Bodoibucket
Thành viên
Bài viết: 913
|
|
« Trả lời #49 vào lúc: 10 Tháng Sáu, 2010, 07:04:48 pm » |
|
Nhằm có một cơ quan chuyên trách về giúp Bạn xây dựng lực lượng vũ trang và chỉ đạo chiến đấu bảo vệ thành quả của cách mạng Campuchia, ngày 24 tháng 1 năm 1979, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 30/QĐ-QP tách Đoàn chuyên gia quân sự 478 ở Ban B.68 về trực thuộc Hộ Quốc phòng. Đoàn 478 có nhiệm vụ thường xuyên quan hệ chặt chẽ với Ban B.68 của Trung ương để báo cáo và chịu sự hướng dẫn những vấn đề liên quan, phối hợp với chuyên gia các ngành khác để tiến hành công tác giúp cách mạng và nhân dân Campuchia.
Trước tình hình địch tập trung lực lượng chuẩn bị phản kích hòng giành lại một số địa bàn quan trọng, ngày 9 tháng 2 năm 1979, Tiền phương Bộ Quốc phòng triệu tập cuộc họp mở rộng tại thành phố Phnôm Pênh (dự họp có chỉ huy các quân khu 5, 7, 9; các quân đoàn 2, 3, 4 và chỉ huy các lực lượng vũ trang yêu nước Campuchia) để đánh giá tình hình địch, ta và triển khai kế hoạch truy quét tàn quân địch, giúp Bạn củng cố chính quyền cách mạng, bảo vệ vùng giải phóng.
Theo kế hoạch đã được hội nghị bàn bạc thống nhất, lực lượng Quân tình nguyện Việt Nam sẽ phối hợp với lực lượng vũ trang yêu nước Campuchia mở các chiến dịch truy quét tàn quân địch để bảo vệ các trục giao thông, các địa bàn chiến lược, tiêu diệt các căn cứ của quân Pôn Pốt, ngăn chặn các nguồn viện trợ từ bên ngoài thâm nhập qua biên giới Thái Lan vào trong nội địa cho bọn phản động và tàn quân Pôn Pốt.
Trong khi các đơn vị quân tình nguyện đang khẩn trương triển khai lực lượng giúp Bạn truy quét tàn quân Pôn Pốt, bảo vệ vùng mới giải phóng và chính quyền cách mạng thì ngày 17 tháng 2 năm 1979, cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trên biên giới phía Bắc nước ta bùng nổ. Trên diễn đàn quốc tế, được sự hậu thuẫn của các thế lực phản động, bè lũ Pôn Pốt - Iêng Xari ra sức vu cáo xuyên tạc sự giúp đỡ của Việt Nam đối với cách mạng Campuchia.
Những âm mưu, thủ đoạn của tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari và các thế lực quốc tế tiếp tục phá hoại cách mạng Campuchia và Việt Nam chỉ càng thắt chặt thêm tình đoàn kết, liên minh chiến đấu giữa quân đội và nhân dân hai nước Việt Nam - Campuchia. Ngày 18 tháng 2 năm 1979, tại thủ đô Phnôm Pênh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng thay mặt Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chủ tịch Hêng Xomrin, thay mặt Hội đồng nhân dân cách mạng Campuchia ký Hiệp ước Hoà bình, hữu nghị và hợp tác. Hiệp ước gồm 9 điều với những nội dung chủ yếu sau dây:
Điều 1: Hai bên cam kết làm hết sức mình để bảo vệ và phát triển không ngừng truyền thống đoàn kết chiến đấu quan hệ hữu nghị, hợp tác anh em Việt Nam - Campuchia, lòng tin cậy và sự giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi. Hai bên ra sức giáo dục cán bộ, chiến sĩ và nhân dân nước mình bảo vệ truyền thống đoàn kết chiến đấu và hữu nghị thủy chung Việt Nam - Campuchia đời đời trong sáng.
Điều 2: Trên nguyên tắc việc bảo vệ và xây dựng đất nước mình là sự nghiệp của chính nhân dân mỗi nước, hai bên cam kết hết lòng ủng hộ và giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt và bằng mọi hình thức cần thiết nhằm tăng cường khả năng bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và công cuộc lao động hoà bình của nhân dân mỗi nước, chống mọi âm mưu và hành động phá hoại của lực lượng đế quốc và phản động quốc tế. Hai bên sẽ tiến hành các biện pháp có hiệu quả nhằm thực hiện điều cam kết này khi một trong hai bên yêu cầu.
Điều 3: Nhằm giúp nhau xây dựng đất nước giàu mạnh, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, hai bên sẽ tăng cường quan hệ trao đổi và hợp tác anh em cùng có lợi và giúp đỡ nhau về các mặt kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học, kỹ thuật, đào tạo cán bộ và trao đổi chuyên gia, trao đổi kinh nghiệm xây dựng đất nước về mọi mặt. Nhằm mục đích đó, hai bên sẽ ký những hiệp định cần thiết, đồng thời tăng cường tiếp xúc và hợp tác giữa các cơ quan Nhà nước có liên quan và các tổ chức quần chúng của hai nước.
Điều 4: Hai bên cam kết sẽ giải quyết bằng thương lượng hoà bình tất cả những bất đồng có thể nảy sinh trong quan hệ giữa hai nước. Hai bên sẽ đàm phán để ký kết một hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa hai nước trên cơ sở đường biên giới hiện tại; quyết tâm xây dựng đường biên giới này thành biên giới hoà bình, hữu nghị lâu dài giữa hai nước.
Điều 5: Hai bên hoàn toàn tôn trọng đường lối độc lập tự chủ của nhau. Hai bên kiên trì chính sách đối ngoại độc lập, hoà bình, hữu nghị hợp tác và không liên kết, theo nguyên tắc không can thiệp dưới bất cứ hình thức nào vào công việc nội bộ nước khác, không chấp nhận bất cứ sự can thiệp nào vào công việc nội bộ của nước mình và không cho phép bất kỳ nước nào dùng lãnh thổ nước mình để can thiệp vào nước khác.
Hai bên coi trọng truyền thống đoàn kết chiến dấu và tình hữu nghị anh em lâu đời giữa nhân dân Campuchia, nhân dân Lào và nhân dân Việt Nam, nguyện ra sức tăng cường quan hệ truyền thống đó trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước. Hai bên tăng cường quan hệ mọi mặt với các nước xã hội chủ nghĩa. Là những nước ở Đông Nam châu Á, Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Cộng hoà nhân dân Campuchia kiên trì chính sách quan hệ hữu nghị, láng giềng tốt với Thái Lan và các nước khác ở Đông Nam châu Á, tích cực góp phần vào hoà bình, ổn định và phồn vinh của khu vực Đông Nam châu Á. Hai bên phát triển quan hệ hợp tác với các nước dân tộc độc lập các phong trào giải phóng dân tộc và phong trào dân chủ, kiên quyết ủng hộ sự nghiệp đấu tranh của nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Hai bên tích cực góp phần vào sự đoàn kết và lớn mạnh của phong trào không liên kết chống chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng phản động quốc tế khác, giành và bảo vệ độc lập dân tộc, tiến tới xây dựng một trật tự kinh tế thế giới mới.
Điều 6: Hai bên sẽ thường xuyên trao đổi ý kiến với nhau về những vấn đề thuộc quan hệ hai nước và những vấn đề quốc tế mà hai bên cùng quan tâm. Mọi vấn đề trong quan hệ giữa hai nước sẽ được giải quyết bằng thương lượng trên tinh thần hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, có lý có tình...
Trong bản Hiệp ước, hai bên cũng khẳng định, Hiệp ước không nhằm chống một nước thứ ba nào và không liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mỗi bên theo các hiệp định hai bên hoặc nhiều bên mà họ đã tham gia.
Theo tinh thần của bản Hiệp ước, một bộ phận Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tiếp tục thực hiện nhiệm vụ quốc tế giúp các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia truy quét tàn quân địch, xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, khôi phục sản xuất xây dựng cuộc sống mới.
Cùng với việc tổ chức lực lượng Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự làm nhiệm vụ ở Campuchia, thực hiện Điều 3 của Hiệp ước Hoà bình hữu nghị và hợp tác, Chính phủ hai nước đã ký Hiệp định về “Hợp tác văn hoá, giáo dục, y tế và khoa học”. Theo đó, hai bên hợp tác và giúp đỡ nhau trong lĩnh vực văn hoá, giáo dục, y tế và khoa học.
Về văn hóa, hai bên sẽ trao đổi các đoàn văn hóa, nghệ thuật điện ảnh, báo chí; hợp tác về xuất bản, phát thanh, truyền hình, điện ảnh, triển lãm, thông tin quần chúng; giúp nhau đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật và trao đổi chuyên gia văn hóa.
Về giáo dục, trao đổi các đoàn làm công tác giáo dục và giáo viên các cấp, các ấn phẩm của Nhà xuất bản (p.080) Giáo dục của mỗi nước và trao đổi kinh nghiệm các mặt trong lĩnh vực giáo dục; hợp tác trong việc khôi phục cơ sở giáo dục, biên soạn và xuất bản sách giáo khoa và các tài liệu giáo dục khác.
Trong lĩnh vực y tế, hợp tác giải quyết những vấn đề y tế cấp bách trong việc chữa các bệnh phổ biến và công tác phòng dịch, chống dịch; trao đổi kinh nghiệm trong công tác tổ chức, quản lý các cơ sở y tế, trao đổi cán bộ y tế nhân viên kỹ thuật và các tài liệu về y học, dược học; hợp tác trong công tác bảo vệ sức khỏe nhân dân; hợp tác trong lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng cán bộ y tế; hợp tác trong việc sản xuất thuốc phòng bệnh, chữa bệnh và khai thác các nguồn dược liệu; hợp tác và giúp nhau trong việc diều trị bệnh nhân.
Trong lĩnh vực khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, hai bên sẽ trao đổi các đoàn nghiên cứu khoa học tự nhiên và khoa học xã hội; hợp tác nghiên cứu về khoa học, trao đổi những kinh nghiệm thông tin khoa học.
Trên cơ sở Hiệp ước, Hiệp định dã ký kết với Chính phủ Campuchia cũng như thỏa thuận giữa chính phủ hai nước, ngày 26 tháng 2 năm 1979, Hội đồng Chính phủ ta ra Quyết định số 72-CP tổ chức Đoàn chuyên gia kinh tế - văn hóa của Chính phủ ta (lấy bí danh là A40) giúp Hội đồng Nhân dân cách mạng Campuchia và cử đồng chí Nguyễn Côn, ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng ban Kinh tế, kế hoạch của Trung ương Đảng làm Trưởng đoàn. Các đồng chí Hồ Viết Thắng, Phó chủ nhiệm ủy ban Kế hoạch Nhà nước; Nguyễn Tuân, Thứ trưởng Bộ Điện và Than, phụ trách khối công nghiệp làm Phó trưởng đoàn. Các đồng chí Trần Khải, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp; Nguyễn Hữu Bảo, Thứ trưởng Bộ Nội thương; Đặng Văn Thông, Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải; Phạm Văn Sơn, Thứ trưởng Bộ Lâm Nghiệp; Lê Thành Công, Thứ trưởng Bộ Văn hóa và thông tin; Nguyễn Duy Cương, Thứ trưởng Bộ Y tế là thành viên. Đoàn chuyên gia A40 có nhiệm vụ giúp Chính phủ Bạn nghiên cứu chủ trương, chính sách, kế hoạch khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa ở Campuchia và giúp thực hiện những công việc kinh tế, văn hóa mà Bạn chưa có khả năng và do Bạn yêu cầu.
Để tạo điều kiện cho chuyên gia kinh tế - văn hoá của ta hoạt động được thuận lợi trong tình hình mọi mặt chưa thật ổn định, Thủ tướng Chính phủ quyết định giao trách nhiệm cho Tiền phương Bộ Quốc phòng và Tiền phương Tổng cục Hậu cần bảo đảm điều kiện công tác tối thiểu cần thiết cho các đoàn chuyên gia kinh tế - văn hoá của ta. Khi cần thiết, đồng chí Trưởng đoàn chuyên gia của ngành ở Trung ương và tỉnh, thành phố sẽ liên hệ với các đơn vị quân đội (quân khu, quân đoàn, sư đoàn hoặc trung đoàn) gần nhất để yêu cầu giúp đỡ các mặt, gồm:
1. Cung cấp về lương thực và thực phẩm theo tiêu chuẩn chung (mỗi đoàn không quá 20 - 30 người, nếu có cả điện đài và lực lượng bảo vệ đi theo).
2. Phương tiện đi lại trên đất Bạn (cũng như từ ta sang đất Bạn và ngược lại) trong phạm vi khả năng và điều kiện cho phép, nếu vì lý do nào đó đoàn chuyên gia của ta không thể mang theo phương tiện riêng của đoàn được.
3. Cung cấp xăng dầu cho các đoàn có mang theo ô tô mà không thể mang theo xăng dầu sang đất Bạn hoặc tiếp tế không kịp.
4. Cung cấp quần áo và mũ theo quy định chung cho cán bộ trong các đoàn chuyên gia của ta được điều động sang công tác lâu dài trên đất Bạn, trước khi lên đường.
5. Cung cấp thuốc men hoặc chữa bệnh khi cần thiết.
6. Sử dụng phương tiện thông tin (điện thoại và vô tuyến điện) để bảo đảm giữ liên lạc thông suốt với Trung ương, với cấp ủy và ủy ban nhân dân tỉnh, nếu đoàn không có điện thoại, điện đài mang theo.
7. Bảo đảm an toàn cho các đoàn chuyên gia của ta hoạt động ở những nơi mà các đoàn chuyên gia không có lực lượng bảo vệ đi theo và điều kiện không cho phép.
8. Các đơn vị bộ đội và các đoàn chuyên gia của ta phải chấp hành đúng các nguyên tắc, chế độ, tiêu chuẩn về cấp phát, giao nhận và quản lý của Nhà nước theo hướng dẫn của Tiền phương Tổng cục Hậu cần.
Hàng tháng, hàng quý, Tiền phương Tổng cục Hậu cần có trách nhiệm báo cáo, thanh quyết toán số lượng vật tư hàng hoá (lương thực, quần áo, xăng dầu...) đã thực sự cấp phát cho các đoàn chuyên gia của ta (hiện vật và tính thành tiền) gửi về Phủ Thủ tướng, đồng thời gửi ủy ban Kế hoạch Nhà nước và Bộ Tài chính.
Tiền phương Bộ Quốc phòng và Tiền phương Tổng cục Hậu cần có trách nhiệm giao nhiệm vụ cụ thể cho các đơn vị cấp dưới hướng dẫn kiểm tra đôn đốc việc thực hiện. Nếu gặp khó khăn kịp thời báo cáo để Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định.
Thi hành nghị quyết của Bộ Chính trị và quyết định của Chính phủ, sau khi Đoàn chuyên gia kinh tế văn hoá ở Trung ương được thành lập và sang thủ đô Phnôm Pênh giúp Bạn, 8 tỉnh biên giới (kể cả Nghĩa Bình, Phú Khánh) và thành phố Hồ Chí Minh, lần lượt cử đoàn chuyên gia kinh tế và văn hoá sang giúp Bạn.
Tiếp đó, các tỉnh Cửu Long, Đồng Nai, Quảng Nam - Đà Nẵng cũng lần lượt cử đoàn chuyên gia sang giúp Bạn. Đoàn chuyên gia của các tỉnh, thành, do một đồng chí Thường vụ, Phó chủ tịch tỉnh, thành phụ trách. Thành phần gồm: các đồng chí phó ty (sở) hoặc tương đương của các ngành Nông nghiệp, Thủ công nghiệp, Thương nghiệp và Vật tư, Giao thông vận tải, Bưu điện, Y tế, Tài chính và Kế hoạch, Thủy lợi, Hải sản, Lâm nghiệp...
Đến tháng 2 năm 1979, ta đã hình thành hệ thống chuyên gia giúp Bạn Campuchia gồm: Ban B.68 giúp xây dựng các tổ chức và cơ quan chính trị của Đảng, xây dựng bộ máy chính quyền các cấp và các đoàn thể quần chúng, chỉ đạo các đoàn chuyên gia ở địa phương. Đoàn chuyên gia kinh tế - văn hóa (A40) giúp xây dựng khối kinh tế - xã hội, văn hóa. Đoàn chuyên gia quân sự (Đoàn 478), giúp xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia và chỉ đạo chiến đấu bảo vệ thành quả cách mạng. Đoàn chuyên gia an ninh (K79) giúp về công tác bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, giúp xây dựng lực lượng an ninh Campuchia.
Bên cạnh các đoàn chuyên gia trên còn có Bộ tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam. Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam ở Campuchia thực hiện các nhiệm vụ Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng giao, trong đó tập trung vào ba nhiệm vụ chủ yếu:
Một là, phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia truy quét tàn quân địch.
Hai là, phát động quần chúng, xây dựng chính quyền cách mạng, xây dựng cơ sở chính trị, phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân.
Ba là, giúp nhân dân Campuchia nhanh chóng ổn định đời sống, phát triển sản xuất.
|