Lại nói năm Tân Mùi, niên hiệu Chính Trị thứ mười bốn (1571), vua Lê phong cho Nguyên công Trịnh Tùng làm khâm sai đô tướng tiết chế các xứ thủy bộ chư doanh, kiêm tổng nội ngoại bình chương quân quốc trọng sự, hàm thái úy, tước trường quốc công, giữ chức đô tướng trông coi việc nước. Trường quốc công Trình Tùng vái tạ nhận tước phong, chính thức thống suất cai quản việc triều chính. Từ đó binh uy ngày thêm vang dậy.
Chúa mới cầm nắm quyền hành, trong lo việc nước, ngoài lo dẹp giặc, thiên hạ yên bình. Các quan văn võ đều vui lòng tuân phục, người theo về dưới thềm rất đông. Từ đó về sau, thiên hạ hơi được yên bình.
Lại nói năm Quý Dậu, niên hiệu Chính Trị thứ mười sáu (1573), tháng giêng, vua Lê qua đời. Vua ở ngôi mười bảy năm, thọ bốn mươi hai tuổi, các quan dâng tên thụy là Anh Tông hoàng đế, táng ở Tuyên Lăng.
Bấy giờ Trường quốc công Trịnh Tùng cùng các quan đại thần bàn việc lập hoàng thái tử Duy Đàm lên ngôi hoàng đế, đổi niên hiệu là Gia Thái, xuống chiếu đại xá thiên hạ.
Năm Quý Dậu, niên hiệu Gia Thái năm đầu (1573), vua mới bảy tuổi, lên ngôi khi còn trứng nước, chưa hiểu việc chính sự quốc gia, quyền bính đều ủy thác cả cho Trịnh Tùng làm phụ chính. Trường quốc công Trịnh Tùng tài kiêm văn võ, mưu lược lớn lao, thu gồm hào kiệt, chiêu tập những kẻ ngoan ngạnh quật cường, uy hiếp công khanh, ngầm có ý lấn vượt.
Lại nói năm ấy ở Đàng Trong. Đoan quốc công Nguyễn Hoàng làm trấn thủ hai xứ Thuận, Quảng, dân chúng được yên vui, trong cõi yên bình thịnh vượng. Bỗng nghe tin có bọn "giặc giàu sang" (1) đem năm chiếc tàu đến đậu ở ngoài khơi Cửa Việt, dùng thuyền nhỏ vào bờ cướp bóc dân lành. Chúa nghe tin, liền sai con là Thụy quận công (2) đem quân đi quét diệt.
Thụy quận công vâng lệnh đem hơn mười chiến thuyền đi thẳng đến Cửa Việt, thấy thuyền giặc còn cách hơn ba mươi dặm, tất cả đều móc neo đậu liền nhau một dải. Quận Thụy cả giận đốc thúc thủy quân tiến thốc lên. Đoàn thuyền chiến như một con trường xà ruổi tới, tiếng súng đồng loạt phát nổ, vang động trời đất. Hai tàu giặc bị bắn vỡ. Bọn "giặc giàu sang" cả sợ vội cuốn neo kéo buồm chạy gẩp ra biển Đông. Thụy quận công xua quân đuổi theo không kịp, chỉ thu được một số đồ vật của tàu giặc nổi trên biển đem về.
Thụy quận công vào triều báo tin. Đoan vương cả mừng, vỗ về, úy lạo rằng :
- Con ta thật anh hùng !
Nói đoạn bèn trọng thưởng cho Thụy quận công, ban khen hậu hĩnh cho ba quân tướng sĩ, mở tiệc mừng.
Từ đó về sau tàu của bọn "giặc giàu sang" không dám mon men gần cõi, dân miền ven biển cũng được yên.
Lại nói việc năm Giáp Tuất, niên hiệu Gia Thái thứ hai (1574), bên nhà Mạc là niên hìệu Sùng Khang thứ chín. Vua Mạc là Mạc Mậu Hợp còn bé thơ (3) quyền hành ủy thác cả cho tể tướng (4) cầm nắm việc nước. Tướng sĩ trên dưới lìa lòng, dấy loạn nổi giặc, ai nấy đều muổn tranh công. Dân chúng Đông kinh cũng bị điêu linh khốn khổ. Luôn trong mẩy năm nhà Mạc lại mưu tính cất quân vào đánh Thanh Hoa. Năm Gia Thái thứ năm (1577), vua Lê đổi niên hiệu là Quang Hưng.
Năm Mậu Dần, niên hiệu Quang Hưng năm thứ nhất (1578), tháng bảy, tướng nhà Mạc đem quân vào đánh xứ lũy Cổn. Đô tướng Trịnh Tùng xốc quân ra đánh. Quân Mạc thua lớn, bỏ chạy về Đông đô. Quân nhà Lê đuổi theo chém giết bêu đầu, quân Mạc chạy dài lánh trốn.
Năm Canh Thìn, niên hiệu Quang Hưng thứ ba (1580), Mạc Mậu Hợp lại sai tướng là Diễn quốc công (5) vào đánh quân Lê. Quân Mạc đến xứ Cầu Công (6) chia doanh lập trại đóng giữ, cướp bóc quấy nhiễu dân chúng. Đô tướng Trường quốc công Trịnh Tùng thống lĩnh thủy quân tiến đánh. Chúa thúc quân bắn rất rát, tiếng súng ầm vang như sấm, đạn bay như sao sa. Quân Mạc khó bề chống đỡ, kinh sợ trốn chạy, rơi xuống sông chết đuối rất nhiều. Tướng Mạc là Diễn quốc công bỏ quân, bịt đầu lẩn tránh, tìm đường chạy về Đông kinh. Từ đó mối lo về nhà Mạc hơi được yên. Đô tướng Trịnh Tùng hạ lệnh đem quân trở về sách Vạn Lại. Người thời bấy giờ có thơ hình luận rằng :
Phù vận giúp mưu khó cứu đời,
Đuổi quân nhà Mạc chạy tơi bời.
Dương uy tướng sĩ thu non nước,
Gắng sức muôn dân (7) dựng cõi bờ.
Một trận ầm vang bao giặc chết,
Bốn phương tưới khắp vạn dân nhờ.
Nghiệm xem thiên tượng sao Huỳnh [8] mọc,
Ngoài cõi lờ mờ lửa lại khơi. ---------------------------------------------------
(1) Nguyên văn : "Hiển quý tặc" (giặc giàu sang) - cách nói của ngườl đương thời gọi tàu thuyền của người Phương Tây xâm nhập lãnh hải nước ta. ĐNTLB có ghi việc này, nhưng cước chú "Hiển quý là hiệu gọi của bọn tù trưởng phiên" có lẽ không đúng.
(2) Tên tước củc Nguyễn Phúc Nguyên (con Nguyễn Hoàng).
(3) Mạc Mậu Hợp nối ngôi khi lên hai tuổi (lúc nói đây cũng chỉ mới mười bốn tuổi). Mậu Hợp sáu lần đổi niên hiệu, Hồng Ninh là niên hiệu cuối cùng (1591- 1592), vì vậy đời sau thường gọi là Mạc Hồng Ninh.
(4) Chỉ Mạc Kính Điển.
(5) Tên tước của Mạc Kính Điển.
(6) Chữ "Công" nếu đọc theo chữ Nôm có thể đọc là "Trong" (Cầu Trong)
(7) Nguyên văn câu 3 và 4 dùng 4 chữ tên 4 con vật mạnh (trũi, hổ, tì, hưu) tạm dịch như trên.
[8] Huỳnh : tức sao Huỳnh Hoặc (sao Hỏa)----------------------------
hết hồi 1