Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 04:41:33 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Đại tá không biết đùa  (Đọc 20397 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #10 vào lúc: 10 Tháng Năm, 2008, 10:32:48 pm »

        Bà kể: chiều hôm đó trông thấy máu chảy bà phảI nhắm mắt lạI, hai tay ôm lấy mặt, trong lúc hoảng sợ bà nghĩ phảI bỏ nơI này, nếu không bộ đội nghi có liên quan với “Pốt”… LạI rất có thể “Pôt” bắn vào bà, nếu có những người đI đường biết có phục kích, “Pốt” sẽ cho là bà báo trước cho họ. Đêm đó hai mẹ con gói buộc xong, chui xuống nằm ở gầm giường. Các gói bọc xô chậu xếp ở xung quanh. Trước khi đI ngủ đã phảI chèn buộc cửa ở đằng trước, đằng sau thật kỹ. Chỗ giường nằm khoét phên che vừa đủ một chỗ để chui ra khi cửa nhà bị phá. Lúc độ bảy, tám giờ tối có mấy tràng súng máy nổ như xé ruột. Hai mẹ con ôm lấy nhau, run quá, nhưng vẫn nghe tiếng xì xào của người con gáI Cam-pu-chia ở chỗ gốc những cây thốt nốt. Sáng ra, nghe tiếng nói ở ngoàI đường mới dám mở cửa, bà loáng thoáng trông thấy một người con gáI giông giống cô bé đIên từ trong rừng trở về… Tất cả những nguồn tin đều được xác minh, được theo dõi. Nhưng về sau nó được tô vẽ thêm thắt của lính và thường dân làm nó sai lạc đI khiến cơ quan có nhiệm vụ theo dõi việc này đã cảm thấy bất lực. Người ta chỉ còn biết biểu hiện lòng thương xót cảnh ngộ của đạI tá bằng những lời an ủi quen thuộc, sự hứa hẹn chung chung. Cho đến lúc này thì những triết gia “bã chè” thấy ân hận, thấy không nên phê phán ông ta. Nhưng thói quen thì khó bỏ, họ chuyển sang lên án cơ quan tác chiến, cơ quan bộ tham mưu. Xét cả về thực tế lẫn lý luận một cách bình tĩnh khách quan, mới thấy việc họ xử lý con trai đạI tá và những người bạn của nó là vô lý, là cạn tàu ráo máng. TạI sao họ lạI dồn ông vào thế bí, buộc ông phảI buông ra một lời để họ coi là quyết định cuối cùng trong việc xử lý con ông. Những người trung thành tuyệt đối với nhiệm vụ, hoặc chỉ tỏ ra trung thành ở đầu lưỡi thì cũng không thể bênh vực con khi tất cả đã ồn ã vì tính chất nghiêm trọng của nó. Trong hoàn cảnh ấy đạI tá không thể im lặng, cũng không thể nói khác, khi ông ta từng nghiến răng run lên trước mọi cử chỉ hèn nhát ở bất cứ ai. Ông ta sai lầm ở chỗ nào? Không có sai gì hết. Từ trước đến nay tôI nói ông ta là người mẫu mực. Ông ấy hy sinh một cách thành thật và triệt để. Ông ta thường nói: chùng ta sẵn sàng hy sinh đến hơI thở cuối cùng của người cuối cùng… Đến bây giờ tôI mới thấy đó là những lời tâm huyết thật, chứ không phảI bằng nước bọt đánh lừa mọi người. TôI không thấy thế. Bằng mọi biện pháp, mọi khả năng thuyết phục và quen biết rộng, ông ấy chạy vạy cho con đI chiến trường còn gian truân vất vả hơn kẻ luồn lọt cho con đI học ở một nước tư bản giàu, để vơ vét, nhặt nhạnh chổi cùn rể rách của họ thảo ra mang về làm kẻ giầu sang vênh váo ở nước mình. Công nhận ông ấy trong sáng, mỗi mụn con duy nhất, vứt đến một trận địa đói khát nhất, ác liệt nhất, có để kiếm chác gì đâu. Cũng không cần mượn mác chiến trường, mượn xác chết của người khác nhẩy tót lên nấc thang quyền chức như những kẻ tham quyền vụ lợi, cơ hội.

          Những máng bã chè đêm nào cũng tràn đầy. Những chiếc đIếu cầy nóng giãy mỗi lần ré lên như hút hết xương tuỷ làm mặt mũi người hút thóp lạI nhăn nhúm, trông nhiệt tình một cách đau khổ để rồi lạI khoan khoáI nhả nó ra, há mồm thở dốc như người đứt hơi. Đã ngồi dai là phảI có chuyện. Chuyện công, chuyện riêng, chuyện chiến trận nhàm chán, như ngày ngày ngồi trước đống tàI liệu ngật ngưỡng năm năm, tháng tháng vẫn những lời lẽ nhận định, đánh giá thuận lợi, khó khăn như hàng chục năm trước và đúng như cấp trên đã nhận định, có gì phảI nói khác, có gì mới mẻ phảI bàn luận, đàm tiếu.
Những tháI độ như là thương xót, như là bênh vực, như là sự tôn kính không phảI để dành cho đạI tá, mà dành cho họ. Những kẻ thức thời ấy vừa thỏa mãn trong những đêm “vô công rồi nghề” vừa chứng tỏ mình tinh nhạy sâu xa giống như suy nghĩ và tình cảm của trung tướng tư lệnh dành cho đạI tá.
Bỏ hàng chục đêm liền để um sùm tranh cãI nhau với vô số lời lẽ, với vô số chuyện, mà cả cáI đám ấy không ai hề biết rằng đêm nào đạI tá cũng vật vã đau đớn về nỗi mất con, về những hy vọng ngây thơ hồn nhiên của người vợ ông. Làm sao cả nửa năm nay hai bố con không ai viết thư cho em một vàI chữ. Bố Tùy có biết ở nhà nó chống chếnh như thế nào không? Một bơ gạo nấu từ bốn giờ sáng. Không ngủ được ngồi dậy đốt ngọn lửa cho nó có bạn, hâm nồi cám, rồi không biết làm gì phảI đặt xoong cơm. Nấu là để có việc thôI, em thiết gì đến miếng ăn, nhưng vẫn phảI ăn cho qua lần, ăn cho bố con khỏi buồn lo em ốm đau, yếu đuối. Nhưng mà cũng có hôm không cố được, cơm canh dọn ra ngồi nhìn một lúc, rồi thu dọn lại. Cơm chưa xới, canh còn trong nồi, vẫn cứ đI rửa bát nhỏ, bát lớn để coi như cũng đã ăn, cũng có việc mà làm, cũng khỏi sợ cáI thất thường ngày nào cũng canh cánh ở bên. CáI nhà hai gian khi làm ra cứ ngay ngáy lo chật chội, lo thằng Tùy lấy vợ không có chỗ quay đến bâu giờ nó trống quá. Em không bó chăn, treo như mọi khi. Cả chăn màn, mũ áo của bố và Tùy, em xếp ở giường gian ngoàI và treo xung quanh tường cho nó đông vui. Em nằm ở cáI giường một ấy mà phía nào cũng thấy thừa, thấy lạnh quá. Em nói chuyện này bố Tùy đừng giận, phảI thông cảm cho em, không lạI nói đã là cán bộ phụ nữ mà lac hậu. Em đặt bàn thờ để thắp hương đấy. Từ trước đến nay có bao giờ em tin vào thờ cúng lễ bái. Từ nửa năm lạI đây không biết có chuyện gì của bố, của con, mà thạch sùng trên máI nhà tặc lưỡi nhiều quá. Em sợ có đIều gì không hay ở bên ấy phảI lập bàn thờ cầu mong cho bố con tai qua nạn khỏi. Em biết bố Tùy không bằng lòng, nhưng bố con cứ lành lặn trở về với em, rồi thì mắng mỏ em thế nào cũng được, em vẫn được sung sướng. Còn chuyện này nữa em muốn góp ý để bố Tùy xem thế nào. Bố đã gặp cháu HoàI chưa. Nó tìm mọi cách đến đấy chỉ để cốt được gần thằng Tùy nhà mình. Thật khốn khổ, tội nợ gì mà đang yên, đang lành lại phảI dẫn nhau đến chỗ hòn tên mũi đạn để được gần nhau! CáI đIểm này em không thật nhất trí với bố Tùy đâu. Đã nhiều bận em nói, bố cứ át đI, đến bây giờ em đã trăn trở mãI mới nghĩ đằng nào cũng phảI nói kẻo, bố Tùy lạI mắng sao biết mà không mở miệng ra. Rồi nếu bố nghe lời em, biết đâu con cáI nó đỡ phảI khổ. Chuyện thăng Tùy và con cháu HoàI đấy. Chúng nó yêu nhau thực sự và thắm thiết lắm. Tuy là con gáI thành thị, cháu nó ngoan, đứng đắn, chứ không đầu mày cuối mắt như đám thanh niên bây giờ đâu. Ngày học quân y xong, chờ đợi để sang bên ấy, cháu về ở với em. Cháu làm tất cả mọi việc kể cả gánh phân và buộc lạI chuồng lợn. Không hiểu bố Tùy nghĩ thế nào, đàn bà với nhau em biết. Nếu không yêu con mình say đắm, việc gì nó phảI hầu hạ chăm chút cho mình… ở nhà máy, nhất là chỗ phố xá thiếu gì thằng con trai có tàI, có sắc, nhất là đảng viên hẳn hoi theo đuổi nó, mà nó đều gạt đI, để tìm cách ra mặt trận với con mình. Mà em cũng nói để bố nó biết là các con nó đã đI lạI với nhau như vợ chồng rồi. Nó không thể hiện gì, nhưng là người mẹ em biết tất. Thời buổi bây giờ cũng không ai đánh giá làm gì, bố cũng cần bình tĩnh mà thông cảm cho con. Em xin bố giữ kín chuyện này, dù thế nào cũng không được hành hạ xỉ vả con. Làm quá, nó nghĩ nhục, nó liều là mất con như chơi. Nhân thể em cũng nói luôn để bố nghĩ lạI việc dạy dỗ con. Em biết bố thương con nhiều, vẫn phảI nói cho con hiểu và mắng át nó đI những lúc nó nghĩ sai về bố. Nhưng tạI sao bố cứ thành kiến với con cả những việc không đâu vào đâu. Bố ở xa không biết hết, ở nhà khắp vùng này ai cũng khen con mình thông minh, biết nghĩ và rất có tư cách đạo đức. Ngày trước học ở trường và sau này làm ở nhà máy, người ta vẫn nêu gương con mình cho người khác học tập. Làm sao lúc nào bố cũng phảI lo con mình ăn đổ làm vỡ, không làm hết như lời bố là không thể thành người. Lắm lúc bố mắng con, em nghĩ giá là con nhà khác nó sẵn sàng nói láo trở lạI, nhưng con mình chỉ dùng lời lẽ tranh luận với bố nó. Khi bố nổi khùng lên mắng át đI, tuy no chưa thông, vẫn phảI lặng lẽ làm theo những đIều bố đã quyết định. Không biết bố nghĩ thế nào, nhưng em thấy nhiều khi con nó nói cũng phải. Bố cứ bắt nó phảI làm đúng như ý bố, vậy mà mấy chục năm qua bố biền biệt một nơI, nó biết nghe ai. Sao bố lạI không tin em dạy con, không tin đoàn thể, cơ quan! Ở chỗ nào chả có Đảng lãnh đạo giáo dục, sao bố lạI nghĩ chỉ có Đảng ở chỗ bố mới là đúng đắn, mới là tốt đẹp. Em nói đIều này, nếu không phảI bố bỏ đI nhá. Độ trước chú nhà báo cùng đơn vị với bố ngày xưa, trước khi đến chỗ ấy có về thăm nhà mình. Em nhờ chú góp ý với bố việc dạy dỗ con. Chú ấy bảo: ối giời, cụ Thủy, có giời mà nói. Cụ ấy là con người của chiến tranh, của những mệnh lệnh, chỉ có làm không bàn cãi. TôI cũng xin nói để chị biết đừng bao giờ chị mong về nhà này anh ấy có được sự vui vẻ sung sướng. Con người ấy chỉ có xông vào chiến tranh mới tỉnh táo, mới thông minh, lanh lợi. NgoàI nơI đó ra, cụ ấy không tin vào một môI trường nào khác. Nói đúng hơn, cụ ấy không hiểu và ngờ vực là đúng thôi. Ngày tôI rời quân đội đI viết báo, cụ ấy cũng sợ. Cụ ấy sợ một kẻ mình đã tin cậy, yêu mến có thể hư hỏng, biến chất. Thể thì thằng con muốn tốt lành tất phảI ra mặt trận, một cáI trường học lý tưởng cho mai sau. Rồi đây xã hội sẽ ra sao? Bao nhiêu xương máu của các thế hệ đã đổ xuống sẽ ra sao? Đấy là nỗi lo thường trực, một khoảng trống lớn không sao có thể lấp đầy… Bố Tùy ơI, em không hiểu và nhớ hết lời chú ấy, em chỉ xin trăm lạy bố Tùy tìm cách cho con về với em. Em hứa rèn giũa con để con nên người. Đừng đầy đọa con chỗ mặt trận ác liệt, em sợ lắm. Một lần nữa em van bố, cho Tùy về, nếu không em sẽ héo hon, chết dần chết mòn mất thôi. Em cũng xin bố, nếu gặp cháu HoàI đừng hắt hủi nó. Nếu con được về, bố tìm cách cho cả cháu HoàI về luôn. Bố nhớ thương con hộ em. Em viết cho con mấy chữ bố gửi đến chỗ con hộ em.

         Tùy con thân thương của mẹ ơi. Mẹ báo tin mừng là mẹ vẫn khỏe mạnh vô cùng. Con cứ yên tâm đánh giặc, đừng lo gì sức khỏe của mẹ. Độ này mẹ ăn được ba bát cơm mỗi bữa, không phảI chỉ vàI đũa như hồi con chuẩn bị lên đường đâu. Bà con xã viên hợp tác, anh em trên nhà máy vẫn quây quần hỏi thăm mẹ. Mẹ đã phấn khởi rất nhiều so với độ con mới ra đi. Mẹ chỉ lo con ở đấy không được khỏe, phảI chú ý mà giữ gìn, con nhé. Mẹ cũng dặn con phảI viết thư cho bố, bố bảo gì phảI nghe. Thương bố, thương mẹ thì con đừng để bố phảI buồn phiền. Em HoàI đã đến chỗ con chưa? Mẹ thấy ở đời này chưa có người con gáI nào lạI được như thế, con phảI chỉ bảo cho em, dù sao con cũng đI trước thông thuộc hơn. Nếu HoàI chưa gặp bố, con phảI bảo em tìm đến chỗ bố, hoặc viết thư: Cả hai đứa phảI trình bày để bố thông cảm, tạo đIều kiện cho các con. Mẹ tin bố sẽ tha thứ tất cả những gì trước đây bố không bằng lòng vì con. Trước tiên con phảI hết sức nghiêm khắc với mình, không được có lời nói hoặc cử chỉ gì thiếu lễ độ với bố, con nhé. Nếu thật lòng thương nhớ mẹ, mẹ xin con hãy làm thật đúng, thật tốt những lời mẹ dặn. Cho mẹ gửi lời thăm em Hoài. Mẹ cũng rất nhớ thương nó. Mẹ khấp khởi mong ngày cả bố và các con đoàn tụ êm ấm. Mẹ ngàn vạn lần nhớ thương của con.
Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #11 vào lúc: 10 Tháng Năm, 2008, 10:35:35 pm »

      Tái bút: Con nói với bố xem có đợt đi công tác về bên này, bố mà xin được cho con tranh thủ về với mẹ mấy ngày thì đời mẹ thế là nhất. Nhưng nếu không được cũng đừng quấy rầy bố. Mẹ cũng vẫn cứ vui vẻ đợi cho đến ngày hết hạn con trở về.
                                                                                                                                          Mẹ.
       Mọi lần đọc thư xong đại tá thường cau mặt lầm nhẩm mắng vợ một câu gì đó, về những chân thực sai lệch của bà với xã hội, với người lính ở chiến trường. Rồi sự thô thiển về hiểu biết, sự nông nổi về tình cảm của họ, nếu không cảnh giác, ta sẽ gục ngã trước cái bệnh tham lam cố hữu của đàn bà. Đàn bà là thế. Họ luôn luôn tìm sức mạnh trong cái yếu đuối của họ. Không cảnh giác, mất phương hướng như chơi. Đến lần này ông chỉ im lặng, cả một tuần mất ngủ rồi, vẫn im lặng. Mấy người ở văn phòng quen được ông cho đọc thư vợ, lần này ông không đưa cho ai. Lá thư để trên bàn như moi khi, ai đến làm việc không thấy ông, họ ngồi đọc tự nhiên như lần trước. Cũng như ông, không ai bàn tán đùa cợt, họ quây quần quanh ông ủ rũ sầu não. Lúc ấy ông lại phải nói to lên những câu vẫn thường nói: Nó phức tạp lắm cơ. Ở đời tôi đã nghiệm, dây đến gia đình vợ con là mệt lắm. Thôi thế hỉ. Bây giờ ta chữa cái bệnh lo âu này, tốt nhất là các ông xem có cái gì chén, cơm nguội chẳng hạn. Đời, cái gì qua rồi sẽ qua đi thôi mà. Nào, ta làm việc với nhau, tình hình hôm nay ra sao nhỉ? Cố làm ra thế, ông cũng không thể chạy chốn được ý nghĩ bùng lên như lửa trước nguy cơ thằng con mất tích mà lá thư của vợ như đổ thêm dầu. Cả đêm qua ông thức trắng, đi lại lẩm bẩm. Sáng ra ông mới gục đầu trên chiếc mũ cứng không ra ngủ, không ra thức, không ra chờ đợi điều gì. Cũng không phải là cung cách nghỉ ngơi. Liên lạc bảo ông đến gặp tư lệnh. Như chợt tỉnh, ông nhìn đồng hồ: đã mười giờ ba mươi phút. Ông uể oải đứng dậy múc gáo nước đổ vào lòng bàn tay vỗ vỗ vào mặt. Nước vẫn chẩy ròng ròng xuống áo quân phục, ông cứ thế đi gặp tư lệnh

***

       Hoài được tin báo về sở chi huy đoàn dân công để gặp đại tá Thủy. Mặt Hoài tái ngắt, người run lên, choáng váng, nhưng không thể biết lúc này mình đang sung sướng hay hoảng sợ? Lẩn tránh hay xáp mặt? Biết đâu ông ta đã nghĩ lại. Hay biết tôi sang đây, ông lại phải bắt con trai đi nơi khác: sang Thái Lan, sang Lào sang Căm-pu-chia để tôi không thể tìm thấy. Nếu tôi vẫn tìm cách đến đấy thì đã sao. Chả nhẽ cả cuộc đời chỉ để ông vác cậu con trai chạy chốn tôi? Nếu người đàn bà luôn luôn cảm thấy tất cả những người đàn bà khác không ai có thể đứng đắn hơn mình, thì họ cũng cảm thấy chỉ có số kiếp mình là đau đớn, nhục nhã nhất trên đời này. Mới hăm ba tuổi đầu đã có lúc Hoài không muốn sống nữa. Đây là lần thứ hai đại tá gặp cô người yêu của con mình. Lần trước: Tôi muốn nói với cô một chuyện. Dạ, thưa bác ở đâu đến ạ? Xin lỗi, tôi chưa giới thiệu. Tôi là bố của Tùy. Xin bác tha lỗi cho cháu. Anh Tùy đã kể nhiều về bác mà cháu chưa có dịp được gặp. Không sao. Chúng ta có thể bỏ qua những thủ tục không cần thiết. Thôi, cô ngồi xuống đây, không phải pha nước nữa, tôi vội phải đi ngay. Thế này nhé. Tôi đến để xin lỗi cô về việc cậu Tùy. Tôi muốn cậu ấy phải có những hoài bão, khát vọng nó khác đi. Nói thẳng ra là tôi muốn cậu ta phải là một con người có lú tưởng phấn đấu cho một mục đích nào đấy, đừng để sự lặng lẽ của mỗi ngày nuốt dần hết sức trai trẻ và sự yên ổn của những vui thú vô vị cứ nối dài mãi, hết cả đời người lúc nào không hề biết. Cụ thể là thế này. Tôi không muốn cậu ta sống ở đây. Thưa, cháu nghe nói bác vất vả lắm mới xin được cho anh ấy vào làm việc ở nhà máy này. Ngày ấy tôi không muốn cậu ta nhiễm độc ở những đứa bạ xấu. Phải chạy vạy che chắn, ngăn chặn… dùng đủ biện pháp, cậu ta mới yên ổn học hết phổ thông. Cháu cũng nghe nói anh ấy đỗ điểm cao nhất trong số học sinh đủ điểm đi học đại học ngoài nước. Nhưng không đơn giản đâu. Một con người chưa nếm mùi gian nan, chưa được nếm vào thử thách khắc nghiệt của sống chết thì cái kiến thức, cái bằng cấp đôi khi lại là cái cớ để họ quay lưng với nhân dân, với chiến sĩ. Môi trường đôi với tuổi trẻ quan trọng lắm. Thưa bác, cháu thấy từ ngày vào nhà máy anh ấy rèn luyện đến mức Đảng ủy và giám đốc coi như cái “gương” để chúng cháu phải soi vào mà theo đấy ạ. Có, có cố gắng, nhưng ở đây đôi khi bình lặng quá và con người đang nhoai lên giành sự sung sướng cho cá nhân mình. Hơn nữa… có phải chúng cháu đã yêu nhau làm ảnh hưởng đến tiến bộ của anh ấy? Không hẳn như thế. Tôi chỉ muốn câu ta chưa vướng víu vào chuyện này sớm. Thưa, cháu đọc sách báo của ta nói rất nhiều cặp tình yêu tạo được sức mạnh giúp đỡ nhau… Tất nhiên, tất nhiên, không có ai lại muốn kéo người yêu của mình lùi lại, nhưng thực tế khách quan của đời sống tình cảm sẽ chi phối không thể cưỡng lại được. Vả lại, cũng phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, con người cụ thể. Thưa, bác thấy trong trường hợp cụ thể của chúng cháu… Tôi chưa nói đến trường hợp cụ thể nào cả. Tôi chỉ muốn nói đến một lo-gic của cuộc đời là thế này. Sức lực và thời gian, trí tuệ và tình cảm trong mỗi con người ở những mức độ khác nhau, nhưng không thể là vô hạn. Ai đã tự nguyện san sẻ cho cái này, ắt phải thiếu hụt ở cái khác. Biết làm thế nào. Xin lỗi, tôi nói hơi lý luận sáo rỗng làm cô khó hiểu? Thanh niên bây giờ rất cụ thể, thiết thực mà. Cho nên tôi cũng chỉ nói cái cụ thể, đơn giản thế này. Cô thông cảm, chuyện cô với Tùy hãy tạm thời chấm dứt. Thưa bác, thời gian độ bao lâu ạ? Tôi biết cô sẽ giễu cợt sự dở hơi của tôi. Nhưng Tùy là con tôi, tôi phải chịu trách nhiệm về cuộc đời của cậu ta. Nếu vậy bác nên thay đổi quyết định. Phải chấm dứt chứ không được tạm dừng lại như kiểu nghỉ giải lao. Tôi không cho phép cô có thái độ xấc xược như thế. Điều đó là một chứng cớ để nói rằng cô chẳng yêu mến gì con tôi. Cháu xin lỗi, bác tha thứ cho thái độ hỗn láo của cháu. Còn về tình cảm của chúng cháu bác nghĩ thế nào cũng được. Thực ra nghĩ điều gì bây giờ cũng không quan trọng. Tôi chỉ muốn… Cháu hiểu và xin chấp hành ý bác. Cháu chỉ xin bác một điều thế này: bác yêu cầu anh Tùy phải nói với cháu, hoặc chả cần nói, cứ tỏ rõ một thái độ dứt khoát cắt đứt quan hệ với cháu. Cháu sẵn sàng chấp nhận tất cả. Được thôi. Có lẽ rất nên như thế.

      Bằng kết cục ấy và những việc làm tiếp theo của ông, thì không thể có một tình cảm ồn ào thân thiết, dù hơi gượng gạo như hôm nay. Đại tá ra tận đầu dốc đón cô. Bác chờ cháu lâu chưa ạ? Cháu gầy quá. Đến mặt trận được lâu chưa? Nghe nói cháu vừa ở B.T. về đây. Dạ, cháu đi phục vụ các đơn vị dân công rào biên giới. Rất có thể trùng hợp với một nguồn tin nói rằng đã co một người con gái Việt Nam cùng đi với nó. Suốt chặng đường từ X đến đây, ông đã phải giằng xé với một quyết định nhượng bộ. Đúng ta là một đối sách cần thiết trong tình thế này. Tất cả mọi phương án đã nghĩ nát trong đầu đến bây giờ nói ta vẫn còn khó, Hoài ạ, hôm nay chú đến đây tìm cháu, chắc phần nào cháu hiểu được tình cảm của chú. Dạ. Thông cảm cho chú. Cái gì cũng phải có quá trình của nó. Nghe tin cháu đến đây, chú vừa ngạc nhiên, vừa cảm động. Cháu đã gặp Tùy chưa? Chau định cuối tháng kết thúc một, cháu xin phép đi tìm đơn vị anh ấy. Cháu đã biết tin tức về nó? Có chuyện gì khác không bác. Ông phải trả lời bao nhiêu câu hỏi, phải an ủi dỗ dành nó. Với sự hoảng hốt và đau đớn của nó, ông chắc chắn đến lúc này nó vẫn chưa biết chuyện gì xẩy ra. Không khai thác được gì để tìm ra manh mối của con, ông vẫn phải ở lại một đêm cùng ban chỉ huy dân công khuyên bảo, động viên no kìm nén lại, kiên nhẫn chờ đợi. Trước khi trở về P., ông đứng với nó rất lâu, song chỉ nói được một câu: Có tin gì của Tùy chú sẽ báo ngay cho cháu. Nói xong, ông phải cúi xuống lặng lẽ đi thẳng ra chỗ ô tô chờ sẵn. Không cho cô tiễn. Cô cũng không thể đi tiễn ông, tay bíu vào gốc cây, cô gục đầu ở đó, đứng chết lặng như một thân cây khác đã bị chặt lìa gốc… Không giận dỗi gì, cũng không oán trách cái quá khứ bị ngăn chặn, cô chỉ thấy nhói buốt cả hai nỗi đau cùng dội lên một lúc. Em đã mất anh rồi ư? Em mất cả những ngày chạy vạy đến nghẹt thở để đến với anh, cốt để anh hiểu cho em về những gì chúng mình đã trao gửi cho nhau, em vẫn gìn giữ trân trọng để mãi mãi là của anh. Để anh hiểu rằng em không thể là con đàn bà trong lá thư và những dòng thơ anh gửi cho em. Lẽ nào em đã chiều anh trong những ngày sắp sửa xa nhau để anh lên đường yên trí có em, rồi anh lại dễ dàng khinh thường em vì nghĩ rằng đã dễ dãi với anh, thì với ai em cũng thể dễ dãi như thế. Nhưng em không căm giận oán trách gì anh. Vì em vẫn yêu anh, em biết gần một năm qua, những kẻ yêu em đã làm anh khổ đến mức nào. Nhưng em không thể thanh minh điều gì khi chưa đến được với anh, chưa nói được với anh. Bây giờ thì em mất cả rồi ư? Trời ơi, sao cuộc đời lại có thể tàn ác, bất công đến thế này!

***

   Cấp dưới bao giờ cũng tỏ ra không hề biết gì về đời tư của cấp trên, nhưng thực ra họ biết hết. Càng những anh cấp thấp như công vụ quanh năm giặt quần áo, lấy nước, lấy cơm, các anh lái xe, bảo vệ, liên lạc càng lắm chuyện, không chỉ cá tính sinh hoạt của cấp trên, cả phong thái chỉ huy… họ cũng có thể biết. Tham mưu phó mặt trận hỏi công vụ: Bao giờ tư lệnh về? Chắc phải chập tối. Liệu có chắc không? Chắc chứ ạ. Sao biết? Đôi tất chống muỗi còn ở nhà, thì cụ không thể ngủ đêm, dù còn việc cùng về. Nếu xảy ra đánh nhau thì sao? Thì phải mang tất đi. Làm tư lệnh mà không biết trước chỗ mình đến có đánh nhau hay không thì làm làm gì. Được đấy. Cậu vừa tinh lại vừa liều. Tôi làm công vụ, tôi cũng phải biết thủ trưởng có trị mình cái khoản đó không. Nếu thủ trưởng không thích, tôi lại có kiểu nói khác hoặc không nói nữa, sao lại là liều. Khá lắm. Nói chuyện với cậu cũng đỡ sốt ruột. Thế thủ trưởng định làm việc gì, có cần kịp lắm không? Nếu không thủ trưởng cứ về, khi nào cụ về, tôi báo cáo, rồi gọi điện cho thủ trưởng. Tớ có việc đột xuất ngoài dự án, định báo cáo với tư lệnh, cậu xem cách làm việc của cụ thì chuyện này có trôi không nhá. Nếu không sợ lộ bí mật, thủ trưởng cứ nói. Cái gì ở cơ quan tham mưu của chúng tớ chẳng là bí mật. Nhưng cậu đâu phải là người thiếu tin tưởng. Thủ trưởng quên là cấp hạ sĩ của tôi thì chỉ những chuyện trẻ con ngoài đường đã đồn chán ra, chúng tôi mới được trưởng phòng hành chính cho học tập. Mà thủ trưởng chắc còn thuộc tính nết của cụ hơn tôi nhiều. Tớ trọng cái đầu sáng và khinh cái cổ nặng. Tính nết của thủ trưởng nếu vào đơn vị khác có khi về hưu rồi. Giỏi, giỏi. Thôi, thủ trưởng nói ý định của thủ trưởng xem nào. Tớ định báo cáo với tư lệnh tình hình địch ở huyện P. Phá âm mưu tiếp tế lương thực của “Pốt” và tìm kiếm anh Tùy, con trai đại tá Thủy chứ gì? Sao cậu lại biết rõ thế? Sáng nay tôi đến chỗ tác chiến thấy nói con đại tá Thuỷ có nhiều khả năng trong tay “Pốt” ở huyện P và nghe được mấy tiếng, ta tập trung giải quyết cả hai việc. Hôm qua tôi cũng nghe thủ trưởng quân báo báo cáo tư lệnh việc vận chuyển lương thực của chúng ở đấy. Còn tuần trước thì các thủ trưởng các phòng, các cục đều bàn về chuyện con đại tá và hỏi nhau làm cách gì bây giờ. Bằng tất cả những cái ấy, tôi biết việc thủ trưởng báo cáo chứ, Khả năng tổng hợp và phân tích của cậu tớ chịu đấy. Nếu trình bầy một phương án tác chiến thật khẩn trương để giải quyết cả hai việc ấy, tư lệnh có nghe không? Sao lại không? Mình chiến đấu cho ai vì cái gì? Hãy coi việc giải phóng từng người, cứu sống từng mạng người là thắng lợi của chúng ta. Thủ trưởng có nghe nói thế bao giờ không? Chắc là có, nhưng thủ trưởng quên đấy thôi. Với một người dân bình thường, một người lính bình thường cụ cũng không bỏ qua, huống hồ đây lại là con trai đại tá. Cụ vẫn ân hận là mãi đến hôm bị phục kích, cụ mới biết là con đại tá đã đến đây. Thôi được cậu có thể bảo đảm trong khi chờ đợi tư lệnh, tớ làm kế hoạch điều động lực lượng được không? Ấy chết, làm sao tôi lại dám liều mạng thế, nhưng tôi chỉ đảm bảo với thủ trưởng là tình cảm và cung cách làm việc của cụ đúng như thế. Nếu thủ trưởng tin là đúng, thủ trưởng cứ làm kế hoạch đi. Vừa phá được âm mưu giặc, vừa cứu được con trai bạn mình thì việc gì phải chần chừ chứ. Mà có khi về đến đây, cụ lại bắt tôi gọi điện cho thủ trưởng lên để nhận chỉ thị này cũng nên. Nhưng mà khi biết thủ đoạn của địch, sao các thủ trưởng lại không có phương án, phải đợi đến bây giờ? Lực lượng tại chỗ không đủ, điều nơi khác phải tính nát oc ra. Nhiều mục tiêu, nhiều trọng điểm quá. Nhưng nếu không có tin tức về con đại tá, thì các thủ trưởng không quyết tâm lắm phải không? Có phần thiếu sót ấy. Không sao vì đồng chí, đồng đội thì càng tốt chứ sao. Rõ! Báo cáo tư lệnh, tôi về. Nhìn đại tá đứng nghiêm giơ tay chào, công vụ đỏ mặt bẽn lẽn. Thủ trưởng cứ giễu tôi thế, lần sau tôi chả dám nói gì nữa. Đùa nhau một tí, rất cám ơn cậu, tư lệnh về điện ngay cho mình nhé.
Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #12 vào lúc: 10 Tháng Năm, 2008, 10:37:39 pm »

       Cái nội dung mà đại tá Thủy nhận ở tư lệnh cũng là thế. Thủy có thói quen sẵn sàng tranh luận bàn cãi tất cả những gì theo ý ông là chưa tối ưu, chứ không bao giờ do dự trước một mệnh lệnh được giao, kể cả lúc muốn gục xuống vì nỗi đau riêng. Cái chiến dịch “tình thương” theo cách nói cải lương của mấy tay trợ lý tác chiến thì nó hoàn hảo đến bất ngờ. Từ điều tra tình hình địch, lập phương án tác chiến, điều động quân sự, sử dụng lực lượng địa phương, hợp đồng với bộ đội bạn đến chỉ huy, mục tiêu của cuộc truy quét đều rất bí mật bất ngờ, khẩn trương và chính xác. Các tình huống được đặt ra và thực tế diễn biến hầu như là giống nhau. Có thể nói cả cơ quan quân báo, tác chiến, tham mưu kế hoạch, xe pháo, chưa bao giờ tập trung toàn lực đầy tinh thần trách nhiệm vào một trận truy quét đột xuất và mang tính cục bộ như lúc này. Nếu viết báo tổng kết, thì đây là một trận đánh đạt thắng lợi tuyệt đối, rút ra được nhiều bài học về nhiều mặt. Bốn tiểu đoàn quân tình nguyện Việt Nam, một tiểu đoàn bạn và du kích các xã được bí mật “tập trung học tập” tạo thành thế bao vây ba mặt, không một khe hở, buộc địch chỉ còn con đường xuống sông. Cái khó muôn thuở của các chiến sĩ tình nguyện là khi địch đã luồn được vào sống lẻn lút trong dân, thì dù cả một sư đoàn ta vây kín một đại đội địch cũng không bắt nổi nó. Chỉ cần được báo động trước năm phút, tất cả đã vứt khẩu súng xuống ao hoặc xó xỉnh nào đó, cầm lấy cái cày, cái cuốc, cái rổ, cái giá, cái bát, đôi đũa, ăn hoặc ngủ, làm hay chơi là đã thành dân (chỉ biết nó làm ăn chất phác). Lần này một tiểu đoàn quân tình nguyện hành quân cơ giới từ xa đến “nhảy dù” chộp gọn ba đại đội địch chưa kịp biến thành “dân”. Những đơn vị khác trong số hai tiểu đoàn của chúng chạy ra rừng cũng bị vòng ngoài của ta khép kín. Từ cái đêm tham mưu phó và công vụ tư lệnh bàn luận với nhau đến ngày kết thúc thắng lợi tiêu diệt gọn hai tiểu đoàn địch, thu hang nghìn tấn gạo, phá vỡ kế hoạch vận chuyển của chúng, củng cố được địa bàn hoạt động của ta chỉ có mười bảy ngày rưỡi. Đại tá Thủy bằng lòng với cương vị phái viên đốc chiến của tư lệnh. Ông đã góp phần quyết định trong chiến thuật “nhảy dù” rất có hiệu quả. Nhưng tất cả phái viên của bộ tham mưu và những người chỉ huy các cấp đều không giấu nổi vẻ thất vọng. Hoàn thành nhiệm vụ rồi, họ cho bộ đội “càn”, nói đúng ra là bới từng gốc cây, hang hốc, bụi rậm. Chỉ khi phản đối quyết định này đại tá mới biết mục tiêu chính (phải tự ngầm hiểu như thế) được tư lệnh mặt trận duyệt y chưa hoàn thành. Sự nhượng bộ của ông để cho bộ đội tìm như tìm kim trong đống rác khổng lồ suốt bảy ngày đêm đã chứng tỏ ông không còn đủ kiên quyết, cái tính kiên quyết đến tàn nhẫn vốn có của ông. Sang ngày thứ tám kể từ khi “càn” lại không còn hy vọng gì, ông đã thấy như được an ủi, đã được hưởng sự quan tâm quá lớn của cấp trên và đồng đội, dù kết quả nó vẫn là số không, dù bất cứ lúc nào trong những ngày này ông cũng có thể gục ngã vì đau đớn. Ông đề nghị tham mưu phó mặt trận, cho bộ đội tạm thời dừng lại. Ngay khi nhận được tin của anh, tôi đã phái hai tổ trinh sát đến khu vực này vừa nắm địch vừa tìm cháu. Tôi cũng đã nới rộng đường kính phạm vi truy quét ra năm ki-lô-mét. Nhưng… Thôi, cảm ơn. Tôi xin cảm ơn tất cả. Có gì nữa đâu mà bắt bộ đội khổ sở. Nghĩ cho cùng, đã là chiến sĩ thì phải hy sinh thôi. Một người lính ngã xuống như trăm ngàn người lính khác có gì phải ồn ã lên. Còn nếu có chạy chốn, sự tìm kiếm của các anh càng khơi sâu vào nỗi nhục nhã của tôi, ích gì. Anh vẫn chưa tin hoàn cảnh ngày ấy cháu xử lý thế là đúng? Tin cái gì? Tin nó bỏ trốn à? Đó là một sai lầm. Nhưng sai lầm vô thức trong một hoàn cảnh hết sức khắc nghiệt ấy có thể tha thứ. Mà trinh sát đã báo về, các cậu ấy đã giết được bọn lính Pốt để tháo chạy! Cái đó cũng chỉ là mới có thể như thế thôi. Ở đời, không thể tin ngay tất cả mọi điều, khi chúng không ở trong ta, không phải là sự chính kiến của chính ta. Tất cả mọi chuyện ở đồng đội, ở vợ con anh đều có thể nghi ngờ. Chỉ có quan niệm của anh là không bao giờ anh nghi ngờ xem đúng hay sai. Nghĩ vậy thôi, lúc này thì tham mưu phó vẫn đứng im. Còn đại tá cũng vẫn cố chứng tỏ mình là con người vững vàng, sắt đá. Ông vẫn thế. Đó là thói quen của người đời, tiến lên sự cao thượng, khác người thì dễ, quay lui lại sự bình thường của chính mình, ở cái điểm xuất phát ban đầu thì vô cùng khó. Ông đã quen nói những điều to tát nghiêm trọng suốt bốn chục năm nay, bây giờ bộc lộ một tình cảm nhỏ nhoi yếu đuổi như người bình thường là rất dễ trở nên trơ chẽn, gượng gạo, có khi làm người ngoài rất dễ buồn cười. Những đêm sau đấy, khi trở về doanh trại, nơi làm việc của ông, một gian lán lợp cây thốt nốt, trên lớp ni-lông. Một căn hầm trong lòng nhà. Một nửa được đắp đất vừa làm bàn viết, vừa làm giường ngủ. Nửa còn lại chiếc chiếu con suốt ngày này, tháng khác không để ý đến giặt giũ. Ngồi vào chiếu còn bẩn hơn là đứng ở ngoài. Chỗ chiếu ấy chính là “ghế” để ông phục lên “bàn” làm việc. Đêm nào ông cũng che kín chiếc phên bằng cỏ ở trước cửa, ngồi phục vào “bàn”, nhưng không viết gì, cũng không nghĩ gì.

     Mười giờ đêm đIện máy nổ tắt, ông đổ dầu ma-dút vào vỏ hộp đựng thịt, bấc bằng giấy báo nhét qua ống muỗng cũng cuộn bằng vỏ hộp.
Muội đèn ùn ùn bốc lên, sáng ra mặt mũi nhem nhuốc, hai lỗ mũi đen đặc muội đèn. Mặc. Ngồi chán ông vùng dậy lấy nước đổ vào ăng-gô bắc trên ba hòn gạch đun bằng giấy báo. Ngọn lửa bùng cháy lem lém, miệng ăng-gô như muốn đỏ lên mà nước dưới đáy lại chưa thể sủi tăm. Hì hụi, đun được nước sôi, ông bỏ đấy ra sân đứng ngửa mặt lên trời lẩm bẩm một mình. Rồi nghiến răng lấy nắm tay này đấm vào lòng bàn tay kia từng hồi. Rồi cười. Rồi tự mình cãi nhau với mình. Tại sao? Tại sao như thế. Bởi dễ hiểu lắm. Nó vẫn chỉ là một loại vật chất mà thôi. Không ở dạng này thì ở dạng khác có gì là lạ. Cả một bọn vô trách nhiệm. Nếu đại đội, sư đoàn nó không chỉ mập mờ mấy chữ “chạy trốn” thì ai người ta nỡ xử lý như thế? Chà, cái gì nó cũng có giá cả thôi. Nếu nó thực sự hy sinh đến phút cuối cùng cho Tổ quốc, thì Tổ quốc sẽ ghi công nó. Xét cho cùng, người công dân nào cũng có Tổ quốc chứ. Làm tròn nghĩa vụ với Tổ quốc mà phải hy sinh mình là chuyện bình thường chứ. Ôi, con ơi, Tùy ơi! Tại sao chỉ một mình tôi ở đây! Tại sao nó không thể là đồng đội của tôi? Tại sao nó lại khờ dại nhận lấy cái chết khi chưa đáng chết. Phải bắn thằng lái xe. Đồ phản quốc, vô nhân đạo. Nhưng thằng Tùy chết trong trường hợp nào nhỉ? Ai bảo nó chết? Ai ai? Căn cứ gì để có thể kết luận như thế? Không, nó còn sống, còn sống. Con còn sống như một anh hùng đấy, con ơi. Tùy ơi, đồng đội thân yêu của tôi ơi. Ông ngã vập mặt xuống nền đất cát pha. Môi giập, máu chảy. Cứ nằm như thế chừng một tiếng sau tỉnh dậy, ông khạc nhổ bao nhiêu vẫn thấy cát sàn sạn ở miệng. Lần lần vào nhà ông lấy chè cho vào ấm, rót nước ở ăng-gô ra, chờ “ngấm” rồi rót ra bát. Nước lạnh tanh, chè nổi lên lều phều. Ông thận trọng rót nước trong ấm xuống nền, đất rồi lại thận trọng lấy bát múc nước lã ở xô đổ vào ấm chè. Lại đợi một lúc cho “ngấm” ông cẩn thận rót ra bát. Chà, cái chè này không ra nước. Ông lấy chè trong ấm nhai, rồi bê bát húp. Ngon. Cứ gì phải nước sôi. Nếu cần nước lã pha chè được. Ngon. Không nên phụ thuộc vào bất cứ cái gì. Phụ thuộc vào nó sẽ là nô lệ của nó thôi mà. Dễ hiểu lắm. “Uống chè” xong ông tỉnh táo hẳn ra. Lấy cặp moi các giấy tờ sổ sách để từng loại lên “bàn làm việc”. Bút cũng lấy ra rồi, nhưng ông không viết. Ông làm việc bằng những tiếng lẩm bẩm mà chính ông cũng không nghe rõ mình đang nói gì. Cuối cùng ông ngủ gục trên giấy tờ và sổ trên mặt “bàn”. Suốt năm đêm như thế không ai biết và ban ngày ông vẫn họp hành, đi đứng, ăn uống như tất cả những cán bộ cao cấp khác xung quanh bộ tư lệnh. Đêm thứ sáu tư lệnh sang “nhà ông”, đứng hàng giờ đồng hồ xem cái thói quen ông lặp lại của những đêm trước. Tư lệnh lặng lẽ quay về, lệnh cho người đưa ông đi bệnh viện mặt trận, mặc cho ông phản đối quyết định của tư lệnh.

***

       Người lái xe đã ra viện, nhưng vẫn nằm tại chỗ, chứ không về nhà tạm giam. Người ta cũng chưa thể tiếp tục những cuộc hỏi cung sau vài ba lần gián đoạn. Nguy cơ cấp cứu xảy ra bất cứ lúc nào trước những cơn mê sản cả ban đêm lẫn ban ngày. Các bác sĩ quân y kết luận anh ta đã cắt cơn sốt rét ngay sau khi qua khỏi trận sốt ác tính. Sợ hoảng loạn gây nên những cơn mê sảng là do tác động của trận bom B52 ở Tây Ninh vào cuối những năm sáu mươi, khi anh ta là thiết úy ác ôn trong quân đội ngụy. Chi tiết này do Viện kiểm Soát mặt trận cung cấp cho bệnh án sáng tỏ thêm. Nhưng chính nó lại mâu thuẫn với sự xác nhận của chính quyền địa phương như sau:

      Hoảng sợ trước sự tấn công của quân ta, nên tháng Ba năm một chín bẩy mươi ba đang là đại đội trưởng trong quân đội ngụy (đóng quân tại Bến Sỏi Tân Biên-Tây Ninh), Phạm Văn Chắt đã trốn quân ngũ trở về với vợ con. Trong thời gian bị bắt quân dịch (1963-1973) anh Chắt không gây tội ác gì với nhân dân!
“Khi có lệnh rút, hắn còn chỉ huy một trung đội truy kích quân ta cho đến khi B52 đến trút bom xuống địa điểm bộ đội ta trú quân. Hăng hái tấn công để diết chiến sĩ ta, chứ không gây tội ác”. Câu nghi ngờ châm biếm này ghi trong sổ ghi chép của nhân viên Viện kiểm Soát bên cạnh chứng thực của địa phương. Thưa, lúc đó tôi chưa có vợ. Sang đầu năm 1970 vợ tôi đang có bầu… Dạ tôi bị bắt quân dịch, khi tôi đang học trường lái xe. Trong bốn năm từ sáu ba đến sáu bẩy, tôi từ lính trơn lên đến thiết úy đồn trưởng. Từ khi lấy vợ tôi hay bỏ trại, bị phạt nhiều hơn được thưởng. Ngoài mấy câu trả lời ấy ra, anh ta chưa cung cấp được gì thêm trong bản hồ sơ dày mười bốn trang mang tính chất tóm lược quá trình sinh ra, lai lịch ông bà, cha mẹ họ hàng nội ngoại, anh em cô bác qua các thời kỳ và thái độ chính trị của họ trong mỗi thời kỳ đó. Một văn bản khác cũng gần hai mươi trang lược thuật lại toàn bộ chuyến đi phục vụ chiến dịch này. Nó tỉ mỉ đến mức đầu tiên ai gọi anh ta đến, nói gì, vào giờ nào, có những ai chứng kiến, có cả những lời động viên, hoặc cáu gắt của chủ nhiệm công ty khi giao nhiệm vụ. Cả chuyện anh ta chậm mười lăm phút vì luấn quấn gỡ tay đứa thứ sáu, thứ bảy trong khi vợ bế đứa thứ tám quay mặt đi trong buổi lên đường ra mặt trận. Pôn Pốt. Ôi, em trúng đạn rồi. Anh cho em sang bên. Sang bên. Lái xe chạy đi. Nó bắn. Nó bắn nữa. Ôi, B41 phụt ở đầu xe. Nằm xuống. Má nó kéo thằng Bảy nằm xuống. Ối ối vào đầu con. Máu chảy. Máu máu. Thằng Tám bị rồi! Ma nó ơi! Má nó!
Dạ thưa, bởi nhớ các con tôi, tôi hết chịu nổi. Dạ thưa ông hỏi, tôi xin nói thiệt lòng. Về cái phần nguyên nhân chính để tôi bỏ quân ngũ là do vợ tôi, nói đúng ra là do tôi. Tôi sợ mất cô ấy. Vợ tôi đạp máy may ở thị trấn. Không thể nói cô đẹp nhất vùng, nhưng quả tôi đã hành quân hết vùng chiến thuật chưa gặp người con gái nào mới trông đã thấy mê muội, càng gần, nhất là khi được bắt chuyện với cô ta rồi, không còn cách gì cưỡng lại lòng mình để không yêu cổ.
Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #13 vào lúc: 10 Tháng Năm, 2008, 10:39:15 pm »

        Đại đội lính quốc gia do tôi là chỉ huy trưởng đến gia tăng cho lính bảo an và dân vệ trị trấn vừa đúng năm con nhỏ mười tám tuổi. Cô kém tôi một giáp. Nhưng cái bụi chinh chiến của tôi khác biệt sự nhàn nhã, sung sướng của cô, khiến khi nhìn cô với tôi, ai cũng dám quả quyết cô chỉ là con thứ của tôi. Cũng như trời phật phù hộ, bao nhiêu đơn vị, đủ sắc lính, từ biệt động đến dù, lính biên ải, lên trước tôi, thì cô vẫn là đứa cháu nhỏ mười lăm, mười sáu, ba má còn phải cấm đoán, giấu mỗi khi có cuộc hành quân qua. Tôi về thị trấn đúng lúc dân chúng nháo nhác sợ Việt cộng, xin lỗi, bộ đội ta sắp tấn công vào thị trấn. Tất nhiên trong hột hoảng, sợ sệt quân đội ta, dân chúng phải bìu ríu cậy nhờ ở chúng tôi. Họ cậy nhờ để đánh giặc, xin lỗi, để chống lại đằng mình thôi, còn con gái và của cải họ phải lo che chắn giấu giếm. Con gái của họ là những con gà con mà quân đội quốc gia như đàn diều hâu đang đói rạc, họ rất hoảng sợ. Đêm thứ hai ở thị trấn, tôi giả trang đi cùng tốp lính bảo vệ. Nhác thấy cô bé trong tiệm may là tôi mê liền. Tôi vào hỏi qua loa mấy giá công may quần áo, rồi chào hỏi tử tế ra đi. Đêm sau, tôi lệnh cho ông đại diện thị trấn mắc điện đèn xanh đỏ, chăng hoa giả và thật, mở băng nhạc ngay bùng binh trước cửa tiệm cô bé.

        Dân chúng tập trung (phần nhiều là bảo an, dân vệ và các chức sắc địa phương). Còn dân chúng ngưỡng mộ sự lạ ấy đứng ở những vòng phía ngoài.
Tôi cho lính hành quân đến tập hợp giữa đám quan chức và lính địa phương, giữa tiếng xì xào về sự oai phong của đơn vị chúng tôi. Sau lời chào đón hoan ngênh tin tưởng trời đất gì đó của thị trưởng, tôi ra mệnh lệnh cho tất cả các binh sĩ. Giọng tôi lễ độ nhẹ nhàng thưa gửi bà con cô bác thắm thiết, rồi mới ra lệnh cho binh sĩ những điều cấm nghiêm ngặt để bảo vệ sự yên ổn của dân. Tôi sẽ xử lý với những biện pháp mạnh mẽ nhứt với binh sĩ nào có những lời nói và cử chỉ không đẹp đối với cô gái. Việc trêu ghẹo, đùa bỡn làm ảnh hưởng đến tình cảm và hạnh phúc của các cô bác, anh chị cũng được cấm đoán một cách ngặt ngèo. Việc tập hợp đó trong vòng vài phút. Tôi cũng nói rất vắn tắt về việc phải đề phòng pháo kích, hoặc phi vụ nào đó xẩy ra bất thường… Đó là việc làm chưa từng có trong các cấp chỉ huy quân đội cộng hòa. Ba ngày sau tôi lại mặc thường phục ra tiệm may cô bé cắt áo sơ-mi. Cả ba má cô và cô đều nhận ra tôi. Họ coi tôi như một thần tượng về lòng cao cả, trong sạch của người lính cộng hòa. Dạ thưa, có hàng trăm, hàng ngàn con đường đến chỗ tình yêu, ông không còn lạ chi. Phần riêng tôi, tôi cũng tạo ra một cơ hội thuận tiện nhứt để liều lĩnh. Tôi xin thiệt lòng, tôi vừa yêu, vừa cướp đó, thưa ông. Ba tháng sau, ba má cô đã yêu quý tôi, coi tôi như người em, cô cũng yêu quý tôi như ông chú ruột. Ba má cô đều thống nhứt với tôi phải cho cô đào luyện thành người cắt may giỏi nhứt vùng. Bởi thế, tôi phải đưa cô về Sài Gòn để học cắt may thêm. Tôi thuê hai buồng trên lầu ba của nhà hàng trên đường Võ Tánh tức đường Nguyễn Trãi ngày nay. Thuê hai, nhưng chỉ ở một. Ngay hôm mới đến, dùng bữa tối xong, tôi ngồi ở phòng “cháu” để nói chuyện. Xin ông đừng cười, ông cũng là người bịnh đang lúc cần nguôi ngoai nỗi day dứt, tôi được giãi bày với ông xem như được cởi lòng mình. Đời tôi lúc này sống chết là có chi. Thiệt ra, lúc này tôi đã như chết rồi. Nhà chức trách sẽ bắn tôi, để vong linh những người chết bữa đó đỡ oán hận. Tôi thấy thế là công bằng. Nhưng tôi sợ. Sợ nỗi thống khổ còn lại ở chín má con nó. Kể cả cái chuyện giăng gió tôi cũng không dám, nhưng vì tôi yêu má lũ trẻ, tôi quyết chiếm làm vợ để đến giờ có tám đứa nhỏ, nếu không có chuyến đi phục vụ này đời tôi như ri cũng là thỏa chí. Đôi lúc tôi vẫn đùa với má nó về cái đêm “mở màn” làm má nó đỏ bừng mặt. Dạ, cái đêm đó ngồi nói chuyện với “cháu” mới chừng nửa giờ, tôi đã hết chịu nổi. Tôi vờ đứng dậy uống hết ly nước, rồi quay vô, nhanh chóng ôm ghì lấy cô. Cô bất ngờ và hoảng hốt chưa thể hiểu được gì, tôi đã dùng sức mạnh áp đảo của thằng đàn ông đang thừa thãi làm được tất cả những gì tôi muốn. Cô bé, phần xa lạ với cách sống ở đây, phần kính nể và sợ hãi cái uy của tôi, nên không dám kêu. Cả đêm đó em chỉ khóc, nhưng đến bốn giờ rưỡi sáng thì em đã ôm ghì lấy tôi lêu: Đừng bỏ em bơ vơ nghe anh. Khi chuyện chúng mình vỡ ra, ba má không ưng anh, em tính sao? Cho em đi theo có được không, cưng? Suốt bốn ngày bốn đêm sống hết mình, tôi trở về thị trấn, tin cho ba má cô công chuyện học hành của cô đã rất tốt đẹp, hoàn hảo. Nửa tháng sau, em về đúng lời tôi hẹn với vẻ mặt ủ ê vì “bọn du côn đón đường bắt cóc trên đường từ tiệm may về nơi ở”. Giữa tủi hận của gia đình, ba má cô được người mách nước gả cho tôi. Người đó nhận làm bà mai mối. Tôi đành thương tình cảnh ngộ cưới cô làm vợ trong vòng một tuần lễ. Thiệt lòng với ông, tôi vừa mừng trúng kế mình, vừa lo bằng cách chi giữ được vợ trọn vẹn giữa thời buổi loạn lạc, những cuộc tình duyên cướp giật nhiều hơn là cưới xin đàng hoàng. Tôi đành phải chống đỡ bằng cách mỗi năm cô ấy phải đẻ ra một đứa nhỏ để không có thời giờ đi với người khác lúc tôi ra trận. Nhưng tôi đã phải đi nơi khác khi vợ tôi sinh đứa con thứ nhất, nên tôi càng hoảng sợ. Đẻ đến đứa thứ ba, vợ tôi vẫn đẹp hồng hào gọn ghẽ, đến mức tụi con trai mười chín, hai mươi vẫn tưởng cô chưa có chồng con, theo đuổi vợ tôi. Hết bữa này qua bữa khác, nỗi hoảng sợ ngày càng gia tăng tôi không chịu nổi. Cuối năm 1972, tôi tự thương rồi chuồn khỏi đơn vị vậy đó. Dạ thưa ông, chắc bên quân ta không bao giờ có chuyện như ri. Chuyện của tôi nó là sự thật, nói ra thì quá xấu, nhưng sự thật tôi bỏ lính chỉ vì cái thiển nghĩ ấy.

***

       Đại tá Thủy là người rất có tài thâm nhập, hòa mình gợi chuyện ở bất cứ đối tượng nào trong phía ta cũng như phía địch, ở trong nước cũng như khi chiến đấu ở đất bạn. Ông nén mình lại để tìm hiểu, thu thập nhằm đạt được mục đích chiêm nghiệm chứ không phải dùng nó để làm việc gì. Trong cái đầu tưởng đến hàng ngàn ngăn chứa đựng tất cả các chuyện thời xưa, thời nay, bao sáng kiến mới mẻ, bao kinh nghiệm của cuộc sống, những lý luận sách vở, những hiện tượng và bản chất… đầy ắp trong cái “kho” vô tận ấy. Bằng tất cả vốn liếng ấy ông bỗng thấy mình là kẻ hiểu biết, phải dạy dỗ kẻ ngu si, người mạnh mẽ phải ban phát cho kẻ yếu hèn, người dày dạn từng trải phải biết cười cợt và độc đoán với kẻ non nớt ngây thơ. Cũng bằng cái vốn liếng ấy ông chỉ có thói quen biết nói, không có thói quen biết nghe, mặc dầu ông rất chăm chú nghe ngóng và ghi chép đầy ụ trong dăm bảy chục quyển sổ tay. Có rất nhiều lần ông nói say sưa hùng biện, nhưng không biết người nghe mình có hiểu gì không. Mặc. Ông cứ nói, nói lấy được, cốt đạt tới mục đích mình đã dạy dỗ, khai phá cho mọi người, đã biểu lộ được sự sâu sắc, uyên thâm của mình trước mọi người.
     
      Ông vào viện được năm ngày, trạng thái cơ thể của ông trở thành bình thường. Nói đúng ra, ông vẫn bình thường vào ban ngày. Còn ban đêm thì ngây bây giờ, mỗi lúc chợp mắt ngủ, ông vẫn mệt mỏi với ý nghĩ nửa tỉnh, nửa mê, ngủ và thức không lúc nào có được cai ranh giới rõ ràng. Ngày thứ sáu, người ta khiêng đến khoa ông người lái xe, kẻ đã bỏ rơi con ông và những người chết để chạy tháo thân. Anh ta được cấp cứu lần thứ ba. Cũng như ông, sau vài đêm có được giấc ngủ sâu do tác động của thuốc ngủ, anh trở nên tỉnh táo dù khuôn mặt anh vẫn ủ rũ đau đớn. Những bệnh nhân của khoa không ai biết rõ ông, nên họ kháo ông một cán bộ cao cấp với những giai thoại tốt đẹp. Ông có thể la cà trò chuyện với những người lái xe, nấu cơm, hộ lý và những bệnh nhân binh nhất, bình nhì một cách bình đẳng, thân ái và thông cảm sâu sắc. Ông đến phòng người bệnh nhân “dân sự” thân thiết và tự nhiên như anh ta không hề bị ai theo dõi, canh gác. Những cử chỉ, cách nói năng của ông, cộng thêm sự cảm nhận ở xung quanh khiến ông trở thành người tin cậy, có thể tranh cãi thoải mái và anh ta chuyển hết mọi nỗi niềm của mình sang ông. Tại sao anh có thể cưới một người con gái như thế để làm vợ. Một con vật, không hơn không kém. Đất nước này, tất cả mọi thằng đàn ông đều như anh, hoảng hốt trước đòi hỏi điên cuồng của nhục dục rồi sẽ ra sao? Đồ đê tiện, bẩn thỉu! Không thể là một kiếp người… Đã cố ghìm nén với mục đích tìm hiểu anh ta, máu trong người ông vẫn nóng lên sôi sục với những câu hỏi, những phẫn nộ không thể tha thứ. Rồi, ông phải nén lại những hơi thở cuồn cuộn nỗi nhớ thương, kính phục vợ ông. Không. Những người đàn bà chịu đựng dai dẳng âm thầm nỗi cay đắng mất mát của những xa cách và thiếu thốn suốt mấy chục năm qua đều làm ta kính phục. Chao ôi, nếu không có những người đàn bà như thế làm sao có đất nước này. Cả những người lính cách mạng nữa. Nếu không có những người con ấy, đồng đội của ông, làm sao đất nước có niềm vinh quang mãi mãi phải ghi nhớ, mãi mãi là chân lý bất diệt của một xã hội tiến bộ. Đồ chó má. Mày không đáng nhận lấy cái chết từ tay người lính cách mạng. Làm sao tao lại trò chuyện với mày. Ông muốn đứng lên và nhổ vào mặt hắn, nhưng vẫn phải ghìm lại để hỏi chuyện anh ta: Mong muốn nhất của anh lúc này là gì? Dạ thưa, cầu trời tôi cứ ước, giá dăm bảy năm sau mới bị bắn chết hoặc tù tội thì bọn nhỏ nhà tôi đã tự kiếm sống nuôi nhau, nó không phải chịu cảnh nheo nhóc tan tác. Anh không nghĩ, người công dân nào cũng phải có Tổ quốc? Họ sống trong Tổ quốc họ với đủ cả gió và nắng, không khí cho họ hít thở. Vậy thì trách nhiệm của họ với Tổ quốc? Dạ, từ giải phóng đến nay tôi cũng được vinh dự đóng góp với Tổ quốc. Các con tôi sau này nó cũng phải đóng góp. Nhưng nếu nó cực quá, ốm o quá, thời đóng góp cũng không được nhiều. Trước ngày giải phóng anh có nghĩ tới Tổ quốc không? Dạ… Không ạ. Không dạ dạ. Tổ quốc đang mình thời lúc đó chưa biết ra sao. Còn Tổ quốc đàng nó… cũng may tôi được sống sót, được có công chuyện làm ăn phục vụ Tổ quốc đàng mình, được đi phục vụ chiến dịch vừa rồi. Chẳng may… Không ngờ… Trời đất run rủi, chứ không phải anh hèn nhát? Dạ, dạ, có, tôi hèn nhát. Đó có phải là lá chắn che giấu cho những ý đồ nào khác? Dạ dạ thưa, tôi xin trình ông lá thư này… Đại ta trở về phòng mình lấy kính để đọc lá thư của vợ anh ta. Nói đúng ra ông phải vắt óc xem đằng sau những dòng chữ là những ám hiệu bóng gió đen tối nào? “Ba lũ nhỏ ngàn vạn lần xót thương của em. Chín má con cầu mong ba giữ gìn sức khỏe chờ mong lượng khoan hồng của bề trên cho ba trở về với má con là nhứt… Dẫu không được như vầy, ba có phải tù tội ở đâu đó, má con em cũng thay nhau đến chăm ba luôn luôn, chỉ mong ba sống để má con em khỏi bơ vơ. Ba nó ơi, suốt ba tháng ròng, má con em đã hết nước mắt, đêm đêm cầu trời, không hay trời có thấu, nhưng có cầu có thiêng, má con em thắp hương quanh nhà, quanh vườn và bàn thờ mới lập ở trước cổng để khắp cả trời đất bốn phương phù hộ ba về”.
Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #14 vào lúc: 10 Tháng Năm, 2008, 10:41:05 pm »

       Xem ra anh sợ chết là phải. ĐạI tá trả lạI thư cho anh. - Dạ, quả tôI là một thằng hèn nhát. Anh vẫn sợ mất người vợ trẻ? Không dám nói xạo, vợ tôI đã ba ba tuổi đẻ liền liền tám năm tám đứa nhỏ, nhưng không mấy người con gáI ăn đứt.

        Nỗi căm giận bừng lên không hoàn toàn do việc hắn bỏ rơi con trai ông trước cái chết, nó còn do sự ngu xuẩn của hắn từ khi kể chuyện cho ông. Hắn có tám đứa con vẫn sống lốc nhốc như đàn chó con. Còn ông chỉ có một! Vợ hắn phây phây, trẻ đẹp, hừng hực khao khát. Còn vơ ông héo hon mòn mỏi vì trông chờ chịu đựng! Vợ chông hắn chộp cướp từng phút để thỏa thuê loã lồ. Còn vợ chồng ông sống với nhau cộng lại chưa đầy ba tháng trong cả đời người. Lẽ đời, hai cách sống ấy đã là trớ trêu huống hồ kẻ bày ra cái nghịch cảnh lúc này lại là chính hắn ta? Có bao giờ anh nghĩ ngoài mình ra còn có kẻ khác trong đất nước này không? Dạ thưa… Tôi chưa hiểu được ý ông. Tôi nói rằng, anh có thói quen chỉ biết tìm mọi cách để mình sống, còn kẻ khác… Dạ thưa, tôi thành khẩn với ông, cũng có lúc sợ, tôi chỉ lo mạng sống của mình. Còn người khác? Dạ dạ… Anh nói đi: Nếu cần giết họ để anh sống, anh cũng sẵn sàng, có phải không? Dạ dạ… Nói đi. Rạ rơm gì. Anh phải nói đi! Thưa ông… Con… con… đâu dám thế. Mày còn chối cãi hả? Mày có biết tao là ai không? Mày có biết không? Dạ thưa… Con… Một cái tát như trời giáng vào mặt anh ta. Anh ta ngã gục xuống giường, ông dấn lên một bước túm cổ áo lôi dậy. Mày có biết tao là ai đây không? Tao là bố của người chiến sĩ mày bỏ lại để cho giặc giết đấy. Tao đây. Tao đây! Khuôn mặt anh ta lúc này hằn đỏ năm ngón tay ông, bây giờ tím lại bớt đi, bọt mép sùi ra hai bên, anh ta nằm vật, hai tay buông thõng, cái đầu cũng thõng xuống. Các nhân viên và bệnh nhân xô vào dìu đại tá ra và cấp cứu người lái xe. Khi hai người bác sĩ lực lưỡng xốc hai nách đại tá dìu đi, thì hai tay ông ôm lấy mặt, khóc tu tu. Về đến phòng mồ hôi ông toá ra, mặt mũi tái nhợt. Cả bệnh viện, từ viện trưởng đến nhân viên cuống cuồng hoảng hốt dồn vào hai ca cấp cứu. Đại tá thức dậy sau một giấc ngủ nhân tạo kéo dài bốn giờ. Ở một gian nhà cạnh nhà xác, nơi xảy ra xô xát buổi chiều, người lái xe cũng đã nhận biết được tiếng động bên ngoài và nhìn thấy ngọn đèn bão để ở cửa ra vào. Một bàn tay mềm mại cầm lấy cổ tay anh ta đếm mạch. Một người con gái khác bê đến cho anh một bát xúp khoai tây nóng nghi ngút. Một người đỡ anh dậy, người kia đưa bát xúp cho anh. Hai tay run rẩy đỡ bát xúp, mục được một thìa vào miệng, tự nhiên nước mắt anh trào xuống, không tài nào ăn tiếp được. Anh đặt bát, định với lấy chiếc khăn tay vắt ở thành giường, cô gái giữ lại, đưa cho anh chiếc khăn của bệnh viện. Lau mặt xong, anh gấp chiếc khăn vuông vắn để ngay dưới chân mình, bê bát lên, theo lệnh của người con gái. Thưa, cho phép tôi hỏi, thủ trưởng hồi chiều còn đấy không ạ? Việc đó không cần thiết. Nhiệm vụ của anh là phải ăn hết bát xúp này. Cô hộ lý trẻ tuổi gắt gỏng ra lệnh. Người y tá lớn hơn một vài tuổi tỏ ra hiểu biết tâm lý bệnh nhân, cô dịu dàng dỗ dành: Thủ trưởng về khu vực bên kia rồi. Bác ấy cũng bị bệnh thần kinh như anh đấy. Viện trưởng đã ra lệnh để đồng chí bộ đội gác anh ngoài kia từ nay không được để bác ấy vào đây nữa, đừng sợ. Thôi, ăn đi. Tôi có hay đâu thủ trưởng là cha của anh bộ đội tôi đã bỏ lại. Không được nghĩ đến chuyện đó. Cho phép tôi được gặp thủ trưởng, thưa chị? Anh nghĩ ngợi vô nguyên tắc rồi đấy. Bây giờ tôi ra lệnh cho anh phải ăn hết và nằm im, không được nghĩ vớ vẩn. Người lái xe chỉ còn biết lặng lẽ làm theo lệnh của cô thầy thuốc, mặc dầu anh không thiết ăn uống gì.

      Cũng lúc ấy đại tá ngồi dậy: Có lẽ tôi đã tát người lái xe thì phải? Những bác sĩ quanh ông biện bạch không hề có chuyện ấy. Ông gật đầu nói chậm rãi: Con người ta lạ lắm. Có những lúc lòng mình không hề độc ác mà hành động rất có thể là độc ác. Ừ, ừ. Chẳng qua anh ta cũng chỉ là một kẻ hèn nhát. Ừ… ừ, hèn nhát cũng sẽ trở thành độc ác? Chà con người! Những cuộc đời! Những số phận! Cái gì đã làm cho con người ta ngu xuẩn đi nhỉ? Cái gì làm ta đối xử tàn tệ với nhau nhỉ? Đến khi nào con người sinh ra trên trái đất này không còn độc ác, không còn thù ghét lẫn nhau! Thôi, thôi, đừng bắt tôi nằm nữa, cho tôi đứng lên, cho tôi đi lại một chút để dễ thở. Cái hơi thở tự nhiên trong lành nó quý lắm cơ. Đi đi, cho tôi đi ra cửa một chút.

***

      Những tin đồn mập mờ, thực ra vẫn có cơ sở của nó. Tùy, con trai đại tá được cứu thoát do một người đàn bà bất chấp nguy hiểm, lừng lững đi giữ súng nổ với mục đích rõ ràng không cần che đậy, giấu giếm: Xin một đứa con. Nhưng Tùy hoàn toàn bất lực trước việc đó. Anh chạy trốn. Những ngày nguy hiểm khốn đốn nhất của đời anh là những ngày sống giữa vòng vây của năm tiểu đoàn quân ta và hai tiểu đoàn địch ở huyện P. Anh chạy trốn cả những người tìm kiếm, cả những kẻ truy lùng giết mình. Hơn một tháng sau, khi về đến địa bàn huyện P, anh chết. Cái chết đột ngột vớ vẩn và nhục nhã đến nỗi phiên tòa không thể nhắc đến nó, như một nhân chứng của hậu quả hèn hạ mà người lái xe đã gây nên.

    Dường như mọi cơ sở cho một phiên tòa đã xong xuôi từ lâu, chỉ cần đợi tin tức chính xác của con trai đại tá để quyết định án tăng lên hay giảm đi tùy thuộc kết quả người con ấy còn sống hay chết. Cho nên chỉ cần hai mươi ba ngày sau khi biết tin nhân vật chính đã chết, người ta mở phiên tòa, như một lời an ủi, chia sẽ nỗi đau thương lớn lao của đại tá. Tuy đã được chuẩn bị kỹ lưỡng, các văn bản vẫn thiếu những chi tiết có hệ thống chính xác từ đêm bị phục kích đến khi con trai đại tá chết đột ngột. Sự thật đó đã xẩy ra như sau:

    Người đầu tiên xuất hiện trong đêm xe bị phục kích là một cô gái người Căm-pu-chia, không rõ lai lịch, có thân hình đẫy đà. Chị ta chạy đến chỗ hai người vừa sống vừa chết lúc cả ta và địch, cả dân chúng trên đường đều chạy đi. Chị ta cười, ra hiệu để người sống năng tay để chị kê hòn đá dưới khóa sắt, rồi lấy thỏi sắt khác như lưỡi rìu đặt lên trên, lấy hòn đá to đập xuống. Sự sống chết phải giành giật từng giây, mà chị ta làm như một trò đùa, nhưng lại nhanh chóng tưởng cũng là một trò đùa… Cái khóa có một mối hàn bằng thiếc. Chỉ cần giữ vững lưỡi rìu ở mối hàn đó và đóng. Dăm phút sau, người lính đã thấy bàng hoàng về việc làm của cô. Cô ra hiệu cho anh nhanh chóng chôn bạn để còn tìm cách mà chạy. Tùy hỏi bằng tiếng Căm-pu-chia và được trả lời là bọn Pôn Pốt sẽ quay lại. Người anh bỗng run lẩy bẩy. Cho đến lúc này anh mới có cảm giác bạn đã chết, anh ôm chầm lấy nó, trong khi người con gái kéo tay anh bảo phải khiêng bạn anh đi. Anh bực bội ra hiệu cho cô đợi anh tìm cách lau mặt và thay quần áo cho bạn. Cô vội vã chạy sang quán bên kia đường.

     Tùy đã nhanh chóng cởi chiếc quần của mình còn lành hơn thay cho chiếc quần đùi đã thủng và rách của bạn. Lau mặt và vuốt mắt cho nó, anh nấc lên từng chập, nhưng không còn nước mắt. Hai hàm răng anh cắn chặt, nín thở, lẩy bẩy nhấc đầu bạn đi theo cô gái đặt xuống một hố đại bác gần đấy. Trong vòng ba bốn mươi phút gì đấy mọi việc đã xong xuôi. Tùy cúi mặt câm lặng trước mộ bạn, một đám cát được gạt phẳng phiu. Không được để một dấu vết gì để cho cả quân ta và địch tìm thấy, bởi vì với địch họ là kẻ thù, với ta họ là kẻ phản bội. Cô gái đi ra xa để cho anh được một minh chia tay với bạn. Rồi cô cuống quýt chạy về lôi anh đi. Cô đã phát hiện ra một đám “Pốt” đi nhập nhoà bên kia đường. Hai người chạy sâu vào rừng chừng hai ba ki-lô-mét gì đấy. Người con trai đói mệt và khát. Anh khuỵu người vào gốc cây để thở. Anh nói rằng anh không thể đi được nữa. Cô gái dặn anh ngồi im chờ cô. Không được đi, bao nhiêu là mìn ở khu rừng này. “Pốt” cũng có nhiều. Thì thào vào tai anh hai lần để anh hiểu, rồi cô mới bỏ đi. Chỉ mươi phút sau cô bọc về cho anh bẩy quả vú sữa. Cô ngồi xuống đối diện ngay sát mặt anh, hai tay ép nhẹ nhàng từng quả vú sữa mềm nẫu đều đặn, rồi bửa cho anh ăn. Bộ đội ăn, em không đói. Cô bắt anh phải ăn thật nhiều, rồi cô sẽ đưa anh về nhà ăn cơm. Anh ăn đến quả thứ năm thì chán và cũng đã thỏa mãn cơn đói và cơn khát. Người thấy khỏe khoắn, nhưng hai mắt lại như kéo sập xuống. Anh thèm ngủ đến mức vỏ quả vú sữa cuối cùng chưa rời khỏi tay, anh đã ngủ rất ngon lành. Cô gái đem vỏ vùi giấu ở một gốc cây, rồi đặt những quả còn lại vào một chiếc khăn đen có những ô vuông màu trắng, thì thầm ríu rít đầy vẻ sung sướng và thấp thỏm. Phải một lúc sau nghe hơi thở đều đều của anh, cô mới biết anh ngủ. Dù vậy cô vẫn áp bàn tay mình lên bàn tay anh lay lay nhè nhẹ. Cô cười, cười một mình trong đêm mịt mùng ngắm nhìn anh rồi cả hai tay nắm lấy tay và hôn vào cổ anh. Rõ ràng là anh ngủ rất say. Kể cả khi cô cầm hai tay anh bóp bóp vào hai đâu vú mình, anh cũng không hề biết. Cô thấy thương hại và giữ nguyên sư va chạm giữa hai cơ thể một cách hờ hững chờ đợi. Một giờ sau anh choàng tỉnh. Không rõ đã thỏa mãn về giấc ngủ sâu hay vì sự căng cứng của hai đầu vú mẩy giần giật chuyển vào lòng bàn tay mà anh tỉnh dậy. Anh lạ lẫm nhìn cô. Cô rụt rè nhìn xuống nói những lời gì đó giọng nhỏ và ngập ngừng. Nói xong cô ngước nhìn anh. Anh từ từ rút hai tay mình lại. Cô gái vội lấy hai tay khép vào ngực mình. Cô nói rằng, cô đã có chồng, ở với nhau mười ngày, Pôn Pốt về đập chết chồng cô. Cô chạy vào rừng. Ngày bộ đội Việt Nam giải phóng, cô trở về phum, nhưng đàn ông thì theo Pôn Pốt và đi giải phóng chẳng còn một ai. Rằng không hiểu vì sao cô lại cứ phải chiều chiều chạy ra giữa súng nổ, lửa cháy, xem có bộ đội nào bị thương, bị lạc để cho cô chữa chạy và đưa đi. Nhiều lần như thế dân chúng gọi cô là con bé điên. “Pôt” gặp cô, nó cũng coi cô là con điên. Nhưng cô thì chiều nào cũng tâm niệm tiếng Việt Nam rất sõi: “Bộ đội Việt Nam cho em đứa con”. Rằng đã mấy tháng nay cô chưa gặp một người nào bị thương, bị lạc để cho cô cứu giúp. Đến hôm nay em lo cho bộ đội nhiều quá, em chỉ sợ bộ đội chết mất. Người chiến sĩ gật gật đầu thương tình cảnh thê thảm của cô. Hai mắt cô sáng lên, long lanh cười nói, nói rất nhanh bằng tiếng Việt. Bộ đội cho em… Từ khi cô xuất hiện như một nàng tiên, nhanh nhẹn và vững chãi, đủ sức cứu vớt anh ra khỏi chỗ chết đến giờ anh chưa nhìn rõ mặt. Lúc này giữa mịt mùng huyền ảo, khuôn mặt ấy gần như áp vào mặt anh để thì thầm, anh mới nhìn rõ các đường nét trên khuôn mặt cô. Các đường nét đã nhoà đi, nhưng đã chứng tỏ đấy là khuôn mặt đẹp. Hai vòm mắt rất sáng, hàm răng trắng, hai má đầy chứng tỏ một con người đang rừng rực sức sống. Ngày xưa em làm gì? Em là sinh viên văn khoa, học chưa hết đã lấy chồng. Sau mươi ngày “Pốt” về… Nói rồi hai bàn tay cô bóp chặt vào bàn tay anh. Thoạt tiên cảm động, sau rồi cái cảm động như là kêu gọi, như là sự sống trong thằng đàn ông vẫn còn, trỗi dậy trong anh. Lại giữa vắng lặng mịt mù! Lại chỉ có hai con người! Nhưng “cho em một đứa con” để rồi mang vạ, để mãi mãi ở lại đây, nếu không, hoặc mình, hoặc cô ta, phải trả giá bằng một cái chết. Thôi, cố chịu rồi tìm cách lủi đi. Mìn và Pốt ở xung quanh biết đường nào mà lần mò? Bằng cách nào cho mình và cho cô ta chịu đựng được qua những phút này! Một người đàn bà đã có chồng, đã nếm mùi đàn ông mới đủ sức liều lĩnh táo tợn chủ động khêu gợi như thế này. Hoài ơi, em đi với thằng khác trơ trẽn như một con đĩ cũng phải thôi. Trời ơi! Đàn bà. Không ít đàn bà ở thế gian bây giờ không là con đĩ ở dạng này thì cũng ở dạng khác- hở hang hay kín đáo, rụt rè hay táo tợn, chủ động hay bị tấn công thì cũng thế cả thôi. Họ chỉ “đẹp”, “chung thủy” khi không vời được thằng đàn ông nào khác làm thỏa mãn lòng ham muốn vô độ của họ hơn chồng mình, chứ làm gì có “thờ chồng nuôi con” như bà ta, như mẹ ta, những người đàn bà, người mẹ chờ đợi vững bền như những hòn núi Vọng Phu.
Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #15 vào lúc: 10 Tháng Năm, 2008, 11:05:59 pm »

       Sự phẫn nộ bừng nóng khuân mặt anh. Anh rụt chân ngồi ngay ngắn lại. Anh gắng tươi tỉnh, vừa tìm từ thích hợp, vừa ra hiệu cho cô hiểu anh phải về Việt Nam.

       Anh đã có vợ con, anh rất sợ kỷ luật của bộ đội Việt Nam. Cô gái cũng vừa nói vừa ra hiệu giải thích rằng: Cô không giữ anh ở lại, cô không theo anh đi. Rằng cô chỉ cần một đêm nay, anh cho cô một đứa con, rồi anh đi ngay. Rằng, cô đã đứng ở trong phum nhìn ra mặt đường để thành điên dại mới gặp được anh. Nói xong, cô cúi xuống chờ đợi sự ban phát. Anh lính Việt Nam gốc ở một làng quê mặc cả: “Xong việc” tôi đi luôn về Việt Nam đấy. Cô gái gật đầu chấp nhận. Nếu có con thì sao? Cô nghiêng nghiêng mặt chưa hiểu. Anh hỏi lại. Cô reo lên: Ô, có hả? Trời ơi, thế thì sung sướng cho em lắm! Cứ để mình em nuôi thôi. Khi nào bộ đội thích thăm con, bộ đội sang. Không thích thì cứ để em dạy con thương bộ đội. Thương anh bộ đội Việt Nam thật nhiều. Chắc chắn không có phiền hà cho hiện tại và mai sau, anh đứng dậy đi đi lại lại. Động tác của anh như còn phải phân vân nghĩ ngợi, như là hít thở lấy làn không khí mát mẻ của ban đêm cho sức mình mạnh mẽ hơn. Một người đàn ông chưa vợ, nhưng thừa những nếm trải, biết cách làm cho người con gái tận hưởng niềm sung sướng điên cuồng khiến cho anh chột dạ. Anh thì thào hỏi cô. Bọn Pốt có phát hiện ra chúng mình? Nhưng cô không để ý. Công việc của cô lúc này là dùng đôi tay chắc ghì siết lấy cổ anh, để tiến tới chót vót của sự thỏa thuê. Nhưng anh không còn cả sức lực lẫn tình cảm. Anh trở thành kẻ thất bại. Anh ngủ và ngáy ngay khi cô đang ở trạng thái không bình thường. Lúc lâu sau cô mới nhẹ nhàng nâng mình lên. Đặt anh sang bên, lấy khăn đắp cho anh và quỳ xuống ngắm nhìn khuôn mặt mệt mỏi và vô tư, như muốn nuốt lấy, giữ gìn lấy cái hạnh phúc bình thường như tất cả mọi người ở thế gian này. Chỉ vậy thôi mà cô đã phải thách đố với cả bom đạn và dư luận bao tháng, bao ngày mới được giây phút ngắn ngủi! Rồi lại mất ngay bây giờ sao? Anh không thể ở với em? Nước mắt cô trào ra. Nhưng phải giữ lời hứa. Đã không thể giữ được anh, cô đàng đứng dậy rón rén bước đi trên những tầng lá mục.
     
      Gần sáng cô trở lại với một túi cơm, một gói đường, một bi-đông nước, một khẩu AK và băng đạn cô nhặt được ở cạnh đường cách đây hai tháng. Rất may mắn cho anh, có khẩu súng phòng thân. Anh đã trả ơn cô bằng những cái hôn giữa những vòng tay ghì siết lấy hai con người như không bao giờ muốn rời ra. Nhưng anh phải ra đi. Anh không đi ra đường tìm gặp bộ đội Việt Nam theo tay cô chỉ, mà đi ngược lại vào sâu trong khu rừng hoang vắng. Anh chạy trốn cả hai phía. Cốt sao sống để tìm về nước. Ở quê hương mình, với một người mẹ sẵn sàng gánh chịu mọi tội lỗi cho con, anh sẽ nhận lấy mọi hình phạt để mẹ không bị đơn côi lạnh giá. Lúc ấy mẹ sẽ hiểu rằng, anh không phải là kẻ hèn nhát ở bất cứ phía nào trong nghĩa vụ của người công dân.

      Đi và sống trong rừng, nơi có nhiều biệt kích đi phục kích quân ta và cũng có rất nhiều đơn vị của ta phân tán lùng sục quân địch. Chỉ có cách đi lặng lẽ mới tìm ra những nơi ẩn náu để hai bên đều không thể phát hiện. Cũng ở trong rừng, anh mới biết có đơn vị của ta truy quét quân địch một cách qua loa dối trá, cốt cho xong nhiệm vụ. Đôi khi để đánh chiếm mục tiêu, họ bắn tất cả các loại đạn của tất cả các loại súng, tự làm lộ mình cốt để cho quân giặc biết, chúng bỏ chạy, mình tiến quân yên tâm hơn. Không cần thống kê số liệu để báo cáo với ai, nhưng anh tin mình nhớ tất cả mọi việc kể cả thất bại và thành công, kể cả sự liều lĩnh lẫn cao thượng của chính mình. Bốn lần anh nổ súng vào bọn “Pốt” phục kích chuẩn bị phụt B.41 vào xe đạn của ta. Lần nào anh nổ súng cũng có kết quả, dù nó không chết thằng nào. Quan trọng là nó không thực hiện được ý định. Nghe tiếng nổ nó bỏ chạy, xe ta đi qua an toàn, thế là anh hoàn thành nhiệm vụ, nhưng những nhiệm vụ không ai giao, không ai nghe, co nghe cũng không thể tin. Nhưng anh thấy nhẹ nhõm sảng khoái. Chỉ cần thế. Anh lại tiếp tục đi. Có bảy lần nữa anh bắn bọn gài mìn chống tăng đang hí hoáy đào bới trên mặt đường. Hai thằng trúng đạn chết. Thật ra anh không muốn thấy nó chết, cứ muốn nó bỏ nhiệm vụ mà chạy. Nhưng cái lần ấy trông hai thằng thật đáng ghét, chúng hăm hở với công việc mình làm, cái công việc sẽ giết hàng chục người ấy, chúng hăm hở một cách hãnh diện, cáu tiết anh cho một điểm xạ. Hai thằng lăn vật ra kết thúc cái vinh quang của những kẻ háo hức làm ra chiến công. Cái bản chất anh hùng nhất của những kẻ tàn quân Pôn Pốt là thập thò lén lút. Dù thằng to hay thằng nhỏ, thì dáng điệu đứa nào cũng như chuột nhắt, nghe tiếng hô là chạy, rất hãn hữu mới đối mặt với đối phương. Hiểu quy luật ấy, Tùy không bao giờ tấn công bọn chúng ở rừng sâu. Trong chốn rừng sâu ấy, anh tìm cách tránh nó hoặc nghi binh để nó tưởng có cả một đơn vị đang truy lùng. Nhưng chủ yếu là anh theo chúng để tìm ra đường chính. Khi đó anh vừa có hướng đi vừa làm cho địch tan mọi ý định và chạy. Cũng có hai lần anh bị nó quây định bắt sống, phải bắn hết đạn và doạ nó, rồi vác súng chạy thục mạng. Tuy vậy, chưa khi nào anh gặp địch anh thấy hoảng bằng chạm phải đơn vị của ta. Trốn được ta để đánh được giặc rất khó. Nhưng anh cũng tìm được bí quyết riêng. Một con người ẩn nấp giữa những cánh rừng bao la có gì là khó. Một mình mình chịu trách nhiệm, một mình lo toan cho mình cũng dễ. Ngay cái ăn là mối lo muôn đời của những người phiêu bạt anh cũng cảm thấy nó nhẹ nhõm. Tất nhiên, phải dùng đủ mọi thủ đoạn bẩn thỉu như ăn vụng, ăn trộm không để lại dấu vết. Thực ra, với một đất nước chỗ nào cũng gặp trái cây, cũng kiếm được rau, cũng bắt được cá thì sự kiếm ăn cũng không đến nỗi quằn quại chờ đợi như những ngày chờ nước, chờ lương thực trên cao điểm. Anh sống an toàn vượt qua dược tất cả mọi trở ngại lớn, tránh được tất cả các cuộc lùng sục tìm kiếm của ta và sự rình rập của địch. Đã có ba lần các đơn vị quân đội Việt Nam sục sạo những khu rừng địch đã đi qua và cả những khu rừng anh đang ẩn náu. Cô gái Căm-pu-chia cũng đi tìm kiếm anh. Cô đi vì nỗi lo sợ cho anh, vì hy vọng, vì muốn xoa dịu nỗi thèm nhớ, khát khao, chứ tuyệt nhiên không để bắt anh mắc míu vào sự ràng buộc nào. Cô đi một mình cả mười ngày, rồi bốn tháng sau cô dẫn một trung đội bộ đội Việt Nam cùng đi tìm kiếm anh theo mệnh lệnh của tư lệnh. Nhưng cả cô gái và các chiến sĩ đều vô vọng. Điều anh lo sợ nhất đã không xẩy ra. Cái anh coi thường nhất lại ập đến bất ngờ. Một tiểu đội lính Pôn Pốt đã phát hiện và đi theo anh suốt một ngày mà anh không hề hay biết. Đến chiều, lúc rừng đã sẫm lại chúng chia thành hai mũi đã bao vây. Ở mũi chạy vòng lại phía sau, do sơ suất, chúng đã để phát ra tiếng va chạm của kim loại. Một băng đạn rơi! Một cú vấp ngã súng đập vào đá! Một cú nhảy, xẻng va vào cuốc chẳng hạn. Lúc ấy anh đang đứng lặng áp tai vào một thân cây nhỏ, thói quen trước khi trời tối: nghe động tĩnh xung quanh, rồi đáng động chỗ này nhanh chóng luồn đi thật xa như mọi lần anh vẫn cảnh giác. Sự sơ suất của đối phương giúp anh nhanh chóng phát hiện và khéo léo buông tay nậy chốt an toàn khẩu tiểu liên, rồi ngồi thụp xuống luồn ra chỗ khác. Tốp địch phía sau thấy mất mục tiêu ào ào chạy lên. Anh bình tĩnh quay mũi súng vào phía chúng. Chỉ cần nửa băng đạn, cả sáu tên đã ngã xuống. Nửa băng còn lại anh dành cho bốn tên ở phía trước, nhưng chúng còn cách quá xa, nên chỉ làm một thằng chết, một thằng bị thương. Hai thằng sống thì một bỏ chạy, một quỳ xuống phụt B.40. Anh nhẩy sang hướng khác, khi phát đạn sắp sửa bùng lên. Biết còn một thằng vừa bắn mình, anh xô lại quát bằng tiếng Căm-pu-chia bắt nó giơ tay thì nó lại quỳ xuống lạy anh bằng tiếng Việt: Em xin anh tha tội chết. Anh tức giận đạp hắn ngã lăn ra nằm như chết. Đứng nhìn một lát trước cái đống thịt bất động mềm nhũn ấy anh vội vàng nắm cánh tay lay lay. Cái vốn tiếng Việt đã nói hết, lúc này hắn không thể nói gì hơn. Nói tao tha, không nói tao bắn. Tên tàn quân cuống quýt chồm dậy. Hắn mừng rỡ có thể kể lể van xin rằng hắn sợ chết, nên cứ phải đi theo Pôn Pốt. Hắn có vợ, một con. Nếu muốn cứu hắn, phải cứu cả vợ con hắn. Khi mày bắn tao, mày có nghĩ tao cũng có vợ, có con không? Dạ, nhiệm vụ, thấy giặc không bắn cũng chết. Cứ bắn cho xong, trúng đâu thì trúng. Vừa rồi tôi biết anh bắn chết cả tốp bên kia, tôi sợ lắm, nhưng không bắn anh thằng bên cạnh nó cũng bắn chết tôi. Tôi phải bắn, bắn cách xa xa một chút. Vậy là anh đã cứu tôi! Dạ, không phải thế. Em chỉ bắn cho thằng kia nó tin là cũng căm thù anh, cũng muốn giết anh. Thằng kia là chỉ huy? Không phải đâu. Nó cũng như em, phải tuân lệnh chỉ huy. Chỉ huy bảo các anh độc ác lắm, phải căm thù, phải đổi mạng mình nếu thấy cần thiết, để bắn chết các anh. Thằng kia chạy thoát thì về nhà hay về đơn vị? Nó có mẹ già và con vợ rất trẻ, nhưng nó phải chạy về đơn vị? Còn anh? Nếu tôi tha, anh có về nhà không? Dạ, thực em rất muốn về, nhưng quê em được bộ đội Việt giải phóng, mà ban đêm vẫn có hoạt động. Nghĩa là anh sợ trả thù? Thưa đúng. Nếu bộ đội cứu em, bộ đội bắn vào chân em một phát. Để anh gẫy chân? Dạ, gẫy một chân mà được ở với vợ con. Tôi không làm được việc đó.
       
     Quê anh cách đây xa không? Dạ thưa, sát Biển Hồ, thuộc huyện P. Tôi sẽ đưa anh về nhà. Không, không được. Cám ơn bộ đội, em sợ lắm. Bao nhiêu người ra đầu thú trở về gia đình làm ăn thì sao? Quê em bọn nó còn lén lút về luôn. Ở đấy không có bộ đội Việt giúp hay sao? Trước đây em về “hoạt động” phải tránh bộ đội Việt. Nhưng bây giờ bộ đội Việt rut cả về huyện rồi. Tôi sẽ đưa anh về và bảo vệ anh, rồi tôi tìm cách tổ chức lực lượng du kích đủ mạnh để bọn Pôn Pốt phải ra khỏi làng, dân chúng yên ổn làm ăn. Dạ, cảm ơn bộ đội Việt. Nhưng bộ đội cứ bắn vào chân em. Bắn vào chân không đi được. Bắn vào tay trái được đấy, bộ đội ơi. Thôi được, cứ đi về đến gần nhà anh, tôi sẽ bắn. Còn phải đi hàng tháng trong rừng, anh què quặt tôi nuôi làm sao. Được đấy, bộ đội ạ. Rồi tôi cũng nghĩ cách bắn thế nào, bắn vào chỗ nào để anh khỏi què quặt nữa chứ. Bộ đội nghĩ giỏi quá. Em và bộ đội đi về quê em, rồi bộ đội bắn em để em không què quặt, nó cũng không nghi được em. Hai người đi như hai người bạn cùng tiểu đội vừa kiếm ăn vừa tránh địch, tránh ta. Sao lại sợ bộ đội Việt minh, hở bộ đội? Vì tôi dẫn anh đi, bộ đội tưởng tôi theo địch, nên phải tránh. Tránh đến khi nào tôi luyện tập cho du kích quê anh giữ gìn được làng, tôi mới trở về đơn vị và không phải tránh bộ đội Việt. Thế bộ đội Việt không thích luyện tập cho du kích vùng em à? Có. Nhưng người ta có kế hoạch, có tổ chức. Còn tôi, tôi quý anh, trốn đơn vị đi giúp các anh, không có ai người ta cử, hiểu không? Dạ dạ, em hiểu, em cảm ơn bộ đội Việt nhiều. Nhưng vì lý do gì đó tôi phải trở ngay về đơn vị thì cũng phải hiểu, nghe không. Phải nói trước điều đó, vì biết đâu bất thình lình chạm trán những đơn vị “địa bàn” hoạt động. Làm sao để khi “mình chuồn” mà anh ta không thể nghĩ xấu về những người lính của mình. Hơn nửa tháng sau, hai người có thể gọi được là đôi bạn từng quen những nơi đói no, lặn lội vượt qua cái chết, che chở cho nhau, họ trở về đến quê hương người lính tàn quân Pôn Pốt. Lúc này cả đơn vị của mặt trận đã nắm được dân, bọn tàn quân được lệnh “nằm im” và rút chạy. Vốn có thói quen vừa đi vừa “nghe”, vừa “cảm” và phán đoán, Tùy nhận ra những đám tàn quân đi trong rừng đêm đêm có vẻ hốt hoảng, lo sợ. Như thế có nghĩa là quân ta đã có mặt ở vùng này. Anh quyết đinh không bắn sát thương người bạn cùng đi. Người lính kia nắm lấy tay anh, run rẩy xin cứ làm đúng như lời đã hứa. Tình hình đã thay đổi, không nên máy móc tự hủy hoại mình làm gì. Nếu thực sự “Pốt” còn đe doạ anh, tôi vẫn ở quanh đây, tôi có trách nhiệm bảo vệ anh và tôi sẽ huấn luyện cho du kích của phum giữ được quê hương như đã bàn với nhau. Nhưng bây giờ tình hình khác quá rồi, bọn tàn quân đang hoảng sợ, chúng không dám làm gì anh đâu. Anh ta nhất quyết không rời Tùy và không nghe lời anh giải thích. Nói thế nào anh ta cũng không chịu. Bởi vì anh không thể giải thích cho anh ta hiểu rằng chính tôi cũng đang bị truy lùng. Người ta kết án tôi là kẻ phản bội Tổ quốc. Ngay cả người cha của tôi, tôi cũng không muốn ông phải nhìn thấy con đứng trước tòa án binh. Tôi không muốn mẹ tôi phải chết hai lần về nỗi nhục nhã khi tôi chưa ở bên mẹ để mẹ hiểu rằng tôi không bao giờ, không thể bao giờ tôi là kẻ phản bội cha mẹ mình. Anh đứng lặng đi khiến người bạn sợ có một mối đe doạ gì đấy để bộ đội Việt phải lo, phải buồn. Anh ta túm lấy tay Tùy: Em không về với vợ con em nữa. Em ở ngoài rừng cùng anh phục chúng nó. Có anh, em không sợ. Không! Tôi đưa anh về. Phải đến quá nửa đêm họ mới thống nhất quyết định với nhau:

       Người lính kia phải về nhà, anh ta về một mình còn Tùy phục ở ngoài. Người lính ấy sẽ hỏi mẹ và vợ xem thái độ của hai người thế nào, tình hình ở nhà ra sao, rồi người lính trở ra và họ sẽ quyết định, xem Tùy có vào nhà anh ta không? Sẽ không trở ra với hai trường hợp như sau: Một, có bộ đội Việt Nam trong nhà thì đốt đèn sáng lên. Hai, có “Pốt” trong nhà phải reo lên: Ô may quá, tôi bị Duôn phục kích, chạy về đây. Trường hợp nào cũng không được có bất cứ cử chỉ gì để bị nghi là có người ở ngoài. Xử lý tình huống nào, theo cách nào do người ở ngoài quyết định. Phải làm sao để anh không bị nghi vấn có sự liên quan. Bàn đi, bàn lại, dặn dò mãi, mà khi rời tay Tùy trở vào nhà, anh ta ngã rúi rụi không biết vì hoảng sợ hay vì mừng rỡ. Mẹ và vợ con anh cùng reo lên vì không ngờ anh còn sống trở về.
Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #16 vào lúc: 10 Tháng Năm, 2008, 11:07:49 pm »

      Vợ anh vội vã đI châm đèn, anh lấy tay giữ lại. Chỉ dăm phút sau anh đã chạy uỳnh uỵch Tùy vừa nói vừa thở. Anh ta cứ trầm trồ khen Tùy giỏi. Từ ngày ở giữa rừng, anh đã biết tàn quân chuồn đi hết, bộ đội Việt đã trở về xây dựng du kích và cho những người bỏ hàng ngũ Pôn Pốt trở về với gia đình học tập.

       Nhưng bộ đội Việt không ở nhà ai. Anh vào nhà em, mẹ em, vợ em rất mong được anh vào nhà. Em đã nói, nhờ có anh nên em sống, mẹ em khóc, còn vợ em bắt em phải nhanh chóng ra mời anh. Hoảng hốt và bực bội vì anh ta đã làm lộ bí mật, đã sai lời giao ước, nhưng trước tình cảm của anh ta lúc này, Tùy không nỡ nói điều gì. Anh phải dặn người lính kia về nói với mẹ và vợ anh ta làm sao đừng để ai biết anh. Nếu chuyện lộ ra tức là đã cầm súng bắn anh rồi đấy. Không, không. Cả mẹ và vợ em giữ kín lắm. Nếu ai biết có anh, em xin cầm dao tự chặt đầu mình. Bằng mọi cách anh ta nói cho Tùy yên tâm. Anh ôm lấy bạn nức nở khóc như một đứa trẻ xa mẹ. Không thể dùng dằng mãi ở đây, có nguy cơ gặp lính trinh sát của ta, anh phải ôm ghì lấy bạn, rồi xin phép ra đi. Người bạn Căm-pu-chia ra hiệu cho anh chờ để mình chạy vào nhà. Anh ta cuống quýt cho đường, gạo nếp, cao trăn, quần áo chật ních vào chiếc bao lô “cóc” lộn ngược (của bộ đội Việt kỷ niệm cho gia đình) bê ra cho Tùy. Đến bây giờ thì người ra lệnh kiên quyết và mạnh mẽ bắt Tùy phải nghe theo lại là anh ta. Tùy không muốn dùng dằng lâu thêm, đành cảm ơn và nhận chiếc ba-lô ra đi. Chính đêm ấy, anh gặp Hoài. Gặp ngay trên đường cách nhà anh bạn Căm-pu-chia chừng vài ki-lô-mét. Một cuộc gặp gỡ đột ngột như sét đánh. Dưới ánh trăng mờ mờ anh nhìn thấy em, nếu không phải là dáng một người con gái, thì anh đã chạy thục mạng bất kể cái bóng đen đó là ta hay là địch. Nhưng khi thấy anh, Hoài đã chạy gấp và nhanh chóng ôm choàng lấy anh: Em đây, Hoài đây, anh ơi! Vẫn tưởng gặp ma hay mình nằm mê, anh không hề nói năng, không hề nhúc nhích mặc cho nước mắt em đã ướt đầm vai áo mình.

      Thực ra cái tình yêu trong cô không thể mạnh mẽ như những ngày anh chuẩn bị lên đường. Ra đi như một sự thách đố, cô sẵn sàng chết, sẵn sàng đánh đổi cuộc đời mình cốt để chứng tỏ cô cũng giữ một tình yêu chung thủy duy nhất, chứ không phải sẽ bỏ đến thằng thứ một trăm. Cũng không thể là “Cuộc tình nào cũng biết giả đau” như kẻ đã nhân danh người lính làm cho anh trở nên mù quáng! Nhưng sự thủy chung ấy là gì, nếu không để đạt tới sự thỏa mãn trong tình yêu của cô. Những ngày tháng qua cô hành động với một ý thức “mất” và “được” rõ ràng, sòng phẳng, không thể chỉ là dài đặc những năm tháng mòn mỏi nuôi lời hứa hẹn không căn cứ, không thể hy vọng và thủy chung với cái không còn có thực ở đời. Điều ấy cô đã biểu hiện từ mất tháng trước khi biết nguồn gốc “mất tích” của người yêu mình. Thái độ mập mờ của đại tá lúc gặp cô đã báo cho cô một điều gì đó không bình thường ở Tùy. Cô tìm cách xin cơ quan tiền phương của Bộ tư lệnh, rồi tìm cách đi X, tìm cách đi B, đi lên điểm cao 1224. Trả lời cho những vất vả lặn lội của cô là tin Tùy đã phản bội Tổ quốc, bị ta bắt, bị địch phục kích và từ đó không ai biết gì thêm. Cô mất người yêu! Cô mất công bỏ ra hàng năm nay, sức lực và nhan sắc bị tàn phai cốt để háo hức được giãi bầy, được đền bù, được chứng minh một tình yêu thủy chung. Tất cả đã bị hẫng hụt cô cảm thấy xấu hổ vì sự thách đố đã rơi vào khoản trống vô vọng. Cô quyết định sẽ trở về. Cô đã tự nguyện ra đi, bây giờ cô thấy cần thiết phải quay về. Suốt tuần lễ nằm bệnh xá của một sư đoàn, cô đã thấm thía hết nỗi đau đớn tủi nhục, đã hiểu thế nào là cay đắng của những thất bại thời trẻ trung, ngây thơ, bồng bột. Trời thì dửng dưng, mà đất lại vô tình!

      Cô không co cả bố lẫn mẹ. Hai người bỏ nhau, mỗi người gian díu với một nguồn vui mới, cô bơ vơ giữa sự hờ hững của họ. Bởi quá khô cằn trong tẻ lạnh, cô dễ dàng “bốc cháy” trong lửa ấm của con người. Cô thèm khát một gia đình và bằng mọi giá chiếm đoạt nó! Phải đâu cô buông thả trôi nổi cho thỏa mãn những đòi hỏi tầm thường. Cô sai lầm bởi vì cô quá tin, cũng như tất cả đàn bà đều sai lầm với niềm tin dễ dãi và mù quáng trước sự biến mất của con người và xã hội. Phải đâu cô cốt sống qua ngày.

      Buổi sáng ở trạm xá kiểm tra sức khỏe, người ta bảo cô đứng vào bàn cân, cô hiểu vì sao mình đã sút năm ki-lô-gam rưỡi so với mấy tháng trước. Những cái sức lực của người con gái tuổi dậy thì đang sa sút cũng không làm cô lo lắng, nếu không có cái bệnh đột nhiên buốt đến điếng người và tai ù đi như có ai đóng trên đỉnh đầu.

      Trung tướng tư lệnh mặt trận nhân chuyến đi kiểm tra đã đón cô về trên chiếc trực thăng của ông. Ông thuyết phục cô cũng bằng sự sòng phẳng rõ ràng. Chỉ có những ý kiến tham khảo, tuyệt nhiên không có mệnh lệnh toát ra từ ông, dù ông đã báo cho cơ quan quân y tiền phương bộ: từ nay cô tạm thời thuộc quyền quản lý của phòng quân y mặt trận. Ông cho cô biết kết luận trường hợp của Tùy trên cao điểm 1224 là do hoàn cảnh tạo nên, họ là những chiến sĩ tốt. Không may sa vào tay địch, họ đã chiến đấu dũng cảm để trở về đơn vị. Những người chết được coi như liệt sĩ, còn Tùy… nó có thể “vẫn còn sống”. Ôi bác ơi, anh Tùy còn sống? Cho đến nay tin tức chưa chính xác, nhưng chắc chắn đã có một người phụ nữ Căm-pu-chia cứu nó và chôn cất cho bạn nó. Sau bốn tháng chị ta đã dẫn trinh sát đi tìm. Gần đây nhiều tin khẳng định cậu ta còn quanh quẩn trong những khu rừng quanh huyện P, gần vùng B. Bác ơi có cách nào tìm được anh ấy? Mặt trận đã mở một chiến dịch ngăn chặn sự vận chuyển của địch, trong đó có việc tìm kiếm nó, nhưng… Bác có thể cho cháu đến đấy được không? Bác đón cháu về với ý định ấy… Liệu có còn hy vọng gì không ạ? Bác không thể biết. Bây giờ đi hay không là tùy ở cháu quyết định. Cháu vô cùng cảm ơn lòng tốt của bác. Lúc nào có thể đi được ạ? Thời gian cũng lại do cháu. Lúc nào cháu đi được, bác báo cho đội trinh sát dẫn cháu đi. Cháu quấy rầy bác nhiều quá. Bác tha cho cháu, thế này có được không ạ? Cháu cứ nói. Vấn đề là tìm thấy nó, không cần câu nệ vào bất cứ việc gì? Nếu có thể được, bác cho cháu xin khẩu súng và tấm bản đồ. Cháu đi một mình. Bản đồ vùng ấy và súng thì dễ, nhưng cháu phải đi với đội trinh sát. Bác biết đấy “thân gái dặm trường” cháu đâu có ngại. Từ bên nước mình sang đây chỉ chưa đầy một tháng cháu đã đi hầu hết các vùng biên giới bạn, phần lớn là đi một mình. Đằng này cháu phải đi trong rừng lần tìm từng gốc cây bụi rậm? Cháu phải tính đến hiệu quả của công việc! Sao lại lụy vào hình thức đi đứng. Cháu thú thật, cháu không muốn đi với con trai trong những trường hợp nguy hiểm phức tạp. Với lại… cháu thích một mình tìm ra anh ấy.

      Chính bác cũng nghĩ thế, có khi hàng sư đoàn không tìm thấy được vì nó sợ hãi phải lẩn trốn, nhưng nghe có cháu nó lại tự tìm ra… Dạ… cảm ơn bác. Nghĩ đến điều ấy, nên bác mới nghĩ đến việc đón cháu, nhưng mà… nguy hiểm quá. Bác thông cảm cho chúng cháu. Chúng cháu thích được dành riêng cho nhau những điều bất ngờ. Thôi được, bác chiều cháu. Bác rất mong có được điều bất ngờ vui vẻ ấy. Cháu chả biết nói thế nào với bác lúc này. Có quan trọng gì chuyện đó. Cháu định bao giờ lên đường? Chiều nay xin bác cho cháu đi luôn. Vội vàng thế? Ừ, thôi được. Bây giờ thì mọi việc cháu phải tự quyết định lấy, bác chỉ mong cháu tính toán sao đỡ phạm sai lầm nhiều. Dạ, trước khi đi, cháu nên qua bệnh viện gặp bác Thủy một chút. Bác ấy đang nghỉ ngơi tĩnh dưỡng, rất mong sự có mặt của cháu lúc này. Dạ!

     Nói như thế, nhưng đến buổi chiều ra đi cuống quýt mong chóng đến nơi, cô đã quên không bảo đánh xe qua bệnh viện. Tuy nhiên, chuyện ấy chưa quan trọng bằng khi nhớ ra mình đã quên, cô không hề ân hận gì. Điều đó không có chỉ ở cô, ở cả người con trai của ông. Họ chỉ luôn chờ đợi lo toan và sẵn sàng phê phán ông đã làm được những gì, những gì còn chưa đáp ứng thỏa mãn yêu cầu của họ. Họ thường hay “quên” và rất vô tình với những đòi hỏi của ông, với những gì ông lo toan và những nhu cầu cần thiết của những người già. Thành ra ông thì lo toan cho họ quá nhiều, đến mức trở thành độc ác, mà họ lại nhớ về ông quá ít, đến mức vô trách nhiệm.

     Với giấy giới thiệu của mặt trận và thư riêng của trung tướng gửi cho ban chỉ huy chiến dịch ở huyện P. HoàI trở thành nhân vật tự do, hoàn toàn hành động theo ý muốn.

       Chiếc U-oát của tư lệnh mặt trận đưa cô đến Sở chỉ huy trung đoàn 400. Bí thư huyện ủy là chỉ huy trưởng chiến dịch, trung đoàn trưởng và trưởng ban quân sự huyện là phó, nhưng thực chất là toàn bộ công tác tham mưu và các kế hoạch hiệp đồng tác chiến, công tác hậu cần… đều do trung đoàn trưởng quyết định. Anh sẵn sàng làm mọi việc theo yêu cầu của cô, ngoài cả quy định của mặt trận. Ngay chiều hôm đó, bộ chỉ huy chiến dịch họp mở rộng đến chỉ huy trưởng các tiểu đoàn và đại đội trực thuộc, anh yêu cầu các đơn vị kể cả bộ đội địa phương và dân quân các phum sóc, nếu gặp cô xem giấy giới thiệu đặc biệt gồm hai thứ tiếng Việt Nam - Căm-pu-chia do bộ chỉ huy chiến dịch cấp, phải tạo mọi điều kiện giúp đỡ những gì cô yêu cầu. Dù ai cũng hiểu, trong chiến dịch có thêm nhiệm vụ tìm kiếm phát hiện dấu vết của một chiến sĩ quân tình nguyện bị lạc, nhưng chưa hình dung hết mức độ quan trọng của nó như lúc này. Cô ta là vợ, là người yêu, hay chị em của chiến sĩ bị lạc? Hẳn là thế. Nhưng việc gì phải tha thẩn một mình giữa rừng rú trúng đạn lạc chết như chơi. Nguy hiểm lắm, đề nghị nghĩ lại. Nếu là quyết định của trên bắt cô ta làm việc này, xin nghiên cứu những lợi hại của nó? Nếu là đề nghị của cô ta hoặc ai đó, thì cũng nên nghĩ rằng đây không phải là trò đùa. Chúng ta đang làm một công việc hệ trọng, nghiêm túc, không thể để một cô gái dẫn diệu như hề. Ai sẽ bảo đảm tính mạng cho cô ta. Mà việc tìm kiếm chiến sĩ bị lạc đã được kết luận là hết hy vọng rồi kia mà! Chả nhẽ các đơn vị nói dối, hoặc cấp trên không tin anh em!
Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #17 vào lúc: 10 Tháng Năm, 2008, 11:09:22 pm »

       Đại tá phó tham mưu mặt trận có nhiệm vụ như một tổng chỉ huy chiến dịch thấy những ý kiến hầu hết của các đơn vị chủ lực quân tình nguyện là có lý, dù hơi gay gắt. Ông trầm ngâm, rồi với tay nhặt lá thư của tư lệnh mặt trận để trước mặt trung đoàn trưởng trung đoàn 400. Ông đọc và nghĩ ngợi khiến mọi người chăm chú chờ quyết định của ông. Chắc chuyện này có yêu cầu của cô bé và anh em trong cơ quan. Trước tình cảnh bối rối của cấp dưới, tư lệnh muốn biểu hiện một tình cảm an ủi để chia sẻ. Nhưng thư viết chung chung thôi, làm gì có những yêu cầu cụ thể như trung đoàn trưởng vừa phổ biến.
     
       Tuy vậy ông thấy chính mình cũng không nỡ cải chính. Phần thông cảm thương hại của bạn mình, phần với cộng tác tham mưu lão luyện, đến lúc này ông thấy không nguy hiểm gì lắm, ông nói. Bao giờ cũng chỉ “tham gia”, nhưng lại là những quyết định không thể thay đổi. Thôi, chả có gì lớn lắm đâu, các đơn vị cứ chấp hành ý kiến của đồng chí phó chỉ huy chiến dịch. Ông cũng gặp riêng Hoài, nghe cô trình bày nguyện vọng của mình. Đó là buổi tối thứ nhất đến huyện P. Cô bồn chồn cầu mong một sự may mắn thần tiên và cả những dự tính cho sự rủi ro thất vọng có thể là lần cuối cùng. Mới đêm trước, khắc khoải trong nỗi đau đớn cầu mong, đêm hôm sau đã gặp anh. Trời ơi, anh có tin vào thần thánh không, anh. Em rất tin vào số phận. Mấy tháng trước khi biết chuyện xẩy ra với anh, em đã thức liền năm đêm, đến sáng thứ sáu thì trông thấy anh vác súng AK tóc trùm đến vai, râu ria xồm xoàm, quần áo rách tả tơi hệt như bây giờ. Em đã hét lên chạy theo anh và ôm lấy anh khóc. Lúc ấy có người gọi dậy ăn sáng, em vội vàng ôm ghì lấy anh để giữ anh lại, thì chỉ còn chiếc gối ướt đẫm nước mắt. Cô kể với anh những giấc mơ khủng khiếp, những giấc mơ thần tiên như lúc này. Ấy là khi cô chứng minh cho anh lòng chung thủy của mình bằng những việc làm, những hy sinh lớn lao mà ở đời này, cả đời người không có một người đàn bà nào làm được như thế. Cô bấm đèn pin soi nhằng nhằng xung quanh để lục tìm sổ sách, sự phóng khoáng vô ý của cô làm Tùy hoảng sợ, mồ hôi anh toát ra, anh vội vã chộp lấy tay cô ấn cái ánh sáng ấy xuống đất, rồi tắt nó đi. Biết duyên cớ của sự hoảng hốt ấy, cô kéo đầu anh gục vào vai mình, cười phá lên có phần giễu cợt. Đất này là của chúng ta rồi: “Pốt” không dám bén mảng đến đây, còn quân tình nguyện, người ta đang làm việc để rước anh về đấy. Cô kể cho anh nghe kết luận mới nhất của mặt trận, sự quan tâm của trung tướng tư lệnh và tất cả mọi người. Khi anh đã trấn tĩnh lại, cô mới bấm đèn tìm tờ báo đăng những bức ảnh tiết mục kịch được giải nhất của cô, những bức ảnh anh đã nhận được như những quả bom rơi trúng đầu đều có trong phóng sự của một số tờ báo đặc biệt. Rồi bao nhiêu giấy tờ bao nhiêu thư từ của mẹ, của những người lo toan đến hạnh phúc của chúng mình.

       Nhưng em hỏi tại sao anh lại nghĩ về em xấu đến thế? Vì anh sợ mất em! Sợ mất? Sợ mất mà nói người ta như xúc đất đổ đi ấy. Nói thật nếu không uất sự nghi ngờ của bố anh, em chẳng thèm nghĩ đến, đừng nói chuyện lăn lội sang đây với anh. Như thế anh càng nhẹ nhõm. Không yêu em nữa phải không? Em biết đấy! Anh không thích cái gì mập mờ. Vẫn nghĩ em mập mờ? Bây giờ thì không. Lúc ấy làm sao anh có thể bình tĩnh, trong khi mong thư em như mong nước uống. Em im lặng bặt tin, có khác gì để chứng minh cho sự độc ác của tay kia là đúng đắn. Em nghĩ như thế có phải là mập mờ không? Em muốn tự anh phải chứng minh lấy niềm tin của mình. Hai lần đột ngột và tự chứng minh như thể chắc đến đây em chỉ nhặt được những dúm xương của anh. Cấm anh không được nói gở nữa. Trời ơi, anh gầy quá. Toàn xương là xương. Cứ đi thế nay vài tháng nữa, khi gặp, em chỉ toàn thấy những dúm xương thật. Nhưng anh không hề biết là mọi người tìm kiếm anh chứ? Anh căm giận những kẻ kết luận hồ đồ. Thì người ta cũng còn phải xác minh nữa. Họ xác minh trên xác của hai thằng bạn anh đấy. Xác minh cả trên cái cơ thể tàn tạ của anh có thể chết rục bất cứ lúc nào. Thôi, không nói nữa, buồn lắm. Chúng mình sẽ về Sở chỉ huy, rồi em sẽ “vỗ béo” cho anh. Ngay mai anh phải cắt tóc, cạo râu. Em đun nước nóng cho anh tắm gội. Anh còn yếu, vì lâu không tắm, phải tắm nước nóng chỗ kín gió. Ai kỳ cọ cho anh? Em chứ còn ai. Em sẽ tắm rửa cho anh sạch, sẽ rồi mặc cho anh bộ quần áo mới như cho một chú bé. Em đố anh quần áo mới ở đâu đấy? Em may cho anh từ ở nhà. Anh vẫn thông minh lắm. Bộ quần áo sẽ rất vừa, rất đẹp nhé. Đã đo đâu, biết là vừa. Hồi sắp đi, em chả “đo” mãi đấy thôi. Bây giờ em “đo” lại đi. Thôi, đừng vớ vẩn. Anh yếu lắm không chịu được đâu. Chết đến nơi vẫn không chừa. Thế ngộ “không có anh em vẫn ôm ghì lấy người khác” thì sao. Thì “anh bắn vào lời em nói”. Thơ với thẩn, đúng là thơ lính tráng độc mồm độc miệng.

      Nhưng với họ, như một thói quen của sự nghiện ngập, không phải dò dẫm, bóng gió. Cô biết đòi hỏi của anh và của chính mình không thể trì hoãn vào những lúc như thế này. Lại một tấm vải nhựa trải ra dưới bầu trời trăng sáng. Bầu trời Việt Nam và Căm-pu-chia cùng chung một ông trăng ở đỉnh đầu, chỉ khác nhau ở chỗ trước đây những vầng khoai sọ không che khuất mặt trăng, còn bây giờ bóng những cây thốt nốt đổ dài xuống lớp lá mục như những người nằm nghỉ ngơi sau nỗi nhọc nhằn vất vả. Cô cằn nhằn âu yếm: Thương anh, em chiều, nhưng sợ lắm. Thôi, nhanh nhanh, rồi để dành lúc khác anh nhé.
Một người đàn bà có thể thành hai trong một khoảng cách ba phút đồng hồ. Cái phút trước rất minh mẫn khôn ngoan, chừng mực nhận nại và quyết liệt như một vị tướng, ở phút sau lại mê muội dại đột như một đứa trẻ con liều lĩnh và bất chấp như kẻ vô giáo dục. Lúc ở ngoài cuộc cô chỉ chiều chuộng và bắt anh phải qua quýt để tránh nguy cơ sụp đổ ở cái cơ thể anh đã rệu rã. Khi vào cuộc, cô đã ghì giữ lấy anh. Từ từ, trời ơi. Chúng mình sẽ có con. Lần này về chúng mình tổ chức, rồi đẻ con, anh nhé. Em ư? Em thích con gái đầu lòng. Anh có sợ em đẻ con gái không? Yên trí, anh nhé, người ta xem tử vi đoán cung tử của em tốt lắm. Một gái đầu, một con trai thứ hai. Cả hai con chúng mình đều đẹp, thông minh như bố và dũng cảm như mẹ. Sau này bố mua một cái xe máy, chiều thứ bẩy đưa ba mẹ con về với bà nội. Mùa hè ta Đồ Sơn. Mua một cái dù Nhật Bản cắm xuống bờ biển trước cửa khách sạn Hoa Phượng Đỏ ấy. Cả nhà nằm và ăn bánh bột lọc, uống nước chanh. Tất cả em chuẩn bị từ ở nhà, không mua bán gì ở ngoài, xót ruột lắm. Rồi ba bố con ngồi trên phao, em đẩy ra và té nước mù mịt, bao giờ bố con phải lạy em, em mới tha cơ. Ối, ối anh ơi. Sung sướng quá. Rồi hai cánh tay vòng lên ghì siết lấy anh buông lơi từ từ, cô nằm đê mê trong niềm sung sướng, như là đang bay lơ lửng, như là đang nằm trong chiếc thuyền dập dềnh sóng vỗ, như là có một thiên thần bé nhỏ đang chạy trong cơ thể say say nôn nao, cô mỉm cười và đôi mắt khép hờ như là giữ tất cả ở lại, tất cả sẽ ở lại trong cô. Chừng mười phút sau mới bơi ra khỏi bao la của niềm khoái lạc, cô thì thầm: Chúng mình có con thật, anh ạ. Làm thế nào, hở anh? Ngày mai ta về “mặt trận” luôn, anh nhé. Tổ chức ở đây có được không. Em tin là tư lệnh thương và ủng hộ chúng ta. Cố để mọi người khỏi dị nghị, chứ em cũng chả thích bày vẽ cưới xin vất vả? Ý anh thế nào? Hay là về nhà để mẹ khỏi buồn. Ừ thế cũng được. Chúng mình xin về tổ chức, rồi lại sang. Anh ngủ à? Anh, anh ơi. Anh Tuỳ. Anh, anh ơi. Anh Tuỳ. Anh Tuỳ ơi! Cô lay lay đầu anh. Cái đầu mềm oặt không hề có phản ứng. Cô đặt tay vào mũi, cũng không thấy còn hơi thở, cô hoảng hốt xoay mình ngồi dậy ôm anh vào lòng lay gọi. Nhưng hai hàm răng đã cắn chặt. Cô cuống cuồng đặt tay lên mũi. Mũi lặng tờ. Ghép áp tai vào ngực, tim không còn đập nữa. Trời ơi, em đã giết anh! Em đã giết anh rồi, ơi bà con ơi, có ai cấp cứu giúp tôi không. Còn cách gì để cứu được anh không, anh ơi, anh ơi!

       Rừng mênh mông, khoảng cách với những phum sóc vời vợi, phải hơn ba cây số mới đến phum lẻ loi, ai nghe, ai biết đến tiếng kêu than, cầu cứu của cô. Cô cởi ba-lô, lấy bộ quần áo mới mặc cho anh. Nhanh chóng xoá bỏ mọi dấu vết của cuộc ân ái, cô ôm anh ngồi từa vào gốc cây thốt nốt, chờ trời sáng, chờ cả những niềm hy vọng. Rồi mãi mãi sau cô vẫn không thể hiểu, tại sao đêm hôm đó giữa đêm tối mịt mùng ở cái bìa rừng rậm rạp ấy, cô lại ôm một người chết suốt đêm không hề có cảm giác sợ hãi. Đến năm giờ sáng, một tổ trinh sát tìm ra cô, họ nhanh chóng điện về sở chỉ huy. Người ta đưa cô về bệnh viện cấp cứu và làm các thủ tục xét nghiệm thi hài người chết. Văn bản pháp y khiến các cơ quan hành pháp vồ lấy như một món bở, nhưng không thể khai thác được gì và mãi mãi những người đời sau còn biết: Có rất nhiều những dấu hiệu của những bệnh sốt rét. Cơ thể người chiến sĩ lại quá yếu, đã bị trúng cảm đột ngột trên đường trở về đơn vị. Thân nhân của người bị chết tìm thấy anh nằm bên một gốc cây thốt nốt. Toàn thân và nội tạng không có dấu vết của sự va chạm và ngộ độc. Còn điều họ không ghi lại là những dấu vết ghi nhận khi cấp cứu cô bên cạnh thi hài người chết. Người ta hiểu điều gì đã xảy ra dẫn đến cái chết đột ngột này. Nhưng không ai ngờ và cũng chẳng để làm gì, họ im lặng trước vẻ nghi ngờ của đại tá Thuỷ. Cho đến hai tháng sau, lúc cô hồi phục sức khỏe, tức là sau bảy ngày phiên toà xét xử người lái xe, cô đã tự phanh phui mọi việc và kiên quyết yêu cầu phải mở lại phiên toà mà tội phạm chính là cô…
Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #18 vào lúc: 10 Tháng Năm, 2008, 11:11:03 pm »

        Cô chưa hề gặp người láI xe và cũng không thể biết gì về lai lịch và những hành động bộc lộ nhân cách của anh ta.
Việc cô viết thư đề nghị ráo riết với tư lệnh và làm đơn kháng cáo gửi các cơ quan pháp luật đã gây nên sự bàn luận căng thẳng dẫn đến trường hợp nổi khùng của các cán bộ phòng tuyên huấn vốn không quen nói đến “mặt trái” của người lính. Người ta gọi đấy là hiện tượng không bình thường ở một người con gái. Từ xưa tới nay chưa hề ai gặp, chưa từng có một trường hợp tiền lệ nào như thế. Có thể vì thương đại tá mà tư lệnh “nuông”, để cô ta “nhờn”. Họa có trẻ con mới nghe theo một cô gái đã mất hết danh dự. Sự phẫn nộ của cô được xem như những phản ứng vụn vặt không cần đếm xỉa. Dư luận xung quanh. Bộ tư lệnh lại được chia thành hai phía rõ rệt. Một phía khen: Dũng cảm đấy. Đúng là bọn trẻ bây giờ nó mạnh dạn thẳng thắn thật. Ghê, ghê gớm thật. Cũng phải có cơ sở gì đấy nó mới dám quyết liệt như thế. Chả cần cơ sở gì, nó cứ đem luật ra mà chiếu, nhất định lái xe phải được tha bổng. Nhưng bênh vực lái xe để mình vào tù là thế nào nhỉ? Lạ. Mà chứng cớ gì để bắt cô ta vào tù? Tự nhận giết người yêu? Hoàn toàn không có căn cứ. Cao tay đấy. Tự nhận thế để gỡ tội cho lái xe, mà minh thì không ai có thể buộc tội. Giỏi đấy. Không! Chắc là phải có mối liên hệ nào đó. Không ai dại gì làm việc ấy, nếu không có một ý đồ nào, nói thẳng ra là những âm mưu còn mập mờ, khó hiểu lắm. Và vân vân…

      Phía những người chê bai chì chiết nói: Cô ta đã đi quá trớn những phạm vi có thể cho phép. Chỉ có người mắc bệnh thần kinh nặng mới có những cử chỉ như thế. Cô ta tự thú tội ư? Thôi được, cứ bằng lời thú nhận ấy, tôi tống cô vào trại giam, còn lái xe là chuyện khác, đã có luật pháp người ta xử lý, không cần đến sự tham gia của cô. Mười ngày ở trong trại là biết tay nhau ngay, cần gì phải dài dòng. Nếu cần bảo viện quân y cho một kết luận mắc bệnh tâm thần, thân kinh phân liệt, thần kinh đang ở trạng thái hoảng loạn… gì gì đấy là đủ để vô hiệu hóa sự ngông nghênh dại dột của cô ta. Kể cũng là con bé trơ trẽn liều lĩnh, ông Thủy cấm không cho còn mình dính đến cũng là phải. Ông ấy tinh tướng đấy. Trách là trách đoạn này ông ấy không kiên quyết. Hỏng. Con gái như thế là rất hỏng. Phải đặt câu hỏi, tại sao một người con gái xinh đẹp như thế, không ngoan tháo vát và hiểu biết như thế, một người khỏe mạnh đang có công ăn việc làm ở giữa phố xá đông vui, có bao nhiêu thằng con trai vồ vập quấn quýt vì sắc đẹp, có bao nhiêu người mê mẩn thềm thuồng vì hát hay, cô lại dứt bỏ tất cả, tự đày ải mình đem thân đến chỗ chết. Tự tìm đến chỗ cứ cho là sống chết bất thường đi, quyết chí bằng mọi giá theo đuôi một anh chàng binh nhì, không có chút địa vị gì, không có tài hoa gì xuất chúng, cũng không đẹp trai khiến phải ngẩn ngơ, và cũng không biết sống chết thế nào, không biết tương lai tiền đồ sẽ ra sao, ví dụ thế. Như thế, có đủ để cô ta đáng đổi bao nhiêu thứ: tuổi xuân, nhan sắc, danh dự, nghề nghiệp…
     
       Tóm lại là cả cuộc đời cô ta. Liệu có thể nào đơn giản như thế không. Nhất định phải có một nguyên nhân sâu xa nào cấn truy tìm cho ra. Có nên loại trừ khả năng ở một thành phố, như thành phố Hải Phòng, có bao nhiêu gián điệp trá hình thành thủy thủ, nhà báo, nhà ngoại giao, nhà kinh tế, nhà du lịch vận động viên và nghệ sĩ… Một thành phố nhan nhản những người không biết nguồn gốc tung tích ấy, có ai tự hỏi xem cô ta có dính líu gì đến nó? Biết đâu cô ta lại trả nhận một nhiệm vụ gì đấy. Chiến lược của chúng nó bây giờ là lâu dài, nham hiểm, tinh vi lắm, chứ không phải đơn giản đâu. Không thể đơn giản trong việc này. Nguy hiểm, rất nguy hiểm về sự thiếu cảnh giác của chúng ta. Một cô bé như thế mới sang đây vài ba tháng đã đi hầu hết đất nước này, toàn những nơi trọng yếu trong nhiệm vụ chiến lược giữa ta và bạn, mà cấp đại tá như chúng ta với bao nhiêu thủ tục giấy tờ, bẩm báo chắc gì đã đến được tất cả những nơi đó dễ dàng như cô ta. Tại sao không thể kiểm tra lại tất cả những nơi cô ta đến, những sự cố đã xẩy ra trong và sau khi cô ta ở đấy. Nếu cần, liệu có thể bắt giữ cô ta được không? Chúng ta có quyền nghi vấn cô ta là một nhân viên tình báo, nếu không phá ta về mặt quân sự, thì cũng phải có những thủ đoạn nham hiểm phá rối chính trị, phá rối nội bộ. Tại sao không thể coi việc cô ta phản đối kết luận của phiên tòa là một thủ đoạn của kẻ địch làm mất uy tín quân đội ta, làm mất sức mạnh của luật pháp? Tất cả việc làm của cô ta có mục đích rõ ràng lắm.

     Sự bàn luận ấy không phải chỉ ở một vài người và cũng không thể ồn ã. Thật là phúc đức cho cô gái. Cô đã được hưởng một trường hợp ngoại lệ. Tư lệnh mặt trận đã biết đến và không cho cái dư luận kia trở thành bản án ngầm theo cô ta suốt cuộc đời. Suốt cuộc đời cô sẽ bị theo dõi, nghi vấn như rất nhiều trường hợp khác, chết mòn mỏi chỉ vì dư luận mập mờ, những nghi vấn được truyền đi trong những cán bộ có trách nhiệm, ngoài ra không ai có quyền hỏi lại và không ai chịu trách nhiệm để xác minh nó.

    Cũng may những tiếng xì xào, những lời luận tội của dư luận không đến tai cô. Vậy là hai bên không có thông tin gì cho nhau mà cô đã hành động như người ta phán xét, nghĩa là cô có mục đích của cô. Cô thương cảnh ngộ của người lái xe vì không muốn một người vợ và tám đứa trẻ con phải bơ vơ đau đớn chờ đợi trong vô vọng. Nhưng cái lý do khác, quan trọng hơn, buộc cô phải hành động vội vã và quyết liệt để lật lại kết quả phiên tòa, nó xuất hiện vào chiều ngày thứ bốn mươi tám, kể từ khi Tùy mất. Nó cũng là ngày thứ hai cô có thể đi lại quanh bệnh viện. Tòa án xử người lái xe cũng đã được bảy ngày. Cái cảm giác có một đứa con được báo hiệu trong cơ thể rất tinh nhạy của cô ngay từ lần gặp nhau cuối cùng càng rõ ràng hơn trong từng ngày từng ngày, đến chiều ngày thứ bốn mươi tám, cô bắt đầu một trận nôn oẹ phải bíu tay vào tường, rồi chúi mặt vào xó nhà nôn như lôi cả ruột gan ra khỏi cơ thể. Mỗi lần dốc người lên “lôi” như thế, chỉ có rớt rãi và thứ nước vàng đắng đến rùng mình. Hết cơn nôn, cô lần về giường, gục đầu vào gối thở và không làm sao kìm được nước mắt. Đến lúc này cô mới có cảm giác là anh đã chết. Anh đã chết! Mới đêm nào gặp anh, em tưởng đã được sống lại, suốt đời chúng mình không phải xa nhau, không thể lìa bỏ nhau vì những nghi ngờ oán hận. Bây giờ chỉ còn một mình em bơ vơ. Anh đã trút lên người em tất cả nỗi đắng cay của mấy năm qua và của mãi sau này. Rồi em phải làm gì? Em còn đủ sức để nuôi con của chúng ta không? Anh đã bỏ em, anh đi không dặn dò em lấy một lời, không khuyên bảo em được một câu. Em đâu có ngờ rằng chỉ mấy phút đồng hồ anh đã bỏ em nằm lại một mình? Anh đã biết chúng mình đã có con rồi không, anh? Nó đang quấy rối em. Cô gục xuống trong nỗi ghê rợn kinh hoàng. Cả ngày hôm sau không ăn uống gì. Một cô bạn nhặt về những quả xoài xanh, cô vồ lấy ăn ngấy nghiến như chưa bao giờ được ăn một thứ của ngon vật lạ như thế. Trong trằn trọc lẻ loi, có lúc cô đã nhen lên ý nghĩ phá thai như rất nhiều người con gái lỡ lầm đã từng làm như thế. Làm như thế để giũ sạch quá khứ, để lại háo hức điên dại tìm kiếm một hạnh phúc! Hạnh phúc gì? Ai đã quy định hạnh phúc cho ai? Hạnh phúc của em khi đến với anh là gì? Làm sao có những kẻ ngu xuẩn lại đi hỏi tại sao, vì đâu ta lại yêu nhau. Không bao giờ em nghĩ mình sẽ lý giải cho những kẻ suốt đời chỉ truy tìm những câu hỏi “tại sao”. Em chỉ biết em được yêu, được sống hết điều mình mong mỏi, ước vọng. Anh đã cho em tất cả. Em cũng hiến dâng tất cả cho anh. Chúng ta đã sống bên nhau và đã tìm thấy hạnh phúc, nó bao la hơn cả trời đất, nó cao thượng hơn nỗi hận thù, nó sâu xa hơn cả kinh kệ luận lý. Nhưng sao anh lại bỏ em ra đi? Trời ơi, sao hạnh phúc của con người nó mỏng manh đến thế? Bao nhiêu tháng năm khắc khoải chờ mong trong vô vọng và liều lĩnh, đê đến khi gặp nhau, tưởng đã nắm chắc trong tay, không thể còn có một sức mạnh nào cắt rời được nó, nó lại tuột hẫng không bao giờ trở lại. Nhưng sao em lại chiều anh? Sao em không biết sự ốm yếu khổ hạnh của anh? Phải biết giữ gìn anh để anh cho em cả cuộc đời trọn vẹn! Nào em có ngờ đâu sự sống lại chông chênh đến thế! Nhưng em sẽ giữ lại. Em không thể làm một việc thất đức như lời mẹ đã dạy dỗ bảo ban em. Ngày chúng minh đến với nhau mẹ biết cả. Mẹ dặn: Nó đi vắng “có gì” cứ về đây ở với mẹ. Mẹ lo cho tất mọi bề, để con đi làm việc. Mẹ thông cảm, thời buổi bây giờ không cần câu nệ gì, con ạ. Cốt là các con thương yêu nhau, lo liệu cho nhau, con ạ. Em đã thiếu tiếng mẹ gọi từ bé, nên vô cùng cảm ơn mẹ từ những ngày ấy. Em sẽ giữ gìn để được mẹ tròn con vuông. Em sẽ về với mẹ. Em và con sẽ thay anh làm cho mẹ đỡ héo hon sầu muộn. Khi con biết nói, em sẽ dậy con khi thấy bà khóc bố, con lấy vạt áo thấm nước mắt cho bà và bảo: Bà ơi, bố cháu dặn bà đừng khóc làm cháu buồn. Bà nín đi. Cháu lớn lên cháu ở nhà với bà, cháu đi làm nuôi bà, nuôi mẹ, không để bà để mẹ vò võ một mình đâu.
Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #19 vào lúc: 10 Tháng Năm, 2008, 11:12:48 pm »

       Có bao nhiêu cô gái là nhân viên của viện quân y thông cảm và thương hại chăm sóc cô. Nhưng biểu hiện toát ra từ cô khiến họ yêu mến kính nể và rất lo lắng về sức lực của cô. Họ làm cho cô tất cả mọi việc để cô vợi bớt nỗi đau buồn. Nhưng cô vẫn chỉ có một mình anh. Chỉ mình anh để em than thở, hỏi han, bàn bạc cả những việc phải làm trong giấc mơ, những cơn mê sảng hoảng hốt. Em sẽ nuôi con ngoan, không được nghịch bẩn. Ô kìa, sao anh lại mang con đi? Ối, ối, không được, không được đâu. Em không cho anh mang con lên cao điểm của anh đâu. Nằm xuống! Nằm xuống nó bắn đấy! Ối, ối, con tôi… Tỉnh dậy, lau mồ hôi ướt đầm, hai tay giữ chặt lấy ngực, chỗ con tim đập dồn dập hoảng loạn, cô cứ ngồi chờ trời sáng và khi kẻng báo thức vang lên lấy giấy bút viết thư cho tư lệnh và đơn khiếu nại tòa án. Em sẽ nói rằng em đã gặp anh khi anh còn sống, chúng ta đã thành vợ chồng rồi, anh mới bị cảm vì cơ thể quá ốm yếu. Em nói rằng các ông hãy tính ngày tháng khi con tôi ra đời. Cũng có thể phân tích các xét nghiệm ở bộ quân phục của anh ấy đã mặc. Đấy là lý do duy nhất gây ra cái chết của chồng tôi, có thể gọi như thế, vì chúng tôi đã cùng nhau xác nhận mối quan hệ này. Ngoài điều đó ra, còn nguyên nhân nào khác xin các ông tự tìm kiếm lấy.

    Tôi chỉ thiết tha con tôi sau này phải được công khai mang họ của chồng tôi, phải được tôn trọng và bình đẳng như mọi đứa trẻ khác. Có thể mọi người sẽ xem em như một kẻ điên rồ, một kẻ đã loạn trí. Kệ họ!

      Họ có nguyền rủa, phỉ nhổ em về việc làm trơ trẽn này, nhưng một năm sau không ai dám bảo con của chúng ta là đứa trẻ không cha, khiến nó phải ra đời một cách lén lút. Em “trơ trẽn” một lần, để mãi mãi không ai có thể to nhỏ thầm thì hỏi tại sao, vì điều gì mà chúng ta yêu nhau. Sẽ có người mỉa mai con chúng ta? Chuyện đó có là gì? Em sẽ dạy con phải hãnh diện vì bố mẹ nó dám chết cho một tình yêu thực sự không cần nghi thức, không cần làm đẹp lòng ai khi lòng mình thành thật. Có bao giờ em nói hết được những điều này như bây giờ nói với anh! Sao mà em nôn nao chóng mặt quá, anh ơi. Em đã viết tất cả những điều nói với anh cho tư lệnh và quân pháp mặt trận để “nhận tội”, dù có phải tù đày em cũng sẽ làm cho vong hồn anh được thanh thản và con chúng ta không phải gục mặt trước những cái nhìn khinh bỉ của người đời.

       Hai ngày sau, người ta nói rằng những điều cô viết trong thư như một người “lên đồng”, khó chấp nhận ở cơ quan quân pháp và các ngành hữu quan. Riêng đại tá Thủy thì choáng váng hơn cả sét đánh. Từ khi chôn cất con xong, ông trở thành người tỉnh táo khác thường. Ông rời khỏi bệnh viện, trở về làm việc như một người bình thường. Những người bình luận tinh nhạy ở cục chính trị nhận xét rằng thái độ của ông chứng tỏ ông không muốn giáp mặt với cô gái. Ông rất căm giận cô. Mỗi lần cô xuất hiện, một lần con ông gặp tai biến. Ông tỉnh táo bình tĩnh vì hai lý do. Một, bản tính ông vẫn thế, khi gặp đau thương, mất mát, ông luôn luôn là người tỏ ra có bản lĩnh, không hề nao núng trước những sự cố mà ông cho là thử thách. “Ở đời, thử thách càng lớn, càng chứng tỏ con người bản lĩnh cao”. Những chuyện dây dưa đến gia đình, vợ con càng phải tỏ ra vững vàng. Đấy là những chuyện riêng tư, không thể nào gục ngã trước những việc nhỏ nhoi tầm thường như thế. “Cuộc sống của hàng triệu con người tươi đẹp đầy triển vọng, kẻ nào vương vấn với những mất mát riêng tư, kẻ đó không đáng là một kiếp người. Ở đời, nó công bằng lắm cơ, anh đã dám hy sinh cho một lý tưởng cao đẹp, rộng lớn, phải biết vứt bỏ sự vụn vặt dễ làm cho con người nhỏ bé trong những lo toan tầm thường”. Hai, tuy là “tay đứt ruột xót”, nhưng mà như thế còn hơn nó theo địch. Nó sống với địch con đau gấp nhiều lần so với nó chết.

       Sự dị nghị về mối quan hệ giữa cô gái với cái chết của con ông được xem như là một tuyệt mật đối với ông. Bề ngoài thì ông dửng dưng, nhưng bên trong ông tìm mọi cách để bưng bít nó lại.

       Không ngờ trưởng phòng quân pháp buộc phải đưa đơn của cô “con dâu” để nhờ ông “dẹp” vụ này. Ông đọc chưa hết, mắt đã nhoà đi, buông lá đơn, hai tay đấm xuống “bàn” không phát ra tiếng kêu, chỉ thấy bụi bay lên, hai hàm răng ông nghiến lại, như muốn nhai ngấu nghiến kẻ đứng trước mặt: Trời ơi, làm quân pháp như các anh thế này đây? Còn xem xét gì nữa? Giải quyết cái gì? Cái gì? Luật pháp không tính những kẻ điên là công dân, trong khi họ đang lên cơn hiểu không? Các anh có hiểu không? Ông ấp hai tay vào mặt, hai vai rung rung từng chập, không còn biết gì đến những người đã đứng đầy ngoài cửa. Ông khóc vừa như một đứa trẻ bị đòn đau, vừa như là tiếng khóc của một người cha mất con đến lúc này mới bật được ra. Buổi tối ông gặp tư lệnh và yêu cầu để cho ông xử lý việc này. Tôi cũng định gặp anh. Tiện sang đây, ta bàn luôn. Tôi không ngờ lòng tốt của tư lệnh bị lợi dụng. Sao lại ghê gớm thế? Vì thương tôi, thương cháu, tư lệnh đã làm tất cả việc gì có thể làm được để giúp cho cô bé ấy đi tìm cháu. Không ngờ cô ta lại lợi dụng sự ưu ái đó để làm những điều không ai có thể tưởng tượng nổi. Bây giờ lại quá trớn đến mức dám viết thư cho tư lệnh và làm đơn kiện để bôi nhọ danh dự gia đình tôi. Anh nói tiếp đi. Suốt cả cuộc đời tôi chả nhẽ chỉ là một trò đùa cốt để đánh đổi lấy kết cục như thế này. Không, anh là một người nghiêm chỉnh. Cả cuộc đời anh hy sinh cho mọi người, không ai có thể hiểu sai anh. Tôi đề nghị từ buổi giao ban tới, tư lệnh nhắc các cục về dẹp ngay những dư luận bàn tán xì xào, coi đấy là chuyện vớ vẩn trẻ con của một cô gái tâm thần không đáng để những cán bộ chuyên viên bạc tóc của một cơ quan Bộ tư lệnh đàm tiếu, tranh cãi om sòm, nhốn nháo một cách vô ý thức, vô trách nhiệm với đồng chí mình như thế. Mặt khác, nếu tư lệnh đồng ý, tôi sẽ trao đổ với quân lực cho cô ta xuất ngũ. Trả về nhà máy cũ? Vâng, về nhà máy cũ. Nhưng cô ta đã bỏ nhà mày rồi kia mà! Thì về địa phương. Tôi sẽ tìm cách để giải quyết nhanh chóng việc này. Thế là gọn? Vâng! Rất nên như thế mới bảo đảm sự nghiêm túc của luật pháp. Rồi sao nữa? Tôi nghĩ chỉ có thế mới không gây rắc rối cho cơ quan. Còn việc cô ta đòi tòa xử lại, tôi thấy không cần phải xem xét gì nữa. Luật pháp đâu phải trò đùa. Anh đã đọc thư cô bé gửi cho tôi và đơn gửi Viện kiểm sat? Vâng, tôi đã đọc cả. Nhưng với những lý do ấy, ta không cần phải thay đổi gì những kết luận của phiên tòa. Còn đơn kháng cáo của bị can? Cứ chuyển lên Tòa án quân sự trung ương, tôi tin là người ta sẽ y án. Ngộ họ bác thì sao? Họ phải xin ý kiến của tư lệnh. Vậy là luật pháp không có tính độc lập khách quan của nó và nếu tôi cũng đồng ý với họ để bác? Điều đó ngoài quyền hạn và ngoài cả ý nghĩ của tôi. Và… những lời tôi vừa trình bày là sự đùa giỡn? Không, tôi đã nói rồi, anh rất nghiêm chỉnh. Cả cuộc đời anh, anh chưa đùa cợt bao giờ? Hơn một phút im lặng, tư lệnh phải đứng lên tự súc ấm pha chè, rồi lặng nhìn ấm chè ngấm. Phải vài ba phút ông mới rót ra hai chén, một đẩy về phía đại tá, một ông nâng lên nhấp từng nhấp như uống rượu. Xong, ông lại đứng dậy chậm rãi đi từng vòng quanh chiếc bàn rộng như để tìm kiếm một cách nói cho thích hợp với tình cảm của hai người trong lúc này. Có lẽ chả cần nói điều gì giữa tôi và anh suốt hơn bốn chục năm nay. Mấy tháng qua tôi xử lý với cháu như thế nào anh biết cả. Ta không bàn những chuyện đó nữa. Vấn đề bây giờ là phải xử lý công việc sắp tới như thế nào cho phải. Không thể coi đây là cái chuyện trẻ con vớ vẩn, trẻ con của cô bé tâm thần như anh nói. Ở đây, tôi muốn nói rộng ra về một cách nhìn nhận, suy xét thế nào cho phải. Đừng để những việc ta làm hôm nay khiến những người thay thế chức trách của ta, những người sau nữa, có khi cả những thế hệ sau phải gánh chịu hậu quả nặng nề của nó. Chúng ta ở với nhau thì nhiều, mà nói vời nhau những lời tâm huyết ít quá. Rất nhiều lần mình nói với nhau là nói về công việc, về nghị quyết, về tiêu chuẩn chế độ, quyết tâm của chiến dịch, của những trận đánh tiêu diệt địch. Chưa có điều kiện để ta hiểu hết đời riêng của nhau, hoàn cảnh của nhau về một cái gì đó lâu nay ta vẫn cho là nhỏ nhoi, không đáng quan tâm, hoặc phải hy sinh nó đi. Con cháu nó đã dám công khai trước dư luận, trước pháp luật là nó đã buông thả quá đà để chúng ta sẵn sàng lên án nó. Điều đó cho ta thấy sai lầm của chúng nó cũng khác gì chúng ta sai lầm. Nhưng suy cho cùng, tội phạm đâu ở đứa con gái ấy. Thôi, anh lau nước mắt đi. Đừng khóc nữa. Đau xót quá, nhưng phải chịu, biết làm thế nào. Nếu anh đau xót về những mất mát này, thì anh cũng phải biết thương xót và trân trọng nỗi đau của cô gái ấy. Nó không điên dại đâu. Hình như sự thông minh của con anh đã nhập vào nó, đê nó nói ra những điều không thể coi là bình thường, lại càng không thể coi là điên dại. Nó nói đúng cả. Anh hãy cảm ơn và tôn trọng nó, nó đã giữ gìn cho một đứa cháu nội của anh sẽ ra đời. Anh phải coi nó như một đứa con. Tất nhiên, không thể đem những điều này công bố ở phiên tòa được. Nhưng mà kết luận của phiên tòa cũng cần xem xét lại. Anh nói gì? Đúng thế, chính tôi đã thông cảm. Tôi đã nghe những ý kiến luận tội. Nhưng bây giờ cũng phải lắng nghe những ý kiến của cô bé có thể được coi là con dâu của anh. Nó sẵn sàng nhận tất cả mọi tội lỗi để cho người mẹ và tám đứa trẻ không phải chia lìa nhau. Nhà báo bạn của anh đã từng là nhân chứng cung cấp nhiều chi tiết cho vụ án ấy cũng vừa viết thư cho tôi. Hơn mười trang thư anh ta đã kể tỉ mỉ về cuộc điều tra suốt ba tháng trời ở quê hương người lái xe và những gì có liên quan đến quá khứ của anh ta, hoàn toàn ngược lại những kết luận của tòa án. Anh ta tha thiết đề nghị tôi: về nguyên nhân chính gây ra bi kịch này, xét cho cùng, không phải ở người lái xe. Thế thì nguyên nhân chính ở đâu? Có mở lại phiên tòa để thỏa mãn nguyện vọng của nhà báo và con dâu anh không? Những điều ấy đều phải xem xét nghiêm túc. Trước đây tôi đã dễ dàng chấp nhận kết luận của tòa án kết án anh ta ba mươi sáu tháng tù ngồi với những tập hợp chữ nghĩa trơn tru đanh thép: Rằng kỷ luật chiến trường bị vi phạm, rằng trách nhiệm được giao dù anh chỉ là một thường dân. Răng khi kẻ địch nổ súng bất cứ người công dân nào cũng đều có nghĩa vụ trên cương vị công tác của mình. Rằng bỏ đồng đội là một tội không thể tha thứ với người chiến sĩ ở chiến trường. Rằng… Nhưng trước những khiếu nại mới này ta có dám lập lại một phiên tòa để làm cho minh bạch rõ ràng mọi điều không? Nếu chỉ cần giảm nhẹ tội cho người lái xe được một năm để tạo nên cái án thật chính xác, tạo cho người vợ và tám đứa con giảm bớt được đau khổ ta có dám làm không? Chúng ta có thói quen chỉ thích chiêm ngưỡng những kết quả tốt đẹp, chỉ nhăm nhăm tìm đến kết quả của mình làm. Nhân danh người lính, nhân danh mặt trận. Ta đã làm ra cái gì là nhất thiết phải là kết quả tốt đẹp, dù thực tế nó quá xấu thì chúng ta vẫn chỉ có thói quen là tốt đẹp. Tôi biết những điều tôi nói có thể làm đau đớn, anh hoàn toàn không thể chấp nhận nhưng không thể nào khác.

      Gần như suốt ba tiếng đồng hồ chỉ một mình ông nói, chưa bao giờ ông lại nói những điều tâm huyết khắc khoải trong nỗi niềm sâu kín của ông như đêm nay. Nhưng đã đến lúc không thể nào khác được nữa. Khi ông ngồi xuống thì đại tá vẫn gục đầu ở một đầu bàn. Đứng lặng nhìn dáng điệu của đại tá, ông không thể ngờ rằng một con người đi bên mình suốt 40 năm qua, lúc nào cũng hăm hở lao vào cuộc chiến đấu hết mình, nghiêm chỉnh suốt một cuộc đời để đến cuối cùng nhận lấy một kết cục như thế này. Nhưng biết làm thế nào để cưỡng lại một hiện tại đã diễn ra. Ông thấy khắp người đau ê ẩm, mệt mỏi quá. Ông cũng gục đầu xuống đầu bàn bên kia. Căn phòng yên ắng không một động tĩnh nhỏ và cả hai không hề biết rằng trận mưa ào ạt đã dội xuống, mái lán lợp lá cây thốt nốt như muốn bung ra.

       Đó là đêm cuối cùng của một mùa khô. Trận mưa đêm nay thật dữ dội. Nhưng người dân có nước cầy cấy, người ta mừng rỡ tin rằng cái dấu ấn khác nhau của mỗi mùa đã xuất hiện, dù còn vô cùng gian nan với những nắng mưa thất thường.

END.
Logged
Trang: « 1 2   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM