chủ yếu từ đông bắc đánh xuống tây nam trục dường số 4, phối hợp với các đơn vị của Quân đoàn 2 chốt giữ và kiểm soát các trọng điểm trên đoạn đường này, ngăn chặn không cho địch từ phía nam vượt qua đường số 4; đồng thời sử dụng Sư đoàn 7 (thiếu) đảm nhiệm hướng phối hợp đánh chiếm khu vực phía nam Côngpông Spư đến đường 26 (đoạn bắc Snông), giữ sườn đông nam cho Sư đoàn 341; đồng thời phối hợp với Sư đoàn 341 đánh địch ở đường số 4 và một số đơn vị của Quân khu 9 đánh địch ở nam núi Chàngô.

Ngày 28 tháng 2 năm 1979, Sư đoàn 341 (thiếu) đánh chiếm các điểm cao trên đường số 4 và phát triển chiến đấu xuống phía tây thị xã Côngpông Spư. Sư đoàn 7 đánh chiếm khu vực đông - tây đường 26 đến nam đường số 4. Do lực lượng địch ở khu vực bắc núi Tượng chống cự quyết liệt, các đơn vị của Quân khu 9 chưa giải quyết xong mục tiêu nên ngày 29 tháng 2, bộ Tư lệnh Quân đoàn 4 quyết định sử dụng 2 trung đoàn của Sư đoàn 7 theo đường 26 lên chi viện cho lực lượng của Quân khu 9; đồng thời sử dụng Trung đoàn 1 (Ba Gia) theo đường số 110 đánh xuống Snăng (tây nam Phnôm Pênh 45 kilômét). Ngày 3 tháng 3 năm 1979, bộ dội ta làm chủ Snăng.

Trên hướng Sư đoàn 341, sau khi đập tan các đợt phản kích của địch vào phía bắc thị xã Côngpông Spư, ngày 5 tháng 3 năm 1979, Sư đoàn sử dụng một trung đoàn phối hợp với các đơn vị của Sư đoàn 7 đánh xuống nam Kanđan, cùng lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng số dân bị địch bắt đi theo. Ngày 9 tháng 3, các đơn vị của Quân đoàn phát triển chiến đấu, kết hợp chặt chẽ với Sư đoàn 339 (Quân khu 9) tiêu diệt quân địch ở Môlúp. Những ngày sau đó, địch cho lực lượng liên tục phản kích hòng chiếm lại điểm cao 212 và tây Kandan, nhưng đều bị các đơn vị của Quân đoàn 4 đập tan.

Trong chiến dịch này, các đơn vị của Quân đoàn 4 loại khỏi chiến đấu hàng nghìn tên, bắt hàng nghìn tên, thu hàng nghìn súng các loại, 200 tấn đạn, giải phóng 14.000 dân bị địch bắt đi theo. Thắng lợi lớn nhất của Quân đoàn trong chiến dịch này là ta đã khống chế hoàn toàn đường số 4 sớm hơn dự kiến 1 ngày; đánh trúng 2 căn cứ cấp sư đoàn của địch, thu hẹp vùng căn cứ của địch, mở rộng vùng giải phóng, đảm bảo an ninh cho thủ đô Phnôm Pênh và các vùng xung quanh.

Sau khi bị ta truy quét, trên địa bàn do Quân đoàn 4 phụ trách, địch bố trí thành ba khu vực: Khu nam đường số 4, tây đường số 3 đến bắc núi Tượng; khu vực nam - bắc Amleng và đường số 14; khu vực đông - tây đường sắt đoạn Puốcxát. Tại khu vực Amleng - Kimri, nơi được mệnh danh là "Phnôm Pênh mới" của Pôn Pốt, địch tập trung các sư đoàn bộ binh 74, 250, 260; sư đoàn 488 pháo binh và sư đoàn 377 thiết giáp cùng nhiều kho tàng, phương tiện dự trữ chiến tranh. Lợi dụng địa hình hiểm trở, chúng xây dựng nơi đây thành một căn cứ lớn hòng chống phá chính quyền cách mạng.

Nhận nhiệm vụ phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia tiêu diệt địch ở khu vực Amleng - Kimri, Quân đoàn 4 được Tiền phương Bộ Quốc phòng tăng cường Sư đoàn 5 (Quân khu 7). Quyết tâm của ta và Bạn là tập trung lực lượng tiêu diệt các cơ quan chỉ huy, các căn cứ trung ương và quân khu. Tiêu diệt và làm tan rã phần lớn sinh lực dịch, đánh chiếm các kho tàng trang bị và lương thực của dịch; đồng thời phát động nhân dân xây dựng chính quyền cách mạng, củng cố vùng giải phóng.

Ngày 19 tháng 3 năm 1979, các đơn vị thuộc Sư đoàn 9 đánh chiếm vùng đông và bắc Thmei, diệt nhiều địch, bắt hàng trăm tên, thu 1 kho súng, giải phóng gần  1 vạn dân. Tiếp đó, Sư đoàn tổ chức nhiều đợt truy quét tàn quân địch, giải phóng hàng vạn dân. Trong thời gian này, các đơn vị của Sư đoàn 5 tiến công dịch ở nam đường số 114, Kravanh, Tangpon, giải phóng hơn 15.000 dân, sau đó phát triển về hướng Kimri. Sư đoàn 7 truy quét địch ở các điểm cao từ Khumpous - Tàpeng - Thmei, gây cho địch nhiều thiệt hại.

Trong đợt chiến đấu từ ngày 18 đến ngày 21 tháng 3 năm 1979, các đơn vị của Quân đoàn 4 đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn một nghìn tên dịch, thu nhiều vũ khí, đạn dược, 1.200 tấn lúa, giải phóng gần 5 vạn dân. Từ ngày 23 đến 26 tháng 3 năm 1979, Sư đoàn 9 tiến công tiêu diệt địch ở Longcam, Thmabăng, tây bắc Domei, tây Choen, diệt và bắt nhiều dịch, giải phóng 11.000 dân. Sư đoàn 5 đánh chiếm cao điểm 223, sau đó phát triển lên Domei, bắt liên lạc với Sư đoàn 9. Sư đoàn 7 đánh địch từ khu vực Knôngnam đến núi Kanđan và tây nam Khumpút, diệt và bắt nhiều địch, giải phóng 40(?) vạn dân. Những ngày cuối tháng 3 năm 1979, các đơn vị của Quân đoàn tiếp tục truy quét tàn quân dịch, mở rộng vùng giải phóng. Ngày 31 tháng 3 năm 1979, chiến dịch kết thúc, bộ đội ta giải phóng gần 10 vạn dân, loại khỏi chiến đấu hầu hết các sư đoàn địch, bước đầu làm phá sản âm mưu xây dựng căn cứ lâu dài để chống phá ta của dịch. Do địa bàn tác chiến rộng, địa hình hiểm trở, sự phối hợp giữa các lực lượng chưa nhịp nhàng, nên ta chưa diệt được bộ chỉ huy cao nhất của địch ở khu vực này.

Từ ngày 5 đến ngày 15 tháng 11 năm 1979, Quân đoàn nhận nhiệm vụ phối hợp với Bạn và Quân khu 9 tiến công dịch ở bắc Kirirom. Mở đầu chiến dịch, Quân đoàn sử dụng 2 sư đoàn thiếu (7 và 9) cùng một số đơn vị xe tăng, thiết giáp mở hướng tiến công phối hợp cùng Quân khu 9 từ tây bắc Côngpông Spư 70 kilômét vào hướng Kirirom. Tiếp đó, từ ngày 12 tháng 4, Quân đoàn sử dụng 1 trung đoàn của Sư đoàn 341, 1 trung đoàn của Sư đoàn 9 và Trung đoàn 250, dưới quyền chỉ huy của Ban chỉ huy Sư đoàn 341, đánh địch ở tây bắc  Rômiá, tây sân bay Côngpông Chnăng - nam Pômlây, bảo vệ đường số 5 và đường sắt, tạo bàn đạp cho cuộc tiến công quyết định vào căn cứ địch ở Lếch - Ôran.

Trong chiến dịch này, các đơn vị của Quân đoàn đã loại khỏi chiến đấu gần nghìn tên, giải phóng 12.000 dân, thu nhiều súng đạn, phương tiện chiến tranh giao cho Bạn.

Sau chiến dịch này, Quân đoàn 4 được Tiền phương Bộ giao nhiệm vụ cùng với Quân đoàn 3; Quân khu 7 phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia mở chiến dịch quy mô lớn tiêu diệt quân địch ở căn cứ Ôran - Lếch - Tàsanh. Bước vào chiến dịch, Quân đoàn nhận lệnh trả Sư đoàn 5 về đội hình chiến đấu của Quân khu 7; đồng thời được Tiền phương Bộ tăng cường Trung đoàn 14 công an vũ trang và 3 trung đoàn bộ binh (thiếu) của 3 tỉnh (Bến Tre, Tiền Giang, Hậu Giang) đảm nhiệm tác chiến trên địa bàn 3 tỉnh Canđan, Côngpông Chnăng, Puốcxát.

Trong đợt 1 của chiến dịch, Quân đoàn sử dụng Sư đoàn 341 (được tăng cường Trung đoàn 250) đảm nhiệm hướng tiến công chủ yếu từ đường số 5, Puốcxát và Kracon đánh xuống phía nam Lếch, Sư đoàn 9 (thiếu) làm nhiệm vụ vu hồi, Trung đoàn 165 (Sư đoàn 7) và Trung đoàn 3 (Sư đoàn 9) tấn công truy quét địch ở tây bắc ga Rômía.

Ngày 27 tháng 4 năm 1979, Sư đoàn 9 đánh chiếm được phía nam Lếch, Sư đoàn 7 chiếm được tây bắc Rômía. Trên hướng chủ yếu, Sư đoàn 341 đánh lui các đợt tiến công của địch vào Puốcxát nhưng thương vong của ta khá cao. Trong các ngày từ 29 tháng 4 đến 10 tháng 5, Sư đoàn 341 liên tục tiến công địch, giành quyền kiểm soát khu vực xung quanh Lếch và nam Puốcxát 20 kilômét. Sư đoàn 9 đánh chiếm khu vực phía nam Lếch 20 kilômét đến Nam Bắc đường số 561 và đông nam Bâmnek. Trong trận đánh vào căn cứ Lếch, ta thu được con dấu và giấy giới thiệu của Văn phòng 870 (văn phòng Trung ương của Pôn Pốt), diệt hàng trăm tên, bắt hàng nghìn tù binh, gọi hàng hàng trăm tên, giải phóng gần một vạn dân.

Từ ngày 11 đến 15 tháng 5, Quân đoàn điều Sư đoàn 341 (thiếu) và Sư đoàn 9 (thiếu) được tăng cường Trung đoàn 165 (Sư đoàn 7) trở lại đánh địch ở khu vực đông - tây đường số 28, nam đường số 5, bắc đường sắt và đông nam Bâmnek, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng 500 dân. Từ ngày 20 đến ngày 30 tháng 5 năm 1979, Quân đoàn sử dụng 3 sư đoàn thiếu (341, 7, 9) tiến công địch ở dãy núi Oran, bắc Amleng, nam bắc đường số 124 và từ nam đường số 561 đến nam đường sắt (đoạn tây - nam Rômía) nhằm tiêu diệt hệ thống chỉ huy và các đơn vị thuộc mặt trận đường số 5 địch. Sau 10 ngày chiến đấu, bộ đội ta diệt và bắt hơn 600 tên địch, giải phóng 23.500 dân. Sau đợt tiến công này, Quân đoàn 4 điều chỉnh lực lượng đảm bảo vừa chốt giữ biên giới, vừa đánh địch trong nội địa: Trung đoàn 250 chốt giữ khu vực đông bắc biên giới 30 kilômét; Trung đoàn 14 công an vũ trang chốt tại đông biên giới từ 15 đến 20 kilômét; các trung đoàn địa phương Bến Tre, Hậu Giang, Tiền Giang bố trí tại Canđan, nam Phnôm Pênh, Côngpông Chnăng, Puốcxát. Các sư đoàn 7, 9, 341 tiếp tục làm nhiệm vụ tiến công, truy quét tàn quân địch.

Như vậy, tính từ giữa tháng 1 đến cuối tháng 6 năm 1979, với 5 chiến dịch lớn, nhỏ, Quân đoàn 4 và các đơn vị được Bộ tăng cường đã phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia tiêu diệt nhiều sinh lực, phương tiện chiến tranh, căn cứ lớn của địch; giải phóng hàng chục vạn dân, mở rộng vùng giải phóng. Bên cạnh những thành công, trong tác chiến các đơn vị Quân đoàn cũng bộc lộ những mặt còn hạn chế như chưa tạo được yếu tố bí mật, bất ngờ của chiến dịch; chưa xây dựng được những phân đội thiện chiến đánh luồn sâu, vu hồi trên địa hình rừng núi; chưa có kinh nghiệm và thiếu biện pháp bảo đảm để chấp hành nghiêm chỉnh kế hoạch hiệp đồng; cơ động lực lượng còn chậm. Đây là những bài học quý báu được Bộ tư lệnh Quân đoàn nghiêm túc chỉ ra để các đơn vị rút kinh nghiệm trong tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chiến đấu những năm tiếp theo.

Song song với nhiệm vụ truy quét tàn quân địch, bảo vệ vùng giải phóng, để thực hiện tốt 6 mặt công tác giúp Bạn theo chỉ thị của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 đã tổ chức 2 hội nghị bàn biện pháp tổ chức giúp Bạn, tập trung vào thực hiện ba nhiệm vụ cơ bản là:

1. Giúp Bạn xây dựng, củng cố chính quyền địa phương và các đoàn thể quần chúng.

2. Tăng cường huấn luyện, trang bị, nâng cao năng lực chỉ huy, tác chiến giúp quân đội cách mạng Campuchia.

3. Giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn đói, từng bước ổn định sản xuất và đời sống.

Để thực hiện các nhiệm vụ trên, các đơn vị trực thuộc quân đoàn đều thành lập các tổ công tác giúp Bạn do Chính ủy hoặc Phó chính ủy phụ trách. Các trung đoàn bộ binh thành lập thêm tiểu đoàn thứ 4 làm nhiệm vụ quản lý địa bàn, giúp Bạn xây dựng lực lượng dân quân du kích, củng cố chính quyền cách mạng trên các địa bàn đứng chân.

Lúc đầu ta chú trọng xây dựng chính quyền và lực lượng vũ trang dọc theo quốc lộ 9 và các tuyến đường sông quan trọng; sau đó mở rộng, tiến tới hoàn chỉnh trong từng khu vực, từng huyện, từng tỉnh. Cùng với các đội công tác, quân đoàn đã thành lập Phòng Dân quân để phối hợp cùng các phòng Dân vận, Địch vận và các ngành khác giúp Đảng ủy và Bộ tư lệnh Quân đoàn chỉ đạo giúp Bạn toàn diện trên các mặt. Tính đến cuối tháng 6 năm 1979, Quân đoàn 4 đã thành lập 28 đội công tác với 488 cán bộ chuyên trách, tổ chức tuyên truyền cho hơn 1,5 triệu lượt người, huy động hơn 16.000 lượt người tham gia các cuộc mít tinh; tổ chức nhiều buổi chiếu phim, biểu diễn văn nghệ, thu hút gần 100.000 lượt người xem, giúp đỡ đưa hơn 83.000 lượt người về quê cũ làm ăn.

Về xây dựng, củng cố chính quyền và các đoàn thể, quân đoàn đã giúp 3 tỉnh Kandan, Côngpông Chnăng và Puốcxát xây dựng chính quyền ở 1.156 phum (ấp) với 3.448 cán bộ; ở 234 khum (xã) với 1.170 cán bộ; các hội thanh niên, phụ nữ, thiếu nhi ở các khum được tổ chức và đi vào hoạt động tương đối nền nếp. Các đơn vị trong quân đoàn còn kết hợp với chuyên gia và ban cán sự tỉnh (người Campuchia) mở nhiều lớp tập huấn cho cán bộ hành chính phum, khum và cán bộ làm công tác vận động quần chúng.

Các đơn vị đứng chân trên các địa bàn đã tích cực giúp Bạn xây dựng, huấn luyện lực lượng vũ trang. Đến tháng 6 năm 1979, tỉnh Puốcxát đã xây dựng được hơn 2.000 dân quân, du kích (522 có súng), tỉnh Côngpông Chnăng có gần 1.600 người (1.200 có súng), tỉnh Kanđan 7.090 người (2.311 người có súng). Tính chung 3 tỉnh, số dân quân, du kích có gần 10.700 người (trang bị 4.033 súng). Dân quân, du kích được tổ chức thành các tổ ở phum và trung dội ở khum. Về xây dựng bộ đội địa phương, ta giúp tỉnh Côngpông Chnăng xây dựng 2 tiểu đoàn bộ đội địa phương, tỉnh Puốcxát xây dựng được 17 đại đội với tổng số quân là 3.456, người trang bị 1. 827 súng. Các đơn vị dân quân, du kích được huấn luyện 10 ngày, bộ đội địa phương được huấn luyện 2 tháng. Cán bộ trung đội, đại đội của Bạn đều được quân đoàn giúp đỡ tập huấn về chỉ huy và chuyên môn. Đặc biệt, quân đoàn đã mở lớp đào tạo cán bộ giúp quân đội Campuchia khoá đầu tiên với 140 học viên tham gia. Ngoài ra, quân đoàn còn giúp Binh đoàn 1 lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia xây dựng, huấn luyện 7 tiểu đoàn với 1.486 quân.

Trong 6 tháng đầu năm 1979, Quân đoàn 4 còn bàn giao cho Quân đội cách mạng Campuchia một khối lượng lớn chiến lợi phẩm, gồm 5.000 tấn lúa, 100 tấn muối, 117 xe ô tô các loại, hơn 100 tấn đường, 70.000 hộp sữa và hơn 30.000 mét vải. Với tình cảm quốc tế trong sáng, cán bộ và chiến sĩ quân đoàn đã tiết kiệm, giúp đỡ nhân dân Campuchia 247 tấn gạo, góp 271.000 ngày công lao động xây dựng và sửa chữa 186 trường học, 1 trại trẻ mồ côi, 32 bệnh xá, 9.181 nhà ở; khám bệnh và phát thuốc cho gần 120.000 lượt người. Những việc làm nghĩa tình đó đã góp phần giải quyết một phần khó khăn, giúp nhân dân Bạn nhanh chóng ổn định cuộc sống.
Logged
Bodoibucket
Thành viên
*
Bài viết: 913


« Trả lời #55 vào lúc: 11 Tháng Sáu, 2010, 10:22:40 am »

Hướng quân khu lão ongbom post sau nhé!  Grin
Logged
Bodoibucket
Thành viên
*
Bài viết: 913


« Trả lời #56 vào lúc: 11 Tháng Sáu, 2010, 10:33:03 am »

Ở hướng Quân khu 7, sau khi hoàn thành nhiệm vụ trong cuộc tổng tiến công, Quân khu được giao phụ trách địa bàn Báttambang - Xiêm Riệp và 4 tỉnh phía đông thủ đô Phnôm Pênh (Svâyriêng, Côngpông Chàm, Côngpông Thom, Krachiê). Trên địa bàn này, Khơme đỏ đã tập hợp tàn quân với khoảng từ 22.000 đến 25.000 quân, phân bố trên các địa bàn như sau: - Xiêm Riệp khoảng 6.000 quân, hoạt động tại các khu vực Ampin, núi Hồng, tây bắc Crolanh, Anlongveng.

Báttambang khoảng 8.000 quân ở Xixôphôn, Thơmapuốc, Poipét, Pailin, nam đường 10 và ven Biển Hồ.

- Bắc Côngpông Chàm, Côngpông Thom có khoảng 5.000 quân (gồm tàn quân ba sư đoàn 603, 280, 310 và lực lượng ba vùng 41, 42, 43).

- Các sở chỉ huy của Quân khu Trung tâm, Mặt trận đường 7, 2 sư đoàn mới thành lập (512, 515) tập hợp lại ở đông đường 6 dọc tuyến sông Chinít, sông Xan, tây núi Chi, tạo thành các cụm đóng quân từ 200 đến 1.000 tên.

- Krachiê có khoảng 2.000 quân, gồm Trung đoàn 93 (của Sư đoàn 920), tàn quân các sư đoàn 260, 920 và các vùng 505, 801. Lực lượng này phân tán thành nhiều cụm từ vài chục đến vài trăm tên, đóng tại vùng tây, tây bắc Krachiê. Ngoài ra, ở Côngpông Chàm, địch có khoảng hơn 3.000 quân thuộc lực lượng ly khai của Boring, Hiêsonna, Chăhsbtha[1].

Trong giai đoạn đầu, đo lực lượng mỏng, địa bàn rộng, quân khu 7 chủ yếu trập trung truy quét địch, bảo vệ giao thông, giữ một số địa bàn trọng yếu. Sau khi Bộ giao cho Quân đoàn 3 giữ Báttambang - Xiêm Riệp, từ ngày 12 tháng 2 đến 20 tháng 3 năm 1979, Quân khu tập trung 3 sư đoàn (5, 302, 303) và trung đoàn đặc công (thiếu) đánh vào các căn cứ của Quân khu Trung tâm địch từ sông Xan, sông Chinít đến đường 7. Trong chiến dịch này, các đơn vị của Quân khu diệt 546 tên, bắt 1.221 tên, vận động nhân dân kêu gọi 11.124 tên ra hàng, giúp 20.000 dân thoát khỏi sự khống chế của địch.

Ta thu 3.515 tấn thóc, 20 tấn muối, kịp thời cấp cho dân khắc phục nạn đói .

Để tăng cường lực lượng giữ địa bàn, ngày 17 tháng 3 năm 1979, Quân khu 7 điều Sư đoàn 317 mới thành lập (gồm 6 trung đoàn: 775, 747, 115, 770b, 320 và 774 pháo binh) sang Campuchia làm nhiệm vụ chiến đấu ở tỉnh Côngpông Thom. Sư đoàn 317 triển khai Trung đoàn bộ binh 775 đứng chân tại huyện Sonđan, Trung đoàn 747 đứng chân tại huyện Barày, Trung đoàn 115 đứng chân tại huyện Satong, Trung đoàn pháo binh 774 đứng chân tại huytện Sântuk. Trung đoàn 770b đứng chân tại thị xã Côngpông Thom. Từ ngày 23 tháng 3 đến ngày 7 tháng 4 năm 1979, Sư đoàn vừa tổ chức điều tra nghiên cứu tình hình địch, xây dựng các đội công tác vừa làm nhiệm vụ giúp Bạn; đồng thời tổ chức truy quét địch. Trong đợt hoạt động đầu tiên trên chiến trường Campuchia, các đơn vị của Sư đoàn diệt 34 tên, bắt 4 tên, gọi hàng 273 tên, thu 102 súng các loại, bảo vệ được địa bàn và các mục tiêu được giao.

Để tăng cường sự chỉ đạo, chỉ huy đối với Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam hoạt động tại Campuchia, ngày 30 tháng 3 năm 1979, Thường trực Quân ủy Trung ương ra Quyết định số 95/QW-TW chỉ định đồng chí Lê Hai, phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, tham gia Tiền phương Bộ Quốc phòng.

Trước yêu cầu nhiệm vụ mới, theo chỉ đạo của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, từ tháng 4 năm 1979, Tiền phương Quân khu 7 tách làm hai bộ phận để chỉ dạo Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự của Quân khu hoạt động tại Campuchia trên hai mặt trận. Tiếp đó, ngày 11 tháng 5 năm 1979, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 553/QĐ-QP lâm thời tổ chức Bộ chỉ huy Mặt trận 479 trực thuộc Bộ tư lệnh Quân khu 7.

Mặt trận 479 phụ trách hướng bắc Campuchia, gồm các tỉnh Xiêm Riệp - Ôtđômiênchay, Báttambang. Lực lượng nòng cốt là các đơn vị thuộc Tiền phương Quân khu 7, được bổ sung một số đơn vị của Quân khu 5 do đồng chí Bùi Thanh Vân, Phó Tư lệnh Quân khu 7 làm Tư lệnh, đồng chí Lê Thanh, Phó Chính ủy Quân khu làm Chính ủy. Thời kỳ đầu, cơ cấu tổ chức Mặt trận 479 gồm: Bộ tư lệnh, ba cơ quan (tham mưu, chính trị, hậu cần) và các sư đoàn 5, 302, 309, 317; 6 trung đoàn bộ binh trực thuộc (6, 7, 160, 205, 726, 740); 5 trung đoàn binh chủng (145 xe tăng - thiết giáp, 488 pháo binh, 548 công binh, 594 cao xạ, 611 thông tin) và hai đoàn chuyên gia 7704, 7705.

Lực lượng còn lại của Quân khu 7 và một số đơn vị được Bộ tăng cường đảm nhiệm các tỉnh phía đông thủ đô Phnôm Pênh (Côngpông Chàm, Côngpông Thom, Krachiê, Svâyriêng, Prâyveng). Thời gian đầu, các lực lượng này đặt dưới sự chỉ huy của Tiền phương Quân khu 7, sau đổi thành Mặt trận 779. Đây là bước phát triển mới về tổ chức chỉ huy lực lượng chiến đấu trên chiến trường Campuchia của Quân tình nguyện Việt Nam: thành lập các mặt trận do các quân khu chỉ huy và thành lập Bộ tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia sau này.

Sau khi thành lập, các đơn vị thuộc Mặt trận 479 liên tục mở các đợt truy quét tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng dân; đồng thời giúp Bạn xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố chính quyền cách mạng. Đứng chân trong đội hình Mặt trận 479, Sư đoàn 5 đảm nhiệm bảo vệ tuyến biên giới Campuchia - Thái Lan, trên địa bàn 5 huyện phía bắc Báttambang. Trên địa bàn này, địch có 2 sư đoàn (320 và 519) Pôn Pốt và 14 tiểu đoàn thuộc lực lượng của Xon Xan. Dựa vào vùng giáp biên giới Thái Lan, địch ra sức xây dựng lực lượng và củng cố hệ thống căn cứ (Kaomêlai, điểm cao 175, Cola, Chùmrumthơmây, Côngxilốp) dọc biên giới làm bàn đạp để mở đường, lập hành lang đưa người và vũ khí, phương tiện vật chất vào nội địa Campuchia; dùng quân tập kích vào các điểm tựa của ta; dùng tiền bạc mua chuộc, lôi kéo, dụ dỗ bọn Khơme phản động để thành lập "chính phủ ba phái".

Để đối phó với các âm mưu của địch, Sư đoàn 5 (gồm 3 trung đoàn bộ binh 4, 174, 16, Trung đoàn 28 pháo binh và 8 tiểu đoàn trực thuộc) được Mặt trận 479 tăng cường 3 trung đoàn (688, 689, 160) triển khai đội hình trên chính diện 160 kilômét (từ Ôđa, Kaomêlai đến Tàmốc), chiều sâu 94 kilômét (từ Poipét đến Crolanh), làm nhiệm vụ phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia tổ chức phòng ngự, bảo vệ biên giới, không cho địch vận chuyển hàng viện trợ vào nội địa; đồng thời kết hợp với lực lượng Bạn truy quét, tiêu diệt, tiêu hao sinh lực dịch, phá các căn cứ lõm của chúng.

Mặc dù địa bàn rộng, hiểm trở, khí hậu vô cùng khắc nghiệt, quân địch thường xuyên đánh phá nhưng cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 5 đã kiên cường trụ bám, bước đầu làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn của địch.

Được Bộ tư lệnh Mặt trận 479 giao nhiệm vụ đảm nhiệm tác chiến trên địa bàn phía tây bắc Mặt trận 479, Sư đoàn 302, dưới sự chỉ huy của Sư đoàn trưởng Nguyễn Văn Phê, Chính ủy Mai Văn Thoạn, triển khai lực lượng trên 10 huyện thuộc các tỉnh Xiêm Riệp - Ốtđômiênchay và một phần tỉnh Báttambang trên tuyến biên giới Campuchia - Thái Lan với chính diện và chiều sâu khoảng 200 kilômét. Để đảm bảo vừa có lực lượng cơ động, vừa có lực lượng chốt giữ địa bàn, sau khi nắm tình hình địch và địa hình, Sư đoàn đã sử dụng 2 trung đoàn (271 và 88) làm nhiệm vụ cơ động; 3 trung đoàn bộ binh (201, 429, 690), Trung đoàn pháo 962*và 9 tiểu đoàn trực thuộc làm nhiệm vụ chốt giữ địa bàn.

Bằng nhiều hình thức tác chiến, Sư đoàn đã tập trung mọi nỗ lực truy quét tàn quân địch, tìm diệt các căn cứ lõm, bảo vệ các trục đường giao thông, ngăn chặn địch tiếp tế từ ngoài biên giới vào trong nội địa; đồng thời tích cực giúp Bạn xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố chính quyền cách mạng, bước đầu hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ được giao.

Trong thời gian này, căn cứ vào nhiệm vụ được Bộ tư lệnh mặt trận giao, các sư đoàn 309, 317 và các trung đoàn trực thuộc Mặt trận 479 đều triển khai lực lượng chốt giữ địa bàn và truy quét địch. Với phương châm tích cực truy quét tàn quân dịch, kết hợp chặt chẽ giữa tác chiến với củng cố địa bàn, xây dựng lực lượng, các đơn vị thuộc Mặt trận 479 đã ngăn chặn có hiệu quả việc tiếp tế viện trợ của địch từ ngoài biên giới vào nội địa, củng cố thế trận, bảo vệ vùng giải phóng, tiêu diệt sinh lực địch, phát triển lực lượng ta; đồng thời giúp đỡ nhân dân đẩy mạnh sản xuất, ổn định cuộc sống.
------------------------------------
1. Theo tài liệu số 52/BC ngày 30 tháng 1 năm 1979, lưu tại Cục Nghiên cứu (Bộ Tổng Tham mưu).
*. @yta262 đã xác nhận vào thời điểm đó chỉ có E pháo 262, không có E962.

Logged
Bodoibucket
Thành viên
*
Bài viết: 913


« Trả lời #57 vào lúc: 11 Tháng Sáu, 2010, 10:45:11 am »

Cánh quân khu 7 thời này đông phết:
F5: Dũngtây, poipét ... + vô số anh em 174
F302: yta262
F317: KontiaHien, AngkoKrao ...
F309: Lão Quềnh thời này cũng về QK7 luôn
Logged
binhyen1960
Moderator
*
Bài viết: 3862


HOT nhất forum năm 2009


« Trả lời #58 vào lúc: 11 Tháng Sáu, 2010, 01:43:39 pm »

 Lúc đó hướng của E209 F7 sau khi bỏ vị trí Novea thì luồn sâu về hướng Amleeng theo đội hình F , lúc đi từ đây khoảng cuối tháng 2.1979 , những trận đánh và càn quét sâu trong rừng mấy tháng trời , hướng càn qua cả đất Thái lan , hôm đó tôi thấy anh Hồng ngồi trước tấm bản đồ và cái địa bàn , mệnh lệnh anh mới nhận trên D về , ngồi nghiên cứu có vẻ trầm ngâm lắm , tôi nghĩ hay anh đã xác định sai trên bản đồ nên bây giờ không tìm ra vị trí cần đế trên thực địa . Sau đó anh nói cho tôi biết nhưng cầm không được nói cho bất kể ai là sắp tới chúng ta sẽ càn qua cả bên kia biên giới , đây cái vạch này là biên giới Thái -K rồi đó , nhìn lượt qua bản đồ tôi cũng có thể biết cái chấm có vòng tròn đỏ kia cũng cách biên giới cả trên chục km rồi .
 Khoảng giữa tháng 6.1979 chúng tôi mới rút ra về xây dựng cứ tại Novea .
Logged

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, đình tiền tạc dạ nhất chi mai
votmuoi
Thành viên
*
Bài viết: 221


« Trả lời #59 vào lúc: 11 Tháng Sáu, 2010, 06:03:46 pm »

Cảm ơn bác bodoibucket ! Cheesy
 Đúng đến tháng tám E 28/F 10 mới ra hết Bắc Thái(nhiều bác trong QS truy em vãi linh hồn vì cái ngày này). VM đã nhớ ra ngày rồi.
Có điều các bác thấy đấy cái E 28 nhà em số vất vả, mà có được nêu lên là đã đi những đâu? đánh đấm thế nào?
 Grin Giá mà có thông tin chi tiết hơn cho E 28 thì em cảm ơn lắm ! Làm lính theo ĐVị đi tít mù, chẳng biết là đã qua những đâu,cũng muốn biết mình đã được đi như thế nào, trong suốt hơn tám tháng trận mạc.
 Cheesy Để khoe với các bác.(nói thật em tự hào về cách đánh của đơn vị em lắm:Nhanh/gọn/hiểm/thương vong rất ít Grin)
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM