Bodoibucket
Thành viên

Bài viết: 913
|
 |
« Trả lời #63 vào lúc: 15 Tháng Sáu, 2010, 06:56:53 am » |
|
Trên hướng Quân khu 9, sau khi hoàn thành nhiệm vụ trong tổng tiến công giải phóng đất nước Campuchia, các đơn vị của Quân khu được Tiền phương Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ chuyển sang thực hiện nhiệm vụ truy quét địch từ Puốcxát đến Uđông nhằm giải phóng số dân bị địch bắt đi theo và giúp Bạn xây dựng lực lượng vũ trang, bảo vệ chính quyền cách mạng.
Thời gian này, trên địa bàn Quân khu phụ trách, tàn quân các sư đoàn 1, 502, 261 của địch đã phục hồi; chúng đẩy mạnh hoạt động đánh phá giao thông từ Uđông đến Puốcxát. Trên địa bàn 2 tỉnh Tàkeo và Campốt, tàn quân các sư đoàn 210, 250, 270, 805 cũng đẩy mạnh các hoạt động chống phá chính quyền cách mạng. Chúng lập ra các mặt trận giao thông, tung quân đánh chiếm các địa bàn quan trọng, chia cắt giao thông của ta; đồng thời gom dân, cướp lương thực, vũ khí đưa về xây dựng một số căn cứ ở vùng rừng núi hòng tạo các bàn đạp đánh phá các vùng giải phóng của Bạn.
Để khôi phục các tuyến giao thông, từ giữa tháng 1 năm 1979, Quân khu 9 sử dụng Sư đoàn 339 phối hợp với lực lượng của Quân đoàn 4 tiến hành truy quét địch, mở rộng hành lang bảo vệ tuyến đường 5 từ Côngpông Chnăng đến Uđông. Sư đoàn 330 truy quét địch trên hướng Puốcxát. Sư đoàn 4 và các lực lượng bộ đội địa phương các tỉnh An Giang; Hậu Giang, Bến Tre, Trung đoàn 1 (Gia Định) đánh dịch trên hướng Tàkeo.
Từ ngày 2 đến ngày 8 tháng 2 năm 1979, địch tập trung 2 sư đoàn (210 và 270), có xe tăng và pháo binh yểm trợ, tiến công thị xã Tàkeo. Được Bộ tăng cường thêm Sư đoàn 320 (Quân đoàn 3), Quân khu 9 tập trung lực lượng giải tỏa Tàkeo và các khu vực xung quanh.
Triển khai thực hiện nhiệm vụ do Tiền phương Bộ Quốc phòng giao, từ đầu tháng 2 năm 1979, Quân khu 9 phối hợp với các đơn vị của Quân đoàn 4 và Quân đoàn 2 mở chiến dịch lớn truy quét quân địch ở phía tây nam Campuchia và khu vực từ nam - bắc đường 4 đến Cô Công. Trong chiến dịch này, Quân khu sử dụng Sư đoàn 9 và Sư đoàn 320 thực hành đánh địch và bao vây chiến dịch ở hướng bắc và hướng đông núi Tượng Lăng.
Sư đoàn 4 được tăng cường Trung đoàn 3 độc lập và Tiểu đoàn 198 đặc công Quân khu đánh địch và bao vây chiến dịch ở hướng nam và phía tây núi Tượng Lăng. Sư đoàn 8 ở hướng tây nam (Campốt) sẵn sàng cơ động lực lượng đánh địch trên các hướng khi cần. Lực lượng bộ đội địa phương thuộc các tỉnh của Quân khu và lực lượng Bạn làm nhiệm vụ đánh địch tại chỗ, sẵn sàng cơ động phối hợp với các đơn vị chủ lực.
Ngày 11 tháng 2 năm 1979, trên các hướng theo nhiệm vụ được giao các đơn vị của Quân khu nổ súng đánh địch. Sư đoàn 339 đánh vào phía nam và tây Môlúp. Ngày 17 tháng 2, quân ta chiếm được Salakhum và tiến hành truy quét địch ở phum Ô. Các đơn vị Sư đoàn 4 đánh địch ở đông - bắc Chuk và truy quét địch ở phía bắc đường 3. Sư đoàn 8 đánh địch ở tây - nam Chuk. Đến ngày 18 tháng 2, các đơn vị của Quân khu hoàn thành nhiệm vụ đánh chiếm các mục tiêu xung quanh núi Tượng Lăng và hình thành thế bao vây chiến dịch. Những ngày tiếp theo, Quân khu sử dụng các sư đoàn 4, 339, Sư đoàn 8 (thiếu) và Sư đoàn 320 (Quân đoàn 3 tăng cường) đánh vào vùng Tượng Lăng, Chúp, loại khỏi chiến đấu hàng nghìn tên, thu được nhiều súng các loại và các phương tiện chiến đấu khác của địch, giải phóng 200.000 dân.
Sau chiến dịch, Quân khu điều động Sư đoàn 8 và Sư đoàn 4 lên đảm nhiệm địa bàn tỉnh Campốt và từ nam Chamka Lương đến Píchnin để Quân đoàn 2 rút quân về nước nhận nhiệm vụ mới. Đầu tháng 3 năm 1979, Tiền phương Bộ Quốc phòng tăng cường Sư đoàn 310 (Quân khu 7) cho Quân khu 9 để đảm nhiệm địa bàn khu vực Preynop (tỉnh Campốt). Sau khi điều chỉnh lại lực lượng, Quân khu mở tiếp chiến dịch 2B, đánh địch ở khu vực Tượng Lăng, nam núi Lớn rồi chuyển sang tiến công truy quét địch ở khu vực đường số 4. Trong thời gian này, Sư đoàn 330 tăng cường cho Quân đoàn 4, sau khi hoàn thành nhiệm vụ truy quét địch ở Lếch, khu vực đường sắt (nam Krako), đánh địch giải toả ở Uđông, các đơn vị của Sư đoàn tiếp tục tham gia chiến đấu cùng các đơn vị Bạn ở phía tây thị xã Côngpông Chnăng, sau đó phát triển vào Rômía. Một lực lượng khác của Sư đoàn cùng Quân đoàn 3 đánh địch ở Puốcxát. Cuối tháng 2 đầu tháng 3, trên hướng đường số 5, Sư đoàn 330 cùng Sư đoàn 339 và một lực lượng của Quân đoàn 4 đánh vào các căn cứ của sư đoàn 1 và sư đoàn 502 địch, tiêu diệt phần lớn lực lượng của chúng. Riêng Sư đoàn 330 trong đợt tác chiến này đã loại khỏi chiến đấu hơn 700 tên, bắn cháy 3 xe tăng, thu 5 chiếc khác và hàng nghìn khẩu súng các loại, góp phần giải toả quốc lộ 5, giải phóng hơn 20.000 dân.
Sau đợt hoạt động này, Tiền phương Bộ Quốc phòng điều Sư đoàn 330 trở lại đội hình Quân khu 9 để tham gia truy quét tàn quân địch, bảo vệ vùng giải phóng.
Trong đợt hoạt động nửa cuối tháng 3 năm 1979, ngoài việc truy quét địch, loại khỏi chiến đấu 2 tiểu đoàn, 7 đại đội, 4 trung đội, diệt nhiều tên, thu gần 400 khẩu súng các loại, giải phóng hơn 3 vạn dân, Sư đoàn còn giúp Bạn tổ chức được 5 đại đội bộ đội địa phương (700 quân, trang bị 571 súng các loại), xây dựng chính quyền và lực lượng vũ trang cho 18 xã (726 du kích, trang bị 273 súng các loại). Tuy Sư đoàn hoàn thành tốt các nhiệm vụ của Quân khu giao, nhưng tổn thất còn cao (hy sinh 317 đồng chí, bị thương 905 đồng chí, cháy 5 xe, hỏng 11 xe quân sự); việc cung cấp hậu cần phục vụ chiến đấu ở nhiều nơi không đáp ứng được kịp thời do đường xa, địa hình phức tạp, địch liên tục đánh phá.
Đầu tháng 4 năm 1979, sau khi ta rút bớt một số lực lượng về nước để bảo vệ Tổ quốc trên biên giới phía Bắc, địch tập trung tàn quân các sư đoàn 210, 250, 230, 164, 502, 460 ở Quân khu Tây Nam ra sức phản kích hòng đẩy lực lượng ta ra khỏi khu vực nam - bắc dường số 4.
Để tiêu diệt tàn quân địch, bảo vệ địa bàn, triệt mọi nguồn tiếp tế, hệ thống kho tàng và các căn cứ lõm của địch, theo kế hoạch của Tiền phương Bộ Quốc phòng, từ ngày 3 đến ngày 30 tháng 4 năm 1979, Quân khu 9 tập trung các sư đoàn 4, 8, 330, 339 và lực lượng trên tăng cường (2 sư đoàn 320 và 310, 6 trung đoàn độc lập và 15 tiểu đoàn bộ đội địa phương của các tỉnh trong Quân khu) mở chiến dịch 3 phối hợp với Quân đoàn 4 truy quét tiêu diệt các căn cứ lõm của dịch ở nam - bắc đường số 4. Theo kế hoạch chung của Tiền phương Bộ Quốc phòng, Quân khu sử dụng các sư đoàn 4, 310, 339 phối hợp với Quân đoàn 4 đánh địch ở phía bắc đường 4; tập trung chỉ đạo các sư đoàn 8, 320, 330, các trung đoàn độc lập và bộ đội địa phương đánh dịch ở nam đường số 4, khu vực núi Chàngô, bắc Tàâm, tây - tây nam núi Tượng Lăng và Đôngkamchay.
Mở đầu chiến dịch, ở phía bắc đường số 4, các sư đoàn 11, 310 cùng lực lượng bộ đội địa phương tỉnh Minh Hải lần lượt đánh chiếm các khu vực Chikho, Chiphắt Kamlot, Thomabang, Tatailơ, Kirirom, Trapenrung, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng hoàn toàn đường 18 từ Sêramben đến Cô Công với gần 3.500 dân. Sư đoàn 330 đánh địch ở khu vực Chàngô lớn, Chàngô nhỏ, núi Tượng Lăng, Píchnin. Bị ta đánh mạnh ở bắc đường số 4, địch dồn về phía nam đường, Quân khu kịp thời điều sư đoàn 339 (thiếu 1 trung đoàn) tăng cường cho lực lượng phía nam. Bằng nhiều trận đánh bồi, đánh nhồi liên tiếp, quân ta lần lượt đánh chiếm các mục tiêu, trong đó có khu tây phum Ô. Sau khi bị mất khu vực ngã ba Môlúp và bắc Kaosala, rất nhiều tàn quân địch chạy về phía bắc và phía tây phum Ô. Trong các ngày từ 21 đến 27 tháng 4 năm 1979, Quân khu sử dụng Sư đoàn 8 vu hồi từ hướng tây nam kết hợp với một số lực lượng của các sư đoàn 330, 320 từ hướng tây bắc và hướng đông đánh vào phum Ô, diệt hơn 200 tên, thu 14 xe tăng và hàng trăm khẩu súng các loại.
Cũng trong thời gian này, Sư đoàn 8 và lực lượng bộ đội địa phương tỉnh Kiên Giang vừa truy quét, vừa phối hợp với nhân dân kêu gọi hơn 900 lính địch ra hàng.
Các đơn vị bộ đội địa phương của các tỉnh Tiền Giang, Hậu Giang, Bến Tre, An Giang, được pháo binh và thiết giáp Quân khu chi viện, bao vây tiêu diệt quân địch ở Chuk. Trong chiến dịch này, các đơn vị của Quân khu 9 cùng các đơn vị Bạn tiêu diệt và bắt hàng nghìn tên, gọi hàng 1.270 tên, thu 26 xe tăng, 169 xe vận tải, 1.909 súng các loại và hàng trăm tấn đạn dược, lương thực, quân trang, quân dụng; giải phóng các huyện Sêranben, Ptusakô, Chiphát, Thomabăng và bắc đường số 4.
Sau khi điều chỉnh lại lực lượng, từ ngày 1 tháng 5 đến 20 tháng 6 năm 1979, Quân khu 9 tiếp tục mở các chiến dịch 4 và 5 nhằm truy quét tàn quân địch còn lẩn trốn ở các vùng rừng núi, nhất là các khu vực ta dự đoán địch có khả năng lập các kho tàng, sở chỉ huy như phía bắc và đông bắc Kirivông, tây núi lớn, Kasala, đông và nam Tàlơn, tây bắc Campốt. Ở khu vực tứ giác bắc Kirivông, Sư đoàn 339 đã đánh trúng một số kho tàng của địch, diệt hơn 100 tên, thu 100 máy thông tin và nhiều đạn dược. Ở phía nam đường số 4, các sư đoàn 4, 8, Trung đoàn 152 (Kiên Giang) đánh chiếm sở chỉ huy các sư đoàn 210, 230, 250. Lực lượng bộ đội địa phương các tỉnh Tiền Giang, Cửu Long, Minh Hải, Bến Tre, Hậu Giang kết hợp chặt chẽ với lực lượng vũ trang yêu nước Campuchia truy quét tàn quân địch ở khu vực tây thị xã Puốcxát và một số huyện của tỉnh Côngpông Chnăng.
|