Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 03:39:42 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Gia đình biệt động  (Đọc 42186 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
VoMinhGiang
Thành viên
*
Bài viết: 91


Sống trên đời sống cần có một tấm lòng.


« Trả lời #60 vào lúc: 09 Tháng Sáu, 2010, 06:03:53 pm »

    Má Sáu Hoàn đang ở trong tình trạng đau xé lòng, xé ruột. Con gái má vừa ở tù ra, hai mẹ con gặp nhau chưa đến hai tiếng đồng hồ đã phải chia tay nhau do lời khuyên hay còn gọi là mệnh lệnh quân sự của má. Dứt đứa cháu ngoại ốm đau quắt queo ra khỏi con gái, ruột gan má như bị xát muối ớt song má đành gạt nước mắt làm theo tiếng gọi của trái tim yêu nước, yêu gia đình. Giờ đây, má lại phải thuyết phục em ruột, em rể. Chỉ mong dì, dượng hiểu cho tấm lòng của má. Đón được má con Mỹ Lê ra tù đã là thắng lợi nhưng xóa hết dấu vềt hai má con nó mới thật là cần thiết. Để bé Tranh lại cho dì dượng, bé sẽ được nuôi dưỡng tuyệt vời, được săn sóc quá mức chu đáo nhưng ai dám đảm bảo rằng kẻ địch không lợi dụng tính mạng của đứa con để dò tìm ra dấu vềt của người mẹ cùng những đồng đội, đồng chí của mẹ nó? Qua những lời rỉ rả tâm sự của má Sáu, vợ chồng dượng Bẩy tự trách là đã nghi ngờ oan cho chị. Chị Sáu không chỉ thương yêu, tin cậy mà do biết nhìn xa, trông rộng, chị đã gỡ thế kẹt cho vợ chồng dì. Dượng Bẩy mở tủ lấy ra một xếp tiền nài nỉ:
    - Mong chị Sáu cầm lấy để chạy chữa thuốc men cho con nhỏ. Vợ chồng chúng em còn tiền, chúng em xin phụ giúp chị, hy vọng cứu được cháu. Tương lai, nếu bé Tranh sống được, mạnh khỏe, ông bà Bẩy cũng mát lòng, mát ruột.
    Má Sáu cầm tiền, bế bé Tranh về giao cho Hai Tập. Hai Tập vạch vú cho con nuôi bú. Bé Tranh ôm lấy má nuôi, nuốt từng dòng sữa. Từ thuở lọt lòng mẹ, lần đầu tiên bé được bú sữa từ đôi vú nên bé ham lắm. Chị Hai Tập mến con bé ngay. Chị hứa:
    - Con thề sẽ yêu quý con chị Mỹ Lê hơn con ruột của con. Thưa dì Sáu, con không nói dóc. Bé Tranh suy kiệt quá mức nên cần tình mẫu tử nhiều hơn đứa con khỏe mạnh, béo tốt, không bệnh tật của con.
Má Sáu Hoàn phải làm cái việc rất khó xử:
    - Hai Tập Mày đừng trách dì Sáu không hiểu tấm lòng của con mà làm cái việc bậy bạ là đưa tiến cho con. Con cầm giùm vì đây không phải tiền của dì Sáu la của ông bà Bẩy tặng bé Tranh.
    Hai Tập đắn đo giây lát. Chị không nỡ chối khi dì Sáu đã dùng hết lời lẽ chí tình như vậy. Vì tế nhị Hai Tập đành đón nhận tiền:
    - Dì cho con xin.
    Giải quyết xong vụ má con Mỹ Lê, má Sáu mệt rã rời. Dù sao thì má cũng yên được một bề. Các anh các chị ở căn cứ sẽ làm tròn trách nhiệm lo thuốc thang, tẩm bổ cho Mỹ Lê .
    Giữa năm 1966, Mỹ Lê quay lại thành phố. Má mừng quá vì Mỹ Lê đã có da, có thịt, dáng vẻ hoạt bát, nhanh nhẹn. Chị khoe:
    - Con ăn ngon, ngủ khỏe. Con được 41 ký rồi.
    Như vậy là sức khỏe con gái má hồi phục gần được như thời con gái rồi. Mỹ Lê yêu cầu:
    - Con nhớ bé Tranh quá.
    Má đưa con đến gặp cháu. Bé Tranh sà vào lòng bà ngoại nhưng không theo má ruột Mỹ Lê tủi thân, khóc sụt sùi:
    - Con làm gì nên tội để đến nỗi con con không nhận mẹ? Con ơi! Lại đây với má!
    Có lẽ do ánh mắt dịu dàng, giọng nói truyền cảm, thái độ thân thiện chứa chan tình thương mẫu tử nên bé Tranh đã bò đến bên má. Mỹ Lê bế bổng con lên, hôn vào tóc, vào má, vào cổ, vào tay chân con gái, nước mắt sung sướng cứ tràn ra khỏi mi. Bé Tranh chưa biết nói, ôm lấy cổ má, toét miệng cười. Mỹ Lê muốn bỏ tất cả để ở với con một ngày, cả tuần hoặc vài tháng nhưng chị đâu có hạnh phúc đó? Chị không biết bù đắp cho con gái cái gì? Bé Tranh còn nhỏ, chưa thể ép bé ăn giò, chả, kẹo, chuối. Bé cũng chưa ý thức được về các đồ chơỉ. Thương con quá, Mỹ Lê ra phố mua cho con ba bộ quần áo, cái gối, cái mền. Chị pha nước ấm tắm rửa cho con. Bé Tranh cười sằng sặc mỗi khi bàn tay mẹ làm bé nhột. Mỹ Lê vui đùa với con. Con bé đã có da, có thịt, hồng hào. Má Sáu Hoàn âu yếm nhìn con gái và cháu ngoại. Chao ôi, cái hạnh phúc giản đơn nhất của một người bình thường là được sống gần con, gần cháu mà má và Mỹ Lê đang thèm khát nhưng không được tận hưởng.
    Đã đến giờ phải ra đi rồi. Má Sáu Hoàn vào nhà trong gọi Hai Tập. Bà má nuôi ý tứ, tế nhị đã tạm lánh mặt. Chị không muốn gây cho Mỹ Lê vết thương tình cảm, Mỹ Lê bị sốc vì con đẻ không theo mình mà bám riết người đã cho nó hai bầu vú sữa, đêm đêm ngủ cạnh nó, ngày ngày bế ẵm nó. Hai Tập và Mỹ Lê cùng lứa tuổi nhưng Hai Tập già hơn. Tuy vậy, trong khi trò chuyện, Hai Tập thường giữ phận làm em với tất cả mọi người con của má Sáu. Má Sáu dàn hòa:
    - Tao và dì út xem nhau như chị em ruột. Mấy đứa con của hai gia đình, đứa nào lớn hơn sẽ là anh là chị. Từ con Mỹ Hòa trở xuống là em Hai Tập.
    Trông thấy Hai Tập xuất hiện, bé Tranh đã sà vào lòng má nuôi, rúc đầu đòi bú tí. Má Sáu Hoàn kéo Mỹ Lê ra khỏi nhà tránh cho con má quá bịn rịn, lưu luyến lúc chia tay.
    Mỹ Lê mới đi được vài ngày, Mười Tuân thông tin cho má :
    - Má ơi! Chị Mười Dương mới bị địch bắt rồi. Má đừng buồn nghe má. Chị không mang theo tài liệu gì trong người đâu.
    Má Sáu Hoàn thở dài não nuột. Con nhỏ ốm yếu quá, làm cách nào đủ sức chịu đựng các ngón đòn tra tấn của giặc? Sau ngày ra tù, con nhỏ cảnh giác hơn. Nó thay đổi cách hóa trang, đi đâu cũng để ý xem có bị "đuôi" bám không? Nó tình nguyện đi chiến đấu, cũng xông xáo như các chiến sĩ biệt động Võ Ngọc Trinh tức Bẩy Hà, út Hải, Năm Hùng ... Tụi nó đã đánh tan Ty bưu điện Gia Định, phá sập trụ sở ấp 5, xã Bình Hưng Hòa, diệt tên ác ôn ở phường Phan Thanh Giản, không hiểu tại sao nó lại bị bắt? Tại sao con nhỏ lại thiếu cảnh giác như vậy? Má tìm hiểu thì được biết lần này, nó sa vào tay giặc hoàn toàn ngẫu nhiên. Có tên chỉ điểm nhận được mặt nó, xét hỏi giấy tờ nó. Nó không mang theo tài liệu gì trong người và có giấy căn cước, thẻ sinh viên thứ thiệt, hoàn toàn hợp pháp. Tuy vậy, nó vẫn bị áp giải về Tổng nha cảnh sát, bị nhốt vào xà lim vì đã từng là Việt cộng, đã ở tù, sinh con trong tù. Ngay ngày đầu, bị gọi lên hỏi cung, Mỹ Lê đã "xử nhũn" bằng cách khai báo:
    - Thưa các ông, tôi đi mua thuốc chữa bịnh. Từ sau ngày ra tù, tôi ốm yếu quá, bác sĩ đã kê toa cho tôi. Tôi không hoạt động nữa.
    - Đừng có sạo bà nội. Mấy tên cộng sản gộc cỡ như bà có bao giờ từ bỏ lý tưởng. Biết điều thì bà nội khai ra các đồng chí của bà.
    - Tôi dạy học ở trường tư thục Nguyễn Hoàng. Tôi sống nội trú trong trường.
    - Láo! Từ nhà ông Bẩy ngân hàng Pháp quốc, mày bỏ trốn đi đâu?
    Mỹ Lê cười thầm trong bụng. Đúng là má cao tay hơn tụi nó, đã bố trí cho chị thoát hiểm trong đường tơ kẽ tóc, khi tụi nó đang bám riết theo chị. Bị mất mồi, tụi nó tung thám tử rình khắp nơi và vừa phát hiện ra chị chúng đã chộp ngay giữa đường phố. Chị khai:
    - Tôi mãn hạn tù, mấy ông thả tôi, có cấp giấy chứng nhận cho má con tôi. Dì Bẩy vừa đón tôi về nhà thì má tôi tới. Má đưa má con tôi về quê lo thuốc thang.
    - Con nhỏ đâu?
    - Con tôi chết rồi. Mấy ông tính, tôi sanh con thiếu tháng. Con nhỏ nặng l kg 9 lại không được bú sữa mẹ, kèm theo đủ thứ bịnh mang từ xà lim về thì sống sao nổi.
    Những ngày tiếp theo, những tên đao phủ không ngọt nhạt với Mỹ Lê mà giở trò thượng cẳng chân hạ cẳng tay, thỏa sức đấm, đá, tát rồi cho đi tàu bay (trói giật cánh khuỷu treo lơ lửng giữa nhà); đi tàu lặn (dìm đầu trong thùng nước bẩn), v.v... mà không kiếm được lời khai nào. Mỹ Lê đâu có kinh nghiệm ở tù lại được tấm gương của Mỹ Hòa cổ vũ và do không phải lo bảo vệ bé Tranh nên chị vượt qua mọi đòn tra tấn không khó khăn lắm. Trước sau chị vẫn giữ nguyên lời khai:
    - Tôi bị bịnh nặng quá, kiệt sức rồi, tôi không hoạt động nữa.
    Bọn địch đâu dễ dàng buông tha chị. Chị mất máu nhiều, không ăn, không ngủ được, nên trọng lượng cơ thể sa sút nhanh chóng, "được" thừa nhận là người tù gầy, yếu, nhỏ con nhất trong số các tù nhân suy dinh dưỡng, người nào cũng chỉ còn nắm da bọc xương của trại giam. Đã thế, Mỹ Lê lại bị bệnh khớp làm cho hai đầu gối sưng tấy, đau buốt, nhức nhối thấu tim. Chị không đi lại được. Muốn di chuyển từ sàn nhà vào nơi tiểu tiện, chị bò lết bằng hai tay chống, nhích mỏng về phía trước. Chả biết ai đó ái ngại trước hình ảnh tiếu tụy, thảm thương của chị, đã gọi chị là Tư ốm. Bệnh của Tư ốm ngày càng nặng, chị phải nhờ bạn tù đỡ đi đại tiện, tiểu tiện. Má Chín, thay mặt các tù nhân nữ kiến nghị tên giám thị, đòi phải chạy chữa cho Tư ốm. Mỹ Lê được gởi tới nhà thương làm phúc, ở cùng phòng với bốn nữ tù nhân thuộc loại thập tử nhất sinh của các trại giam khác nhau. Tuy ở chung phòng nhưng những người bạn tù không tâm sự cùng nhau, người nọ e ngại người kia là tay sai của kẻ địch gài vào để moi tin tức mình. Mỹ Lê chú ý tới cô gái có tên là út Phương. Cô trạc 16, 17 tuổi, có khuôn mặt rất ưa nhìn, đặc biệt là đôi mắt, nụ cười. út ' Phương có cảm tình đặc biệt với chị. Tuy nhiên, chỉ vẫn nghi ngờ cô. Cô còn non quá, đẹp quá và tại sao cô luôn xoắn xuýt lấy chị, hỏi chị đủ điếu về đời tư, về gia đình, về công việc làm Chị không nói thật, luôn trả lời qua quít với mục đích không cung cấp tin tức gì xác thực cho người hỏi. Vài ngày sau, Mỹ Lê cũng điều tra về út Phương. Phương không giấu chị Tư ốm điều gì. Cái người bị địch tra tấn đã gần trở thành tàn phế ấy đã khiến cô hoàn toàn tin vào bản linh và phẩm chất cách mạng của chị. Cô kể:
    - Em dính vụ anh Vương Thành, anh Lê Chân. Tòa án binh sắp sửa xử tụi em.
    Mỹ Lê giật mình nhưng kịp trấn tĩnh ngay. Sao lại có sự trùng hợp ngẫu nhiên như thế này" Phải chăng con nhỏ là chỉ điểm của địch? Chắc nó. biết chị là vợ Lê Chân nên nó đưa chiêu bài "Lê Chân" ra để câu chị. Chị cố giữ vẻ thờ ơ:
    - Em bị bắt hồi nào?
    - Em bị ngày 25 tháng 9 năm 1965, anh Tư Thành ngày 26 và anh Ba Chân ngày 01 tháng 10 năm 1965.
    - Tại sao em bị bắt?
    - Em học lớp đệ nhất, trường Minh Trí. Em cùng tổ công tác với hai anh.
    - Em có biết trận đánh vào sân banh Cộng Hòa không?
    - Có. Nhưng em không được tham gia. Mấy anh chưa đồng ý nhận em là chiến sĩ biệt động. Năm 1965 em mới 16 tuổi, hoạt động trong học sinh, sinh viên.
    Út Phương không giấu giếm chị Tư ốm điều gì. Cô hoàn toàn tin chị. Chị đã vào tù lần thứ hai. Chị đã sinh con ở trong tù. Cô ở tù đã gần hai năm nên cô muốn dốc bầu tâm sự với người mà cô đặt mọi niềm tin. Cô giúp chị Tư ốm thiệt lòng. Cô cõng chị vào nhà vệ sinh ngồi giữ cho chị đi cầu. Cô chưa biết tên thật của chị. ở ngoài đời chị làm gì, vì sao chị bị bắt? Điều đó cô không quan tâm lắm. Cô cũng gầy yếu, sốt cao. ho ra máu song còn đi lại được không như chị Tư ốm. Chị gầy quá, trông bề ngoài không khác gì đứa bé con. Mỗi lần cần di chuyển, chị phải nằm xuống lăn tròn cái cơ thể, mà khi bị bắt là 41 kilôgam nay chỉ còn vẻn vẹn có 29 kilôgam thay cho đôi chân đã trở thành vô dụng vì hai khớp đầu gối sưng ngày càng to, càng đau. Cô kể với chị Tư ôm về mình, giọng hồn nhiên:
    - Tụi nó đánh em dữ lắm, em không khai. Hôm anh Tư Thành bị bắt, tụi nó bắt em và anh Tư đối chất. Em chào anh Tư. Em nhận anh là một trong những bạn trai của em. Chị tính, anh và em cùng tổ công tác, anh đến chỗ em, em đến chỗ anh luôn, ai mà chả biết.
    - Tư Thành có tham gia vụ .sân banh Cộng hòa không?
    - Có. Anh ham rải truyền đơn lắm. Tối bữa đó, anh mang mấy trăm tờ truyền đơn đi nhưng rủi gặp trời mưa, anh phải quay về. Tụi cảnh sát phục ở nhà anh, bắt anh tại trận. Chúng khám người anh và tìm thấy tang vật phạm pháp.
    - Tại sao cảnh sát lại biết chỗ của Tư Thành? Cô khai ra anh à ?
    - Em đâu đến nỗi đốn mạt như vậy? Mình đã tình nguyện theo cách mạng, mình có gan làm, có gan chịu, sao lại để liên lụy tới đồng đội? Bà chủ nhà em trọ khai đia chỉ anh Tư. Báo hại là khi bị bắt, anh có truyền đơn trong người .
    - Tụi nó tra tấn em như thế nào? Tụi nó xé áo em. lột quần em. Em ghê tởm chúng. Nếu chúng làm nhục em, em sẽ cắn lưỡi chết ngay tại chỗ. ở trần, em mắc em quá. Em có bộ ngực mà tụi con gái cùng lớp đều khen là rất đẹp, em chưa hề cho người con trai nào đụng tới bây giờ em phơi ngực trước năm thằng đàn ông. Em khép đôi cánh tay che kín hai bầu vú. Tụi nó giằng ra, vật em nằm ngửa, cùm chéo chân em, trói ghì đôi tay em em càng giẫy, vềt trói càng thắt chặt. Chúng nó sắp giở trò đây em đặt lưỡi vào giữa hai hàm răng, dự định sẽ ngẩng đầu phun máu đầy mặt thằng đầu tiên đè lên người em nhưng em chợt nhận ra mấy đứa không giật quần lót của em và cùm chéo chân em.
    Út Phương tiếp tục kể hồn nhiên, chân thật:
    - Xong việc, tụi nó vẩy thứ nước gì lên khắp người em rồi ra khỏi xà lim, khóa cửa lại. Thoạt đầu, em đâu đoán nổi là nước gì. Nước không có mùi vị, không gây mẩn ngứa, không xót. Chỉ ít phút sau, em mới hiểu âm mưu nham hiểm của chúng. Chúng vẩy nước đường nhằm gọi kiến đến. Kiến bò lên mặt, lên cổ, lên ngực, lên bụng, lên đùi em. Nhột ơi là nhột. Kiến kéo đến ngày một nhiều, trên cơ thể em có tới vài vạn con kiến. Em không sao cựa được. Thì ra cái lý do chúng cùm chéo chân em là để em không thể xoay nghiêng người hoặc dằn người lên, xuống để rũ bớt kiến. Khi không còn cách gì xua đàn kiến đang bò trên người em, đang đốt em, em đành bất lực, nằm im chịu trận. Chả hiểu do nọc độc của kiến hay dây trói quá chặt khiến cơ thể em như bị tê cứng, em không thấy buồn, nhột hoặc đau nữa. Em thiếp đi hay ngất đi khá lầu và em tỉnh dây khi có ai đó giội nước lên người em. Kiến trôi đi nhưng hình như ở lỗ chần lông nào trên người em cũng còn lại vềt kiến cấn. Em ngứa vô cùng nhưng không sao gãi được. Tối hôm đó, tụi nó bỏ mặc em trong xà lim tối đen như mực. Em sợ quá muốn hét lên kêu cửa. Chị biết em sợ gì không? Em sợ ma. Em ước ao có đứa vào trong xà lim. Em định gọi tên lính gác để nó trả lời em, giúp cho em đỡ sợ nhưng rồi em tự động viên mình không để kẻ thù nắm bắt được nhược điểm của mình. Chị xem, da em trước đây mịn lắm, bây giờ sần sùi, lở loét cùng mình.
Út Phương cởi áo. Mỹ Lê cảm động quá. Chị ép đầu cô gái 18 tuổi vào ngực mình:
    - Chị xin lỗi út. Chị chưa tin em nên phải thử thách em. Chị là Mỹ Lê, vợ anh Ba Chân đây.
    Út Phương tròn xoe mắt:
    - Ủa, chị là chị Hai sao? Anh Ba Chân nhắc tới chị hoài. Em đâu ngờ chị nhỏ con quá đỗi như thế này.
    - Em bị giam chung với anh?
    - Đâu có. Hồi mới bị bắt, em gặp anh mấy lần khi đi cung. Anh nói là chị sanh con trong tù. Ngày 06 tháng 6 năm 1967 tòa án quân sự sẽ xét xử anh Ba Chân. Chắc chắn em sẽ đứng gần anh trước vành móng ngựa.
Logged

Nếu có 1 ước muốn trở thành sự thật
Tôi chỉ muốn trở thành 1 người lính đảo
VoMinhGiang
Thành viên
*
Bài viết: 91


Sống trên đời sống cần có một tấm lòng.


« Trả lời #61 vào lúc: 09 Tháng Sáu, 2010, 06:11:27 pm »

    Mỹ Lê chợt thấy lòng mình ấm lại. Trời phật dun dũi làm sao để chị đến nhà thương Chợ Quán gặp được út Phương, được nghe em kể những tin tức về anh Ba. Tính cách út Phương thật khác thường. Cô còn vẻ ngây thơ, trong trắng của một nữ sinh, rất đẹp, chưa hề có người tình song cô bình thản, tự tin, gan lý trước kẻ thù. Cô không hễ xốn xang trước việc sắp bị tòa án binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đưa cô ra xét xử. Cô thờ ơ, dửng dưng mặc dù ngày xử án sẽ diễn ra sau 48 giờ nữa. Cô nói với Mỹ Lê :
    - Tụi nó giở trò hề, em đâu có ngán. Hai năm qua, tụi nó tìm mọi cách hạ nhân phẩm em, giam em cùng bọn gái điếm, rồi nhốt em trong phòng những người cùi, hủi. Thằng luật sư hay ủy viên công tố gì đó hù dọa em, báo tin em sẽ lãnh mức án 18 năm tù giam. Em hỏi lại liệu chế độ của các ông có tồn tại được ngần ấy năm không?
    Mỹ Lê thích tính vô tư, hồn nhiên của út Phương. Chị dặn cô gái:
    - Em đừng nên vồ vập chị.
    Chị sẽ giữ thái. độ thờ ơ, lạnh nhạt với em như trước đây để tụi chúng nó khỏi nghi. Chị hy vọng được nghe em tường thuật lại vụ xử anh Ba.
    - Dạ.
    Sáng 06 tháng 6 năm 1967, một chiếc xe bịt bùng đến đậu trước cổng nhà thương. Hai tên cảnh sát ập vào phòng út Phương ra lệnh:
    - Thay bộ quần áo này nhanh lên, bà nội.
    Út Phương lắc đầu:
    - Khỏi cần. Tôi mặc quần áo của người bịnh tới phòng xử án cũng chả hề chi.
    Đón được lời khuyên không nên khiếu khích kẻ thù qua ánh mắt Mỹ Lê, út Phương lộ vẻ miễn cưỡng trước hai tên cảnh sát:
    - Cảm phiền mấy thầy ra khỏi phòng giùm.
    Các quan tòa không định để cô gái xuất hiện trên các trang báo với trang phục của người tù hay người bệnh nên buộc út Phương thay bộ quần áo cô mặc hôm bị bắt. Cô nhoẻn miệng cười, đưa tay vẫy Mỹ Lê:
    - Em đi nghe chị Tư!
    Nếu không phải là người trong cuộc, không ai tin rằng út Phương sắp ra trước vành móng ngựa để nhận mức án 18 năm tù giam. Chỉ còn lại một mình trong nhà thương, Mỹ Lê nằm ngửa, mắt dán lên trần nhà, tưởng tượng ra mọi chuyện đang đến với chồng mình. Anh mang gông cùm hay bị còng tay, xích chân? Chắc tụi nó bắt anh mặc quần áo tù. Anh ở tù bao lâu rồi? Anh bị bắt ngày 01 tháng 10 năm 1965 đến hôm nay là 06 tháng 6 năm 1967, như vậy anh đã ở tù 20 tháng. Còn bao ngày nữa? Có cách gì gặp anh không? Anh đã biết tin chị sinh con gái chưa? Nếu út Phương thông báo với anh là bé Tranh khỏe mạnh, đã biết gọi cha, gọi má chắc anh vui lắm. Ở trong phiên tòa, làm cách nào út Phương thông tin được với anh? Liệu út Phương có trở lại nhà thương không? Suốt ngày hôm đó, chị lắng nghe từng tiếng động nhỏ, chờ đón bước chân ức Phương. Khoảng sáu giờ chiều hôm đó, khi chị đã thở dài tuyệt vọng thì út Phương bị áp giải trở về. Cô cười:
    - Chào chị Tư! Em lo quá, bữa nay ai giúp chị đi cầu? Ai cho chị ăn? Chị tắm rửa chưa?
    Chao ôi? Tại sao con nhỏ còn cười được? Nó cười rất tươi sau một ngày xử án căng thẳng là vì sao? Chắc chắn nụ cười đó nó đã cố gắng quên mình đi để nghĩ đến chị, dành riêng cho chị. Khi chỉ còn hai người trong phòng, út Phương ý tứ:
    - Em cõng chị đi tắm. Ở đó, chị em ta nói chuyện tự nhiên hơn.
    Út Phương tốt với chị quá. Chị không nên lạm dụng. Cô ấy mệt mỏi quá mức chịu đựng rồi, cần tạo điều kiện để cô ấy nghỉ ngơi đôi chút. Chị bàn:
    - Em tắm trước cho mát.
    Út Phương đoán ngay được cách xử lý tinh tế của Mỹ Lê. Chị ấy mong đón tin chồng từng phút, từng giây thế mà chị ấy nghĩ tới mình trước. Út Phương ngắt lời chị:
    - Em còn đủ sức mà chị Hai. Nhanh lên chị.
    Đến nước này thì Mỹ Lê không chần chừ nữa. Chị đưa hai tay ôm cổ út Phương. Phương múc nước giội cho mình, cho chị và kể về phiên tòa. Tòa án quân sự còn gọi là tòa án mặt trận mở tại đường Bạch Đằng. Tên chánh án khá to con, mặc quân phục, đeo lon đại tá trên ngực áo ghi tên là Tý. Phiên tòa không có thân nhân bị cáo. Những ai mặc thường phục ngồi trong phòng xử án đều do tụi nó bế trí. Toàn bọn ác ôn, an ninh, mật vụ. Cảnh sát đứng vòng trong, vòng ngoái. Anh Tư Thành cùng năm người khác đến nước. Các anh vừa đi, vừa hô khẩu hiệu. Anh Ba Chân ngồi xe riêng, có hai tên cảnh sát lực lưỡng đeo súng ngắn trễ hông áp giải. Tuy ba bế bốn bên đều là lính ngụy, sĩ quan ngụy rồi cảnh sát ngụy có vũ trang nhằm uy hiếp, khủng bố tinh thần những người tù gầy còm không có tấc sắt trong tay, song cả út Phương và bảy anh đều điềm tĩnh, không mảy may run sợ. Anh Ba Chân bị thẩm vấn đầu tiên. Anh tuyên bố:
    - Tôi không thừa nhận phiên tòa không có công lý này. Chúng tôi yêu cầu xét xử công khai.
    Út Phương và sáu anh cùng hô theo:
    - Yêu cầu xét xử công khai.
    Tên chánh án rung chuông nhưng Ba Chân vẫn lên án:
    - Vì sao ở phiên tòa không có người nhà chúng tôi, không mở cửa để người dân Sài Gòn tham dự? Vì sao phiên tòa hạn chế các nhà báo, không có phóng viên ngoại quốc?
    Đại tá Tý đập bàn. Hắn kể tội anh Ba. Anh xua tay phủ nhận:
    - Đúng, chúng tôi đánh Mỹ, diệt ngụy vì chúng tôi yêu nước, chống ngoại xâm. Chúng tôi không có tội.
    Những người tù cùng hô theo "chúng tôi không có tội". Nhận thấy ảnh hưởng của anh Ba Chân với các bị cáo khác quá lớn, chánh án ra lệnh cách ly anh. Hai tên cảnh sát kéo anh ra khỏi cửa. Anh vùng ra, chạy vào với các bạn. Những người tù quây lấy anh, bảo vệ anh.- Đúng giây phút đó - út Phương kể  - Em xô lại, bám cánh tay anh Em nói nhanh với anh: "Em ở chung phòng giam với chị Mỹ Lê. Cháu gái mới sinh khỏe". Anh ngước nhìn em, trong đôi mắt anh ánh lên tia sáng sung sướng, hạnh phúc. út Phương không kể về mình, về lần thẩm vấn các bị cáo khác. Cô chỉ nghĩ đến chị Mỹ Lê, cố hết sức mình để an ủi chị. Chị thiệt thòi hơn cô nhiều. Cô chỉ có một thân, một mình nên tòa có kêu án cô 15 năm, 20 năm hoặc tù chung thân, cô vẫn chịu đựng nổi. Chị Mỹ Lê cũng ở tù như cô nhưng mọi điều bất hạnh đều rình rập quanh chị. Liệu chị có sống nổi không? Bệnh tình chị ngày một nặng, chị lết đi không nổi, mỗi bữa dù đã cố gắng hết sức cũng chưa nuốt nổi một bát cơm thì làm sao xua nổi thần chết luôn lởn vởn quanh mình? Nếu chị vĩnh biệt cõi đời này, ai sẽ nuôi hai đứa con cho chị? Chị có hai con nhưng chị sống chung với bé Cánh, bé Tranh được mấy ngày. Nằm trên giường, đôi lúc chị Mỹ Lê thờ thẫn như người mất hồn vì chị đang thả hồn về Cần Thơ với con trai hay ở Sài Gòn với con gái, hoặc nghĩ tới số phận mình? Nếu út Phương rơi vào hoàn cảnh như chị thì sao? Cô sợ mình không đủ bản lĩnh, không có gan xa rời con vài ngày. Tình mẫu tử là thiêng liêng nhất. Con gà mẹ hiền lành con dám xù lông đánh trả diều hâu hung dữ để bảo vệ con mình thì chị Mỹ Lê luôn mơ ước đưa đôi bàn tay khẳng khiu để ấp ủ các con chị là lẽ đương nhiên. Không có sức mạnh hoặc quyến lực nào buộc người mẹ rời con ngoại trừ lý tưởng, lẽ sống mà người mẹ đã nguyện hiến dâng cả đời mình để thực hiện .
    Ngày thứ hai, út Phương đến tòa án ung dung, thư thái, tự tin. Cô không lo quan tòa xét xử mình ra sao, tuyên án minh bao nhiêu năm tù mà chỉ nghĩ đến gần anh Ba Chân. Chắc chắn, tòa sẽ kêu án tử hình cho anh Ba nên cô phải có được lời trối trăng của anh cho chị Mỹ Lê. Một viên quan tòa đã rĩ tai cô :
    - Tôi sẽ can thiệp để giảm tối đa mức án cho cô chỉ cần cô khai trước tòa một câu "Vì bị Việt cộng tuyên truyền dụ dỗ nên tôi đã lầm đường, lạc lối".
    Út Phương cười khẩy không trả lời. Sao tụi nó ngây thơ vấy. Dù có bị bẻ gãy hết răng, bị bắn ngay tại chỗ, cô cũng cùng các anh lên án tụi nó. Tòa gọi bị cáo Vương Thành:
    - Có phải tên khai sinh của anh là Trương Minh. Bạn bè gọi anh là Tư Thành đúng không? Anh đã học qua các trường tư thục Văn Lang, Thanh Thanh, Nguyễn Văn Khuê, Nguyễn Công Trứ?
    - Đúng.
    - Có phải anh bị dụ dỗ nên đi theo cộng sản?
    - Các ông chưa hỏi tôi bao nhiêu tuổi? Tôi sanh năm 1939. Ở tuổi 28, tôi biết việc tôi làm.
    - Tại sao anh đang đi học lại bỏ theo Việt cộng?
    - Nếu không đánh Mỹ xâm lược không thanh niên nào có thể học đến nơi đến chốn được.
    - Mày ngu thấy mồ . Người Mỹ sang đây đến cái giấy chùi đít ở đất nước này họ cũng chả dùng.
    - Các ông thấy tự hào vì Mỹ không tơ hào giấy chùi đít còn thanh niên yêu nước chúng tôi lại đau đớn vì Mỹ cướp đất nước mình.
    Khi bị thẩm vấn, út Phương cũng noi gương các anh ở phiên tòa này, cô và các đồng chí của cô đứng trước vành móng ngựa nhưng giành được vị trí quan tòa, còn Hội đồng xử án rơi vào thế bị cáo. Vì thế, trong thời gian tòa nghị án, út Phương được trò chuyện tự do với mấy anh. Anh Ba Chân tranh thủ thời gian trăng trối luôn:
    - Tụi nó sẽ kêu án tử hình anh. Em nói với chị Hai là anh không ân hận gì. Trong túi anh đang có ảnh cháu Cánh. Anh chưa gặp mặt con gái nhưng lúc nào trong tim ánh cũng có hình ảnh chị Hai và hai cháu. Anh đã giữ trọn lời giao ước đêm tân hôn với chị.
    Út Phương thông báo luôn:
    - Chị Hai mãn hạn tù đầu năm 1966. Chị không đặt tên con là Liên như anh dặn vì các má trong tù quyết nghị: “Nếu sanh con trai đặt tên là Vũ, con gái gọi là Tranh.” Chị gởi bé Tranh cho bác Sáu.
    - Chị ốm ra sao em?
    Út Phương muốn nói dối anh song lần này vì thương anh, vì không muốn chất thêm đau buồn cho anh, cô buộc phải nói đúng sự thật:
    - Chị bị suy nhược. Vì thương anh, nhớ hai cháu nên chị không ngủ, không ăn được.
    Anh Ba tha thiết nhờ út Phương:
    - Em chuyển lời anh khuyên chị ráng giữ gìn sức khỏe. Ngoài tình vợ chồng thắm thiết, anh và chị còn có tình đồng chí. Nếu thương anh, chị phải làm sao cho xứng đáng với anh.
    Út Phương cố nhập tâm không phải từng ý, từng câu mà là từng lời anh nói. Nếu sau phiên tòa, tụi nó không cho cô quay lại nhà thương Chợ Quán, cô sẽ ghi chép nguyên văn lời anh và tìm mọi cánh chuyển tới tay chị Mỹ Lê. Cô hỏi anh:
    - Anh bị giam ở đâu?
    - Ở khám Chí Hòa. Sáng qua ảnh gặp đồng chí Hoàng Như Thường. Anh Khương chỉ bò lết vì bị bại xụn. Sáng nay anh Trần Xuân Lê khuyên anh: Ráng đấu tranh không để tụi nó kêu án tử hình . Anh đã trả lời: Làm sao tránh nổi. Phải giữ khí tiết, anh à?
Anh Ba Chân vẫn kể. ở ngoài đời, anh vốn hiến lành, ít nói sao hôm nay anh nói nhiều quá mức bình thường. Út Phương thông cảm với anh. Chỉ một lát nữa thôi, anh sẽ lãnh án tử hình. Trước lúc ra đi, anh muốn gửi gắm tâm sự lại cho vợ con. Anh kể:
    - Anh ở Khu IĐ. Tù chính trị sống với nhau rất hòa thuận, vui vẻ.
    Út Phương mỉm cười chua chát. Đã là tù nhân, có ai lạ gì khu IĐ nằm dưới hầm sâu của khám Chí Hòa, khu dành riêng cho tù chống chào cờ, chống chế độ, chấp nhận chịu cùm chân suất 24 trên 24 giờ mỗi ngày. Anh Ba Chân định động viên vợ nên mới tô vẻ cuộc sống trong tù bằng những từ: hòa thuận, vui vẻ. Anh Ba tiếp tục kể:
    - Tụi anh học văn hóa. Xin được mẩu bút chì, tụi anh mài mảnh lon sữa bò làm dao gọt bút chì. Tư Thành khéo tay và kiên nhẫn mài thật bén dùng làm dao cạo râu. Anh đã được học trưởng Nguyễn Ái Quốc ở cứ nên được gọi là giáo sư, nhà lý luận. Anh phải soạn những bài giảng trong óc rồi nói lại cho anh em cùng nghe. Dùng hết bút chì, tụi anh lấy mảnh gốm viết trên nền xi măng để làm toán. Bọn giám ngục lờ đi vì tù học văn hóa không ảnh hưởng tới trật tự, an ninh của trại.
    Hội đồng xử án trở vào vị trí. Anh Ba Chân dặn các bạn:
    - Hãy hiên ngang ngẩng cao đầu. Không ủ rũ, không van xin gì cả.
Út Phương làm theo lời các anh. Khi tên đại tá Tý, nhân danh chánh án tòa án mặt trân tuyên đọc mức án (mà các đương sự không có quyền khiếu nại) cô có cảm giác lạnh buốt xương sống khi nghe tuyên bố.
    - Lê Chân tức Ba Cánh: Tử hình. Vương Thành tức Trương Minh, tức Tư Thành: Tử hình. Bản án có hiệu lực sau 24 giờ.
    Cô bình thản hơn khi nghe nhắc tới mình:
    - Nguyễn Thị Phương, tức út Phương: 18 năm tù giam.
    Chánh án ngừng lời. Những người tù ngang nhiên vỗ tay, cười ngạo nghễ ngỏ ý coi thường luật pháp. Cảnh sát ập vào dùng còng số tám khóa tay và áp giải những tù nam ra xe. Mấy anh quay lại mỉm cười, giơ đôi tay đang bị khóa vẫy chào ức Phương. Phương rất tỉnh táo. Cô không rõ vì sao tụi nó không khóa tay cô. Cô vẫy tay, nói to
    - Em hứa sê xứng đáng với các anh!
    Hai tên cảnh sát đã quen mặt, hất hàm ra lệnh cho cô ra xe bịt bùng. Không hiểu tụi nó trả cô về trại giam Tổng nha, tới khám Chí Hòa hay đầy ra Côn Đảo, Phú Quốc? Liệu cô có được quay trở lại nhà thương Chợ Quán không? Cô là tù nhân, tất cả đều lệ thuộc vào tụi nó. Cô không thể viện lý do cần thanh toán viện phí hay bỏ quên hành lý để đòi chúng làm theo ý định của mình. Tụi nó không bịt mắt cô. Cô nhận ra từng đường phố mà xe đã đi qua. A, tụi nó trả cô về nhà thương rồi. Nguồn vui sắp được gặp lại chị Mỹ Lê át hẳn cái án nặng nề vừa giáng xuống đầu cô. Cô ra khỏi xe, rảo bước gần như chạy. Hai tên cảnh sát bám theo cô, bàn giao cô lại cho tên cảnh sát đang túc trực tại nhà thương út Phương
   Thấy bóng Mỹ Lê. Tất cả mọi dự định phải báo tin từ từ, cần rào đón trước khi thông báo về anh cho chị đều đổ sụp hết. Út Phương chạy ào tới ôm lấy chị Mỹ Lê, nói trong tiếng nức nở: "Chị ơi?". Thấy tên cảnh sát đứng phía sau mình, út Phương cố ý nói thật to cái điều cô không hề eo ý định đề cập tới: "Chị ơi? Em khổ quá? Em bị tụi nó kêu án 18 năm tù rồi". Bây giờ thì cô có quyền khóc, khóc thật to để kéo dài giây phút cần chia buồn với chị Mỹ Lê. Đoán ra ngay lý do những giọt nước mắt ngụy trang của út Phương, chị kéo đầu út Phương gục vào vai mình, nhẹ nhàng vuốt tóc cô. Khi tên cảnh sát vừa ra khỏi phòng, út Phương ngồi thẳng dậy:
    - Chị Hai! Em đâu khóc vì em. Em thương anh Ba quá? Tụi nó kêu án tử hình anh rồi.
    Mỹ Lê ngồi gần như bất động, mắt mở trừng trừng, tay nắm chặt. Chị nghĩ đến tin dữ này ngay sau khi anh bị bắt, và đặc biệt từ phút tiễn út Phương tới phiên tòa, nhưng đến phút này điều đó mới trở thành sự thật. Chị nên làm gì bây giờ? Chị lắng nghe út Phương nhắc lại từng lời dặn dò của chồng. Anh yêu cầu chị "Nếu thương anh, chị phải làm sao xứng đáng với anh”. Đây là mệnh lệnh của vị chỉ huy, là nguyện vọng cuối cùng của người chồng đến với chị, chị phải thực hiện ra sao? Chị lăn lộn gào khóc ư? Chị chuẩn bị sẵn tấm khăn sô để tang anh sau khi anh bị điệu ra pháp trường cho phải đạo làm vợ ư? Không. Chị hiểu anh. Anh đâu cần bộc lộ tình cảm trên hình thức như vậy mà cần nội dung sâu lắng đọng lại trong lòng chị, soi từng việc làm, từng câu nói của chị. út Phương vẫn rĩ rả:
    - Chị Hai! Ra trước tòa, anh Ba mặc bộ đồ bà ba trắng. Không rõ vì sao anh từ chối không mặc bộ màu đen. Có lẽ anh muốn biểu lộ lòng trong trắng của mình. Tòa tuyên bố không cho bị cáo có quyền chống án và bản án sẽ có hiệu lực sau 24 giờ.
Logged

Nếu có 1 ước muốn trở thành sự thật
Tôi chỉ muốn trở thành 1 người lính đảo
VoMinhGiang
Thành viên
*
Bài viết: 91


Sống trên đời sống cần có một tấm lòng.


« Trả lời #62 vào lúc: 09 Tháng Sáu, 2010, 06:17:49 pm »

    Mỹ Lê lẩm nhẩm tính một cách thụ động. Như vậy anh chỉ còn ở trên cõi đời này chưa đến 23 giờ nữa (kể từ lúc tuyên án). Chị sắp trở thành góa phụ ở tuổi 26 và hai đứa con ba tuổi, hai tuổi của chị sẽ mồ côi cha. Thảm thương quá Có bước chân rậm nịch ngoài cửa phòng. Tên Nguyễn Bé cười nham hiểm:
    - Chào bà chị. Thằng em này tới chia buồn và chia vui với bà chị.
    - …
    - Tụi tôi đâu có lạ về những lần trò chuyện giữa cô út Phương và chị. Chúng tôi dùng út Phương để chị được trực tiếp nghe bản án tử hình của chống chị. Đó là tin buồn với chị. Còn tin vui? Nguyễn Bé này xin lấy danh dự thề với chị lâ sẽ cứu được anh thoát chết chỉ với một điều kiện: Chị làm đơn xin tổng thống ân xá cho anh. Giấy đây, bút đây chị viết đi
    Út Phương can thiệp ngay:
    - Chị đừng viết. Chúng nó lừa đấy!
    Tên chỉ huy cảnh sát nghiêm giọng:
    - Không việc gì tới mày. Tụi bay! Đưa con nhỏ ra xe.
    Hắn quay về hướng Mỹ Lê:
    - Ba em chết rồi. Thằng em này thề trước vong hồn ông già là sẽ làm hết sức mình để anh Ba Chân được giảm án còn 20 năm tù.
    Mỹ Lê thoáng phân van. Cô chưa nhận lời ngay mà tìm cách hoãn binh:
    - Ông để tôi suy nghĩ đã.
    - Tùy chị. Chị nhớ là bản án sẽ được thi hành 24 giờ sau khi tuyên án. Chào chị.
    Còn lại một mình trong phòng, Mỹ Lê đưa mắt nhìn chiếc bút và mấy tờ giấy trắng. Thì ra tụi chúng nó đã nắn gân chị, thử sức chịu đựng của chị. Chị không ảo tưởng vào lời thề của tên Nguyễn Bé. Thiếu gì những tên ác ôn là lũ con bất hiếu đã từng hãnh diện tuyên bế "Tao căm thù Việt cộng. ông già tao ủng hộ Việt cộng, tự tay tao sẽ găm viên đạn trúng tim ông". Vấn đề đặt ra là chị có nên làm đơn xin ân xá hoặc xin giảm án cho chồng không? Chị đang như người sắp chết đuối, nếu chị có được cái phao bơi, cây chuối, tàu đu đủ thậm chí chỉ là một cọng rơm để clú giành giật lấy cuộc sống cho chồng sao chị lại bỏ qua? Chị phải cứu anh dù chỉ còn một phần trăm, một phần nghìn hoặc một phần vạn của tia hy vọng. Chị cố làm hết sức mình để tương lai, khi bé Cánh, bé Tranh trưởng thành chúng sẽ không trách chị khi thắp hương trước bàn thờ ba của chúng. Chị sẽ viết đơn: Viết như thế nào nhỉ. Tất nhiên phải có địa chỉ người nhận, người ấy phải là người có quyền cao nhất của chế độ này. Chị sẽ phải ghi: Kính gởi ngài Nguyễn Văn Thiệu, Tổng thống nước Việt Nam Cộng hòa. Tôi là Dương Mỹ Lê, giáo viên trường tư thục Nguyễn Hoàng làm đơn này cầu xin ngài tha cho chồng tôi là Lê Chân...  ôi, nhục nhã quá chừng. Chị chưa cầm bút viết nháp nhưng những gì hiện lê n trong tâm trí chị khiến chị tự hổ thẹn. Anh khuyên chị hãy xứng đáng với anh, tại sao chị lại làm như vậy? Đã bao lần chị viết trong truyền đơn hoặc hô khẩu hiệu "Đả đảo tên Việt gian bán nước Nguyễn Văn Thiệu" giờ đây chị lại hạ bút công nhận cương vị tống thống của hắn là vì sao? Chị mơ hồ tới mức quên cả phân biệt thế nào là Ta - Bạn - Thù ư? Đã thế chị lại đỉnh mở đầu bằng lời ghi: "Tống thống nước Việt Nam Cộng hòa". Ngay từ những năm đi học, chị đã từng nghe nói, từng trông thấy bản đồ đất liền Việt Nam có hình chữ S, chạy dài suốt từ Mục Nam Quan tời mũi Cà Mau, sao chị lại làm ngược lại? Chị nhớ tới ba. Ba đang sống và làm việc tại Hà Nội, thủ đô nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, đâu phải đi sứ sang nước khác? Ba rời Gò Công tập kết ra miền Bắc vì muốn có ngày tổng tuyển cử thống nhất nước nhà. Má, Mỹ Hòa rồi vợ chồng chị vào tù đều vì lẽ sống, vì mục tiêu đánh Mỹ, diệt ngụy nên chị phải chấp nhận hy sinh, tổn thất, mất mát. Ba Chân ơi? Anh nhắc tới giao ước của vợ chồng ta vào đêm tân hôn với em, em nhớ lắm. Không đời nào em phản bội lại lý tưởng của chúng mình. Anh thông cảm với em! Trọng một phút bồng bột, em đã để tình cảm lấn át lý trí. Anh! Anh đã nói gì với các đồng chí của anh trước khi nghe tòa tuyên án? Em nhớ rồi , nhớ rất rõ từng ý, từng lời của anh. Anh và các bạn anh vỗ tay, cười ngạo nghễ, coi khinh hội đồng xử án, sao em lại định níu kéo, định dựa vào cái cọng rơm đề cứu mình thoát chết đuối? Các con ơi, các con hãy thông cảm với má. Vì lẽ sống của người dần Việt Nam, vì danh dự của các con, của gia đình họ Dương, má không thể hạ mình chịu nhục được. Ba con là bạn trăm năm, ý hợp tâm đầu của má vậy mà má chỉ được sống với ba con chưa tròn bốn năm, tính từ ngày cưới cho đến hôm nay. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó, ba các con đã ngồi tù mất một năm, tám tháng, sáu ngày và má cũng đã hai lần nằm trong xà lim của Mỹ, ngụy. Hơn ai hết má muốn giằng lại hạnh phúc cho cả cuộc đời mình. Lớn lên, các con phải chịu đựng nỗi đau của những đứa trẻ mồ côi cha, thiếu thốn tình cảm của ba. Má sẽ gắng hết sức mình bù đắp thiệt thòi cho các con. Với má, sau 22 giờ nữa, má sẽ trở thành góa phụ, sẽ mất chồng. Không ai có thể thay thế ba các con lấp được phần nào tâm hồn trống trải của má. Má sẽ thực hiện đúng di chúc của ba các con: "Hãy hiên ngang ngẩng cao đầu, không ủ rũ, không van xin gì cả".
Sáng hôm sau ngày 08 tháng 06 năm 1967, tên Nguyễn Bé mặc sắc phục cảnh sát là thẳng nếp vào phòng chị với nét mặt hố hởi, nụ cười tươi rói:
    - Chào bà chị. Đêm qua thằng em này đã "phôn" tới bốn vị thượng cấp trình bày về hoàn cảnh đáng thương của chị. Em ái ngại quá? Nào, chị trao đơn cho em. Em bảo đảm là chị sẽ nhận được trả lời ngay trong ngày hôm nay: anh được giảm án, chị ra khỏi trại giam.
    Thấy Mỹ Lê im lặng nhìn hắn bằng ánh mắt căm hờn, tên trùm cảnh sát chột dạ. Hắn cầm tập giấy đếm từng tờ rồi ném tất cả vào mặt Mỹ Lê:
    - Đù má? Mày chưa viết chữ nào à?
    Mỹ Lê lắc đầu. Hắn giang rộng đôi tay với vẻ bất lực:
    - Nói thiệt, tao đang ước muốn có lưỡi dao bén nhón để đâm vào ngực mày, moi trái tim mày ra thử xem có máu chảy không? Tao không hiểu nổi tình chồng, nghĩa vợ của những tên Việt cộng chúng mày giá băng như thế nào. Tao làm ơn, làm phúc cho mày. Tao cứu sống một mạng người, lo cho hai đứa đoàn tụ chỉ với một yêu cầu cỏn con: viết một lá đơn xin ân xá, sao mày không viết?
    Tên Nguyễn Bé chộp lấy ngực chị, kéo chị đứng lên, mặt đôi bên giáp nhau. Nó gầm lên:
    - Tại sao không viết? Mày không còn là con người. Mày là khúc gỗ, là cục đá, là loại vô tri, vô giác.
    Tên trùm cảnh sát buông áo chị. Chị đứng không nỗi, ngã khuỵu xuống sàn nhà, đôi đầu gối buốt thấu tận tim, tận óc song chị không xuýt xoà, chị im lặng. Sau một đêm thức trắng, chị mệt rã rời. Chị thừa sức tranh cãi với kẻ tự nhận là có tình người này. Rất có thể hắn đã gọi điện thoại tới bốn vị thượng cấp nhưng đâu phải vì vợ chồng chị mà chính vì hắn muốn tâng công, khoe khoang vì đã thắng đòn tâm lý chiến tuyệt vời: thu phục được trùm Việt cộng Dương Mỹ Lê.
    Đêm qua, một mình, một bóng, chị quên hẳn đôi đầu gối sưng vù, đầu đau buốt vì chị nghĩ đến anh. Anh mặc bộ bà ba trắng, bình thản đi giữa hai hàng lưỡi lê tuốt trần. Tụi nó trói anh vào cọc, dùng khăn bịt mắt anh. Anh giật khán để nhìn bầu trời của Tổ quốc, nhìn đồng bào anh. Tụi nó không treo cổ anh, không dùng tên đao phủ đưa ngang cổ anh lưỡi gươm hay làm động tác bấm nút để lưỡi dao của máy chém cắm phập xuống mà điếu động tới 12 tay thiện xạ, hướng cả 12 nòng khẩu súng trường vào ngực anh để đồng loạt nhả đạn. Anh quần mắt nhìn vào những kẻ sắp đem cái chết cho anh, miệng hô to: "Việt Nam độc lập muôn năm". Súng nổ, anh chới với vắn cố hô dông dạc "Hố Chủ tịch muôn năm". Anh gục xuống đầu ngoẹo sang bên, dưới chân ngập máu của chính mình.
    Trời! Nếu tụi chúng cho phép chị hoặc bắt buộc chị chứng kiến giây  phút hành hình người tử tù Vương Thành trước rồi dẫn chồng chị ra pháp trường sau thì sao? Nếu một tên nào đó là quan thầy của Nguyễn Bé mang hàm bộ trưởng hoặc đích thần viên đại sứ Mỹ tuyên bố công khai là sẽ thả chồng chị ngay tức khắc nếu chị nói vào loa phát thanh lời cầu xin tổng thống Nguyễn Văn Thiệu u ân xá cho cho chồng chị thì sao? Không  Không đời nảo chị ảo tưởng vào kẻ thù.
    Trong đêm tối, lẽ ra tâm trạng chị phải xốn xang, rối bời vì mỗi phút qua đi, giờ hành hình anh lại tới gần song chị cảm thấy mình bình thản, tỉnh táo, nhớ lại gương người xưa. Chị không dám so sánh mình với bà Trưng Trắc nhưng nỗi đau của bà khi nghe tin chồng là ông Thi Sách bị Tô Định giết chết chắc khôngthể lớn hơn nỗi đau của chị lúc này. Chị cũng không nhớ mình đã đọc ở đâu hoặc nghe ba hay các chú kể về cái chết oanh liệt của đô đốc Bùi Thị Xuân, người đã cùng chồng phò tá Nguyễn Huệ đại phá 50 vạn quân Thanh ở Ngọc Hồi, ở gò Đống Đa, tại thành Thăng Long vào tết Kỷ Dậu (1789).
    Nguyễn Phúc Ánh tức chúa Nguyễn sau khi đánh tan quân Tầy Sơn đã bắt được đô đốc Bùi Thị Xuân, tướng quân Trần Quang Diệu – chồng bà - và cô con gái của hai người vừa tròn 15 tuổi. Vua Gia Long đích thân phê chuẩn ghép gia đình bà chịu hình phạt dã man nhất thời bảy giờ: xử tội lăng trì cho voi xé xác.
Ba cái cũi lim được khiêng ra. Con voi đực già có đôi ngà nhọn hoắt, bị buộc nhịn khát suốt ngày hôm trước đã uống tới hai thùng rượu mạnh. Mắt nó long sòng sọc, hung dữ. Nó xông vào tướng quần Trần Quang Diệu xuyên đôi ngà vào người ông, hất ông lên cao. Cô con gái 15 tuổi hướng về phía đô đốc, khẩn thiết: "Cứu con với mẹ ơi". Đô đốc Bùi Thị Xuân bình tĩnh ngọt ngào khuyên con: "Hãy cùng chết với cha mẹ hơn sống chung với lũ người kia. Con nhà tướng không được khiếp sợ".
    Đến lượt bà Bùi Thị Xuân. Bà đã chết hai lần khi chính mắt bà trông thấy con voi xé xác chồng bà, con bà như thế nào. Bà không run sợ. Khi tên quản tượng ra lệnh buộc bà quỳ xuống khiến cho voi mến, voi gượng nhẹ hơn, bà không chịu. Bà ngẩng cao đầu, hiên ngang tiến thẳng đến đầu voi. Voi dữ buộc phải thối lui. Phải chăng nó đã nhận ra chủ cũ hay nó cũng chờn chặn trước dũng khí, oai phong của bà? Chịu sự thúc ép của chủ mới, voi dữ dùng vòi quấn ngang người bà , tung bà lên cao rồi giơ đôi ngà nhọn xuyên vào cơ thể bà.
    Đô đốc Bùi Thị Xuân thật là can trường. Là con cháu của vị nữ tướng lừng danh trong sử sách Việt Nam, chị khó có thể sánh với bà nhưng thề sẽ noi gương bà. Tên Nguyễn Bé đứng trước mặt chị đâu có đầy đủ uy quyền như vua Gia Long đứng trước nữ tướng Bùi Thị Xuân. Và chị chưa lâm vào cảnh thấy voi giày chồng mình, con gái mình như bà tướng.
    Tên Nguyễn Bé gườm gườm như muốn ăn tươi, nuốt sống chị. Khi nhận ra rằng khó có thể uy hiếp đối phương bằng những lời quát nạt, dọa dẫm, tên Nguyễn Bé lại đấu dịu:
    - Chị Hai! Thằng em của chị rất có thế lực. Em bực vì chị không thấu hiểu lòng tốt của em. Em muốn cứu một mạng người thoát chết để có phúc đức cho con cháu sau này.
    Chao ôi, thật là tởm lợm khi buộc phải nghe cái kiểu "miệng nam mô bụng một bồ dao găm" của kẻ nham hiểm mang hình người dạ thú? Vài phút trước, nó dọa nạt chị, quăng tấm thân tiều tụy của chị xuống sàn nhà, miệng văng ra mọi lời tục tĩu thế mà giờ đây lại giở giọng ngọt sớt khiến chị càng nghe càng muốn ói mửa. Tên Nguyễn Bé chỉ vào đồng hồ:
    - Bây giờ là 9 giờ 17 phút. Bản án chồng chị sẽ có đầy đủ hiệu lực trong vòng chưa tới 7 giờ nữa. Chị tính sao? Chả lẽ chị nỡ để chồng chị chết' Sao chị cứng nhắc vầy. Chị viết quấy quá ít chữ cho em. Hay là em viết, chị ký tên?
    Mỹ Lê không thể làm thinh để nghe nó léo nhéo mải bên tai mình nên phải lên tiếng:
    - Ông Bé. Ông đã bố trí nghe lén nên ông đã có trong tay băng ghi âm những gì cô út Phương kể cho tôi nghe về phiên tòa. Chồng tôi dặn các bạn anh: "Hãy ngẩng cao đầu, không van xin, không ủ rũ" và khuyên tôi hãy xứng đáng với anh. Tôi luôn nguyện làm theo ý anh. ông đừng nói thêm với tôi điều gì nữa, tôi không nghe đâu. Vô ích thôi.
    Bị từ chối thẳng thừng, tên Nguyễn Bé chưng hửng. Hắn không giữ được bình tĩnh nữa đã đứng bật dậy, dang thẳng cánh tát trái, tát phải vào mặt chị.
    - Đù má? Mày muốn chết ông cho chết.
    Hắn mở cửa ra lệnh cho tên lính gác:
    - Tống cổ con này về xà lim cho tao.
    Mỹ Lê cười thầm trong bụng. Con cú đội lốt công đã tự trút bỏ bộ mặt nạ đi rồi. Chị hướng về phía nó:
    - Cám ơn cậu Bé! Chị hiểu đầy đủ lòng tốt của cậu qua hai cái tát vừa nhận được và cái mệnh lệnh rất có thiện chí của cậu.
    Tên Nguyễn Bé vùng vằng nện gót giày rời khỏi nhà thương Ngay tức khắc, Mỹ Lê bị áp giải về trại giam. Tất cả mọi người tù nữ lo bồng chị trên tay, xoa bóp cho chị, đồng thanh chất vấn tụi giám thị về sức khỏe của chị. Chị không trò chuyện với ai vì quá mệt mỏi không phải chỉ bệnh tật mà do phải đấu mưu, đấu trí với tên trưởng ban thẩm vấn của Tổng nha cảnh sát Nguyễn Bé và do suốt gần 40 giờ qua chị chưa hề chợp mắt, chỉ nghĩ tới chồng con. Chị biết tâm sự cùng ai ở trại giam nảy. Đã đành là hầu hết những chị em ở đây đều đáng tin cậy nhưng chị đâu dám thồ lộ nỗi lòng mình. Vào những ngày này, ban lãnh đạo nhà tù quyết định mở cuộc vận động trả lại tự do cho chị. Địch không có chứng cớ gì buộc tội chị. Khi bị bắt, chị không mang theo bất cứ tài liệu nào có dính líu tới Việt cộng trong người. Vào tù, trong mọi lần đi cung, chị luôn kêu oan:
    - Tôi ốm yếu, tỏi sợ tù đầy. Tôi đang đi mua thuốc chữa bịnh thì bị bắt. Tôi không còn hoạt động cách mạng nữa.
    Rất may là trong thời điểm này tên Nguyễn Bé không có mặt ở Sài Gòn. Trong hồ sơ của hắn, hắn chỉ ghi: "Tên Dương Mỹ Lê tức Tư Liên học sinh trường tư thục Văn Lang, giáo viên trường tư thục nguyễn Hoàng bi bắt ngày 10 tháng 3 năm 1965, bị tòa kêu án một năm tù giam vì tham gia phong trào học sinh, sinh viên chống chính phủ . Theo lời khai của Sáu Hình thì Dương Mỹ Lê là đảng viên, là ủy viên ban chấp hành thành đoàn thanh niên lao động. Đương sự sinh con gái trong tù. Ra tù được một buổi, đương sự trốn thoát. Dương Mỹ Lê bị bắt lại do cảnh sát nhận diện được y...".
    Trong hồ sơ của chị, tên Nguyễn Bé không ghi một chữ nào về mối liên quan giữa chị và tử tù Lê Chân. Hắn định dùng chị là bước thang để tiến thân, đồng thời thử nghiệm một phương pháp lung lạc tinh thần Việt cộng.
    Mỹ Lê bị ốm liệt trong xà lim. Chị không chỉ không đi lại mà giờ đây không tự ngồi dậy nổi. Cái chết của chồng (vì chị luôn nghĩ là bản án có hiệu lực sau 24 giờ) đã làm sức khỏe của chị suy sụp. Các bác sĩ của nhà tù đều chứng nhận là chị khó còn hy vọng cứu sống. Để một người không có chứng cứ phạm tội chết trong tù là cái cớ để các tù nhân làm reo, nổi loạn và sẽ châm ngòi nổ cho thùng thuốc súng - là phong trào học sinh, sinh viên - đang âm ỷ chờ cơ hội bùng nổ. Hội đồng xét xử quyết định trả tự do cho con mụ Tư ốm với lệnh trục xuất chị về vùng nông thôn Cần Thơ, vĩnh viễn không được đặt chân lên đất Sài Gòn nữa.
Logged

Nếu có 1 ước muốn trở thành sự thật
Tôi chỉ muốn trở thành 1 người lính đảo
VoMinhGiang
Thành viên
*
Bài viết: 91


Sống trên đời sống cần có một tấm lòng.


« Trả lời #63 vào lúc: 09 Tháng Sáu, 2010, 06:18:16 pm »

Để cắt những cái đuôi bám theo mình, Mỹ Lê không dừng lại ở Sài Gòn mà ngoan ngoãn thi hành lệnh trục xuất chị về quê anh, một vùng nông thôn cách thị xã Cần Thơ gần 60 kilômét rối đang đêm tối quay về nhà cô Năm. Bé Cánh đã hơn ba tuổi. Bé nhận má, quấn quít bên má, líu lô kề cho má nghe đủ mọi chuyện. Bé thoáng buồn vì Nội không cho bé ở chơi với má và má không thể bồng bé, đặt bé vào lòng mình. Chị bày cho bé lấy cái ghế, bảo bé trèo lên ghế và chị ráng sức kéo bé lên giường. Bé nằm im nghe má kể chuyện cồ tích. Má có nhiều chuyện lạ hơn và má kể hay hơn Nội. Ngày nào cậu cũng lân la bên má. Không phải trông cháu, cô Năm lo chạy ngược chạy xuôi tìm thầy lang, thuốc lạ để cứu cháu dâu. Cô đón thầy lang về. Chả hiểu thầy có bài thuốc gia truyền hay do kinh nghiệm lâu năm trong nghề, thầy cho Mỹ Lê uống ba thang thuốc nam rồi dùng loại lá gì đó giã nhỏ, đắp lên đầu gối chị khiến cho hai cái u sưng tấy ở đầu gối bị xẹp dần rồi biến mất. Mỹ Lê đã co duỗi được đôi chân. Cô Năm thuê thợ mộc đóng cho cháu đôi nạng. Hàng ngày, bà già hơn 50 tuổi đỡ cho cô gái 26 tuổi tập đi. Từ khi bệnh thuyên giảm, Mỹ Lê ăn được nên sức khỏe hồi phục rất nhanh. Chị bỏ nạng, chống gây đi lại quanh nhà. Bé Cánh luôn đi cạnh má. Bé không hề nghĩ rằng mình làm quấn chân má mà bé tin vào những bước chạy lon xon của bé đã giúp má khỏi té. Hồi này, Nội đã cho bé ngủ chung với má. Má xoa đầu bé, hát cho bé ngủ. Có lần bé sờ lên mặt má. Bé la to mét (mách) Nội:
    - Thưa Nội! Má của Cánh khóc nhè.
    Cô Năm ừ ào:
    - Má con hư lắm. Mai Nội sẽ đánh đòn để má con thôi khóc nhè con ưng không?
    - Con chịu.
    Cô Năm đoán tâm trạng cháu dâu theo cách nghĩ của cô. Cô nuôi cho nó trơn lông, đỏ da, hết bịnh là nó sẽ bỏ cô dông tuốt lên Sài Gòn. Nó nhớ con nó, nó khóc vì hai má con sắp phải chia tay nhau. Cô Năm đâu thấu hiểu nỗi lòng của chị. Chị phải giấu cô Năm, giấu họ hàng nhà chồng về bản án tử hình của anh. Chị không rõ xác anh chôn ở đâu, cúng giỗ anh ngày nào? Chị hứa nhưng trước mắt chị không thể thay anh săn sóc bé Cánh. Chị phải trở lại Sài Gòn hoạt động mặc cho tên Nguyễn Bé tung cả mạng lưới mật vụ bủa vây, truy lùng chị. Thằng trưởng ban thẩm vấn của Tồng nha cảnh sát cùng tình nhân từ Mỹ về đã luôn miệng cằn nhằn xuýt:
     - Thả hổ về rừng rồi mấy cha nội. Mười Dương là bí danh mới của con nhỏ. Nó tên chính là Dương Mỹ Lê, vợ thằng cha Lê Chân mới bị tòa án quân sự kêu án tử hình. Mấy ông nhầm to rồi. Con nhỏ đó phải lãnh mức án ít nhất 15 năm tù ngồi.
    Không chậm trễ, tên Nguyễn Bé cử thám tử về vùng nông thôn Cần Thơ, nơi Mỹ Lê khai chị sẽ cư ngụ khi bị trục xuất. Bị vồ hụt mồi, tên trùm cảnh sát càng tức tối:
    - Tôi cược mười ăn một với mấy ông là con nhỏ sẽ không chết. Nó sẽ trở lại Sài Gòn buộc chúng ta trả giá đắt vì đã giết chồng nó.
    Mỹ Lê cũng hiểu những gì đang rình rập chị ở Sài Gòn. Chị không còn giấy tờ tùy thân kể cả loại giấy căn cước giả. Chị bàn với cô Năm:
    - Thưa cô con lành bịnh rồi. Con tính trở lại Sài Gòn nhưng không còn giấy căn cước. Cô có cách gì kiếm cho con giấy căn cước rồng xanh thứ thiệt không?
    Cô bàn:
    - Mày lấy đại căn cước của đứa con gái nào trạc tuổi mày là chị hoặc em họ chúng mày rồi thay ảnh vào.
    - Làm như vậy không ổn đâu cô Năm. Nếu cảnh sát xét thấy con mang căn cước người khác, tụi nó bắt con ngay.
    - Hay là như vầy: Em chồng con nhỏ Chí là cảnh sát. Nó làm tờ khai là mất căn cước. Khi nào cấp căn cước mới, nó dán hình con vào. Con phải chờ bao lâu?
    - Từ năm tới bảy ngày.
    - Cô Năm nói với Chí xin giùm con giấy phép đi Bà Rịa.
    Mỹ Lê đã tính toán tới từng chi tiết phương án trở lại địa bàn cũ của mình. Chị không thể tự do đi lại trên đất Sài Gòn như những năm trước đây nữa. Sau hai lần, với hơn năm sống trong tù, có biết bao tên cảnh sát đã quen mặt chị. Với chính quyền ngụy, chị là phần tử bất hảo, tên họ đã ghi trong sổ đen. Đã thế, chị lại còn là vợ của Chính trị viên ban chỉ huy quân sự thật đoàn, người mới bị xử bắn. Chị phải làm sao cắt mọi "cái đuôi" có thể dò tìm ra dấu vềt của chị. Chị không thể dùng chỉtn cước của Lê Thị Chí với nghề nghiệp là làm ruộng lên sinh sống ở Sài Gòn, khi mà từ hình thức bên ngoài cách ăn mặc, trò chuyện, chị không có chút dáng dấp gì của người quen lam lũ chân lấm, tay bùn. Chị nhớ đến một gia đình cơ sở ở Bà Rịa khi má chị đang phụ trách lớp tấp huấn ở chùa Thị Vải. Chị dùng căn cước của Lê Thí Chí để đến Bà Rịa. Từ Bà Rịa, chị lại chạy cho mình tấm căn cước rồng xanh với tên mới là Huỳnh Thị Mai làm nghề dạy học. Nhờ những giấy tờ thứ thiệt, Mỹ Lê lọt vào Sài Gòn dễ dàng. Chị có hàng trăm địa chỉ của bạn bè thân thuộc là học sinh, sính viên cùng các cơ sở của má nhưng chị chọn nhà dì Bẩy để "hạ cánh". Nhà dì Bẩy ở vào địa thế khá thuận lợi có tới bốn lối vào nhà khác nhau. Mỹ Lê xuống xích lô từ xa, đi bộ qua trước cửa nhà dì bằng lối đi thứ nhất. Khỏng có gì khả nghi cả. Mỹ Lê vòng theo hướng khác vào nhà dì. Tư Linh ra mở cửa. Tróng thấy chị ruột, cậu bế bổng chị lên quay một vòng. Chị cười. Cậu em ruột của chị vốn trầm tinh, điềm đạm, sao hôm nay quá sôi nổi khác thường như vậy? Lý do thật đơn giản: Tư Linh rất nhớ chị. Cậu chưa biết chị ra tù nên cậu sung sướng tới nghẹn ngào khi chị cậu đột ngọt xuất hiện. Tư Linh kém chị chín tuổi. Cậu càng trưởng thành càng giống ba từ khổ người tới khuôn mặt, nụ cười, dáng đi, ánh mắt. Cậu to, cao và có lẽ trọng lượng cơ thể phải nặng gấp đôi chị ruột.Tư Linh đã 17 tuổi với đầy đủ vẻ ưu việt của thanh niên tri thức: cường tráng, đẹp trai, con nhà khá giả. Cậu hỏi chị:
    - Chị Hai ra tù hồi nào vậy?
    - Để thủng thẳng chị kể chuyện cho cả nhà cùng nghe. Em có gặp má không? Bé Tranh thế nào?
    - Con nhỏ dễ thương lắm, cười luôn miệng, chạy rất nhanh. Nó chưa nói sõi chỉ gọi được ba, má, bà. Em dạy mãi cháu mới gọi em là cậu. Má vẫn ở cùng Mười Tuân. Chị Hai? Ba Vĩ và út Hiếu vẫn chưa lên Sài Gòn. Thằng Ba Vĩ mê đội du kích nên nó ham công tác quá trời. Nó sắp được kết nạp vào đoàn rồi. Chả rõ nó xui dại, xui khôn thế nào mà út Hiếu cũng thích làm theo anh Ba Vĩ . Thằng Bẩy Thiện được gởi ở nhà chú Mười Thơ. Thằng nhỏ học giỏi không thua kém học sinh Sài Gòn. Nó diện kẻng lắm. Nếu chị muốn gặp nó, em sẽ đón nó về đây. Chị Hai nè? Em đến tuổi đi quân dịch rồi. Mấy chú, mấy anh nhủ em cứ đi lính rồi xin thi vào trường sĩ quan Thủ Đức, em không chịu. Đi lính ngụy, cầm súng địch bắn vào bà con mình, kỳ quá.
    Tư Linh rất hợp với chị Mỹ Lê. Cậu quấn quít với chị, nói luôn miệng. Cậu tin má nhưng má thường "quân sự", má áp đặt ý kiến buộc cậu chấp hành và cậu không có thói quen cưỡng lời má. Với chị Hai, cậu dễ trò chuyện cởi mở hơn. Cậu có thể bộc lộ ý kiến của mình để chị khuyên nhủ hoặc bắt bẻ . Mỹ Lê xa em đã gần hai năm rồi nên chi không ngờ là Tư Linh lớn nhanh quá và điều làm chị đặc biệt quan tâm là nó sắp đến tuổi đi quân dịch rồi. Riêng chị, chị không đồng ý để Tư Linh đi lính ngụy. Dù cậu là đoàn viên, đảng viên, có trái tim cộng sản trong lồng ngực nhưng với bộ quần áo rằn ri loang lổ của lính dù và những bông mai trên ve áo khiến chị đau lòng nhớ tới cái chết của chồng chị và những kẻ đã hành hạ, tra tần chị sống đi, chết lại trong tù. Chị an ủi em :
    - Nếu gặp má, chị sẽ bàn với má về chuyện gia đinh ta. Dì Bẩy, dượng Bẩy và các em đi đâu?
    - Đi ăn giỗ bên nhà bà con phía dượng Bẩy. Em tình nguyện ở nhà trông nhà.
    Có tiếng chuông gọi cổng. Dượng Bẩy, dì Bẩy và mấy đứa em rất vui vì bất ngờ gặp chị Mỹ Lê. Ngoài Tư Linh, Mỹ Lê là người họ Dương đã gắn bó với nhà dì Bẩy khăng khít nhất. Dì Bẩy hướng về phía con gái:
    - Mày lấy xe gắn máy đi đón bác Sáu tới đây ngay.
    - Dạ.
    - Nè! Mày chớ có bô bô cái miệng khoe gặp Mỹ Lê nghe. Mày chỉ được thì thầm, nói riêng cho bác Sáu thôi.
    - Dạ !
    Má Sáu Hoàn hối hả tới gặp con gái. Với má, Mỹ Lê có thể dốc bầu tâm sự, kể hết mọi chuyện về cái chết của chồng mình. Chị yêu cầu:
    - Má? Con không rõ căn cứ địa rời về đâu rồi, má khuyên con nên như thế nào? Nếu con vô cứ, mấy chú sẽ giữ con, không cho con trở lại Sài Gòn. Con chưa muốn ở trong cứ vì không chịu thua chúng. Con phải xứng đáng với Mỹ Hòa. Con cần trả thù cho chồng con.
    Má Sáu Hoàn tán thành ý kiến của con gái. Má rỉ tai con :
    - Có chuyện gì hệ trọng lắm sắp xảy ra trong năm 1968. Mấy anh thúc giục má chuyển vũ khí vào càng nhiều càng tốt. Má thương Ba Chân quá.
    - Cũng may là nhờ có út Phương, con biết được chuyện ba của bé Cánh, bé Tranh ở tòa án. Hai đứa nhỏ sẽ tự hào về ba của chúng.
    - Con tạm lánh về chỗ Năm Trăng, Xuân Hồng. Má sẽ vô cứ trình bày cụ thể về hoàn cảnh của con, xin ý kiến chỉ đạo về Tư Linh và yêu cầu điếu động Ba Vĩ lên Sài Gòn. Ba Vĩ thiệt là kỳ. Nó cứ tưởng chỉ ở Gò Công mới được chiến đấu, mới có tổ chức đoàn
    Mỹ Lê xin chỉ thị của má:
    - Trong thời gian chờ đợi chỉ thị trong cứ, con tính vô nhà dì Hai Tập sống chung với bé Tranh.
    Má Sáu Hoàn dễ dãi: Mày mới ở tù ra nên về nguyên tắc chưa được sinh hoạt ngay. Hai Tập đã có nhà riêng. Tạm thời con về sống chung với nó ít ngày. Má sẽ lo cho con chu đáo.
    Mười ngày sau, Mỹ Lê được điều động về cơ sở mới để hoạt động.


Hết tập 1


Logged

Nếu có 1 ước muốn trở thành sự thật
Tôi chỉ muốn trở thành 1 người lính đảo
VoMinhGiang
Thành viên
*
Bài viết: 91


Sống trên đời sống cần có một tấm lòng.


« Trả lời #64 vào lúc: 29 Tháng Sáu, 2010, 06:25:16 pm »

Tập 2

24
    Như thường lệ, Chánh văn phòng Dương Văn Đấu lướt qua các tờ báo hàng ngày trước khi chính thức làm việc. Ông thích đọc báo Quân đội nhân dân hơn báo Nhân dân vì lý do tờ báo quân sự đưa tin chiến thắng có những bài bình luận của ai đó ký tên là Chiến Binh khá sắc sảo. Hơn ai hết, ông nhớ chính xác số máy bay Mỹ bị bắn rơi, địa phương nào hạ Thần Sấm hoặc Con Ma của Không quân hay Hải quân Mỹ đúng số chẵn 500, 1000, 1500, 2000, 2500. Hôm nay, ngày 15 tháng 11 năm 1967, ông say sưa đọc tin chiến sự: "Sáng ngày 13 tháng 11 năm 1967, Nghệ An bắn rơi một máy bay Mỹ". Chưa cần nhìn con số đóng khung trang trọng ở trang nhất, ông đã nói đúng con số: 2530.
Tiếp đó, ông lướt sang tin chiến thắng miền Nam: "Bình Thuận - tập kích vị trí địch ở Bầu Ốc diệt gần 700 tên Mỹ - ngụy. Diệt gọn một tiều đoàn, một đại đội Mỹ. Phá hủy gần 50 xe tăng, xe bọc thép, bắn rơi ba máy bay".
    Xếp tờ báo sang một bên, ông nở nụ cười khoan khoái. Ông cầm bản "Tin tham khảo" do Việt Nam Thông tấn xã ấn hành. Bản tin tuyệt mật này chỉ lưu hành nội bộ, dành riêng cho cán bộ cao cấp, ông thường đọc vào buổi chiều sau giờ làm việc. Đây là thú vui và cũng là nhu cầu không thể thiếu được của những "Ông già" sống độc thân. Ông đã già rồi ư? Ở tuổi 49, tóc ông đã chớm bạc, ông phải thay kính lão từ số 1,5 lên số 2. Ông đã xa nhà hơn 13 năm, tính ra gần chẵn 5000 ngày rồi. Chả hiểu vợ và các con ông hiện sống và chiến đấu như thế nào? Ông rất thèm thư của gia đình. Đọc xong lá thư hai trang, bốn trang, rồi tới mươi trang của từng đứa con sao ông luôn cảm thấy thòm thèm. Cả vợ và các con Ông thường giấu Ông những chuyện rủi ro của gia đình. Nếu không nhờ nhà văn Trần Đình Vân thông báo, Ông đâu biết Dương Mỹ Hòa bị bắt và chị Y trong tác phẩm "Sống như anh" chính là con gái mình. Chỉ mãi khi Mỹ Lê ra tù, Ông mới được thông báo là nó sinh cháu ngoại thứ hai của ông trong tù. Một điều băn khoăn nữa của ông là ông không rõ vợ ông, các con ông đang làm công tác gì, hiện hoạt động trong lòng địch tại Sài Gòn hay ở căn cứ? Ông nhớ nhà da diết. Rất tiếc là ở Bộ Điện Than của ông không có công tác liên quan đến miền Nam nên ông khó có điều kiện để đi B ước gì ông được đi B ngắn. Ông đã gặp gỡ trao đổi với không dưới hai mươi đoàn cán bộ, nhà báo, nhà văn, các dũng sĩ... cuốc bộ vượt Trường Sơn. Ông tin rằng ông dư sức hành quân từ giới tuyến Vĩnh Linh tới Nam Bộ. Không hiểu sao ông không hề run sợ khi nghe tiếng máy bay gầm rú trên bầu trời Hà Nội, tiếng bom rồi tên lửa Mỹ xé không khí tạo nên những tiếng nổ lớn làm rung nhà, chuyển đất. Khi bắt buộc phải xuống hầm trú ẩn, ông thường đứng phía ngoài cùng để theo dõi các làn đạn cao xạ, tên lửa, súng trường, súng đại liên ta đan chéo trên bầu trời và khi có máy bay Mỹ bốc cháy, ông thường vọt ra khỏi hầm, vỗ tay rcó hò hết sức khoan khoái. Đây là thói quen của ông. Khi có ai đó yêu cầu Bộ trưởng buộc ông sơ tán về vùng nông thôn hẻo lánh vắng bóng máy bay Mỹ hoặc nhắc nhủ ông không được thiếu cảnh giác chủ quan, khinh đích, Bộ trưởng thường cười xòa:
    - Chúng ta cần thông cảm với anh Đấu. Anh không được đi B nên ruột gan anh nóng như có lửa đất. Anh luôn muốn chia lửa với miền Nam.
    "Chia lửa với miền Nam", đó là khẩu hiệu hành động của mọi cán bộ, mọi chiến sĩ, của mỗi xã viên hợp tác xã, của mỗi công nhân, nông dân và của cả các cháu thiếu nhi. Ông Dương Văn Đấu có cách "chia lửa" riêng của mình. Khác với thời kỳ làm giám đốc mỏ, ông thường dành thời gian rảnh rỗi đến thăm từng gia đình công nhân mỏ, ở Hà Nội, ông có ít "quân", và hầu hết cán bộ nhân viên dưới quyền ông đều đã sơ tán nên ông gánh" hết mọi phần việc còn lại của công vụ, liên lạc, thư ký. Ông thường làm việc thông tầm. Nhiều đêm, Ông chong đèn thức tới 1, 2 giờ sáng. Có nhiều tác phẩm viết về cuộc chiến đấu của đồng bào miền Nam, Ông đọc thâu đêm, có đoạn Ông không sao eầm được nước mắt. Ông thường nghiền ngẫm các bản tin tham khảo để suy ngẫm thái độ của Mỹ, của các nước trên thế giới với cuộc chiến tranh của ta. Sáng nay, đưa mắt qua những đầu đề lớn của Tin tham khảo Ông dừng lại trước tin:
    "Ba tử tù của Việt cộng sắp bị hành hình".
    Ông chăm chú đọc: "Tổng tHồng Nguyễn Văn Thiệu đã phê chuẩn cho phép xử bắn ba tên Việt cộng đã lĩnh án tử hình là Bùi Văn Tiến, Vương Thành, Lê Chân".
    Lê Chân là con rể ông ư? Trước ngày cưới, Ba Chân, Mỹ Lê ñaõ gởi thơ tới ông, xin phép ông cho chúng làm hôn lễ. Ông không có hình Ba Chân và do bí mật, các con ông không nói rõ công tác của mình trong thư. Tuy vậy, Ông phán đoán là Ba Chân giữ cương vị gì đó khá lớn của Thành đoàn. Sau ngày tụi nó nên vợ, nên chống, ông đã chú ý dò hỏi. Ông hết sức tự hào vì không chỉ con rể ông mà ngay cả vợ ông đều ở trong ban chỉ huy quân sự của lực lượng võ trang Thành đoàn. Chả rõ cô ấy (ông vẫn giữ thói quen gọi vợ là "cô ấy") học bắn súng, ném lựa đạn bao giờ? Cô ấy dẫn đầu hàng quân xông vào đồn địch như thế nào? ỏng đã thua vợ, thua con rể rồi. Chả rõ con rể ông bị bắt Hồi nào Nó bị kêu án tử hình bao giờ? Không hiểu Lê Chân có đúng là nó không ông đọc tiếp:
    "Lê Chân tức Ba Cánh là Chính trị viên Ban chỉ huy quân sự Thành đoàn đã chỉ huy nhiều trận đánh quân Mỹ, quân chính phủ ở SàI Gòn. Tên Việt cộng cỡ bự này bị bắt ngày 01 tháng 10 năm 1965 khi đang chỉ huy trận đánh vào Sân banh Cộng hòa. Ngày 07 tháng 06 năm 1967 tòa án quân sự của quân lực Việt Nam Cộng hòa đã kêu án tử hình Lê Chân. Theo lệnh của tổng tHồng Thiệu, tên Chân sẽ bị xử bắn vào 5 giờ sáng ngày 16 tháng 11 năm 1967 tại khám lớn Chí Hòa".
    Ông đặt bản tin sang bên, cảm thấy nghẹn thở. Không hiểu sao cái tin hệ trọng tới mức này mà vợ ông, các con ỏng cố ý giấu ông. Chắc những người thân của Ông không muốn làm ông buồn nên đã đẩy ông lâm vào tình thế bất ngờ tới tuyệt vọng như lúc này. Ông làm cách nào để cứu được con rể? Ông nên gọi điện thoại cho ai? Đến gõ cửa nào? Thật là bế tắc. Ngày mai con rể ông sẽ lên đoạn đầu đài, Ông làm sao thông báo cho vợ ông, cho Mỹ Lê và các con ông tin chẳng lành này?
    Mỹ Lê! Đứa con gái đầu lòng có nhiều kỷ niệm gắn bó với ông nhất. Ông nhớ ngày sinh nó ở đồn điền cao su; khi ông đưa vợ và con gái về thăm quê, lần đầu tiên Mỹ Lê từ trường học về khoe với ông chữ "ba" chữ "má" do chính tay nó viết, rồi ngày nó theo má vào căn cứ thăm ông, lúc ông hòa đàn măngđôlin với nó và những ngày nó trở thành cô gái "buôn trứng vịt" đã khóc nhè vì cả giỏ trứng bị vỡ. Ngày ông rời Gò Công đi tập kết, Mỹ Lê mới 13 tuổi nhưng nó hiểu, nó nhớ mọi lời ông dặn dò, ủy thác. Ông đâu có ngờ nó trở thành góa phụ mới ở tuổi 26, phải nuôi hai đứa con mọn. óng cố hình dung ra cảnh sống của Mỹ Lê lúc này. Chắc chắn ba má con nó ở chung trong cái lán, sáng sáng Mỹ Lê bồng hai con hai nách, đưa đến gởi vườn trẻ. Hừ, không thể như thế được. Mỹ - ngụy dùng máy bay, xe tăng, pháo hạng nặng và hàng vạn quân chà đi sát lại mọi vùng đất ven Sài Gòn mà chúng nghi ngờ là nơi trú ngụ của Việt cộng. Chúng dùng máy xúc san thành bình địa cả một vùng rừng rộng lớn rồi phun chất độc không cho một ngọn cỏ, một lá cây nào còn giữ màu xanh. Mỹ Lê làm sao nuôi nổi hai đứa con ở một nơi phải chạy giặc, tránh giặc càn năm, bảy lần mỗi ngày. Sống ở miền Bắc ông không sao tưởng tượng ra vợ con, các cháu ông sống như thế nào, sống ở đâu, đang làm gì? Ông buồn thẫn thờ song ông không chia sẻ với ai được. Ông cầm bút nguệch ngoạc viết con số 2530 lên tờ giấy nháp trên mặt bàn Ông tự an ủi mình: ta đã bắn rơi của Mỹ tới 2530 máy bay, kèm theo ngần ấy tên giặc lái bị bắt hoặc bị chết thì việc hy sinh của con rể ông là điều không thể tránh khỏi trong chiến tranh.
    Trong lúc này, một tù thường phạm gõ cửa phòng 3B ở nhà lao Chí Hòa thông báo:
    - Mấy anh nhìn xuống sân xem. Các anh sắp "đi" rồi.
    Lê Chân, Vương Thành, Bùi Văn Tiến bị nHồt chung trong căn phòng hẹp ở lầu ba. Tiến sinh năm 1935, là chiến sĩ biệt động Sài Gòn, đã tham gia trận đánh vào Tổng nha cảnh sát và khách sạn Mêtơrôpôn, bắt hàng trăm sĩ quan Mỹ - ngụy đền tội. Tiến cùng hai bạn kéo lê xích sắt đến gần cánh cửa xà lim đã khóa trái bên ngoài, thay phiên nhau ghé mắt nhìn qua kẽ hở nhỏ xíu ở cửa. Tụi lính gác ngục đang điều khiển tù thường phạm đắp ba ụ đất cao quá đầu người, ở chính giữa mỗi ụ đất cắm chiếc cọc sắt. Lê Chân mỉm cười và nói:
    - Đáp số của bài toán đã rõ nhưng còn có ẩn số chưa rõ.
    - Ẩn số gì vậy"
    - Tôi với các bạn ai sẽ số một, ai chiếm ụ số hai, số ba?
    Ba người tử tù ngồi quây lấy nhau trò chuyện. Từ gần nửa năm qua, các anh là những người bạn thân nhất của nhau, kể cho nhau nghe mọi chuyện riêng tư thầm kín nhất của mình, bàn nhau tổ chức cuộc sống trong tù thật thích hợp để làm gương cho tù thường phạm, để những tên giám thị phải khâm phục, kính nề. Bọn địch không đụng tới các anh nữa. Chúng dời các anh từ khu OC4 (O = dưới lòng đất, C = khu C; 4 = xà lim số 4) lên khu 3B (ở lầu ba), không đòi hỏi anh chào cờ hay chấp hành nội quy của trại giam, việc mà các anh phản đối.
Phải nhận rằng những ngày đầu sống chung, các anh chưa thật thoải mái lắm vì người nào cũng thoáng buồn, cả ba đều ngong ngóng chờ đợi giây phút vĩnh biệt cõi đời này. Một ngày, hai ngày rồi ba ngày trôi qua. Nếu không tạo cho cuộc sống của mình giữ nhịp độ bình thường, cứ nơm nớp chờ thi hành bản án - sẽ ảnh hưởng tới tinh thần, sức khỏe. Lê Chân tự đảm nhiệm chức xà lim trưởng, có nhiệm vụ vạch ra chương trình sinh hoạt mỗi ngày. Các anh không tự cho phép mình ngủ li bì suốt ngày, thức khuya tới 1, 2 giờ đêm hoặc ngủ đến 8, 9 giờ sáng chưa dậy. Các anh cũng không kiếm đâu ra chuyện tiếu lâm để kể hết ngày này sang ngày khác và tâm sự cuộc đời của mỗi người cũng không thể kể đi kể lại nhiều lần. Từ ngày Lê Chân đưa ra sáng kiến "một thầy - hai trò" thì cuộc sống của ba anh tử tù trong cùng xà lim trở nên sôi động, náo nhiệt. Vương Thành có trình độ văn hóa cao nhất hội được phong chức "giáo sư", phải soạn trong đầu mình hai giáo án, hai thời khóa biểu khác nhau. Đến giờ lên lớp thầy say sưa giảng bài cho từng trò, kiên nhẫn nói đi, nói lại nhiều lần cho tới khi trò hiểu bài mới thôi.
    Lê Chân tự nhận là cây lý luận của xà lim, đồng ý giữ chức giảng viên chính trị. Anh đã qua khóa huấn luyện của trường Đảng Nguyễn ái Quốc nên anh giảng say sưa, hấp dẫn, lôi cuốn người nghe từ chuyện khai thiên lập địa, khỉ chuyển hóa thành người, rồi xã hội nguyên thủy, nô lệ, phong kiến, tư bản, xã hội chủ nghĩa... khá mạch lạc. Bùi Văn Tiến xin gánh vác phần việc của. một “kỹ sư”. Tiến rất khéo tay. Chỉ có các vỏ lon sữa bò trong tay, anh hướng dẫn các bạn làm dao cắt tóc, làm nhíp nhổ râu. Công trình đồ sộ nhất của Tiến là sản xuất nhẫn. Chả hiểu bằng cách nào, Tiến xoay được chiếc lược sừng cũ. "Kỹ sư" bẻ lược làm ba đoạn, chia cho từng người, rồi dạy cho bạn cách làm nhẫn. Ba Chân học môn này hết sức chăm chỉ và vô cùng kiên nhẫn. Hàng ngày, anh đem phần "gia tài được chia" của mình, mài trên nền xi măng, mài nằm, mài đứng, mài nghiêng, cố tạo cho được một hình tròn như ý. Tạm hài lòng với công đoạn đầu, Ba Chân chuyển sang đục ruột hình tròn để tạo nên dáng dấp chiếc nhẫn. Ở xà lim, anh không có dao con, cái đinh, mảnh giấy ráp, đến mẩu sắt nho nhỏ nào nhô lên ở cánh cửa để anh dùng làm công cụ khoét nhẫn cũng không thể có. Anh chỉ có trong tay mảnh gốm vỡ và lưỡi dao không có cán làm từ vỏ lon sữa bò.
    Ba Chân dành mọi tâm trí và tài nghệ để hoàn thành sản phầm của mình. Anh nâng niu, gượng nhẹ mỗi khi đụng chạm tới mảnh lược sừng, nguyên liệu duy nhất để làm nhẫn, mà anh có trong tay. Nay mai, anh sẽ lo gửi kỷ vật cuối cùng của mình về tặng vợ anh. Đón được nhẫn, Mỹ Lê càng hiểu thêm lòng anh. Trên trái đất này, không rõ có một địa phương nào hoặc một người đàn ông nào dồn mọi tâm huyết cho món quà tặng vợ như anh không? Anh không sốt ruột, không nôn nóng. Chỉ cần một sơ xuất rất nhỏ là cái nhẫn thanh mảnh làm bằng vật liệu dễ gầy sẽ trở thành vật bỏ đi, vô dụng. Vương Thành vấp phải thất bại đầu tiên vì anh chưa hề yêu ai nên mục đích làm nhẫn của anh chỉ để giải khuây, để giết thời gian để rèn luyện tài khéo léo của đôi tay. “Kỹ sư” Bùi Văn Tiến cũng không thành công vì động cơ thôi thúc anh hoàn thành sản phẩm không sâu sắc như Lê Chân. Vương Thành ủng hộ Ba Chân hết sức nhiệt thành rồi gạ gẫm:
    - Bà xã ông còn cô em gái hết ý. Tôi giúp ông, ông sẽ gả em gái vợ cho tôi, nghe.
    Ba Chân lắc đầu:
    - Tao không cho mày dính phần vô đây. Anh Tiến thử phân xử coi Thằng cha sắp chết còn tham. Vợ tao để tang tao chưa đủ sao mà mày tính bắt em vợ tao để tang mày nữa.
    Tư Thành chống chế:
    - Luật nhà Phật có kiếp luân hồi mà, anh Ba. Biết đâu kiếp sau em thác sinh sẽ được cùng cô Ba nên vợ nên chống.
    Ở trong tù những chuyện gán ghép, tán hươu, tán vượn thường xảy ra như cơm bữa nhưng có ý kiến đề xuất khá nghiêm chỉnh:
    - Anh Ba ! Nếu anh không khắc tên lên nhẫn, ai biết là nhẫn của anh làm ra?
    - Khắc chữ gì? Làm cách nào khắc?
    - Anh khắc chữ Chân hay viết tắt mình chữ "C" cũng được.
    Lê Chân tán thành:
    - Tôi sẽ khắc chữ C, chữ L lồng vào nhau hoặc xếp cạnh nhau có nghĩa là Chân - Lê hoặc Cánh - Liến.
Logged

Nếu có 1 ước muốn trở thành sự thật
Tôi chỉ muốn trở thành 1 người lính đảo
VoMinhGiang
Thành viên
*
Bài viết: 91


Sống trên đời sống cần có một tấm lòng.


« Trả lời #65 vào lúc: 29 Tháng Sáu, 2010, 06:31:47 pm »

     Chỉ có một sáng kiến nhỏ nhoi này cũng làm ba người bạn tranh cãi sôi nổi. Giá như ở ngoài đời, đứa bé tám, chín tuổi dễ dàng dùng đinh hoặc dùi khắc trong năm phút sẽ hoàn thiện công trình, còn ở trong xà lim này thật vô cùng nan giải. Cả ba người thay nhau thảo mẫu hai chữ C - L, theo kiều viết in hay viết hoa, viết rời nhau hay lồng vào nhau, xếp tên chống trước hay tên vợ trước? Điều cần bàn là giấy gì đề khắc, trcó cái nhẫn vào đâu để khắc chữ trên cái hình chưa đến một phần tư centimét vuông? Cuối cùng, sau một tuần lễ bàn cãi, thí nghiệm thực hành, ba người mới đi đến tHồng nhất: "kỹ sư" Tiến mài lưỡi dao vỏ lon sữa bò thành cái dùi có hình tam giác nhọn, Tư Thành lồng chiếc nhẫn vào đầu ngón tay út và Ba Chân chịu trách nhiệm khắc chữ đầu tên vợ, tên mình lên nhẫn theo đúng mẫu đã được phác thảo trên nến xi măng.
    Các anh không nhớ là công trình tập thể này đã kéo dài bao lâu và ai là chủ công trình. Ở trong khám tử tù, các anh có quá nhiều thời gian rảnh rỗi nên ba anh luân phiên nhau đcó nhẫn vào ngón tay út của mình, đặt ngón tay lên đầu gối bạn không động đậy, không nhúc nhích để bạn bình tĩnh ngồi khắc. Sau nhiều ngày miệt mài, tỉ mỉ gọt khắc ba anh tử tù tự hào ngắm thành công công trình tập thể của mình. Ở những con người mà cái chết luôn trcó lơ lửng bên cạnh thì mỗi mềm vui nho nhỏ đều giúp cho tinh thần từng người thêm sảng khoái. Tuy nhiên, ai nấy lại thoáng thất vọng khi Ba Chân nêu lên nổi băn khoăn của mình:
    - Chúng ta làm cách nào chuyển món quà này cho vợ tôi được?
    Thật là nan giải. Cái ước muốn thiêng liêng rất đơn giản của Ba Chân là để lại kỷ vật cuối cùng cho vợ chả lẽ bị lâm vào bế tắc sao? Ba anh tử tù lại "bày binh bố trận". Các anh không được ra khỏi xà lim, không có quyền giao dịch với ai nên báu vật chỉ có thể giao cho người tù thường phạm thường mang cơm nước đến cho các anh hoặc tên giám thị ác ôn chuyên gác cửa xà lim. Còn một phương pháp nữa mà những người buộc ngồi lên ghế diện ở các nước văn minh có quyền yêu cầu luật sư can thiệp: "gửi lá thư tuyệt mệnh cùng vật kỷ niệm cho người thân" nhưng cả Lê Chân, Bùi Văn Tiến, Vương Thành đều bác bỏ phương án này. Từ ngày bị bắt các anh đã dứt khoát cự tuyệt mọi sự hợp tác - dù nhỏ nhất - với chính quyền ngụy nên các anh không dại gì "giao trứng cho ác", ghi địa chỉ chính thức của Mỹ Lê hoặc của má Sáu Hoàn cho kẻ thù. Các anh quyết định tấn công vào người tù thường phạm. Vì có cảm tình với mấy ông tù chính trị. vì việc các anh nhờ vả quá nhỏ và cũng vì mê tín cần làm theo ý người sắp chết nên người tù thường phạm nhận lời. Một tuần sau, anh này thông báo:
    - Có hơn hai chục người mãn hạn tù đợt này. Tôi đã gửi cho một chỉ cán bộ tên là Lợi quê ở miền Trung.
    Coi như đã giải quyết xong được một việc lớn, Chân, Tiến, Thành tiếp tục chương trình học tập đã vạch sẵn và bình thản chờ... chết. Trong ngày 15 tháng 11 năm 1967 ba người tử tù lại một lần nữa ngắm ngôi mộ của chính mình. Các anh hết sức ung dung, thư thái, bình thản bàn về giờ chết của mình. Dứt khoát không nhận lễ rửa tội của cha cố, không đầu hàng, không xin kẻ địch bất cứ điều gì. Nó có quyền còng tay, xích chân khi áp giải mình ra pháp trường, eòn mình sẽ nâng cao đầu và đấu tranh đòi chúng không bịt mắt. Những tên đao phủ sẽ trói thúc kế (giật cánh khuỷu) tay mình vào cọc sắt không cho mình chạy mình mặc kệ nó nhưng nó không cấm được mình hô khẩu hiệu hoặc nói điều gì đó nhắn nhủ với binh linh địch, thân nhân bọn giám thị, các tù thường phạm và chắc chắn sẽ có cả các đồng chí mà kẻ địch buộc phải chứng kiến giây phút hành hình tù Cộng sản.
    Tối hôm đó, những anh tử tù sắp từ giã cõi đời này hàn huyên với nhau đủ mọi chuyện. Các anh thử kiểm kê tài sản của mình. Chả có gì để lại cho đời sau và cũng không còn gì đáng giá cho các bạn tù. Bùi Văn Tiến, Vương Thành nhận được tiếp tế của gia đình (vì Mỹ Lê tin là chống mình đã bị xử bắn nên chị không yêu cầu dì Bẩy và Tư Linh đi thăm nuôi anh) nên trong kho lưu trữ còn ít đỗ xanh, đỗ đen, vài lạng đường, cùng vài chục cây nến dùng để thắp thay cho đèn dầu. Vương Thành bỗng nẩy ra ý kiến ngồ ngộ :
    - Ta chả cần dự trữ nữa. Ta nấu chè khao nhau, ăn cùng nhau bữa cuối cùng.
    Bùi Văn Tiến tán thành ngay:
    - Hay đấy Ba Chân cậu lấy hăng-gô vào đây. Trong lần thăm nuôi trước, gia đình Bùi Văn Tiến tiếp tế một hăng-gô ruốc thịt. Các anh phải đấu tranh quyết liệt mới giữ lại chiếc hăng-gô dùng dự trữ nước uống hàng ngày và giờ đây các anh quyết định biến hăng-rô thành cái nồi. Ở ngoài đời, các anh đã ăn nhiều loại chè và đã xem người thân nấu chè nhưng ở trong xà lim này, cái khó đang bó cái khôn, các anh phải tính toán chi ly: đổ bao nhiêu nước đề chè còn có vị ngọt và đủ "củi" nấu sôi nồi chè, làm cho chín đỗ?
    Đã bao lâu nay cơ thề các anh thèm chất ngọt, các anh chưa hề nếm mùi chè nên trong miệng người nào cũng tiết dịch vị khi cả ba đều say sưa làm đầu bếp. Các anh đập vụn từng cây nến, lấy tim nến tạo thành nhiều ngọn bấc mới. Các anh thay nhau cầm hăng-gô hơ trên lửa. Khi nước sôi, Tiến và Thành dùng tay áo bà ba làm "đòn gánh" gánh quai hăng-gô để Ba Chân lo giữ lửa cháy đều. Nửa giờ sau, Tiến nếm thử chè, bình phẩm:
    - Đỗ còn hơi sượng.
    Ba Chân tuyên bố:
    - Hết đèn cầy (nến) rồi. Ăn chè sượng cũng là kỷ niệm thú vị.
    Vương Thành bàn:
    - Ta không phá áo tù mà chỉ cần loại bớt sáu ống tay áo dùng làm "củi".
    Tiến tham gia:
    - Không nên làm như thế vì khi ngửi thấy mùi vải khét tụi nó sẽ vào can thiệp, phá rối "bữa tiệc chè" của chúng ta. Mặt khác chúng ta không nên mặc áo cộc tay ra pháp trường. Ta không để kẻ đích vin vào cớ đốt áo để bôi nhọ thanh danh chúng ta.
    Ba anh tử tù nhanh chóng thống nhất với nhau. Các anh nằm khểnh đợi cho chè nguội mới thay phiên nhau húp (vì không có bát, có thìa). Sau bữa tiệc chè, các anh nằm bên nhau tán gẫu rồi ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Mãi hơn bảy giờ sáng ngày hôm sau (16 tháng 11 năm 1967), Ba Chân choàng tỉnh. Anh lay gọi hai bạn:
    - Dậy, các đồng chí ơi? Đến giờ rồi.
    Ba anh chỉnh đốn quần áo, vuốt lại mái tóc. Tiếc quá! Tiếc quá! Không còn giọt nước lã dự trữ nào để xúc miệng, rửa mặt cho sạch sẽ, tỉnh táo trước khi "đi". Ờ mà sao chúng nó chưa tới? Vương Thành chợt nhớ ra:
    - Nè! Chiều qua tụi nó công bố trên loa phát thanh là sẽ bắn tên Lê Chân, Bùi Văn Tiến, Vương Thành vào đúng 5 giờ sáng nay, sao mãi bây giờ vẫn chưa thực hiện?
    - Chắc tụi nó còn chờ quan thầy xuống chứng kiến.
    Lê Chân bàn:
    -Các bạn này! Tôi ngại là nó bắn phát đầu trúng tim ngay nên không hô được khẩu hiệu. Lúc đầu, tôi định hô "Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm" nhưng sợ dài quá nên tôi rút xuống "Hồ Chủ tịch muôn năm". Bây giờ, tôi sẽ hô gọn bốn từ "Bác Hồ muôn năm".
    Bùi Văn Tiến thổ lộ:
    - Tôi cũng dự tính đúng như anh Ba. Tôi muốn diễn thuyết trong vài phút để kết luận rằng chính nghĩa sẽ thắng và sẽ hô to khẩu hiệu "Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa muôn năm" nhưng bây giờ tôi sẽ hô "Việt Nam Độc lập muôn năm".
Vương Thành nêu dự kiến của mình:
    - Những tên lính bắn tụi mình phải dàn hàng ngang, phải chờ lệnh tên sĩ quan mới được giương súng, ngắm và bắn. Tranh thủ lúc đó , tôi hô : "Đả đảo giặc Mỹ xâm lược" "Đả đảo tên việt gian bán nước Nguyễn Văn Thiệu" "Chúng tôi là những thanh niên yêu nước, không có tội".
    Cũng chả có gì cần tranh cãi hoặc khuyên bảo nhau về dự kiến xử sự giây phút cuối của đời mình nên ba anh bạn tử tù lài ngồi tựa lưng vào tường chờ đợi. Các anh không đoán được lý do trì hoãn giờ hành hình mình nhưng một người ở cách xa khám Chí Hòa ngót hai nghìn kílômét đã hiểu tường tận sự việc xảy ra. Chánh văn phòng Dương Văn Đấu không có cách gì cứu con rể thoát chết nên ông đã gần như vồ bản tin tham khảo buổi chiều hôm đó. Ông đọc ngấu nghiến gần như nuốt từng chữ trong tuyên bố của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
    Nếu ba chiến sĩ biệt động Lê Chân, Bùi Văn Tiến, Vương Thành bị chính quyến Nguyễn Văn Thiệu xử tử thì ngay sau đó Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ xử bắn ba tên giặc lái Mỹ.
    Ông Đấu cười hể hả. Chính phủ ta chơi lại chính quyền Thiệu một đòn ba mũi giáp công, quân sự, chính trị pHồi hợp với ngoại giao rất ngoạn mục. Ta không thương lượng với tên tay sai, đầy tớ, kẻ đã ra lệnh giết ba người tù, mà ta bắn tin cho quan thầy của nó là Mỹ. Chính phủ ta có trong tay những át chủ bài là tụi giặc lái Mỹ, trong đó có tên thiếu tá không quân lái máy bay A4 định ném bom phá hủy nhà máy điện Yên Phụ. Bị dính đạn giáng trả của tự vệ nhà máy, máy bay nó bốc cháy. Tên giặc lái này chỉ kịp nhảy dù. Hắn bị rơi xuống hồ Trực Bạch, chân bị thương, dù quấn đầy người. Khi được người dân vớt lên thuyền, hắn đã bị uống no nước. Hắn đã run lên trước các họng súng trường của tự vệ và nhiều ánh mắt căm thù của người dân Hà Nội chiếu thẳng vào hắn, trong số đó có ông Bẩy Đấu. Nghe tin bắt được tên giặc lái Mỹ sắp chết đuối, ông đạp xe lên ngay hồ Trúc Bạch. Cũng giống như mọi người dân bình thường, ông dựng xe vào gốc cây ven đường, khóa lại rồi len lỏi vào xem mặt tù binh với tâm trạng náo nức của những ai dám đánh Mỹ và thắng Mỹ. Ông đâu có ngờ câu chuyện xảy ra cách đây gần một tháng, vào ngày 26 tháng 10 năm 1967, ngày quân và dân cả nước ta bắn rơi 10 máy bay Mỹ, lại liên quan tới gia đình ông, tới con rể ông.
8 giờ tối ngày 15 tháng 11 năm 196?, Chánh văn phòng Dương Văn Đấu chợt muốn dốc bầu sự. Ông quan số điện thoại tới người bạn thân đang công tác ở Bộ Quốc phòng:
    - Anh Tư, anh có rảnh không? Anh có thề trò chuyện với bạn cùng quê vài chục phút không?
    - Ôi anh Bẩy! Sao bữa nay anh khách khí vậy? Thằng em này sẽ cho ôtô tới đón anh. Anh đi ngay được chớ?
    - Tôi đã sắn sàng.
    Mười lăm phút sau, ông Bẩy Đấu đã lọt vào Chỉ huy sở. Điện thoại réo liên tục. Các sĩ quan, quân phục tề chỉnh, đang dán mắt vào màn huỳnh quang. Viên tướng niềm nở giới thiệu ông với kíp trực:
    - Anh Bẩy Đấu, chánh văn phòng Bộ Điện Than có việc cần trao đổi với tôi. Tôi tiếp anh ở phòng ngoài.
    Nghe ông Bẩy Đấu trình bày xong, thiếu tướng chìa bàn tay về phía bạn: "Chúc mừng anh?" Ông Bẩy Đấu hết sức ngỡ ngàng. Có gì đáng gọi là "chúc mừng trong sự kiện Ba Chán bị xử tử đâu? Biết Ông Tư vốn là nhà quân sự đạo mạo, đúng mức, không thể đùa dai trong hoàn cảnh này, nên Ông Bẩy Đấu đưa tay mình về phía bạn, hờ hững nắm tay bạn. Viên tướng lấy ra bức điện mới nhận được:
    - Anh có biết tiểu sử tên thiếu tá giặc lái mới bị ta bắt không? Tay này có ông nội và bố đều là đô đốc nên gia đình giàu cỡ tỷ phú và rất có thế lực. Anh đọc đi? Tổng tHồng Mỹ đã yêu cầu Thiệu hoãn vô thời hạn lệnh xử tử ba cán binh Việt cộng. Chắc chắn cháu Ba Chân không bị hành hình nữa. Điều đó có đáng chúc mừng không?
    Ông Bẩy Đấu hướng về phía bạn:
    - Xin thú thực ỉa tôi rất mừng nhưng mừng vì Ba Chân thoát nạn ít hơn mừng về sức mạnh của Tổ quốc ta.
    - Tôi hoàn toàn đồng ý với anh. Nếu thế và lực ta không mạnh hơn kẻ thù, Tổng tHồng Mỹ đâu thèm chú ý đến sinh mạng tù binh ta.
    Ông Bẩy Đấu cám ơn bạn. Ông tức vì mình không có cách gì thông báo cho vợ ông, các con ông, cho Ba Chân và các bạn tử tù của nó là chúng nó đã được cứu thoát.
    Vào khoảng 8 giờ sáng ngày 16 tháng 1 1 năm 1967 Ba Chân ghé mắt nhìn qua khe cửa. Anh ngạc nhiên thông báo cho hai bạn:
    - Nè? Tụi nó đang phá các ụ đất. Tại sao vậy?
    Tư Thành và Bùi Văn Tiến cũng không rõ lý do. Ở trong xà lim hẹp bao bọc bởi bốn bức tường kín như bưng, các anh không có cách gì tìm cho mình lời giải đáp. Thôi cứ mặc kệ chúng nó, thắc mắc làm gì. Tư Thành giả bộ than thở:
    - Chỉ tiếc là từ đêm nay anh em ta phải ngủ mò vì không còn cây đèn cầy (nến) nào cả.
    Ba Chân gợi ý:
    - Từ mai, ta chuyển thời gian sinh hoạt, học tập vào ban ngày, tối ta đi ngủ sớm. Hôm nay, ta tạm nghỉ.
    Ba anh tử tù chưa kịp ghé lưng nằm nghỉ đã nghe anh tù thường phạm thông báo:
    - Các ông thoát chết rồi. Đã có lệnh hoãn xử tử các ông để Chính phủ Cụ Hồ không hành hình ba phi công Mỹ.
    - Làm sao anh biết tin này?
    - Mấy ông giám thị nói lại cho tù nghe trước khi ra lệnh cho tù phá ba ụ hành hình.
    Vốn nhạy bén về chính trị, Ba Chân đưa ra đề nghị:
    - Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Bác Hồ đã cứu sống chúng ta. Từ nay cho tới khi nhắm mắt xuôi tay, anh em ta đừng quên ngày 16 tháng 11 .
    - Đồng ý!
    - Tán thành!
    Ta sẽ nhắc để mọi người thân trong gia đình luôn luôn đừng ảo tưởng vào kẻ thù và nhớ ơn Chính phủ đã cứu mạng sống chứng ta.
    Bùi Văn Tiến lật ngược vấn đế :
    - Liệu chúng ta có sống tới ngày đó không? Tụi nó đã kêu án chúng ta. Chúng ta không công nhận bản án nên không kháng án nhưng với pháp luật của chúng nó bản án đã có hiệu lực.
    Với những người tử tù luôn coi cái chết nhẹ tựa lông hồng nền các anh bàn đến chuyện ra đi vĩnh viễn của mình hết sức bình thản. Ba Chần đưa ra kết luận:
    - Cứ coi như đầy là nghị quyết của chúng ta. Tương lai, nếu tụi nó xử tử chúng ta vào ngày khác nhau, chúng ta tHồng nhất lấy ngày 16 tháng 11 hàng năm là giỗ của chúng ta.
    Vương Thành lại đưa ra câu hỏi:
    - Đặt giả thuyết cuộc kháng chiến của dân tộc ta thắng lợi, chúng ta được các đồng chí giải phóng cả thì sao?
     Bùi Văn Tiến khẳng định:
    - Nếu chúng ta sống cùng địa phương ta sẽ luân phiên tổ chức. Trường hợp chúng ta phải ở mỗi người một tỉnh khác nhau, ta cùng làm mâm cơm, đặt lên bản thờ tượng trưng, rồi thắp một tuần nhang đề nhớ ngày giỗ của chúng mình.
    Ba người tử tù ngoắc tay nhau, cười sảng khoái tự hào vì kẻ địch đã phải chịu thua đậm kcó này.
Logged

Nếu có 1 ước muốn trở thành sự thật
Tôi chỉ muốn trở thành 1 người lính đảo
VoMinhGiang
Thành viên
*
Bài viết: 91


Sống trên đời sống cần có một tấm lòng.


« Trả lời #66 vào lúc: 29 Tháng Sáu, 2010, 06:35:46 pm »

25
[/b]
    Những tháng cuối năm 1967, má Sáu Hoàn bận tíu tít, má bận đến mức không có thì giờ nghĩ đến con gái, con rể má đang ở tù. Má đâu thuộc loại người vô tâm như thế. Má nhớ đến con từng giờ, từng phút; trước khi ngả lưng xuống giường ngủ mỗi tối và cả trong giấc mơ vào ban đêm. Nhớ các con, má càng cố gắng công tác. Tuy không được phổ biến nhưng linh tính một cán bộ hoạt động thành đoàn và đặc biệt chuyên trách lo vũ khí dự trừ ở các kho, yêu cầu má chuyên chở gấp về nhiều lựu đạn, súng trường, súng tiểu liên với cơ số đạn không hạn chế. Tại sao "món ăn" mà các chiến sĩ biệt động ưa thích là loại thuốc nổ cực mạnh, đây cháy chậm, kíp nổ hẹn giờ lại không được đặt hàng? Chắc chắn sẽ có đánh nhau to, hai bên trực tiếp bắn nhau nhưng trận đánh diễn ra ở đâu vào ngày giờ nào, má không biết và cũng không hỏi. Được thằng Mười Tuân phụ giúp, má có nhiều thuận lợi hơn. Thằng đó đưa má đi đây, đi đó bằng xe gắn máy vừa nhanh, vừa an toàn. Nó là tài xế, là liên lạc viên, là thư ký và cũng là người bạn tâm tình của má. Má truyền đạt quyết tâm của mình cho con:
    - Má đã hứa cung cấp đầy đủ vũ khí theo "đơn đặt hàng" của mấy chú. Má con ta không có điều kiện trực tiếp cầm súng trả thù cho các chị và anh Ba con, ta sẽ trả mối thù này bằng cách tiếp tế đầy đủ vũ khí cho đội biệt động.
Ngày mùng một, mùng hai rồi mùng ba Tết, má Sáu Hoàn mừng rơn. Thằng Mười Tuân đi thu lượm tình hình về thông báo cho má:
    - Ta đã mở đợt tấn công và nổi dậy khắp thành pHồ. Các chú biệt động đã chiếm đài phát thanh, tấn công dinh Độc Lập, tòa đại sứ Mỹ, sân bay Tân Sơn Nhất... Con tiếc quá má à? Phải chi má cho con tham gia đánh một mục tiêu.
Mười Tuân tường má mình là cấp chỉ huy biết hết mọi việc, mọi mục tiêu cần tiến công nên cậu trách má. Má Sáu Hoàn an ủi con:
     - Tụi nó cậy có chính quyền trong tay đã bắt các chị, anh Ba con và bao nhiêu đồng chí của chúng ta vào tù. Má con ta đã góp phần bắt chúng nó đền tội. Nếu con đi chiến đấu, ai phụ giúp má đưa vũ khí vào các kho, ai đưa má vô cú' Mười Tuân nhận thấy ý của má đúng nên cậu không cãi nữa. Cùng với má, cậu được nghe phổ biến về cuộc tổng tiến công đợt hai rồi đợt ba. Cũng trong thời gian này, sau đòn phủ đầy bất ngờ, bộ máy chỉ đạo chiến tranh của Mỹ, của ngụy hồi tỉnh, thoát khỏi nỗi hoang mang nên đã thu gom toàn bộ lực lượng còn lại mở cuộc phản công Việt cộng.
    Do chủ quan là thắng lợi đã gần kề, nhiều cơ sở mật của ta bộc lộ lực lượng, bỏ qua các quy định bảo mật, mất cảnh giác nên đã tạo sơ hở để địch vồ gần hết lực lượng bí mật nội thành. Rất may là má Sáu Hoàn không sa vào tay giặc, vẫn cùng Mười Tuân sống hợp pháp ở Sài Gòn. Má rất đau lòng thấy nhiều cơ sở ta bị tan vỡ. Sau tết Mậu Thân, từ ngày 8 tháng 4 đến ngày 31 tháng 5 năm 1968 tên tướng thiết giáp Abrams lên thay Oétmolen đã cho tập trung 42 tiều đoàn ngụy cùng với quân Mỹ tổng cộng tới 79 tiểu đoàn chuyên dùng vào việc chà đi, xát lại càn quét vùng tây bắc Sài Gòn, chủ yếu là Hóc Môn, Củ Chi, Trảng Bàng... nhằm lập vành đai trắng, cô lập lực lượng của ta ở Sài Gòn với vùng giải phóng. Cũng trong những ngày này, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu chủ trương đổi tên Nha cảnh sát đô thành với số quân mười nghìn tên thành Bộ Tư lệnh cảnh sát quốc gia với số quân tăng vọt lên chín vạn. Chúng đã bắt được nhiều cán bộ biệt động. Một số tên không chịu được tra tấn đã khai ra một số kho vũ khí. Má Sáu Hoàn lo lắng đứng ngồi không yên. Có cách nào đối phó với tình huống trước mắt không Hai bên đánh nhau, trong lúc một bên tăng lực lượng lên vài chục lần, một bên gặp nhiều khó khăn về người bị thương, bị chết, bị bắt và vũ khí gần như đã cạn kiệt, làm cách nào chứng tỏ cho địch biết là lực lượng của ta ở Sài Gòn còn hùng hậu?
    Không khí Sài Gòn từ tháng 4 năm 1968, ngày càng nghẹt thở. Nhằm thực hiện chương trình bình định cấp tốc, Mỹ - ngụy đã nhận định: "Do dốc sức quá lâu ngày để tấn công khắp các đô thị Việt cộng chưa kịp củng cố nông thôn, nhất là các vùng ven đô". Với 79 tiểu đoàn và ngót 10 vạn cảnh sát, Mỹ ngụy huy động toàn bộ phương tiện chiến tranh để san, ủi phá sạch mọi địa hình che khuất ở từng thôn xóm. Chúng dùng vũ lực càn quét, gom dân lại, xáo trộn dân nhằm mục đích đánh bật tên Việt cộng cuối cùng còn sót lại trong quần chúng. Ở nội thành, định dùng bọn đầu hàng phản bội, bọn ác ôn, mật vụ để chỉ nhà, chỉ mặt Việt cộng để bắt bớ, giam cầm, tra tấn và không ít trường hợp chúng đã bắn giết Việt cộng ngay giữa đường pHồ để thị uy. Má Sáu Hoàn cũng suýt rơi vào tay địch. Lần đó, như thường lệ, má đến kiểm tra kho vũ khí của sư cô Nguyễn Thị Nhàn. Với kinh nghiệm của một cán bộ hoạt động trong lòng địch, cậu bé 15 tuổi Mười Tuân không phóng honđa đưa má xộc vào điểm hẹn. Từ xa, cậu giảm bớt ga, chú ý quan sát ngôi nhà. Không có dấu hiệu báo động nhưng sao cửa nhà không mở, sư cô không ngồi ở vị trí hàng ngày? Cậu cho xe áp sát bên vỉa hè. Bà hàng xôi đầu pHồ nhận ra cậu, nói bâng quơ: "Chả hiểu sao chủ nhà 330 bị bắt?" Mười Tuân chột dạ cho tăng ga phóng vút đi. Ở trong nhà 330 Cao Đạt có tiếng hô. Một chiếc xe gắn máy phóng ra đuổi theo, nhưng Mười Tuân nhanh hơn. Cậu phóng hết tốc độ, chủ động ngoặt xe theo các đường rẽ nên đã thoát. Má Sáu băn khoăn lắm. Chả lẽ sư cô Nguyễn Thị Nhàn và cô con dâu Hai Thưởng đã hèn nhát khai ra má? Không đúng. Sư cô biết chỗ ở của má. Nếu sư cô phản bội, kẻ địch đã đến bắt má tại nhà. Phải mất ba ngày sau, má Sáu Hoàn mới tìm ra sự thật. Một anh cơ sở là tài xế bị bắt đã khai ra địa điểm thường lui tới giao nhận vũ khí. Địch tổ chức khám nhà. Sau Mậu Thân, kho vũ khí này đã cạn nhưng vẫn còn giữ dấu vềt của nơi đã từng chứa chất nổ. Địch bắt chủ nhà. Sư cô và "con dâu" Hai Thường không khai báo gì. Từ đó, má Sáu Hoàn càng thêm cảnh giác. Má không ngủ cố định một nơi nào và cũng ít ra đường hơn nếu không có việc thật cần thiết. Mười Tuân vẫn đi lại tự do. Cậu hớn hở ra mặt nêu ý kiến riêng của mình với má:
    - Nếu con là chánh phủ, con sẽ tặng huân chương cao nhất cho dộng chí chỉ huy nào đã đưa ra cái phương châm hành động ở Sài Gòn rất tài tình: Bất cứ già, trẻ, lớn, bé, ai cũng yêu nước, ai có khả năng gây "nổ to; cháy lớn; tối om; tắc nghẽn; tHồi động; diệt ác" đều có quyền hành động.
    Má Sáu Hoàn nắm rất chắc tình hình. Quả là má không có năng khiếu quân sự như má tự nhận xét và má chưa hề trực tiếp tham gia trận chiến đấu nào nhưng mọi yêu cầu về vũ khí của chiến sĩ biệt động Thành đoàn đều phải qua tay má. Để gây tiếng nổ lớn, đồng chí Năm Thanh, Phó ban Quân sự Thành đoàn có sáng kiến ghép hai quả lựu đạn với nhau. Chỉ cần một lần rút cHồt an toàn, một lần ném là cả hai quả lựu đạn đều nổ. Sáng kiến này, đối với má Sáu thật là "tai hại" vì công việc tiếp tế lựu đạn của má. phải tăng vọt lên hai lần. Má không nản. Má tuyên bố:
    - Tụi bây cứ giết nhiều giặc. Cần bao nhiêu lựu đạn, tao lo đủ.
    Đồng chí Ba Toàn đã có câu trả lời đầu tiên cho má. Gặp đoàn quân xa Mỹ từ sân bay Biên Hòa về Tân Sơn Nhất, đồng chí "tặng" chúng quả lựu đạn ghép. Kết quả 13 tên Mỹ chết, một xe hỏng. ít ngày sau, Ba Toàn lại tung lựu đạn ghép vào đoàn chuyên viên Mỹ đang đứng chờ xe buýt ở đường Tháp Mười (Chợ Lớn). Kết quả làm 15 tên chết, ba tên bị thương. Ba Toàn nhận cùng một lúc hai danh hiệu "diệt Mỹ cấp ưu tú và cấp 2".
    Từ ngày đó, xe quân sự Mỹ ra đường luôn luôn đóng kín cửa. Không chịu được cái nóng thiêu đốt của Sài Gòn, các chuyên viên của Lầu Năm Góc nghĩ ra sáng kiến rào lưới suất quanh xe. Mười Tuân khoái cái vụ này lắm. Cậu đèo má đi các pHồ có xe Mỹ qua lại để má tận mắt trông thấy Mỹ sợ Việt cộng. “Trong lúc những tên Mỹ tự giam mình trong những chiếc xe "lô cốt" di động thì má con mình vẫn ung dung đi lại trên đường”. Tuân phấn khởi nhận xét. Tuy nhiên Tuân lại băn khoăn trước câu hỏi của má:
    - Nó rào lưới như vậy, ta đánh nó sao nổi?
    Tuân chưa tìm ra lời giải đáp. Đành phải bàn với anh Ba Vĩ. Anh Ba Vĩ lên Sài Gòn nhưng không ở chung nhà với má và Mười Tuân mà ở nội trú tại trường. Anh "chỉ thị" cho Mười Tuân:
    - Chủ nhật này mày xin phép má chở tao đi khắp Sài Gòn.
    - Dạ.
    Mười Tuân hãnh diện lắm. Từ nhỏ, cậu luôn thua kém anh Ba Vĩ về mọi mặt nhưng bây giờ cậu đã có chuyện để khoe với anh về nhưng lần chuyên chở vũ khí và đợt phục vụ tết Mậu Thân.
    Tuân kể:
    - Đêm mùng một tết, quân ta nổ súng tấn công tòa đại sứ Mỹ, dinh Độc Lập, Tổng nha cảnh sát, trụ sở bộ quốc phòng, sân bay Tân Sơn Nhất, đài phát thanh... Nghe tiếng súng nổ sướng lỗ ráy (tai) quá chừng.
    - Sao mày không tham gia chiến đấu?
    - Má không cho em đi, bắt em phụ giúp má lo đảm bảo hậu cần. Sau đợt một, các kho vũ khí của má đều trống rỗng. Hồi này, em bận giúp má. Mấy chú, mấy anh chỉ đòi má cung cấp thuốc nổ loại cực mạnh và lựu đạn.
    Năm 1968, Mười Tuân đã 15 tuổi. So với anh, tầm vóc cậu không thua kém. Do đã ở Sài Gòn nhiều năm nên Mười Tuân hoạt bát hơn, lém lỉnh hơn anh. Cậu kê về từng chuyến đi của mình với má vô cứ để nhận vũ khí. Cậu chỉ cho anh từng kho vũ khí của má. Xin đừng trách cậu vi phạm nguyên tắc bảo mật vì cậu hoàn toàn tin vào anh ruột mình. Cậu có hai anh ruột. Với anh Tư Linh, cậu nể sợ, kính phục nhưng ít khi cậu dám trò chuyện cởi mở với anh Tư vì anh hơn cậu tới bốn tuổi, anh có vẻ người lớn, đạo mạo và nghiêm khắc. Anh Ba Vĩ với cậu chỉ như trứng gà, trứng vịt, lại trải qua thời thở ấu sống gần nhau và từng chơi trò trốn, tìm trong các hầm bí mật của nội, rồi những lần rủ nhau đi ăn cắp đạn, lựu đạn của lính bảo an về tặng các chú du kích nên Mười Tuân xem anh Ba Vĩ là bạn chí cốt, là "đồng bọn", cậu không giấu anh Ba bất cứ điều gì. Trong thâm tâm, cậu tự nhận còn thua kém anh xa. Anh cậu là đội viên du kích, đã trực tiếp xông vào đồn giặc, cùng đồng đội dùng súng thiệt, dùng lựu đạn diệt địch. Anh cậu được tặng bằng khen, được đề nghị thưởng huân chương về thành tích chiến đấu. Anh cậu còn là đoàn viên. Cậu nghe lời anh, phục tùng những gợi ý của anh một cách tự hào, thích thú. Anh cậu chưa thạo điều khiển xe máy, chưa thuộc đường Sài Gòn, chưa tham gia cuộc Tổng tiến công tết Mậu Thân nên cậu đưa anh đến những mục tiêu đầu não của địch bị quân ta tấn công tết Mậu Thân. Hai anh em khoác tay nhau đi tản bộ trước đài phát thanh. Cậu kể lại là mình đã nhìn thấy tầng trệt ngôi nhà này bị sập bởi tiếng nổ long trời, lở đất của khối thuốc nổ chở trên xe ôtô nặng gần một tạ. Đặc biệt là quân ta đã làm cho tiếng nói của đài này bị câm tịt từ 2 giờ 59 phút tới 6 giờ 30 phút ngày mùng hai tết Mậu Thân. Từ đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, Mười Tuân rủ anh vào Thảo Cầm Viên rồi vòng qua tòa đại sứ Mỹ, qua dinh Độc Lập. Nghe thuyết trình của em trai về những chiến công của ta, Ba Vĩ tự trách mình là không sớm bứt khỏi đội du kích ở quê nhà. Nếu cậu lên ngay Sài Gòn khi có lệnh má gọi, chắc chắn cậu được tham dự vào cuộc tổng tấn công nổi dậy làm chấn động dư luận thế giới vào dịp tết Mậu Thân. Cậu "gạ" em:
    - Mày dạy tao biết chạy xe gắn máy. Bữa nào vô cứ lãnh vũ khí mày xin phép má cho tao đi cùng.
    Mười Tuân rỉ rả khuyên anh Ba chớ nên nóng vội vì anh cần lo điều khiền xe thật thành thạo, thuộc đường Sài Gòn, biết rõ nơi nào có đồn cảnh sát. Cậu gợi ý:
    - Anh đã là du kích, anh thử nghĩ ra cách gì "đánh du kích" xe Mỹ .
Logged

Nếu có 1 ước muốn trở thành sự thật
Tôi chỉ muốn trở thành 1 người lính đảo
VoMinhGiang
Thành viên
*
Bài viết: 91


Sống trên đời sống cần có một tấm lòng.


« Trả lời #67 vào lúc: 29 Tháng Sáu, 2010, 06:40:21 pm »

