Cấu tạo
Hình dáng sơ bộF-1 là loại máy bay chiến đấu một chỗ ngồi với kiểu thiết kế một tầng cánh, cánh cụp rộng thay đổi, được trang bị bộ ổn định xoay chiều và một cánh ổn định đuôi thẳng đứng. Khung máy bay được làm bằng hợp kim titan. Dù hãm đặt ở đuôi, phía trên vỏ động cơ. Bề ngoài của F-1 khá giống với loại máy bay SEPECAT Jaguar của Pháp/Anh.
Buồng lái Buồng lái nhìn từ phía trước của T-2 (trên) và F-1 (dưới)
Buồng lái F-1 khá nhỏ và không có vòm kính kiểu bot nước. Dù vậy, tầm nhìn từ buồng lái vẫn khá tốt, nhưng kém hơn so với F-2, đặc biệt là nhìn về phía sau. Phần giữa khung buồng lái và mũi được chế tạo khá dày để đề phòng việc chim chóc lao vào máy bay. Không giống như F-2, phi công ngồi trong một vị trí truyền thống, không có độ dốc ngược ra sau như ghế của F-2. Phi công điều khiển máy bay bằng một cần điều khiển ở giữa và tay ga ở bên trái, kết hợp cả hai thành thanh điều khiển (hands-on-throttle-and-stick) (HOTAS).
Máy bay cũng được trang bị ghế phóng cho phép tổ phi công thoát khỏi máy bay trên bất kỳ độ cao và tốc độ nào.
Vị trí đánh dấu ghế phóng
Bảng điều khiển của F-1 gồm một màn hình hiển thị trước mặt (HUD) được sản xuất bởi Shimadzu với màn hình radar nằm ở trung tâm bên dưới nó. Phía dưới bên trái là bảng kiểm soát dự trữ, và trên nó là các thiết bị hoa tiêu và hệ thống đo độ cao J-APN-44. Nửa phía phải bảng thiết bị có màn hình hiển thị cho động cơ và các hệ thống. Phía bên trái buồng lái, ngay phía trước thanh điều khiển ga, là các nút kiểm soát thiết bị liên lạc.
Hệ thống điện tửCác thiết bị điện tử được trang bị cho F-1 gồm:
- Hệ thống dẫn đường quán tính (INS) J/ASN-1, thiết bị đo độ cao vô tuyến TRT.
- Hệ thống điều khiển hỏa lực J/ASQ-1 do Mitsubishi Electric sản xuất
- Hệ thống điều khiển tên lửa đối hạm J/AWA-1 (tương ứng với ASM-1)
- Hệ thống đo độ cao J-APN-44.
- Hệ thống máy tính số trung tâm, kênh dữ liệu số và máy tính dữ liệu trên không.J/A24G-3.
- Hệ thống thiết bị tiếp sóng LMT, máy thu phát vô tuyến.
- Thiết bị nhận tín hiệu cảnh báo radar J/APR-3 với một ăngten hình ống bố trí phía sau đỉnh cánh đuôi.
- Thiết bị trinh sát hồng ngoại.
Radar xung Dopple đa chế độ hoạt động trong mọi điều kiện thời tiết J/AWG-12 được trang bị cho F-1 tương tự loại AN/AWG-12 trên tiêm kích F-4M Phantom của Không quân Hoàng gia Anh. Loại radar này phát triển từ radar AN/AWG-10. Tầm hoạt động hiệu quả đạt 55 - 60 km, nó có khả năng đa nhiệm, thực hiện các nhiệm vụ không đối đất, đối hải, bao gồm cả vai trò chống hạm.
Từ năm 1985, F-1 được lắp đặt hệ thống điều khiển tự động trong mọi giai đoạn bay, gồm bay thấp trong mọi địa hình, bay riêng và theo nhóm chống lại mục tiêu trên không - mặt đất - trên biển. Hệ thống điều khiển tự động được kết nối với hệ thống dẫn đường để đảm bảo máy bay bay đúng đường, tự động tiếp cận địch, tìm được đường về căn cứ và hạ cánh tự động.
Trong thập niên 1970, thiết bị nhận tín hiệu cảnh báo radar J/APR-3 được trang bị cho F-1 là một trong những hệ thống tiên tiến nhất tại thời điểm đó. Sau này để tăng cường khả năng tự vệ của máy bay, một số chiếc F-1 cũng đã được trang bị thiết bị gây nhiễu tần số vô tuyến.
Hệ thống vũ khíMáy bay cũng có 7 giá treo vũ khí ngoài để gắn các loại vũ khí khác nhau. Điểm treo dưới thân máy bay và 2 điểm gần thân có thể được sử dụng để mang thùng nhiên liệu phụ, tăng tầm hoạt động cho máy bay. Tổng khối lượng vũ khí treo ngoài mà F-1 có thể mang theo lên tới 2.8 tấn.
Hệ thống vũ khí được trang bị cho F-1 gồm :
-
Vũ khí gắn trong thân : một khẩu pháo 20 mm JM61A1 Vulcan với 750 viên đạn. Những khẩu pháo có thể bắn với tốc độ 6.000 viên/phút, trọng lượng đạn là 100g.
-
Tên lửa đối hạmTên lửa đối hạm siêu thanh ASM-1 Type-80 là vũ khí chính của F-1. ASM-1 Type-80 là loại tên lửa có điều khiển được tập đoàn Mitsubishi nghiên cứu, phát triển trong hơn 7 năm, được triển khai năm 1980.
Tên lửa có chiều dài 3,95 m, sải cánh 1,2 m, đường kính thân 0.35 m, trọng lượng 760 kg, trong đó đầu đạn nặng 150 kg, tầm bắn xa 50 km.
Type-80 có thể bay lướt mặt biển ở độ cao cực thấp. Nó được điều khiển bởi hệ thống dẫn đường quán tính (INS) J/ASN-1 và hệ thống đo độ cao J-APN-44. Khi bay ở giai đoạn kiểm tra cảnh giới, nó bay cách mặt biển 15m, ở giai đoạn cuối khi tiếp cận mục tiêu, nó chỉ cách mặt biển 2-3m, việc bay quá thấp như vậy hoàn toàn ‘làm mù” hệ thống radar cảnh giới của đối phương.
Đầu nổ của đầu đạn Type-80 là loại “bản xuyên giáp”. Trước tiên, dựa vào năng lượng vận động khi bay, đầu đạn có thể xuyên thủng mạn tàu đối phương, ngòi đầu nổ tên lửa có thể xuyên thủng mạn tàu địch, sau mấy giây xuyên vào trong tàu, ngòi đầu nổ tên lửa lại dẫn nổ, từ đó làm nổ tung đầu đạn có chứa lượng thuốc nổ cực mạnh ngay trong thân tàu, cộng với lượng chất đốt vẫn chưa cháy hết của tên lửa cùng tung ra theo tiến nổ, khiến cả khoang tàu bốc cháy, làm tàu địch bị phá hủy nặng nề. Đường kính lỗ đạn phá có thể rộng đến 10m.
Type-80 được trang bị đầu tự dẫn radar kiểu chủ động có khả năng chống nhiễu mạnh. Nó có khả năng hoạt động trọng moi điều kiện thời tiết. Đầu tự dẫn radar kiểu chủ động có thể tự điều chỉnh đường ngắm trúng vào mục tiêu trong mặt phẳng góc
+ 30
o, dẫn tên lửa vào chỗ tập trung mạnh nhất sóng phản xạ từ vỏ tàu mục tiêu về, thường tạo nên “tâm” bề mặt phản xạ của tàu.
-
Bom và rocketF-1 trang bị các loại bom 500 và 700 pound (Mk82 và M117). Bom Mk-82 và M117 có thể được trang bị hệ thống dẫn đường hồng ngoại, trở thành vũ khí được điều khiển chính xác, chúng được điều khiển để tiêu diệt các mục tiêu tỏa nhiệt di chuyển trên biển như tàu hay những mục tiêu trên mặt đất. Khi được trang bị những thiết bị hỗ trợ như vậy, bom được gọi với tên GCS-1.
Trước đây, F-1 còn được trang bị loại bom chùm CBU-87/B. Hiện nay, dẫn theo Hiệp ước cấm bom chùm của Liên hợp quốc, loại bom này bị cấm trang bị trên các máy bay chiến đấu của Nhật Bản.
F-1 cũng được lắp đặt các ống phóng rocket JLAU-3/A cỡ 70 mm, rocket RL-7 70 mm, rocket RL-4 125 mm.
-
Tên lửa không đối không Tên lửa tầm nhiệt không đối không AIM-9 Sidewinder (Rắn đuôi chuông) được mang trên những điểm treo đầu cánh, nhưng nó có thể cũng được mang trên điểm treo phía ngoài dưới cánh khi đảm nhiệm vai trò phòng không của F-1.
Nhìn từ hình dáng bên ngoài, Sidewinter giống như một chiếc gậy tròn nhỏ dài. Cấu tạo của tên lửa gồm bốn bộ phận : đầu trên là đầu tự dẫn điều khiển tên lửa bay được lắp ở sát mũi tên lửa: bộ phận thứ hai là đầu đạn, bên trong chứa thuốc nổ: bộ phận thứ ba là động cơ, có tác dụng đẩy tên lửa bay về phía trước; bộ phận cuối cùng là đuôi tên lửa, phần trên của đuôi có lắp cánh tên lửa dùng để giữ cho tên lửa bay thật ổn định. Tổng chiều dài của Sidewinter khoảng 2m, tầm bắn khoảng 7m.
Ở phía trước đầu đạn tên lửa Sidewinter có lắp một thiết bị có thể phát hiện được và thu được tia hồng ngoại. Thiết bị này phối hợp với đầu tự dẫn điều khiển tên lửa bám đuổi theo máy bay cho đến khi bắn trúng mục tiêu.
Mọi vật trong tự nhiên chỉ cần ở điểm 0 tuyệt đối, nó sẽ không ngừng phát ra tia hồng mà mắt người không thể nhìn thấy được. Nhiệt độ càng cao, tia hồng ngoại phát ra càng mạnh, trong khi đó luồng khí phụt ra ở đuôi máy bay kha 1cao, nên tia hồng ngoại phát ra từ máy bay rất mạnh. Vì thế thiết bị dò tìm hồng ngoại lắp ở đầu đạn tên lửa sẽ dễ dàng thu được tia hồng ngoại phát ra từ đuôi máy bay, từ đó thông qua đầu tự dẫn mà điều khiển tên lửa bám sát mục tiêu.
Thế nhưng, khi Sidewinter nhanh chóng tiếp cận máy bay, nếu máy bay đến từ một góc mgoặc gấp, luồng khí nóng phát ra từ đuôi máy bay cũng lập tực thay đổi phương hướng. Lúc này tên lửa khó có thể tiếp tục thu dđược tia hồng ngoại mà nó đang bám theo, mà vào thời điểm đó, tia hồng ngoại phát ra từ mặt trời tỏ ra mạnh hơn, vì thế tên lửa có thể bay theo hướng mặt trời làm mất hiệu quả.