    Ba Vĩ nhận lời em ruột nhưng cậu không biết làm cách nào diệt được xe Mỹ luôn cơ động với tốc độ lớn trên đường pHồ Sài Gòn? Theo kinh nghiệm những ngày làm chiến sĩ du kích, cậu cần sắm vai trinh sát bò vào bãi giấu xe của đối phương vẽ sơ đồ v.v… Nhưng cậu làm sao tìm ra nơi để xe của Mỹ? Chỉ có cách duy nhất là chặn xe Mỹ lại, hè nhau lật ngược xe cho bốn bánh chổng lên trời rồi đốt. Ba Vĩ bàn với các bạn. Học sinh, sinh viên và thanh niên Sài Gòn - Chợ Lớn rất mê đối đầu với Mỹ nên đã hẹn nhau đến điểm hẹn chờ sẵn. Thấy một xe quân sự chở sĩ quan Mỹ, Ba Vĩ cùng các bạn ra chặn đường. Người tài xế cho xe dừng lại. Từ hai bên đường, học sinh, sinh viên ập đến, lật ngửa cái xe, tưới một can xăng rồi chám lửa. Mọi việc chỉ diên ra trong chớp nhoáng. Bị đòn bất ngờ, Mỹ ngụy chưa kịp đối phó thì sáng hôm sau ở liên phường ba, ba chiến sĩ biệt động Lê Thanh Hải, Ba Tấn, Hai Hương dùng chái xăng đặc kết hợp với pháo đại, đốt xe ở giữa đường Lê Văn Duyệt vào lúc đông người nhất: 6 giờ 30 phút sáng. Ngọn lửa cao 4 mét, gây tắc nghẽn đường pHồ trong hai giờ liền. Trận đánh này, đạt được mục đích "nổ to, cháy lớn, tắc nghẽn" nhưng hiệu quả diệt đích chưa cao. Đúng là bà con Sài Gòn đều vui mừng hể hả khi tận mắt trông thấy xe quân sự Mỹ bị bốc cháy nhưng làm cách nào bắt sĩ quan và binh lính Mỹ chết hoặc bị thương giữa đường pHồ Sài Gòn? Các chiến sĩ biệt động quả cảm, tài giỏi, mưu trí, được sự chỉ đạo sít sao của Bộ tư lệnh thành pHồ đã đánh thắng nhiều trận vang dội, diệt một lúc hàng trăm sĩ quan Mỹ nên lực lượng võ trang của Thành đoàn càng phải nghĩ ra cách trị Mỹ khi xe chúng đang đi trên đường. Các phương án gài mìn hoặc ném lựu đạn vào xe Mỹ đều không được thông qua vì sợ nguy hiểm đến tính mạng người dân. Mười Tuân, Ba Vĩ đang đèo nhau trên đường pHồ bỗng gặp xe chở sĩ quan Mỹ. Mười Tuân tươi cười, giơ tay chào. Hiểu ý em, Ba Vĩ cũng dùng tiếng Anh trò chuyện với chúng. Những tên Mỹ ngồi trong xe lộ vẻ thích thú hai cậu học sinh khôi ngô, tuấn tú, biểu lộ thái độ thân thiện với Mỹ nên đã thay phiên nhau giải đáp nhiều câu hỏi vô thưởng vô phạt do các cậu đưa ra. Sáng kiến làm quen với Mỹ trên đường đi được phổ biến. Hai chiến sĩ biệt động của Thành đoàn là Ngô Tấn tức Chín Giản và Nguyễn Văn Thừa tức Năm Lũy cũng nhận trách nhiệm hành động. Các anh sắm vai hai công tử con nhà giàu, nói tiếng Anh như gió, đi xe gắn máy loại tốt. Các anh tự giới thiệu là sinh viên, con những nhân vật có tên tuổi của Sài Gòn. Các anh bám tay vào lưới sắt rồi móc chiếc cặp sinh viên vào lưới cho khỏi mỏi tay. Sau nhiều lẳn tập dượt, tụi Mỹ quen dần với hai sinh viên diện rất đúng mốt, luôn miệng khen Mỹ tốt. Những đứa ngồi trong xe không đề phòng gì cả. Chúng tin là hai thanh mền trẻ măng không có và không biết sử đụng súng lục, không thể nào thả lựu đạn chui qua lưới suất có lỗ mắt cáo nhỏ vào trong xe của chúng. Chúng đâu ngờ cái chết đang nằm kế bên. Nhận được đơn đặt hàng, bà phó chỉ huy Ban chỉ huy quân sự Thành đoàn về căn cứ gặp anh Hai Trí:
    - Tụi tôi cần trái mìn làm bằng thuốc nổ cực mạnh C4 nhìn hình dáng bên ngoài giống như quyển vở học sinh.
    Trưởng ban bảo đảm hậu cần của biệt động Sài Gòn hỏi luôn:
    - Chị cần dây cháy chậm, ngòi nổ hay hẹn giờ?
    Việc này tôi đâu có rành. Anh làm sao để sau khỉ móc cặp sách vào lưới sắt, tụi nó giả vờ hỏng xe gắn máy dừng lại được một, hai phút là mìn nổ.
    Mười Tuân ngắm nghía, nâng niu quả "mìn vở" (do cậu tự đặt tên). Trở lại Sài Gòn, cậu ráng thuyết phục má:
    - Má giao việc này cho con nghe. Con làm được, ngon ăn lắm, má ơi.
    Má Sáu Hoàn từ cHồi.
    - Má đâu dám làm trái ý của tập thể. Mấy anh biểu quyết việc này cho Chín Giản, Năm Lũy rồi. Tụi nó nói tiếng Anh giỏi hơn con.
    Mười Tuân không dám cãi lệnh má song cậu không cưỡng nổi tính tò mò của mình. Từ xa, cậu dõi theo hành động của Chín Giản, Năm Lũy. Hai anh bám theo xe Mỹ, cười nói với tám tên sĩ quan Mỹ ngồi ở trong xe rất tự nhiên. Kia rồi, các anh đã móc cặp lên thùng xe, các anh đã lùi lại. Như cái máy, Mười Tuân đạp phanh xe. Một ánh chớp rồi một tiếng nổ rất to làm cho chiếc xe bị hất tung lên, những đứa ngồi trên xe đều mất đầu, gấy tay, thịt, xương tan nát. Từ đó, những chiếc xe Mỹ ra đường không chỉ mang lưới sắt mà còn có xe hộ tống đi theo.
    Diệt được Mỹ trên đường pHồ làm cho mối quan hệ giữa Ba Vĩ Mười Tuân càng thêm khăng khít. Ba Vĩ hỏi kinh nghiệm em ruột về hoạt động bí mật ở Sài Gòn, Tuân ấp úng trả lời không trôi chảy. Cậu chưa có khái niệm về rút kinh nghiệm, tổng kết. Tuy vậy, khi Ba Vĩ hỏi chuyện về cách tránh sự kiểm soát của cảnh sát ngụy, cách giấu súng, thuốc nổ trong xe, cách đưa má vô cứ v.v... Mười Tuân nói mạch lạc, không bỏ sót chi tiết nào. Dựa vào Mười Tuân, Ba Vĩ quen dần địa bàn Sài Gòn. Cậu yêu cầu em ruột lần lượt đưa mình đi thăm những người thân nhất của gia đình. Mười Tuân rất sung sướng được chở anh Ba đi đây, đi đó. Cậu phục anh Ba vô cùng. Anh Ba chỉ hơn cậu một tuổi, học trên cậu một lớp mà anh viết báo, làm thơ và thuộc nhiều bài thơ của các thi sĩ ở lứa tuổi thanh nhiên. Cậu kể cho anh nghe về bé Tranh. Bé đã ba tuổi, nói sõi khá xinh gái và đặc biệt là rất ngoan. Bé không bám theo mẹ hoặc bà ngoại. Bé đã "sơ tán" qua nhiều nhà, có cả tá ba nuôi, má nuôi. Ba Vĩ bình phẩm:
    - Con nhỏ sau này sẽ sướng, sẽ trở nên con người có nghĩa có nhân. Mày có muốn nghe thơ của thi sĩ Võ Quê viết về những đứa bé ở tù từ lúc sơ sinh như bé Tranh không Mười Tuân sốt sắng:
    -  Có. Anh phải bình giảng cho em nghe!
    Ba Vĩ hắng giọng đọc:
        Bé ở tù ngày chưa được nằm nôi.
        Như chú chuột con đô hòn trong tay mẹ
        Ngục tù bắt em sống đời nô lệ.
        Mẹ dạy em sức mạnh của quê hương
        "Ngủ đi bé thơ
        Đời xanh tươi lắm
        Ngoài cánh cửa đề lao.
        Trời cao và rộng
        Trên mái nhà tù
        Gió lộng trăng thanh. "

    Mười Tuân giữ nét mặt rầu rầu:
    - Em rất thương chị Mỹ Lê. Sau lần chị sanh con trong tù, bị tù lần thứ hai rồi nghe tin anh Ba Chân bị xử bắn chị không gượng dậy nổi nữa. Chị suy nhược quá. Nếu chị không nghĩ tới:
      “Ngoài cánh cửa đề lao
      Trời cao và rộng
      Trên mái nhà tù
      Gió lộng trăng thanh”

thì chị sống sao nổi?
    - Chị Hai đang ở đâu?
    - Chị được điều động vô cứ rồi. Ở nội thành, chị ham đánh giặc quá sức khỏe chị cạn kiệt. Mấy anh buộc chị phải vô căn cứ để có dịp chạy chữa thuốc thang, nghỉ ngơi cho lại sức.
    Mười Tuân kể cho anh ruột nghe về cánh quân F (liên phường) của Tư Liên chủ trương làm cho thành pHồ tối om.Các chiến sĩ biệt động nhằm vào các trạm biến thế. Tư Liên cùng út Hảo, Năm Hưng chọn trạm biến thế Gia Định, đối quện với trạm là dinh Tỉnh trường, nơi thường xuyên có lính gác. Năm Hưng đèo út Hảo vọt vào trạm ném khối thuốc nổ vừa lĩnh ở kho má Sáu Hoàn. Trong một tháng, 14 trạm biến thế liên tiếp bị tấn công. Mỹ ngụy bắt buộc phải điều động lực lượng từ các nơi về đối phó. Rõ ràng là Việt cộng muốn đánh đâu vào lúc nào cũng được, đã có 187 xe Mỹ bị đốt cháy giữa đường, dính lựu đạn ghép hoặc vướng mìn cặp (cặp học sinh). Do ở gần má, được tiếp xúc với cán bộ ra vào căn cứ, Mười Tuân nắm được nhiều tin tức hơn anh ruột. Cậu kể tiếp:
    - Ban chấp hành Thành đoàn phân công chị chỉ đạo phong trào học sinh, sinh viên, thanh niên Sài Gòn - Gia Định. Mấy chú, mấy anh ép chị Hai nhận một con nhỏ làm bí thư riêng, thư ký kiêm liên lạc, kiêm cấp dưỡng. Nghe nói con nhỏ ngộ lắm.
   - Bữa nào mày đưa tao vô cứ thăm chị Hai.
    - Dạ .
    Ba Vĩ có bề dày kinh nghiệm công tác hơn em, có môi trường hoạt động trong học sinh, sinh viên, thanh niên nội thành khá rộng và đặc biệt cậu đang ngấp nghé là nhà thơ, nhà báo nên cậu quen biết nhiều văn nghệ sĩ, nhiều phóng viên, nhiều biên tập viên các báo nhưng cậu không dễ dàng ra vào căn cứ như em ruột. Lý do đơn giản là công tác của cậu không liên quan mấy tới căn cứ và má Sáu Hoàn không thể tùy tiện cho cậu vào thăm chị ruột. Chị cậu ốm quá. Mấy tháng gần đây, dù đã được tẩm bổ nhiều, uống thuốc nam, thuốc bắc, tiêm thuốc Tây đủ loại mà trọng lượng cơ thể của chị cậu không thể vượt qua mức 30 kilôgam. Mỹ Lê nhận lệnh điều động vào căn cứ. Anh Ba Đặng lấy danh nghĩa Bí thư Thành đoàn và là chống của chị Năm Trăng - bạn rất thân của Mỹ Lê, gợi ý :
    - Tôi rút con nhỏ Nguyễn Thi Hiệu còn gọi là bé Hạ từ Bến Tre lên làm liên lạc cho tôi. Con nhỏ ngoan, thông minh, linh lợi lắm. Tôi nhường nó cho cô.
    - Em đâu cần, anh Ba. Em tự lo mọi việc được mà.
    Anh Ba Đặng nghiêm giọng:
    - Đây là quyết định tập thể cô phải chấp hành.
    Anh hạ thấp giọng, vẻ thân tình:
    - Nói thiệt, nếu không vì cô, nếu bà xã tôi không can thiệp, tôi không nhả bé Hạ cho cô đâu. Con nhỏ lên sống vời gia đình tôi từ năm 1967. Nó tinh khôn, giỏi giang lắm.
    Mỹ Lê cười, đùa:
    - Nếu anh làm ông mối chắc nhiều cô gái sẽ đắt chống. Năm 1968 này, bé Hạ bao nhiêu tuổi rồi?
    - 15 tuổi.
    - Con nhỏ tuổi .Quý Tỵ, bằng tuổi Mười Tuân nhà em. Anh Ba! Nếu là lệnh, em xin phục tùng. Bữa nào anh đưa bé Hạ đến với em?
    - Thứ hai tuần tới.
Logged

Nếu có 1 ước muốn trở thành sự thật
Tôi chỉ muốn trở thành 1 người lính đảo
VoMinhGiang
Thành viên
*
Bài viết: 91


Sống trên đời sống cần có một tấm lòng.


« Trả lời #68 vào lúc: 29 Tháng Sáu, 2010, 06:45:24 pm »

    Bé Hạ lắng nghe chị Năm Trăng kể về cuộc đời và nỗi truân chuyên mà chị Mỹ Lê đã trải qua khiến cô phải khóc nhiều lần. Cô đồng ý rời nhà anh chị Ba Đặng ở khu Vườn Chuối, Sài Gòn để vô cứ. Vừa trông thấy chị Mỹ Lê cô đã òa khóc Cô biết là chị đã 27 tuổi, có hai con, nặng 29 kí 100, nhưng cô không ngờ là chị gầy yếu dưới mức tưởng tượng của cô. Chị chỉ còn là bộ xương di động, mắt trũng sâu, da tái tới mức cô có cảm giác dưới làn da xám xỉn không có tia máu nào. Bé Hạ khóc nức nở. Có lẽ do giọng nói cô mộc mạc, chân thành tiếng khóc của cô không màu mè, giả tạo, xuất phát từ ái tim nên Mỹ Lê có ngay thiện cảm với bé Hạ. Con nhỏ không xinh lắm nhưng trông mũm mĩm, có duyên thầm. Ở trong cứ, bé Hạ thuộc loại nhỏ nhất nhưng rất chăm làm. Cô giành mọi phần việc nặng nhọc cho mình hết sức tự giác, thoải mái. Cô không mảy may có cảm giác mình là người ở lo hầu hạ chủ để kiếm cơm ăn hoặc một công vụ có trách nhiệm phục vụ thủ trưởng mà là tình thân của em ruột với chị ruột đang đau yếu, bệnh tật. Vốn là con nhà nông, bé Hạ có tài mò của, bắt ốc, kiếm cá, câu tôm hoặc chế biến rau rừng, tạo thêm món ăn ưa miệng trong bữa cơm đạm bạc hàng ngày. Mỹ Lê cũng đặc biệi yêu quý bé Hạ . Từ ngày có bé Hạ, chị vui hơn, ăn ngon miệng hơn, ngủ đẫy giấc hơn. Hai chị em luôn quấn quít bên nhau như hình với bóng. Mỹ Lê không muốn xa bé Hạ. Có bé Hạ líu ríu bên cạnh, chị nguôi ngoại nỗi nhớ người thân ruột thịt. Bé Hạ biết cách chiều khẩu vị của chị, nài nỉ chị ép chỉ ăn thêm nửa chén cơm, dăm muỗng cháo và đêm đêm vui vẻ ngồi hàng giờ để xoa bóp giúp chị đỡ nhức đầu, giảm bớt đau khớp, đau lưng. Tuy vậy, chị phải nghĩ đến tương lai bé Hạ. Chị dự kiến đào tạo bé Hạ làm nữ giao liên tin cậy nhất giữ đầu mối liên lạc từ căn cứ vào nội thành. Muốn thế, chị phải lo cải trang cho bé Hạ. Bé đã qua một lần thay hình đổi dạng. Từ Bến Tre lên Sài Gòn, vợ chống anh Ba Đặng, Năm Trăng sắm cho bé Hạ toàn bộ quần áo mới may đúng mốt ở Sài Gòn. Bé Hạ hết sức ngượng khi phải vứt bỏ quần áo vải thô thay bằng các bộ đồ ni-lông mà các nữ học sinh nhà giàu thường diện. Vào căn cứ, Mỹ Lê lấy quần áo cũ của mình cho bé mặc. Mấy ngày gần đây, Mỹ Lê lấy mấy thước vải được phân pHồi, tự tay mình cắt, may thành bộ đồ. Vào một buổi tối chị bảo bé Hạ:
    - Em mặc thử bộ này cho chị xem.
    Bé Hạ ngạc nhiên.
    - Em tưởng chị may cho chị sao Chị mặc sao nồi bộ đồ rộng thùng thình này.
    Bé Hạ tự ngắm mình. Cô kém chị Mỹ Lê 12 tuổi nhưng cô mập hơn, to con hơn chị. Cô ướm quần áo vào người mình rồi mặc thử. Đẹp quá. Chị Mỹ Lê thật khéo tay. Chỉ với chiếc kéo, cái kim, cuộn chỉ chị đã may được bộ quần áo mà bẻ Hạ mặc vừa khít. Chị thủ thỉ
    - Đúng ba giờ chiếu mai, em xách giỏ cam, chanh tới điểm A. Trông thấy một thanh niên xách bịch kẹo, đcó đồng hồ tay phải, em hỏi họ mấy giờ. Nếu họ trả lời "5 giờ đúng" em dẫn anh ta về đây gặp chị.
    Bé Hạ hỏi lại:
    - Liệu em có làm nổi không? Nhỡ em nhầm thì sao? Mình là gái đến làm quen với con trai, em mắc cỡ lắm.
    - Chị tin là em làm được nên mới giao việc này cho em. Ở căn cứ với chị, em chỉ là công vụ, là liên lạc viên. Chị muốn em trở thành nữ giao liên tài giỏi, dũng cảm. Em sẽ hoạt động trong lòng địch giữa Sài Gòn như chị. Em phải mạnh dạn lên. Ý em thế nào?
    - Em đống ý.
    - Chị lo cho em thẻ học sinh ở ngoại thành, 14 tuổi. Để nhập vai mình thích hợp nhất, em nên cắt mái tóc dài đi.
    Bé Hạ bất giác dưa hai tay ôm lấy đầu mình. Cô quý mái tóc dài lắm. Từ nhỏ, những năm cắp sách đến trường, mái tóc cô dài nhất so với các bạn gái cùng lớp, cùng lứa tuổi. Có mái tóc dài cũng vương vướng khi gồi đầu, lúc. trời nóng, khi lao động song cô luôn cảm thấy thú vị, tự hào. Tóc dài, cô dễ tết thành bím, búi tó, kẹp sau lưng hoặc tạo thành hai trái đào và trông cô ra dáng người lớn hơn. Đã bao đứa bạn gái ghen tỵ, ước muốn có mái tóc dài quá đầu gối như cô mà không đạt được. Những ngày sống ở khu Vườn Chuối Sài Gòn, anh chị Ba Đặng - Năm Trăng cũng khuyên cô uốn tóc nhưng cô đã thuyết phục được anh chị cho mình giữ lại mái tóc dài. Hiểu được tâm trạng bé Hạ, Mỹ Lê phân tích:
    - Chị rất thích mái tóc của em. Chị đắn đo mãi mới khuyên em cắt tóc ngắn với mục đích làm em trẻ con hơn, hợp với lứa tuổi 14 ở ngoại thành và em đỡ vướng víu, bận bịu với mái tóc khi em chính thức thành nữ giao liên phải đi đêm, phải tránh giặc.
    Bé Hạ đắn đo giây lát. Cô chưa hoàn toàn nhất trí với lời giải thích của chỉ Mỹ Lê song cô tin ở tình cảm thân thiết hơn chị em ruột thịt giữa đôi bên nên cô biểu lộ thái độ dứt khoát:
    - Em lấy kéo, lấy lược. Chị cắt tóc cho em.
    Bé Hạ có bộ cánh mới, mái tóc mới, đôi dép mới với nhiệm vụ mới. Ngày thường, bé Hạ là cô bé con thuộc loại ít tuổi nhất ở cứ, giờ đây trông cô trông giống như bé học sinh ngây thơ hồn nhiên, thích làm nũng ba má. "Phi vụ" đầu tiên bé Hạ thực hiện khá trôi chảy vì cô thông thuộc địa hình, nắm vững ám hiệu, tín hiệu, giữ thế chủ động, nhưng anh cán bộ trạc 27, 28 từ nội thành ra lại thoáng chút ngỡ ngàng. Anh có nên giao sinh mạng mình cho con bé con này không? Anh buộc phải đi theo bé Hạ song trong lòng vẫn phân vân, cảnh giác. Những ngày tiếp theo, bé Hạ nhập cuộc khá thuận lợi. Khác với nhiều má, nhiều chị, các bác già hoặc các anh thường phải qua các bước nghiên cứu, điều tra thực tập, nắm quy luật địch v.v... trước khi chính thức "gánh" nhiệm vụ giao liên, bé Hạ vào nghề rất suông sẻ . Mỹ Lê thực sự hài lòng về đứa em gái do mình đỡ đầu. Chị giao những phần việc nặng hơn, phức tạp hơn, bé Hạ vẫn thực hiện trôi chảy.
Vào một ngày cuối năm 1968, bé Hạ lại đi đón khách. Vị khách này từ nội thành vào, đang ở trong căn cứ, có nguyện vọng xin gặp riêng chị Mỹ Lê. Theo đúng quy định bảo mật, bé Hạ và khách đều trùm mũ kín đầu nên đôi bên không nhìn rõ mặt nhau. Nhìn dáng dấp bế ngoài, Hạ đoán khách là anh thanh niên lực lưỡng trạc 20 tuổi. Khách lên tiếng trước:
    - Chào em gái. Nếu anh đoán không nhầm thì em là bé Hạ.
    - Ủa, sao anh rành tên em?
    - Các chiến sĩ biệt động nội thành đều kể về em. Tiếc rằng anh không được nhìn mặt em.
    - Để làm gì? Để anh chụp hình rồi giao cho cảnh sát bắt em à? Anh thứ mấy? Tên chi?
    - Anh là Mười Tuân.
    Bé Hạ lè lưỡi. Cô trót dại đã xưng "em" với thằng cha bẻm mép này rồi. Cô làm sao để sửa sai đây. Gần một năm chung sống, chị Mỹ Lê đã tâm sự với cô đủ điều, đặc biệt là má Sáu Hoàn và những đứa em ruột chị. Theo trí nhớ cô thì cái anh chàng Mười Tuân to xác này cùng tuổi Quý Tỵ với cô , sao anh ta dám xưng anh ngọt xớt với cô? Cô "trả đũa" luôn:
    - Chị Mỹ Lê nhủ tôi đón cậu. Mời cậu?
    Mười Tuân nhận ra cách chuyển gam của cô gái song cậu không cải chính vì cậu tự biết mình mới 15 tuổi và cậu chưa hiểu về cô giao liên giúp việc cho chị ruột mình.
    Vừa trông thấy chị ruột, Mười Tuân đã ôm lấy chị, sà vào lòng chị. Trước mặt chị, lúc nào cậu cũng thấy mình bé bỏng, mặc dù về thể xác, cậu dư sức nâng bồng chị bằng một cánh tay của mình. Cậu có bao nhiêu chuyện gia đình cần kể với chị. Thấy bé Hạ đã ý tứ ra phòng ngoài, khép cửa buồng lại Mỹ Lê kéo mũ em. Em chị chóng lớn quá, đã ra dáng một thanh niên rồi. Mười Tuân kể cho chị nghe chuyện những người thân ở Sài Gòn. Cậu dừng lại lâu nhất ở bé Tranh. Con bé đã hơn ba tuổi, càng lớn càng giống ba từ khuôn mặt, cặp mắt, dáng đi. So với đứa bé cùng sinh, nó gầy hơn, yếu hơn nhưng tinh khôn hơn, ngoan hơn. Nó có nhiều ba nuôi, má nuôi, ai cũng cho nó quà hoặc mang quần áo cho nó. Nó không bị ngọng, nói rất sõi, lễ phép với mọi người. Nó biết phân biệt ai là người thân ruột thịt của nó. Có lần út Hiếu đến chơi với nó, bé Tranh hỏi dì về má. Út Hiếu thương chị nén bật khóc. Làm cho cháu khóc theo. Hai di cháu cùng ôm nhau khóc, chả ai dỗ ai cả. Mười Tuân nhận xét:
    - Từ ngày lên Sài Gòn, út Hiếu rất mau nước mắt. Em đã bắt gặp nó nằm trên giường ở nhà sư cô Nguyễn Thị Nhàn khóc một mình.
    - Nó bị ốm à?
    - Đâu có. Tan trường, bạn nó rủ nó về nhà chơi. Bạn nó gọi "ba", quăng cặp, sà vào lòng ba. út Hiếu tủi thần bỏ về, khóc.
    Mỹ Lê hoàn toàn thông cảm với em gái. Út Hiếu đâu phải con bé yếu đuối. Thằng Mười Tuân là con trai, tính cách mạnh nên nó làm sao thông cảm với tâm hồn nhạy cảm của phái yếu được út Hiếu có tâm tư riềng của nó. Nó chưa tròn hai tuổi thì má bị bắt và từ ngày đó, nó gần như không được sống bên má. Ôm cháu Tranh, thương cháu lâm vào cảnh ngộ éo le hơn mình nên tủi thân, dì khóc làm cho cháu khóc theo. Út Hiếu không đáng trách vì đã khóc mà chỉ đáng thương. Chiến tranh đã đẩy hai dì cháu gặp nỗi khổ đau giống nhau. Mỹ Lê cũng hiểu rõ lý do vì sao út Hiếu khóc một mình. Tội thân con nhỏ. Từ ngày lọt lòng mẹ, nó có đón được chút tình phụ tử nào đâu? Nó thèm gọi "ba", nó khao khát được ba bế ẵm, ba cưng chiều. Đành rằng nó đã viết thư cho ba, gởi ảnh cho ba, rồi đọc thư ba gởi về nhưng nó mong muốn có người cha bằng xương; bằng thịt ở cạnh nó, săn sóc nó. Nó là con gái nên tình cảm sâu lắng. Chị trao đổi thẳng thắn với Mười Tuân và khuyên em trai:
    - Em cần chia sẻ nỗi buồn với út Hiếu. Đừng nên kết tội "khóc nhè" mà oan cho em gái.
    Mười Tuân cãi :
    - Chị biết không? Anh Ba Vĩ tổ chức học sinh, sinh viên đi thăm các cụ ở dưỡng lão đường và trẻ em mồ côi ở cô nhi viện. Út Hiếu vừa tắm cho mấy đứa nhỏ, vừa khóc. Cách đây mấy hôm, nó đòi theo má đi công tác, má không chịu, nó cũng khóc.
    Mỹ Lê cười:
    - Nếu chị ở vào hoàn cảnh út Hiếu chị cũng khóc. Ai mà cầm nổi nước mắt trước cảnh những bà già yếu đau, bệnh tật không nơi nương tựa và những đứa nhỏ cô đơn không còn cha mẹ. Mười Tuân à!
    - Dạ!
    - Nếu chị đề nghị má không cho em vô cứ, không giao công tác cho em, em tính sao?
    - Em phản đối. Em sẽ khiếu nại.
    - Đó ? Em không rời bỏ công tác được. Em đòi má theo cách của em và út Hiếu xin phép má theo cách riêng của nó. Em phải dìu dắt em Hiếu theo con đường ba, má chúng ta đã chọn.
    - Dạ!
    - Mười Tuân! Em là con trai, em nghĩ về ba, nhớ ba, làm theo lời dạy của ba theo cách riêng của mình. Út Hiếu là con gái nên nó mơ ước được vuốt ve, chiều chuộng. Em gái của chúng ta thiệt thòi, có nỗi trống vắng trong tâm hồn nên em cần độ lượng, cần đem hết sức mình bù đắp phần nào tình thương cho út Hiếu.
    - Tại sao thằng Bẩy Thiện không khóc? Sao nó không nhõng nhẽo đòi má?
    - Bẩy Thiện là con trai. Nhiệm vụ của nó là học giỏi. Em có hay gặp nó không?
    Mười Tuân lắc đầu - Cậu nêu lý do đã cản trở cậu. Thứ nhất là nhà chú Mười Thơ có ba tầng, khó gọi cổng. Thứ hai là thằng Bẩy Thiện là con cậu Tư, mợ Tư, không phải em ruột Mười Tuân về hình thức bên ngoài. Thứ ba là thằng nhỏ quá ham học không thích đi chơi.
    Mỹ Lê đã đoán được ý má định thế Bẩy Thiện giữ dòng dõi họ Dương thay Tư Linh nên khuyên em:
    - Em nên thương Bẩy Thiện. Thằng nhỏ quá thiệt thòi, không được gần ba, không sống chung với má và anh chị em ruột Em cũng đừng trách út Hiếu hay khóc nhè.
    - Em nhớ rồi chị Hai. Em có khuyết điềm chưa thông cảm với út Hiếu. Chị Hai! Má mới nhận được thư ba. Ba gửi bản tin tham khảo và kể về ngày hành hình anh Ba Chân. Chị đọc thư ba trước rồi mới gửi ra ngoài đó cho má. Em! Chị còn sống trên đời ngày nào, chị còn ghi nhớ việc Chính phủ ta đã làm. Anh rể em chỉ là một cán bộ bình thường mà có tới ba chính phủ quan tâm tới. Đúng như ba viết: "Nếu thế và lực của ta không mạnh, tổng tHồng Mỹ sẽ phớt lờ mọi kiến nghị của ta". Không có chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa can thiệp, anh Ba Chân chắc đã tan xương nát thịt, mộ anh đã xanh cỏ từ lâu rồi.
    Mười Tuân tán thành những nhận định của chị ruột. Cậu đứng dậy, cầm mũ trên tay, rụt rè gợi ý:
    - Em "xả" được không chị?
    Mỹ Lê từng trải hơn nên chị "đọc" ngay được vẻ lúng túng trên khuôn mặt, trong lời nói của em trai. Thằng bé sắp sang tuổi 16 rồi, liệu nó đã nghĩ đến yêu đương chưa? Tại sao nó đế nghị "xả"? Khi chị đã cho phép, đã tự tay lấy mũ ra khỏi đầu nó? Chắc chắn không phải vì chị. Gần hai giờ qua, chị và nó có cần mũ che mặt đâu. Rõ ràng là vì tò mò, vì hiếu kỳ , cu cậu muốn "xả" để xem mặt bẻ Hạ. Chị nên quyết định như thế nào? Chị nên bỏ phiếu thuận để hai đứa làm quen. nhau, trở thành đôi bạn thân thiết và tương lai sẽ tiến tới hôn nhân với nhau hay bỏ phiếu chống? Kể ra hai đứa cũng đẹp đôi. Sống ở Sài Gòn, hòa nhập với lực lượng học sinh, sinh viên, thằng Mười Tuân không thiếu những cô gái cùng lứa tuổi khá xinh đẹp và rất giàu. Cũng giống như mọi cán bộ đàng mình hoạt động ở nội thành thời đó, Mười Tuân đã và sẽ không mảy may rung động trước các cô gái Sài Gòn mà luôn hướng tới mục tiêu tìm đối tượng vào những người ở trong căn cứ. Mười Tuân đề nghị "xả" không ngoài mục đích làm quen, gây thiện cảm rồi dựa vào thế chị ruột để đi xa hơn nữa, Mỹ Lê rất yêu cả bé Hạ và Mười Tuân nhưng dù sao, chị cũng nghiêng về phía em ruột của mình. Là chị cả của gia đình họ Dương, chị không định chấm bé Hạ làm em dâu mình vì hai đứa bầng tuổi nhau và vì Mười Tuân tồ quá, bé Hạ quá tinh khôn, Mười Tuân sẽ bị bé Hạ làm chống. Hơn nữa, Mười Tuân chưa sang tuổi 16 và chị chưa xin ý kiến má về việc hệ trọng này. Chị quyết định chặn con đường tiến tới của em ruột bằng ý kiến:
    - Em đội mũ vào. Nếu vi phạm nguyên tắc bảo mật, hai chị ẹm ta sẽ bị phê bình.
    Mười Tuần đành chấp hành mệnh lệnh. Cậu thoáng buồn vì không có thêm chi tiết về con bé ngồ ngộ làm liên lạc cho chị Hai để kể cho anh Ba Vĩ nghe.
Logged

Nếu có 1 ước muốn trở thành sự thật
Tôi chỉ muốn trở thành 1 người lính đảo
VoMinhGiang
Thành viên
*
Bài viết: 91


Sống trên đời sống cần có một tấm lòng.


« Trả lời #69 vào lúc: 29 Tháng Sáu, 2010, 06:49:39 pm »

26
    Chánh Văn phòng Dương Văn Đấu ngồi bất động trên ghế, chờ đợi. Cậu lái xe vào gặp ông:
    - Bác Đấu! Bộ trưởng yêu cầu các thành viên trong đoàn mặc complê đen, đcó băng tang này vào cánh tay phải.
    Ông đưa mắt về phía băng tang có màu nửa đỏ, nửa đen. Đây là lễ nghi chính thức cấp Nhà nước, là dấu hiệu để tang các nguyên thủ Quốc gia. Ông uể oải đứng dầy, thay quần áo đúng theo quy định của Bộ trưởng. Đời ông, ông đã tiễn biết bao nhiêu người thân yêu ruột thịt về nơi an nghỉ cuối cùng nhưng chưa lấn nào ông ở trạng thái như người mất hồn, nuối tiếc, đau đớn, nặng nề như lần này. Bác Hồ đã ra đi rồi. Hồ Chủ tịch không còn nữa. Những năm tháng ở miền Bắc, ông đã gặp Bác nhiều lần. Bác giản dị, khiêm tốn, thông minh, uyên bác. Là cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc, ông đặc biệt cảm động trước tình cảm của Bác Hồ với miền Nam ruột thịt. Ông cất tất cả các tấm hình Bác chụp chung với các đoàn đại biểu từ miền Nam, với các anh hùng, dũng sĩ, các cháu thiếu nhi của miền Nam. Ông có một thói quen trở nên hết sức thiêng liêng là nghe thơ chúc tết của Bác vào đúng 12 giờ đêm 30 tết. Bài thơ nào, dù có bốn câu hay sáu câu, tám câu, Bác đều gói ghém, đều gửi tình cảm của Bác với miền Nam:
   Xuân này hơn hán mấy xuân qua.
    Thắng trận tin vui khắp m/oi nhà
    Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
   Tiến lên toàn thắng ắt ta

hoặc
    Năm qua thắng lợi vẻ vang
   Năm nay tiền tuyến ắt càng thắng to
   Vì Độc lập, vì Tự do
   Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào
   Tiến lên! Chiến sĩ đồng bào
   Bắc Nam sum họp xuân nào vui hơn

    Bác Hồ đã từng rèn luyện thán thể, tập đi bộ để nếu Bộ chính trị cho phép, Bác có đủ sức khỏe vượt Trường Sơn để đến với đồng bào miền Nam. Bác từ cHồi không nhận huân chương với lý do "khi nào nước nhà tHồng nhất, bà con miền Nam sẽ tặng cho tôi". Bác Hồ đã đi xa rồi. Thế là chẳng bao giờ các con ông, vợ ông và đồng bào miền Nam đạt được ước mơ gặp Bác. Bác là linh hồn, là chỗ dựa cho ông, cho cả dân tộc  ta. Còn nhớ, những ngày đầu, Mỹ đưa quân viễn chinh vào miền Nam, nhiều người lo và thất vọng quá. Theo quan điểm của ông nếu Mỹ càng tăng quân, chiến tranh càng ác liệt do đó người dân Việt Nam ở cả hai bên đối địch bị bom đạn giết hại càng nhiều; số gia đình mang tang tóc vì có người thân bị giết chóc càng lớn. Đã thế, sau mỗi năm, số quân Mỹ đưa vào miền Nam đều nhiều hơn. Theo những số liệu ông nắm được thì năm 1964, tướng Oétmôlen mới chỉ huy có 23.000 quân Mỹ, đến năm 1965 đã tăng vọt lên 18 vạn tên. Làm thế nào ta có thể đánh bại được quân Mỹ được trang bị vũ khí, khí tài hiện đại, có uy lực sát thương tới mức không nước nào trên thế giới sánh kịp.
    Ngày 17 tháng 6 năm 1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời tuyên bố.
    "Dù chiến tranh có thể kéo dài năm năm, mười năm, hai mươi năm hoặc lâu hơn nữa, Hà Nội, Hải Phòng và một số thành pHồ, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ. Không có gì quý hơn Độc lập, Tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn".
    Rõ ràng Bác đã nói lên quyết tâm của cả dân tộc. Chắc chắn rằng Mỹ không thể kiên trì như Bác Hồ, như nhân dân ta. Mỹ muốn dùng sức mạnh quân sự, dùng máy bay phản lực, xe tăng, tàu chiến để chiến thắng nhanh nhưng ta đã sẵn sàng đương đầu với chúng bằng ý chí rất cao. Một khi mà cả dân tộc đoàn kết thành một khối, cùng nhằm vào mục tiêu đánh Mỹ và thắng Mỹ thì Mỹ sẽ nản và sẽ bị thua. Cho đến năm 1966, Mỹ đã đưa vào Việt Nam tới 389.000 quân, Mỹ có đủ loại máy bay, tàu chiến, trong số đó có loại pháo đài bay B52 có khả năng ném bom hủy diệt một mục tiêu nào đó trong cHồc lát. đặc biệt, Mỹ còn đưa sang đây những lực lượng tinh nhuệ, thiện chiến bậc nhất của chúng. Trên thế giới này, chưa có một nước nào có sư đoàn mà bất cứ cơ động đến đâu đều bằng máy bay như sư đoàn 1 không kỵ, sư đoàn có một không hai của Mỹ. (Khi Mỹ rút, căn cứ của sư đoàn 1 không kỵ ở An Khê được Mỹ bàn giao lại cho quân ngụy Sài Gòn và tính vào tiền viện trợ tới 25 triệu đô la).
    Vào thời điểm nước sôi lửa bỏng đó, nếu Bác không đưa ra lời hiệu triệu hô hào cả dân tộc ta nhất tề đứng dậy thì sao? Bác là một vĩ nhân đã đưa đất nước, con người Việt Nam lên một tầm cao mới.
    Bộ trưởng đã ra xe. Ông Bẩy Đấu uể oải bước theo. Các thành viên trong đoàn không ai nói với ai lời nào, đưa cặp mất đỏ hoe nhìn vào khuôn mặt buồn da diết của nhau. Đã lâu kể từ ngày vào tuổi thành niên, Ông Bẩy Đấu chưa bao giờ khóc nhưng từ lúc nghe tin Bác qua đời, Ông không sao cầm được nước mắt. Ông cố nén mình không gào to, khóc to nhưng ông phải luôn tay dùng mùi xoa lau nước mắt giàn giụa tràn ra khỏi mi, đặc biệt khi đoàn ông đi vòng quanh qua linh cữu Bác. Bác như dang ngủ. Ông nhìn rõ chòm râu, mái tóc của Bác. Bác gần gũi, thân thiết quá! Bác hi sinh cả đời mình, không vợ, không con. Tại sao không cho phép những ai từ 60 tuổi trở xuống đều mặc áo xô, đội mũ rơm, chống gậy tre, chít khăn ngang để tang Bác như để tang cho bố đẻ của mình? Ông yêu Bác, thương Bác, .kính trọng Bác. Cho đến khi từ giã cõi đời này, Bác vẫn truyền lại lòng tin tuyệt đối cho nhân dân cả nước: "... Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ tHồng nhất. Đồng bào Nam Bấc nhất định sẽ sum họp một nhà ..."
    Những ngày tiếp theo Ông Bẩy Đấu ăn không biết ngon, ngủ không đẫy giấc. Ông không tiếp khách, bỏ qua nhiều việc chuyên môn. Đây là hiện tượng lạ, rất khác thường chưa ai từng chứng kiến ở đồng chí Chánh văn phòng. Hiểu rõ nỗi đau. đã thấm trong tim, trong máu ông nên Bộ trưởng đã giao nhiệm vụ cho ông:
    - Anh Bẩy Đấu thay mặt Bộ trưởng túc trực bên linh cữu Bác và tham gia Ban tồ chức tang lễ Bác.
    Ông Bẩy Đấu lao vào việc. Ông lấy cuốn sồ đẹp nhất, nắn nót ghi nhật ký. Từ ngày học trường Bách Nghệ, Ông là học viên có hoa tay nhất khóa, chữ ông viết đẹp, đều như chữ in, giờ đây ông cố viết chau chuốt với ý định không chỉ để cho vợ ông, các con ông mà để đồng bào miền Nam hiểu đầy đủ về Bác, về lời đánh giá của gần trăm đoàn đại biểu nước ngoài được đăng đầy đủ trên các tờ báo. Với Ông, Bác Hồ rất vĩ đại, là siêu nhân, là cha già của dân tộc. Khi Bác đã yên nghỉ, nhân dần thế giới đã ca ngợi Bác bằng những lời đẹp nhất, cao quý nhất. Hỏm dự lễ tang, ông nghe như nuốt từng câu, từng chữ trong di chúc Bác để lại và qua bài điều của Ban chấp hành Trung ương Đảng ta.
    Trong những ngày Ông Bẩy Đấu hướng mọi tâm trí về Bác Hỗ ở Hà Nội thì vợ và các con Ông ở miền Nam cũng tưởng niệm Bác theo cách riêng của từng người.
    Tư Linh có điều kiện hơn các em vì cậu ở riêng một phòng và được dì Bẩy, đương Bẩy trang bị cho cái đài tốt nên cậu thường xuyên nghe đài Hà Nội rồi truyền đạt lại cho các em. Từ ngày Bác mất, ba anh em gặp nhau thường xuyên. Một hôm, Tư Linh thông báo cho Ba Vĩ, Mười Tuân: "Anh đã ghi được toàn văn di chúc của Bác Hồ". Ba Vĩ bàn:
    - Các tờ báo Sài Gòn đều nói về Bác. Anh Tư mua những tờ này.
    Do đã hoạt động trên lĩnh vực thơ ca, báo chí nên Ba Vĩ nắm chắc tên 27 tờ nhật báo lưu hành ở miền Nam. Ba anh em phân công mua đủ cả 27 tờ chỉ với mục đích xem báo chí phản động nói về cái chết của Bác Hồ như thế nào? Ba anh em đều có chung kết luận: Trừ tờ phản động "Tin Sáng", tất cả các báo khác đều nói đến Bác Hồ một cách trân trọng.
    Trên trang của một số báo Tin sáng ra ngày thứ bảy và chủ nhật ngày 6 và 7 tháng 9 năm 1969 có bài "Nhục nhã cho báo chí” của nhà báo Ngô Công Đức. Bài này được đóng khung trang trọng. Tác giả đã viết:
    "Để cho đến lúc này, với cái chết của một người, chúng ta mới thấy rõ cái bộ mặt thật của nền báo chí Việt Nam
Người ta bảo rằng báo chí chính là đệ tứ quyền, là phản ánh dư luận của quần chúng và chính quyền muốn biết quần chúng nghĩ thế nào, chỉ cần theo dõi báo chí thì biết. Điều đó, ký giả nào cũng hiểu như vậy. Và cũng vì thế cho nên, một số ký giả ngoại quốc, khi muốn đi tìm phản ứng của đại đa số nhân dân miền Nam trước cái chết của Ông Hồ Chí Minh họ đã thất vọng. Một ký giả ngoại quốc đã nói với chúng tôi: "Tôi không sao hiểu được báo chí Việt Nam. Tại sao trước một biến cố lớn như thế này mà ..."
    Vâng, ông ký giả nói đúng. Làm sao ông biết được những động lực huyền bí đứng đàng sau cái mặt tiền của tự do báo chí Việt Nam?
Nhìn tờ báo Star Stripes của quân đội Mỹ - một quan đọi chống Cộng - thấy người ta đăng hình, viết bài về người chết, rồi mình nhìn báo Việt Nam thấy hổ thẹn quá! Có lẽ trên thế giới ngày hôm nay, chưa có nến báo chí ở nước nào lại tỏ ra một thái độ "bên lề cuộc đời" như báo chí ở miền Nam Việt Nam trước cái chết của ông Hồ Chí Minh, lãnh tụ Bắc Việt.
    Điều đó chúng tôi nhận tội, nhưng cũng xin thông cảm".
    Cũng trên số báo này, Tin Sáng đăng ý kiến của dân biểu Trần Ngọc Châu:
    "Chính phủ Việt Nam Cộng hòa nên tỏ lời phân ưu với miền Bắc trước cái chết của một lãnh tụ chính trị đã suốt đời đấu tranh cho lý tưởng - dù chúng ta đối nghệch với lý tưởng đó".
    Dân biểu Hồ Hữu Tường lại đưa ra gợi ý cụ thể hơn:
    "Ở Ba Lê (Pa-ri), tôi đã coi bói và đoán biết ông Hồ Chí Minh chết nên tôi mới về nước đề làm Trưởng phái đoàn Việt Nam Cộng hòa sang Bắc Việt phúng điếu và chia buồn nhân dịp ông Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tạ thế, tôi kêu gọi các nhà cầm quyền trên lãnh thổ Việt Nam không luận bên nào (của Việt Nam Cộng hòa, của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, của chính phủ Cách mạng lâm thời) hãy nên thể theo truyền tHồng quý báu của dân tộc Việt Nam mà tôn trọng một cuộc ngừng bắn toàn diện trong thời kỳ tang lễ".
Một dân biểu khác, hạ nghị sĩ Nguyễn Văn Lễ, đại biểu Gò Công đã lên tiếng trong bức thư ngỏ gởi chủ tịch hạ viện Nguyễn Bá Lương:
    "Xin phép Ông Chủ tịch và quý Viện thảo luận ngay một vấn đề cần thiết của chúng ta trước một biến cố lịch sử mà thế giới đã đề cập trong hai ngày qua, vì trong nước chúng ta cũng có một số đông dân biểu, nghị sĩ, chính khách đã lên tiếng: đó là cái chết của ông Hồ Chí Minh, Chủ tịch Bắc Việt Nam. Yêu cầu ông Chủ tịch và quý đồng Viện kêu gọi các phe lâm chiến ngừng bắn trong thời kỳ tang lễ ông Hồ Chí Minh và hạ viện cử một phái đoàn ra Bắc Việt để phúng điều".
    Cũng như mọi người dân miền Nam, Tư Linh, Ba Vĩ Mười Tuân rất đau đớn vì Bác Hồ đã ra đi. Các cậu gặp mặt nhau luôn, bình luận, phân tích các bài báo. Các cậu không tin là Nguyễn Văn Thiệu sẽ đồng ý cử một phái đoàn ra miền Bắc dự lễ tang Bác Hồ nhưng các cậu đoán chắc là sẽ có hưu chiến. Nguyễn Văn Thiệu sê không dại gì chà đạp lên dư luận, lên lòng thương tiếc vỏ hạn của bà con miền Nam - trong đó có nhân dân Sài Gòn - Gia Định - về một tổn thất không thể nào bù đắp nổi là sự ra đi của Bác, các câu không ngờ là trong số báo ra ngày 8 tháng 9 năm 1969. Tin Sáng loan tin dòng chữ cờ lớn nhất, đầu đề đập ngay vào mắt người đọc:
    "Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã bác bỏ đế nghị hưu Chiến của Mặt trận Dân tộc Giải phóng".
    Để nói rõ lập trường của chính phủ, tờ báo ghi:
    "Việc hưu chiến trong ba ngày kề từ ngày 8 đến ngày 11 tháng 9 năm 1969 nhân dịp tang lễ Chủ tịch Hồ Chí Minh do Mặt trận Dân tộc Giải phóng đề nghị không thể được xem như các lễ truyền tHồng khác.
Theo quan điểm của chính phủ Việt Nam Cộng hòa bác bỏ hưu chiến nhằm bảo vệ hữu hiệu an ninh cho đồng bào".
    Thấy việc làm thất nhân tâm của Thiệu, phó đại sứ Mỹ Berger cùng tướng Abrams đến dinh Độc lập gặp Nguyễn Văn Thiệu và tướng Cao Văn Viên, rồi cho ra thông báo lấp lửng: "Mỹ và Việt Nam Cộng hòa sẽ tôn trọng hưu chiến của Việt cộng nếu họ cũng làm như vậy".
Logged

Nếu có 1 ước muốn trở thành sự thật
Tôi chỉ muốn trở thành 1 người lính đảo
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM