Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Ba, 2024, 11:47:22 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Những âm mưu sách lược của chính phủ Rigân làm tan rã Liên bang Xô Viết  (Đọc 100670 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #150 vào lúc: 04 Tháng Chín, 2010, 01:32:39 pm »


Tháng 6 năm 1985, Goóc-ba-chôp triệu tập một hội nghị đặc biệt về khoa học sĩ thuật hiện đại. Trung tâm nghị đề của cuộc hội nghị này là tăng tốc trong việc phát triển công nghiệp máy cái, kỹ thuật máy tính hiện đại, kĩ thuật điện tử và công nghiệp điện tử. Những hạng mục này đều là “thuốc xúc tác” để Liên Xô có thể tăng tốc phát triển, mà đó cũng là lĩnh vực then chốt để vực toà lâu đài Liên Xô dậy. Trong hội nghị, vị Tổng Bí thư mới nhận chức này tuyên bố, xúc tiến khoa học kĩ thuật hiện đại là sứ mệnh quan trọng nhất của ông. Ông hỏi những người dự họp, cải biến thể chế kinh tế có nghĩa là thế nào? “Có nghĩa là sản phẩm thông qua khoa học kĩ thuật phải có sự đổi mới, đồng thời đạt được trình độ kĩ thuật cao nhất thế giới!”

Kế hoạch 5 năm lần thứ 11 đang được soạn thảo của Đảng Cộng sản Liên Xô phản ánh tâm tình cấp bách và quan tâm của Đảng đối với vấn đề tăng nhanh tiến bộ kĩ thuật. Bản kế hoạch này chú trọng đến việc phát triển điện tử học, coi đó là một hạng mục ưu tiên nhất, có như vậy mới rút ngắn được khoảng cách về kĩ thuật giữa Liên Xô với phương Tây. Bản kế hoạch yêu cầu sản lượng về công nghiệp người máy từ 13 nghìn lên tới 28 nghìn; máy cái từ 2500 máy tăng lên 10.700 máy. Trong hai năm đầu của kế hoạch mới, số vốn đầu tư về nghiên cứu phát minh, thí nghiệm dùng cho thiết bị đối với công trình bộ môn sẽ vượt tổng đầu tư của 5 năm trước là 50%; chú ý là số tiền dành cho việc nghiên cứu, phát minh cần tập trung vào các hạng mục về khoa học, kỹ thuật cao.

Điều đáng phiền lòng của Liên Xô là tài nguyên tốt nhất đều tập trung vào lĩnh vực công nghiệp quân sự. Một nửa số máy cái tập trung vào các xí nghiệp quốc phòng, mà các nhà khoa học làm việc ở đó đều là những người giỏi nhất! Ít nhất cũng có đến một nửa phí tổn về nghiên cứu phát minh chi cho lĩnh vực quân sự. Nhưng về phía Mỹ thì sự xây dựng quốc phòng của Ri-gân (đặc biệt là nhấn mạnh vào loại kĩ thuật mới xuất hiện) cũng có nghĩa là cần phải chuyển thật nhiều tài nguyên vào lĩnh vực quốc phòng.

Chính phủ Ri-gân hứa ứng dụng kĩ thuật mới phát minh vào vũ khí thông thường và vào “Sáng kiến phòng thủ chiến lược”. Tổng Tham mưu trưởng quân đội Liên Xô đối với lời hứa này cảm thấy có hiện tượng bất bình thường. Tướng Ep-xiê Yép đã viết trong một bài đăng trong một tập san của quân đội: “Sự uy hiếp do kĩ thuật mới phát minh gây ra sẽ làm cho chủ nghĩa tư bản có đầy đủ năng lực để đột nhiên tập kích chúng ta; điều này chẳng khác gì bọn Na-di1 xâm nhập vào Liên Xô tháng 6 năm 1941”. Tướng Ca-li-ep, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, trong một bài báo ông đã coi một người công nhân già và Pô-pa-côp, một nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết “Sông và chết” của Si-mô-nôp là những công dân Liên Xô gương mẫu. Trong bài viết của mình, Ca-li-ep đã hi vọng công dân Liên Xô đứng trước sự uy hiếp mới của chủ nghĩa tư bản, cần phải nói như Pô-pa-côp rằng: “Trong trường hợp vạn bất đắc dĩ, tôi thậm chí có thể rời bỏ ngôi nhà ở của tôi rồi ra ở một căn phòng nhỏ tồi tàn sống với bánh mì và nước lã... Như vậy thì Hồng quân sẽ có đủ mọi thứ cần thiết!” Đảng Cộng sản Liên Xô thề không cho phép chủ nghĩa tư bản một lần nữa có được ưu thế quân sự, nhưng nếu họ quả có thực hiện được lời hứa đó thì họ sẽ phải trả giá đắt!

Goóc-ba-chôp muốn giữ lời thề. Đối với ông mà nói, về lĩnh vực kĩ thuật quân sự, Liên Xô đã tụt xuống phía sau nước Mỹ và điều này sẽ đe dọa địa vị siêu cường của Liên Xô “Chúng ta không có sự lựa chọn nào khác! - Goóc-ba-chôp nói với các tín đồ trung thành của Đảng - Với sự tấn công của khoa học, kĩ thuật hiện đại, sự chạy đua lại càng kịch hệt. Điều này đối với những kẻ bị tụt hậu thì ảnh hưởng của nó lại càng tàn nhẫn!” Qua sự nhìn nhận của Goóc-ba-chôp thì “Sáng kiến phòng thủ chiến lược” là một kế hoạch mà Mỹ muốn chất chồng thêm vào gánh nặng kinh tế của Liên Xô. “Mỹ muốn với cuộc chạy đua của loại vũ khí không gian vừa hiện đại, vừa đắt giá sẽ đánh đổ nền kinh tế Liên Xô”. Ông nói với nhân dân Liên Xô trên đài Truyền hình Mat-xcơ-va: “Nước Mỹ muốn gây cho những nhà lãnh đạo Liên Xô đủ điều khó khăn, bao gồm cả lĩnh vực xã hội hòng phá hoại kế hoạch nâng cao đời sống nhân dân của đất nước Liên Xô chúng ta; từ đó kích động sự bất mãn của nhân dân đối với những người lãnh đạo Đảng và Nhà nước”.

Sự phát triển của tình hình đã thúc đẩy Goóc-ba-chôp hơn lúc nào hết cần phải dốc hết sức lực vào việc xây dựng Quốc phòng. Kế hoạch 5 năm mới yêu cầu phải chi rất nhiều tiền cho vũ khí hiện đại. Đúng như Goóc-ba-chôp sau này đã thừa nhận; trong những năm từ 1986 đến 1990 kế hoạch chi tiêu cho quốc phòng hiệu suất tăng hầu như mỗi năm là 8%, tức là gấp đôi hiệu suất tăng trưởng của thu nhập quốc dân. Trong kế hoạch 5 năm sau, tổng số chi tiêu quốc phòng tăng lên 45%, điều này thật khiến người ta kinh ngạc!

Goóc-ba-chôp mong phương Tây, nhất là Tổng thống Mỹ, một con người chống Cộng sẽ có chút hoà hoãn trong cuộc vận động phản đối Liên Xô.
_____________________________________
1. Đức Quốc xã.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #151 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2010, 09:15:56 pm »


CHƯƠNG MƯỜI BẢY


Tháng 8 năm 1985, một cuộc “cờ bạc” nhằm vào tâm trạng kinh tế Liên Xô lẳng lặng triển khai. Tuy hiệu quả không lập tức cảm thấy được ngay, nhưng những thùng dầu của A-rập Xau-đi đã mở vòi và dầu của họ đã tràn ngập cả thị trường dầu mỏ thế giới. Ngày nay hồi tưởng lại, A-rập Xau-đi đã đưa ra quyết định khó khăn mà trọng đại này để rồi sau đó; Xiê-khơ A-man-ni, Bộ trưởng Dầu mỏ đi đến những câu tuyên bố: “A-rập Xau-đi sẽ cùng với các nước thành viên OPEC chiếm cứ phần còn lớn hơn nữa của thị trường dầu mỏ thế giới!”. Sáu tháng sau khi Tổng thống Ri-gân đề cập với Pha-khơ-đơ chuyện này, bốn tháng sau khi “Lá chắn hoà bình” bắt đầu tiến triển thì sản lượng dầu mỏ của Xau-đi tăng vọt lên. Bất cứ ai cũng đều có sự suy đoán, rút cục thì có nhân tố nào đã thúc đẩy A-rập Xau-đi có quyết định trọng đại như vậy. Cai-xpa Uyn-pak nhận định: “Nguyên nhân nội bộ đã khiến cho A-râp Xau-đi quyết định tăng sản lượng và hạ giá dầu mỏ năm 1985. Nhưng Xau-đi tất cũng biết rằng, quyết định này có thể cải thiện quan hệ giữa Xau-đi với nước Mỹ”.

Trong mấy tuần sản lượng dầu mỏ tăng lên của Xau-đi mỗi ngày không đầy 2 triệu thùng; sau đó tăng lên 6 triệu thùng. Cuối thu năm 1985, sản lượng dầu thô tăng vọt lên mỗi ngày khoảng 9 triệu thùng. Đối với nước Mỹ mà nói, giá dầu mỏ hạ là một món lời, tương đương với việc đưa tặng cho những người tiêu dùng Mỹ hàng chục tỉ đôla. Nhưng đối với Mat-xcơ-va, bất kì việc hạ giá dầu mỏ nào cũng đều gây ra những sự tổn hại cho nền kinh tế của họ. Nhưng, tình hình của năm 1985 đã có biến đổi lớn, sự tăng lên về số dự trữ ngoại tệ mạnh bị hạn chế, họ chỉ còn cách thông qua việc bán vàng để giữ cho sự thu nhập ngoại tệ mạnh vẫn ở mức độ cần có. Cũng như là năng lượng của bánh mì và bơ, ngoại tệ mạnh trong việc chế tạo máy móc so với bất kì một hàng tiêu dùng nào, ảnh hưởng của nó đối với hiện trạng kinh tế của Liên Xô cũ đều quan trọng hơn. Tháng 7 năm 1985, trong một bản báo cáo tuyệt mật về hiện trạng kinh tế Liên Xô của Cục Tình báo trung ương, đã khẳng định năng lực sáng tạo về việc thu nhập ngoại hối của Liên Xô rất yếu. Số chênh lệch mậu dịch giữa Liên Xô và phương Tây, quý I năm 1984 bội thu 7 trăm triệu đôla, đến quý I năm 1985 lại thành ra nhập siêu 1,4 tỉ đôla.

Có lẽ điều quan trọng là, Goóc-ba-chôp đang mong xuất khẩu năng lượng để có được ngoại tệ mạnh, rồi với số ngoại tệ đó sẽ mua kĩ thuật và hàng tiêu dùng để thực hiện kế hoạch cải cách của ông. Liên Xô mong dùng số tiền này để nhập khẩu các vật phẩm và thực phẩm của phương Tây. “Giá dầu mỏ hạ làm cho kế hoạch này thất bại, quả là thất bại! - Ep-côn-ni Nô-vi-cốp nói - Đó là tai nạn. Hàng tỉ đôla thế là đi đứt!”

Sau khi A-rập Xau-đi nâng cao sản lượng dầu mỏ không lâu, giá dầu mỏ quốc tế như một hòn đá đã chìm xuống dưới đáy hồ. Tháng 11 năm 1985, giá bán mỗi thùng dầu thô là 30 đôla, nhưng sau 5 tháng đã hạ xuống còn 12 đôla. Đối với Mat-xcơ-va, hơn 10 tỉ đôla chỉ trong một đêm là tan biến, số đôla này bằng một nửa số thu nhập ngoại tệ mạnh của Liên Xô. Kinh tế Liên Xô vì vậy lại càng khốn quẫn.

Đúng vào lúc Mat-xcơ-va đang phải một mình đối phó với trận bão táp tài chính này, thì ánh mắt của toàn thế giới lại tập trung vào Giơ-ne-vơ, nơi sắp diễn ra cuộc hội đàm thượng đỉnh của hai siêu cường. Gióoc-giơ Bus khi đến dự tang lễ Chéc-nen-cô đã đề nghị với Goóc-ba-chôp về cuộc hội đàm này.

Vị lãnh đạo Liên Xô mới đã vui vẻ nhận lời. Chính phủ Ri-gân đưa ra lời mời, và tỏ ra hết sức hy vọng về cuộc hội đàm này. Tổng thống Ri-gân và Quốc vụ khanh, Gióoc-giơ Xu-ơn-xư nhận định, cuộc hội đàm giữa nguyên thủ hai nước này có khả năng đạt được sự tiến triển về vấn đề khống chế vũ trang. Mục tiêu của Ri-gân không chỉ hạn định ở mặt khống chế vũ trang thông thường, lí tưởng của ông còn là tiêu trừ hạt nhân. Đồng thời với việc đánh lui Chủ nghĩa Cộng sản, ông muốn cắt giảm kho vũ khí của hai bên ở mức độ lớn; đó là một trong những mục tiêu mà ông muốn dốc hết nhiệt tình nóng bỏng vào đó!

Nếu cuộc hội nghị thượng đỉnh mà Ri-gân đề nghị này có thể làm dịu sự lo âu đối với chính sách vũ đoán của người lãnh đạo Liên Xô thì Goóc-ba-chôp sẽ nắm lấy cơ hội này để hoà hoãn hiện trạng kinh tế hỗn loạn mà Liên Xô đã sa vào đó. Ở Ap-ga-ni-xtan và Ba Lan, người Liên Xô không còn cách nào để khống chế cục thế được nữa. Tinh thần phản đối cuộc chiến tranh Ap-ga-ni-xtan ở Liên Xô đang lên cao. Goóc-ba-chôp rất biết tinh thần này sẽ đục rỗng xã hội Liên Xô! Ở Ba Lan, Công đoàn Đoàn kết bí mật không những vẫn tồn tại mà còn vững vàng hơn lên. Sự suy sụp về tinh thần của Chính phủ Da-ru-del-xki cũng nhanh chóng như sự suy sụp đối với nền kinh tế của họ. Ngoài việc cung cấp tiền của cho Ap-ga-ni-xtan và Ba Lan để bồi dưỡng lực lượng địa phương, ngõ hầu gạt bỏ sự thống trị bá quyền của địa phương ra; Chính phủ Ri-gân đương thông qua các biện pháp như siết chặt vòng vây hạn chế kĩ thuật, hạn chế sự xuất khẩu năng lượng của Liên Xô và tăng nhanh các bước chạy đua vũ trang giữa các siêu cường; trong xã hội Liên Xô, một lần nữa lại nẩy sinh ra những trở ngại khó bề vượt qua! Đặc biệt là “Sáng kiến phòng thủ chiến lược” đã dồn Goóc-ba-chôp tới chân tường.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #152 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2010, 09:16:44 pm »


Các quan chức cao cấp của Chính phủ Ri-gân tìm cách chủ động thuyết phục phía Liên Xô tiếp thu nghị trình mà họ đã soạn thảo ra cho hội nghị này. Họ muốn cho đối phương rõ rằng, sự chú trọng của hội nghị này không phải chỉ tập trung ở việc khống chế vấn đề vũ trang vì trước đây các siêu cường đã hội đàm nhiều lần về vấn đề này rồi. Để chỉ thị về quyết sách đối với An ninh quốc gia số 75 nhất trí với mục tiêu “đánh lui” thế lực Liên Xô của Chính phủ Mỹ. Đô-nat Phu-chiê thành viên của Uỷ ban An ninh quốc gia đề xuất ra một ý tưởng về “Sáng kiến khu vực”. Đề nghị này sẽ tập trung sự chú ý vào 5 điểm nóng có tính khu vực; trong mấy nơi này đều có những cuộc chiến đấu giữa chính quyền do Liên Xô ủng hộ và những người khởi nghĩa chống Cộng. Nước Mỹ đề nghị, dưới sự ủng hộ và giám sát của các siêu cường, các phía tham gia giao chiến đều tự đàm phán với nhau. Họ sẽ cùng nhau nỗ lực gạt bỏ những sự viện trợ quân sự của các nước ngoài. Đương nhiên, họ vẫn có thể nhận viện trợ kinh tế. Thật ra thì Phu-chiê cũng không hề có ảo tưởng là Mat-xcơ-va sẽ tiếp thu kiến nghị này. Nhưng đây là một thủ đoạn phản kích có tác dụng trên bàn đàm phán để ngăn không cho Goóc-ba-chôp trong suốt thời gian hội nghị, công kích, lên án “Sáng kiến phòng thủ chiến lược” của Mỹ.

Về vấn đề “Sáng kiến phòng thủ chiến lược”, Cô-xây và Ken-nis A-đéc-man, Chủ nhiệm Nha khống chế và tái giảm quân bị cũng đề ra một sáng kiến tượng tự. Sáng kiến này không thành công, nhưng sự thật nó rất có tác dụng. Hai người cùng cho rằng, Tổng thống đưa ra khái niệm “Mở toang phòng thực nghiệm”, dùng để nghiên cứu “Sáng kiến phòng thủ chiến lược”; so với khái niệm “Mở toang bầu trời” của Ai-xen-hao đưa ra 30 năm về trước đều có hiệu quả như nhau. “Mở toang phòng thực nghiệm” có thể làm cho sự giao lưu trong việc nghiên cứu phòng thực nghiệm của hai siêu cường được tiến hành. Đương nhiên không bao giờ Mat-xcơ-va lại tán đồng kiến nghị này, nhưng nó có thể bịt miệng không cho Liên Xô công kích Mỹ.

Trước cuộc hội nghị này, Tổng thống Ri-gân đã nghiên cứu rất nhiều các tài liệu gốc về kinh tế Liên Xô. “Ông thích đọc loại tư liệu này - Đô-nat Ri-can nhớ lại - Cứ vào những ngày cuối tuần, ông mang đến một đống lớn loại tư liệu này, sau đó ông đọc hết bản này đến bản khác. Về sự hiểu biết của ông về tình hình kinh tế và quân sự Liên Xô nhiều nhà chuyên môn cho rằng sự hiểu biết của ông về mặt này còn hơn họ.” Từ trong những tư liệu này, ông đã hiểu được rằng tình hình của Liên Xô hết sức nguy ngập, chủ yếu biểu hiện ở: sự thiếu thốn vật chất ngày càng rõ nét; trong sản xuất công nghiệp gặp nhiều vấn đề nan giải; nguy cơ thiếu ngoại tệ mạnh ngày càng nghiêm trọng. Ri-gân biết rằng, trong tay ông dù rằng không nắm được tất cả mọi lá bài, nhưng ít nhất ông cũng nắm được mấy lá bài then chốt rất quan trọng đối với Liên Xô.

Năm 1985, giữa hai siêu cường có nhiều vấn đề đối lập nhau rất nghiêm trọng. Thành phố Giơ-ne-vơ của Thụy Sĩ tỏ ra hết sức hiếu khách. Thành phố này đã trở thành một nơi tổ chức cuộc hội đàm thượng đỉnh lần thứ nhất của hai nguyên thủ. Ri-gân và Goóc-ba-chôp mặt đối mặt tranh tài cao thấp, mục đích sự tranh luận của họ rõ ràng là để chiếm lợi thế. Theo kế hoạch, Gióoc-giơ Xu-ơn-xư, Quốc vụ khanh nước Mỹ và E. Xê-vac-nat-de, Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô đã có một loạt cuộc hội đàm ngoại giao, chủ đề thảo luận là về các vấn đề Ap-ga-ni-xtan, nhân quyền, khống chế vũ trang và “Sáng kiến phòng thủ chiến lược”.

Ngay khi bắt đầu hội nghị, Goóc-ba-chôp đã chĩa mũi nhọn công kích vào “Sáng kiến phòng thủ chiến lược”. Ông nói với Tổng thống Ri-gân, sáng kiến này sẽ dẫn đến cuộc chạy đua vũ trang, nó sẽ làm cho cả hai nước đều phá sản và không ổn định! Hai mắt của vị Tổng Bí thư này nhìn thẳng vào Ri-gân cảnh cáo rằng, ông còn ý định làm bất cứ việc gì ông thấy cần làm thông qua việc sử dụng rất nhiều loại vũ khí tấn công, đối chọi với “Sáng kiến phòng thủ chiến lược” của Mỹ. Ông nói tiếp, “Sáng kiến phòng thủ chiến lược” là ý đồ giành lấy ưu thế chiến lược và là chứng cứ thứ nhất về khả năng tấn công bằng vũ khí hạt nhân của Mỹ. Trừ phi trong vòng 18 tháng tới Mỹ có quyết định chính xác đối với “Sáng kiến phòng thủ chiến lược” nếu không thì triển vọng về hoà bình thế giới sẽ vô cùng ảm đạm!

Trước quan điểm của Goóc-ba-chôp, Ri-gân đã phản bác rất quyết liệt. Với sức mạnh tinh thần của mình ông đã nói những lời lẽ thốt tự đáy lòng mình chứ ông không nói theo những ý ngắn gọn của bản Bị vong lục mà Quốc Vụ viện Mỹ đã chuẩn bị sẵn cho ông. Goóc-ba-chôp đã hăng hái đối đáp lại từng lời, từng ý của Ri-gân; hai vị nguyên thủ lời qua tiếng lại không ai chịu ai. Rút cục, Goóc-ba-chôp đã nói hết lẽ nhưng cũng không thuyết phục được Ri-gân nhượng bộ về vấn đề “Sáng kiến phòng thủ chiến lược”!

Sau một ít phút nghỉ giải lao, hội nghị lại chuyển sang vấn đề khác. Goóc-ba-chôp lần này lại lặp lại trò cũ. Sau khi Tổng thống Ri-gân hứa sẽ hạn chế sự thí nghiệm và khai thác hệ thống phòng thủ chiến lược, Goóc-ba-chôp nói, ông hi vọng cuối cùng khi nước Mỹ bố trí hệ thống này thì nên có sự linh hoạt nào đó. Ông muốn Ri-gân tin rằng, thủ tiêu “Sáng kiến phòng thủ chiến lược” không có nghĩa là Ri-gân hoặc Chính phủ Mỹ “mất mặt”. Tổng thống Ri-gân muốn lảng tránh vấn đề này, nên ông nói với Goóc-ba-chôp rằng: “Sáng kiến phòng thủ chiến lược” không phải là vấn đề có thể đàm phán được!”. Lời nói này khiến cho Goóc-ba-chôp bực tức, ông tuyên bố Tổng thống đã không có sự tôn trọng ông đúng mức. Sau đó, ông nói với Ri-gân, nếu không thủ tiêu “Sáng kiến phòng thủ chiến lược” thì cũng không thể khống chế vấn đề vũ trang được. Đối với sự chỉ trích của Goóc-ba-chôp, Ri-gân chỉ cười lảng!

Khi hội nghị chuyển sang thảo luận vấn đề khu vực, lại đến lượt Ri-gân chỉ trích Goóc-ba-chôp. Lời lẽ của Ri-gân so với lời lẽ của bất kì một vị Tổng thống Mỹ nào nói với bất kì một vị Tổng Bí thư Liên Xô nào đều khó nghe hơn. Ri-gân công kích Goóc-ba-chôp về vấn đề Ap-ga-ni-tan theo kiểu “bắn súng liên thanh”. Ông nói: Mat-xcơ-va đang làm việc tiêu diệt chủng tộc. Máy bay Liên Xô ném xuống một số đồ chơi, thực ra đó là một loại mìn nhử. Những em bé nghèo khổ không hề có một chút nguy hại gì cho ai, do các cháu nhặt những thứ đồ chơi đó nên mìn nổ khiến các cháu chết! Ở các nơi khác (Ba Lan, Ni-ca-ra-goa và Ăng-gô-la), Liên Xô đang chiến đấu với một số tổ chức dân tộc chủ nghĩa, những tổ chức này chỉ muốn có được sự tự do cho mình. Ông mạnh dạn hỏi một vấn đề khiến cho Goóc-ba-chôp bối rối: “Lẽ nào ngài vẫn muốn tiếp quản cả thế giới sao?”

Cuộc hội nghị thượng đỉnh này không làm cho chính sách của nước Mỹ có sự chuyển biến gì lớn. Cuối cùng thì nó đã kết thúc trong một khung cảnh hào nhoáng, tráng lệ điển hình. Ri-gân cũng chẳng thấy hứng thú gì với những nghi thức ngoại giao và ông dẫn đoàn đại biểu về nước với tâm tình khoan khoái, mãn nguyện! Còn Goóc-ba-chôp đã công kích rất mạnh “Sáng kiến phòng thủ chiến lược”; việc này đã thể hiện tâm thái tuyệt vọng của ông. Thái độ của Tổng thống Ri-gân rất rõ, đó là khi ông nói về vấn đề Ap-ga-ni-xtan, ông đã: “đập” lại “người” bằng chính lí lẽ của “người”!”.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #153 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2010, 09:19:21 pm »


Trong hội nghị Giơ-ne-vơ, Goóc-ba-chôp đã không thực hiện được mục tiêu của mình; sau khi trở về Mat-xcơ-va, ông lại phải đối mặt với triển vọng ảm đạm của hiện trạng kinh tế. A-lec-xan-đơ Pes-mêl-tơ-nak nhớ lại: “Đối với Liên Xô mà nói, chúng tôi thấy cuộc chạy đua vũ trang đã gây áp lực đối với họ. Goóc-ba-chôp muốn tiến hành tiếp việc cải cách, nhưng chạy đua vũ trang liên tục không ngừng đã gây những trở ngại rất lớn cho những cải cách đó.”

Goóc-ba-chôp rất rõ Liên Xô phải đối mặt với một tình hình kinh tế không sáng sủa gì. Ông thấu hiểu mối liên hệ giữa sự phục hồi kinh tế với thế lực của Liên Xô. Sự lớn mạnh về kinh tế quyết định thực lực chính trị của Liên Xô. Ngày 23 tháng 5, ông nói với các quan chức ngoại giao ở bộ này rằng: “Không có sự phát triển tăng tốc về kinh tế và xã hội thì không thể nào giữ vững được địa vị của chúng ta trên vũ đài chính trị.” Ông thẳng thắn nói với mọi người rằng, sự khủng hoảng về kinh tế sẽ nghiêm trọng như thế nào; nó có thể khiến chúng ta không tham dự hoạt động quốc tế, trừ khi chúng ta có sự chuyển biến tốt về mặt này.

Theo sự loan báo của cơ quan truyền thông quân sự Liên Xô thì phía quân sự cảm thấy lo lắng vì, một khi hệ thống vũ khí kĩ thuật cao đổi mới của phương Tây vẫn trên đà phát triển được đưa ra sử dụng ở chiến trường thì nó sẽ gây ra ảnh hưởng như thế nào? Sự tiến triển về kinh tế và kĩ thuật (có lẽ chỉ có thể thông qua sự cải cách mạnh mẽ thì mới làm được điều này) là một điều cần thiết đối với An ninh quốc gia. Một tờ tập san của quân đội đã chỉ rõ rằng: “Chỉ có một cơ sở kinh tế mạnh mà hiện đại mới có đủ năng lực duy trì và cải tiến chạy đua vũ trang, đồng thời mới có thể cung cấp cho quân đội một số lượng đầy đủ về vũ khí hiện đại, về kĩ thuật quân sự và về mọi loại lương hưởng”. Cải cách không chỉ làm cho nền kinh tế dân dụng của Liên Xô hiện đại hoá và làm dịu đi cuộc sống căng thẳng của những người dân bình thường do tình hình khan hiếm các vật phẩm tiêu dùng hàng ngày mà nó làm cho tương quan giữa lực lượng đối sách có sự chuyển biến. Tướng Đơ-mi-tri A-tap (sau này là Bộ trưởng Quốc phòng) tuyên bố: cải cách tức là “tăng cường sự sản xuất trên cơ sở có được thành tựu mới nhất về khoa học kĩ thuật”. Xuất phát từ sự cần thiết của quân đội mà ông ủng hộ cải cách.

Đối với những người dân Oa-sinh-tơn họ rất thận trọng với sự nỗ lực cải cách của Goóc-ba-chôp. Kế hoạch này đã làm cho họ phải giận dữ! Nếu đối với một xã hội tuy thiếu đi tính nhất trí, nhưng lại do sự mở cửa và tự do mà ít đi tính xâm lược, thì một xã hội như vậy tất nhiên phù hợp với lợi ích của nước Mỹ. Nhưng, nếu Goóc-ba-chôp, với một phương thức nào đó, tìm cách xây dựng một đế quốc tuy có năng suất và có kĩ thuật tiên tiến nhưng lại khoác chiếc áo ngoài Mác - Lê với 70 năm quá khứ thì như vậy sẽ xuất hiện tình trạng gì? Nếu ông ta chỉ lợi dụng cải cách như một loại ngụy kế cốt để giành lấy những khoản tiền vay của phương Tây, thì cũng sẽ xuất hiện tình trạng gì?

Cùng với sự bắt đầu cuộc đông chinh thập tự quân của Goóc-ba-chôp đưa sức đẩy của kĩ thuật vào thể chế kinh tế của Liên Xô thì chiến lược phong toả kĩ thuật mang tính thế giới đối với tập đoàn Liên Xô của Chính phủ Ri-gân bắt đầu phát huy tác dụng. Kể từ năm 1981 cho đến nay, về mặt kết cấu và về mặt pháp luật đối với chế độ khống chế vấn đề xuất khẩu, nước Mỹ đã tiến hành rất nhiều cải cách. So với Chính phủ các khoá trước thì Chính phủ Mỹ hiện nay lại càng chú trọng đến sự chấp hành chế độ này. Đầu thập kỷ 70 và thập kỷ 80, chỉ có 2, 3 vụ án đánh cắp kỹ thuật bị khởi tố. Vậy mà chỉ riêng tháng 1 năm 1986 Bộ Tư pháp đã khởi tố hơn một trăm vụ án loại đánh cắp kỹ thuật. Trong thời kì Ri-gân cầm quyền “Thanh đơn1 khống chế vật phẩm” đã mở rộng thêm một bước. Từ tháng 10 năm 1983 đến tháng 9 năm 1987, trong “thanh đơn” đã tăng lên 26 hạng mục kĩ thuật.

Nhưng, sự thay đổi thực chất nhất có lẽ bắt đầu từ năm 1985, khi đó hai đảng có sự thống nhất hành động, với sự ủng hộ của Chính phủ đã có sự sữa chửa “Luật khống chế và quản lí xuất khẩu” ban bố năm 1979; từ đó lần đầu tiên đã trao cho quan chức quản chế xuất khẩu Mỹ quyền điều tra đối với việc xuất khẩu trái phép ra khỏi biên giới nước Mỹ; đại lí thương mại có thể theo dõi đến tận hiện trường xuất khẩu (như Hương Cảng, Thụy Sĩ và Ấn Độ). Mỗi số bản hiệp định 2 bên đã được kí kết bởi các nước trung lập, những nước này cần tiến hành khống chế đối với hành vi xuất khẩu của mình. Nhân viên hải quan còn có được quyền lực bất bình thường khác. Họ có thể lục soát những hàng hoá khả nghi mà không cần có sự phê chuẩn; hơn nữa họ còn có thể tịch thu những hàng hoá đó. Việc xử phạt các hàng hoá vận chuyển trái phép trở nên hết sức nghiêm ngặt; có thể bắt giam, thay thế cho phạt tiền!
_____________________________________
1. Thanh đơn: bản kê khai chi tiết.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #154 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2010, 09:21:31 pm »


Năm 1986, nước Mỹ đã dốc toàn lực vào việc thực thi chiến lược phong toả kĩ thuật. Các nước thành viên của Uỷ ban Thống trù Pa-ri đều tự tăng cường việc khống chế hàng xuất khẩu, bịt kín những lỗ rò rỉ ở mấy nước Thụy Điển, Áo và Thụy Sĩ. Khoảng 40% các thương gia chế tạo nước Mỹ, khi xuất khẩu hàng của mình cần phải có giấy phép xuất khẩu thuộc một loại hình nào đó, cốt làm cho Mat-xcơ-va không thể mua được một cách hợp pháp các loại kĩ thuật cao tiên tiến của Mỹ. Trong thời gian 4 năm, Chính phủ Ri-gân đã xây dựng thành công một cơ quan an ninh; mục đích duy nhất của cơ quan này là theo dõi các hàng hoá xuất khẩu sang Liên Xô. “Uỷ ban Chuyển nhượng kĩ thuật” đặt trong Cục Tình báo trung ương sử dụng máy tính tiên tiến để theo dõi những kỹ thuật xuất khẩu trên toàn thế giới, đồng thời tiến hành giám sát, khống chế lưu lượng mậu dịch kĩ thuật cao. Do Oa-sinh-tơn không ngừng tăng áp lực, mấy nước đồng minh chủ yếu phương Tây mặc dầu chấp hành các biện pháp trên không được nghiêm túc lắm, nhưng cuối cùng cũng phải khống chế các hàng xuất khẩu theo cách của Mỹ. Năm 1984, Bộ Quốc phòng Anh đã tổ chức các chuyên gia kỹ thuật lại, thành lập một tổ chuyển nhượng kĩ thuật để theo dõi tình hình xuất khẩu khoa học kĩ thuật cao. Pa-ri và Bon cũng đề ra kế hoạch như vậy.

Mat-xcơ-va đối với kĩ thuật phương Tây như kẻ đói khát trước miếng ăn, nhưng không có cách nào giành được số lượng cần thiết. Sự hạn chế xuất khẩu của phương Tây khiến cho Krem-li buộc phải mạo hiểm một phen. Năm 1986, các nhân viên tình báo của KGB và GRU1 muốn ra tay đánh cắp kĩ thuật của phương Tây. “Suốt cả thập niên 80, cùng với sự tăng cường việc hạn chế xuất khẩu của phương Tây, hoạt động gián điệp công nghiệp của họ rất sôi động.” Sư-thai-ep Han-pua nhớ lại. Nhưng, gián điệp rất khó lựa chọn xác đáng các tình báo kĩ thuật. Những kĩ thuật chiếm được (mua tương đối hợp pháp) không có tác dụng gì, vì nhân viên kĩ thuật Liên Xô không được huấn luyện, chỉ đạo hoặc giúp đỡ gì về kĩ thuật.

Do đoán được rằng Krem-li khi truy tìm kỹ thuật sẽ bằng mọi cách phái gián điệp công nghiệp đi làm việc này, vì vậy Cô-xây và các quan chức cao cấp khác trong Chính phủ Mỹ đã mở rộng việc đặt ra kế hoạch tình báo kĩ thuật giả. Nhân viên phân tích tình báo ở Lăng-lây đã phân tích rất kĩ kế hoạch 5 năm của Goóc-ba-chôp để xác định lĩnh vực kỹ thuật nào cần thiết nhập kĩ thuật phương Tây. Kết hợp kết quả phân tích với những báo cáo của những kẻ phản bội Liên Xô cung cấp, các chuyên gia kĩ thuật lập ra một bản thanh đơn kĩ thuật mà thương gia đại lí của Liên Xô có thể cảm thấy thích thú nhất. Sau đó các chuyên gia soạn thảo ra một tài liệu tình báo “có thiếu sót” về lĩnh vực kĩ thuật mà Liên Xô cần; phía thứ ba ở châu Âu và phía Mỹ chuyển những tài liệu tình báo đó, (hoặc bán) cho thương gia đại lí Liên Xô, (những người này không hề nghi ngờ gì về những tài liệu này!).

Kỹ thuật về phương diện dầu mỏ và khí đốt, nhất là công nghệ tinh chế đời mới là một lĩnh vực mà phía Liên Xô cảm thấy hứng thú. Trước việc cấm vận của nước Mỹ, quan chức ngành công nghiệp dầu mỏ và khí đốt của Liên Xô muốn khai thác một số chi tiết máy để dùng vào việc khoan dò dầu mỏ vùng sát biển trong nước. Họ biết được rằng những chi tiết máy đó do Mỹ thiết kế rất có giá trị và chúng đã trở thành một ưu thế của phương Tây. Với sự giúp đỡ của các chuyên gia công nghiệp dầu mỏ, Cục Tình báo trung ương đặt kế hoạch đưa phía Liên Xô vào tròng trong việc này. Công trình sư Liên Xô mất mấy tháng trời, đi sâu tìm tòi một tư liệu tương quan đã hoàn thiện về một dàn khoan dò dầu mỏ vùng sát biển do Mỹ thiết kế để sử dụng ở vịnh Mê-hi-cô. Phía Liên Xô muốn mô phỏng bản thiết kế này của Mỹ. Theo sự dự đoán thì, để cơ bản sao lại thiết kế của Mỹ, công trình sư Liên Xô đã phải chi ra hàng vạn đôla. “Chiêu này rất có hiệu quả”, một chuyên gia nhớ lại “về mặt kĩ thuật dầu mỏ và khí đốt chúng tôi đã làm cho họ rối mù lên. Cho đến nay họ vẫn chưa hiểu đầu cuối vấn đề là như thế nào hết!”.

Phòng Thu thập tình báo quốc gia thuộc Cục Tình báo trung ương thuyết phục mấy công ty thuộc “Trung tâm công nghiệp vi điện tử” thiết kế máy chủ của máy tính và vệ tinh tiên tiến, khiếm khuyết về kĩ thuật. “Các công trình sư rất phấn khởi vì việc này - Một quan chức nhớ lại - Đối với mấy công trình sư đó, làm việc trong một kế hoạch bí mật, mà lại là đi vào một cửa ải khó về thiết kế thì đó là một sự thách thức hết sức cấp bách.” Lợi dụng thiết kế đã “báo hỏng” của thương gia chế tạo, các công trình sư đã soạn thảo ra một loạt “thiết kế tiên tiến”, sau đó họ bán cho các thương gia đại lí của Liên Xô với giá tiền khoảng 15.000 đôla. Theo lời đồn thì cho đến năm 1989, Liên Xô đối với một số thiết kế đó vẫn tiếp tục phân tích và lợi dụng! Một quan chức nói: “Với số liệu không chuẩn xác nào đó, một khi đi vào khâu nghiên cứu, phát minh, thì thật rất khó xử lí.”

Chính phủ Ri-gân còn coi tình báo giả như một thủ đoạn thúc đẩy Liên Xô theo dõi “Sáng kiến phòng thủ chiến lược”. Quan chức KGB Ôn-cơ Cri-ep-xki đã làm việc bí mật cho nước Anh, đến năm 1985 thì phản bội hẳn. Theo tin tình báo y cung cấp thì các nhà lãnh đạo cao cấp Krem-li đều cho rằng “Sáng kiến phòng thủ chiến lược” chắc chắn sẽ thực thi; như vậy, đó sẽ là một thách thức đối với kho vũ khí của Liên Xô. Cô-xây, Cai-xpa Uyn-pak và Giôn Pin-đơ Kơ-xtơ muốn coi sự chú ý này của Liên Xô là một ưu thế tâm lí của họ. Chiến dịch này về bản chất mà nói, ý Mỹ muốn gây ra một ấn tượng, tức là sự tiến triển thực chất mà chuyên gia kĩ thuật Mỹ có được đã vượt rất xa thực tế hiện có. “Sáng kiến phòng thủ chiến lược” khiến cho Goóc-ba-chôp cảm thất bất an, nó đã trở thành một thách thức nghiêm trọng đối mặt với Liên Xô!
_______________________________________
1. GRU: viết tắt của nhóm từ tiếng Nga Glavnoe Rajvedivat elnoe Uynavlenie có nghĩa là: Tổng Cục Tình báo Bộ Tổng tham mưu quân đội Liên Xô.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #155 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2010, 09:29:25 pm »



Nếu sự chạy đua kĩ thuật làm hao tổn lực lượng của Liên Xô thì những thách thức về chính trị đã có thể làm dao động nền móng của đế quốc này. Căn cứ vào chỉ thị của Tổng thống Ri-gân, Cô-xây đang bố trí rất nhiều hành động bí mật trong phạm vi toàn cầu để đánh lui thế lực của Liên Xô. Cô-xây là một người như vậy, trước cuộc đọ sức trên bàn cờ quốc tế, trong ông đã rực cháy một niềm tin, không phải là muốn ăn tươi mấy tên “tiểu tốt” của đối phương, mà là hi vọng đánh chết đối phương!

Mấy tuần sau khi kết thúc hội nghị thượng đỉnh Giơ-ne-vơ, Cô-xây cùng ăn bữa trưa với A-len Fi-e-rơ ở phòng làm việc tại Lăng-lây. Fi-e-rơ công tác ở bán đảo A-rập từ rất lâu, nay được phái đến công tác tại Trung Mỹ. Hai người thảo luận về tình hình Trung Mỹ và những suy nghĩ của Cô-xây về việc ủng hộ các cuộc khởi nghĩa chống Cộng trên toàn thế giới. Ông muốn giành được thắng lợi ở một nơi nào đó. “Nếu chúng ta có được một cuộc thắng lợi - Ông nói với Fi-e-rơ - thì có thể coi như toàn bộ kế hoạch không thực tế sẽ “cải tử hoàn sinh”, đồng thời sự việc này sẽ tạo ra phản ứng dây chuyền trong toàn bộ đế quốc Liên Xô”. Đầu năm 1986, mặc dầu Liên Xô đã nhiều lần thất bại nhưng họ vẫn không chịu nhượng bộ. Tuy nhiên khắp thế giới không một nơi nào như Ap-ga-ni-xtan, tại đó Mỹ đã có một cơ hội “tuyệt hảo” để đánh lui Liên Xô.

Năm 1986, cùng với mùa đông đến trên đất nước Ap-ga-ni-xtan đầy gian khổ của chiến tranh, tiếng súng lớn nhỏ trên chiến trường đã lặng hẳn lại! Khi tuyết bắt đầu rơi, cũng như 6 năm qua, quân đội Liên Xô và Ap-ga-ni-xtan đã rút khỏi các đồi núi và các lũng núi vào ở trong các công sự phòng ngự, hoặc trong thành. Đã một năm nay, kể từ khi bắt đầu đánh chớp nhoáng (hiện nay quân Liên Xô do tướng Trai-xép chỉ huy) họ cũng không thu được kết quả gì đáng kể. Ở tuyến phía đông, quân Liên Xô huy động 20.000 người, tổ chức một trận tiến công đại quy mô nhưng vẫn không phong toả được vùng biên giới tiếp giáp với Pa-ki-xtan; cũng không cắt đứt được mối liên hệ giữa quân du kích Mu-xlim với căn cứ cung ứng của họ. Từ một phương diện khác, những lời mà nước Mỹ hứa với tổ chức chống đối bắt đầu đưa ra thi hành và đã thu được hiệu quả. Số lượng vũ khí đang trên đường vận chuyển đã tăng vọt: năm 1985 du kích Mu-xlim nhận được 10.000 súng bắn lựu đạn và 200.000 tên lửa. So với 5 năm trước đây thì tổng số còn nhiều hơn. Mỗi năm tổng cộng số vũ khí, đạn dược nhận được là 50.000 tấn, còn 2 năm trước chỉ có 10.000 tấn.

Năm 1986, khi Cô-xây đến thăm Pa-ki-xtan, ông và tướng A-khơ-tan và chuẩn tướng Ưu-xu-phu kiểm điểm, nhận định tình hình chiến tranh tại một căn cứ tiền duyên, sát ngay biên giới Ap-ga-ni-xtan. Họ đã xem xét các bức ảnh vệ tinh và bản đồ Ap-ga-ni-xtan tỉ lệ lớn, kiểm tra sự bố trí quân đội, số người thương vong và một số tình hình có thể xuất hiện trong năm tới. Họ quan tâm nhất tới vấn đề, trong vòng 5 năm tới tổ chức chống đối cải biến bản thân như thế nào. Hiện nay, du kích Mu-xlim đang áp dụng chiến thuật hiện đại tiến hành những hành động quân sự đại quy mô, tháng này thu được kết quả lớn hơn tháng trước. Trong 5 năm vừa qua, trang bị của du kích Mu-xlim chỉ là súng trường và họ phải đi chân không trong nội địa Ap-ga-ni-xtan tìm những mục tiêu dễ đánh. Còn ngày nay thì súng bắn chim đổi lấy đại bác, và họ đã sử dụng vũ khí kỹ thuật cao tiến đánh căn cứ không quân của Liên Xô. Hiện nay họ sử dụng hệ thống thông tin vô tuyến điện đời mới, bán kính hữu hiệu có thể đạt tới 600 dặm Anh. Cùng với việc xây dựng các trạm thông tin ở miền Trung Bộ Ap-ga-ni-xtan, vùng căn cứ của tổ chức chống đối Ap-ga-ni-xtan cũng được xây dựng, một số thiết bị hiện đại cũng được lắp đặt ở những nơi có sự bảo vệ nghiêm ngặt. Vệ tinh do Mỹ phóng ra cũng phủ sóng trên bầu trời Ap-ga-ni-xtan, đồng thời nó cũng truyền ảnh về nơi các nhân viên phân tích tình báo ở Oa-sinh-tơn và về nơi các quan chức ngành tình báo Pa-ki-xtan ở vùng biên cương. Lợi dụng những tình báo này, các quan chức ngành tình báo Pa-ki-xtan đã truyền các chỉ thị tới các vùng căn cứ. Sau đó, những căn cứ này có thể sử dụng vô tuyến điện “Khiêu tần” (bán kính hữu hiệu là 20 - 30 dặm Anh) truyền mệnh lệnh đến tay các chỉ huy chiến trường của du kích Mu-xlim.

Các chiến sĩ du kích Mu-xlim đã sử dụng ngày càng thành thạo các vũ khí hiện đại. Được vậy là do ngay từ năm 1985 đã xây dựng được rất nhiều trường huấn luyện quân sự, ở đó nhà trường đã dạy cho họ sử dụng mọi loại vũ khí. Một khoá trình 2 tháng bao gồm các bài dạy về: súng bắn tăng, súng cao xạ, gài mìn, quét mìn, phá hoại, đánh trong đường phố, và lãn công. Hàng nghìn chiến sĩ du kích đã tham gia học tập những khoá trình này. Mỗi năm có 20.000 chiến sĩ du kích tốt nghiệp ở những trường kiểu đó. Họ đã có được kĩ năng “Nhân viên loại U của Cục Tình báo trung ương”.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #156 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2010, 09:30:07 pm »


Năm 1985, sự thắng lợi về những lời hứa của nước Mỹ hiển nhiên đã đến lúc thu hoạch; trong năm đó, du kích Mu-xlim đã có được thành tựu rực ra. Tư lệnh đội du kích, Ây-kha-met Sa-a Ma-xđô nổi tiếng là “Hùng sư thung lũng Phan-chi-es” đã chiếm được một trọng địa phòng ngự Pây-sư-cơn do một tiểu đoàn trấn giữ trong lô cốt ngầm; bắt được 450 tù binh! Ở một nơi khác, đội du kích đã đánh sân bay và những máy bay đậu ở đó. Suốt mùa hạ năm 1983, du kích dùng tên lửa đánh rất mạnh vào sân bay Can-đa-ha, bức Liên Xô phải bỏ sân bay này, chuyển một số lớn máy bay đến một nơi càng hẻo lánh hơn. Đối với Mat-xcơ-va mà nói, có lẽ một việc “bất cát lợi” là, du kích Mat-xcơ-va đã tiến hành hàng loạt những hoạt động quân sự ở các tỉnh phía Bắc Ap-ga-ni-xtan, vùng giáp giới với Liên Xô; đồng thời một hạm tàu vận tải của Liên Xô khi đi ngang qua sông A-mu đã bị bắn chìm. Tình báo nước Anh cung cấp một loại thuỷ lôi nhỏ có thể gắn chặt vào phía dưới mớm nước của hạm đội tàu. Những du kích quân Mu-xlim đã qua lớp huấn luyện đặc biệt có thể bơi qua sông, gài vài quả mìn trong nội địa Liên Xô, sau đó lại bơi về Ap-ga-ni-xtan.

Nhưng, hình thức nâng cấp chiến tranh là nghiêm trọng nhất: kế hoạch của du kích Mu-xlim là đánh vào đất Liên Xô! Kiến nghị này đầu tiên là do Nhà Trắng đề xuất vào năm 1983; A-khơ-tan và đã Ưu-xu-phu tiếp thu kiến nghị này. Cuối năm 1985, Chính phủ Mỹ đã “lâm trận lùi bước!” Khi họ muốn đánh tiếp tục thì Cô-xây quyết định nước Mỹ tốt nhất là không chia xẻ các ảnh vệ tinh chụp nội địa Liên Xô cho du kích Mu-xlim. Những ảnh này có thể làm cho các trận đánh càng thêm hữu hiệu, nhưng đồng thời cũng trực tiếp làm cho Mỹ dính líu vào cuộc chiến tranh này. “Nếu những tên lửa liên hiệp của các bạn đánh rất chính xác thì người Liên Xô sẽ biết rằng các bạn sử dụng ảnh vệ tinh do nước Mỹ trao cho!” Một quan chức nhớ lại “Chúng tôi là một quốc gia duy nhất trên thế giới có thể cung cấp loại tình báo đó. Nếu chúng tôi làm như vậy là quá đáng và rất lộ liễu, người Liên Xô có thể sẽ trả đũa!” Vì vậy, Ưu-xu-phu đành tổ chức tiến công trong tình huống không có ảnh vệ tinh.

Nhưng, nước Mỹ có thể viện trợ du kích Mu-xlim bằng nhiều phương thức khác. Những tổ chức quân du kích được huấn luyện đặc biệt trang bị các thiết bị phóng tên lửa của Trung Quốc, hoạt động ở trong nội địa Liên Xô. Cục Tình báo trung ương thì cung cấp các vật nổ kĩ thuật cao. Du kích Mu-xlim sẽ chọn những mục tiêu dân dụng và quân dụng để phá hoại. Họ có thể tiến đánh các cơ sở công nghiệp Liên Xô, làm cho xe hoả trật bánh, đồng thời đánh các vị trí quân sự của Liên Xô bằng tên lửa.

Cục Tình báo trung ương đã tổ chức huấn luyện về kĩ thuật, do đó cũng giúp ích cho việc thay đổi chiến lược, chiến thuật của tổ chức chống đối. Cuối năm 1985, du kích Mu-xlim tổ chức ám sát Mô-ha-met Na-di-bu-la, thủ trưởng cảnh sát bí mật Ap-ga-ni-xtan. Một sĩ quan chỉ huy của đội du kích Mu-xlim được sự trợ giúp của một quan chức cảnh sát bí mật Ap-ga-ni-xtan ở Ca-bun, đã cùng với quân du kích đã nghĩ ra một kế hoạch bí mật. Viên sĩ quan chỉ huy này sử dụng thiết bị của Cục Tình báo trung ương cung cấp, đồng thời cũng học được một số kĩ năng của Cục này. Tháng 8 năm 1985, anh lén mang chất nổ và thiết bị hẹn giờ vào Ca-bun. Thương gia đại lí của viên cảnh sát bí mật Ap-ga-ni-xtan mua một chiếc ô tô cũ với một cái tên giả, trên xe chứa đầy chất nổ. Có người tiết lộ tin Na-di-bu-la sẽ đến thăm Đại sứ quán Ấn Độ ở Ca-bun cuối tháng 11, thế là viên sĩ quan du kích lái chiếc xe, cho đỗ ở trên đường trước mặt Đại sứ quán Ấn Độ. Do thiếu ngòi nổ điều khiển từ xa, anh phải sử dụng thiết bị hẹn giờ. Nhưng, Na- di-bu-la lại đến chậm 1 tiếng đồng hồ, nên quả mìn khi nổ đã không hại được ông!

A-khơ-tan, Ưu-xu-phu và Cô-xây sau khi đã phân tích trên bản đồ và ảnh vệ tinh thì họ bắt đầu thảo luận về chiến lược mới. Họ dự kiến công việc sẽ thành công và cùng chúc mừng lẫn nhau; sau đó họ chuyển sang thảo luận về phương thức chỉ đạo chiến tranh sau này. Tướng A-khơ-tan đề xuất vấn đề tên lửa “Độc thích”. Lời thỉnh cầu này do phía Mỹ không ai đề cập đến nên “thai đã chết ngay trong bụng mẹ”. Vị tướng Pa-ki-xtan này muốn được một lời giải thích. Ưu-xu-phu nhớ lại vì sao khi đó phía Pa-ki-xtan lại đưa ra lời thỉnh cầu ấy: “Đó là một thứ vũ khí duy nhất có thể làm xoay chuyển cục thế chiến tranh”. Cô-xây nói, ông và các quan chức chính phủ khác do chuyện này mà thấy buồn lòng! Nhưng, chắc sau này vấn đề cũng sẽ được giải quyết. Rô-be Mac Phơ-ran, hồi cuối năm 1983 đã báo cáo vấn đề này với Tổng thống. Tổng thống dường như cũng sẽ đồng ý vấn đề ấy. Nếu lạc quan thì đến mùa hạ, du kích Mu-xlim có thể nhìn thấy một số bộ phận của loại tên lửa đó. A-khơ-tan nghe nói vậy rất phấn khởi; ông nói với Cô-xây, việc này sẽ làm thay đổi hẳn tiến trình chiến tranh.

Cuộc chiến tranh Ap-ga-ni-xtan liên tiếp thu được thành công, chủ yếu nhờ vào sự ủng hộ của Pa-ki-xtan. Một quan chức Liên Xô đã nói với một quan chức ngoại giao cao cấp Mỹ ở Mat-xcơ-va rằng, Pa-ki-xtan luôn ủng hộ tổ chức chống đối Ap-ga-ni-xtan, vì thế Krem-li có ý định “tặng quà cho Zi-a”! Cô-xây nói với A-khơ-tan, nước Mỹ sẽ đem hết sức ra bảo vệ Tổng thống Zi-a. Việc bảo vệ an toàn này được tiến hành rất chu đáo, nhưng vẫn phải tăng cường ở một hai mặt nữa. Sau 3 năm, khi chiếc máy bay chở Tổng thống Zi-a bị nổ tan trên bầu trời thì đó là chứng cứ gián tiếp nói lên KGB, hoặc là cảnh sát bí mật Ap-ga-ni-xtan đã nhúng tay vào việc này.

Sau khi hội đàm, Cô-xây muốn đi xem cuộc bắn mẫu của du kích Mu-xlim. Ngành tình báo Pa-ki-xtan có một kế hoạch về hoả lực, bao gồm việc bắn biểu diễn các loại súng trường, súng cối, súng phóng lựu, súng trường không giật. Đầu năm 1986, có một số tân binh được điều sang Ap-ga-ni-xtan chiến đấu với quân đội Liên Xô. Rất nhiều hiện tượng chứng tỏ năm đó là một năm tốt.

Du kích Mu-xlim bắt đầu giành được quyền chủ động trên chiến trường. Quân đội Liên Xô xem ra thì rất không ổn định; hoạt động trinh sát quân sự trên đất Liên Xô không lâu sau đó đã bắt đầu!
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #157 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2010, 09:31:21 pm »


CHƯƠNG MƯỜI TÁM


Cuối năm 1985, A-rập Xau-đi quyết định tăng nhanh sản lượng dầu mỏ khiến giá dầu hạ rất thấp; điều này không thể không làm cho Krem-li chú ý. Đứng trước việc thu nhập ngoại tệ mạnh chưa bao giờ ít đến thế, nên một văn kiện với lời lẽ cứng rắn do một Uỷ viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô kí, đã được chuyển tới Quốc vương Pha-khơ-đơ hồi đầu năm 1986, Ôoc-cơ A-lech-xê-ep-vis Cri-nep-xki, Cục trưởng Cục Trung Đông, Bộ Ngoại giao Liên Xô và Cai-dar A-li-ep, Uỷ viên Bộ Chính trị, nhà nghiên cứu về A-rập đã truyền đạt thông tin của Liên Xô đến Pha-khơ-đơ; đồng thời I-rắc và Si-ri cũng cùng nhau đưa ra lập trường phản ứng về vấn đề đó. Hai nước này cũng là những nước bị thua thiệt do sách lược dày công mưu tính của A-rập Xau-đi.

Bức thư này rõ ràng là đã cảnh cáo Xau-đi không nên cứ một mực hạ thấp giá dầu, đồng thời đề nghị có một cuộc hội đàm bí mật ở Giơ-ne-vơ để ổn định giá dầu mỏ. Xuất phát từ lợi ích của bản thân, I-ran đã công khai đe doạ Xau-đi, vì sự tổn thất về việc thu nhập dầu mỏ đã bức I-ran phải thủ tiêu kế hoạch tiến công I-rắc. Do I-ran và I-rắc hầu như đều vi phạm các quy tắc chiến tranh đã có từ lâu nên họ đã dẫn đến tình hình ở vịnh Ba-tư càng thêm căng thẳng: các tàu chở dầu, nhà máy luyện dầu và các giếng dầu đều bị đánh phá! Do thiếu các linh kiện và các chi tiết máy nên không quân I-ran bắt đầu ít thấy xuất hiện trong chiến tranh, vì vậy “Vệ đội cách mạng” của I-ran đi trên nhưng chiếc du hạm đã tấn công vào các tàu chở dầu ở I-rắc! Những chiếc du hạm này chở đầy các binh sĩ bừng bừng khí thế, được trang bị tên lửa sẵn sàng phóng thẳng vào tàu chở dầu của đối phương. Các tàu chở dầu ở vịnh Ba-tư đang lâm vào tình trạng hiểm nguy!

Đầu năm 1986, do Mỹ tuyên bố sẽ tiếp tục bảo vệ sự an toàn dầu mỏ trong vùng Vịnh, nên A-rập Xau-đi cũng có chút yên tâm. Về việc I-ran đánh tầu chở dầu của I-rắc, tuy sự đe doạ mà nước này phải chịu không nghiêm trọng như đối với các nước sản xuất dầu khác (như Cô-oét), nhưng nước Mỹ không cho phép I-ran được có hành động khống chế hoặc hiếp bách đối với việc vận chuyển dầu mỏ trong vùng Vịnh; Sau khi được tin này Quốc vương Pha-khơ-đơ thấy vui vẻ và an tâm! Ở Oa-sinh-tơn, vương tử Ban-đan đã nói với Cai-xpa Uyn-pak và Cô-xây về sự quan tâm của ông đối với tình hình vùng Vịnh. Tháng 4 năm 1986 khi phó Tổng thống Gióoc-giơ Bus đến thăm bán đảo A-rập, ông đã cùng chủ nhân trao đổi về vấn đề này.

Đầu năm 1986, sản lượng dầu mỏ của Xau-đi xấp xỉ mỗi ngày 10 triệu thùng, giá dầu tiếp tục hạ. Đối với Xau-đi sản lượng dầu mỏ tăng vọt sẽ làm họ thu nhập được nhiều hơn so với sự tổn thất do giá dầu hạ; dự tính sẽ tăng thu nhập khoảng 1/3. Dù giá dầu hạ xuống 8 đôla mỗi thùng nhưng sẽ thu nhập dầu mỏ của Xau-đi lại trội hơn năm 1985. Đối với việc đồng đôla sụt giá, Pha-khơ-đơ thấy đây là một sức đẩy về kinh tế khác rất lớn. Theo như một bản Bị vong lục bí mật của Quốc vụ viện Mỹ, do gần đây đồng đôla Mỹ sụt giá khiến cho người Xau-đi “phát tài to”! Chỉ riêng nửa cuối năm 1985, tổng số tiền phát tài này “xấp xỉ 10 tỉ đôla”. Người Xau-đi mong rằng năm 1986 họ sẽ thu hoạch được tương tự như vậy.

Tháng 2 năm 1986, khi tiền bắt đầu được đưa đến tổ chức bí mật của Tiệp Khắc, thì hành động đánh lui thế lực Liên Xô của Mỹ ở Đông Âu bước vào một giai đoạn mới. Theo chỉ thị của quyết sách về An ninh quốc gia số 32 và nguyện vọng của Tổng thống, nước Mỹ và Tiệp Khắc của phương Tây đã bắt tay được với nhau. Nước Mỹ đã thiết lập một đường dây liên lạc với tổ chức bí mật của Tiệp Khắc. Tuy nhiên, tổ chức bí mật của Tiệp Khắc mỗi năm về tiền chỉ có mấy chục nghìn đôla; bất luận về quy mô hay về phạm vi đều không thể nào so sánh với hành động của Ba Lan được. Phái phản đối của Tiệp vẫn ở trong giai đoạn manh nha, chủ yếu họ vẫn chịu sự chi phối của tổ chức nhân quyền trong các phần tử trí thức (ví dụ “phong trào Hiến chương 77”), hoặc của giáo hội. Thông qua tổ chức lưu vong của phương Tây phe phản đối đó được Cục Tình báo trung ương cấp tiền bạc; các tổ chức này thường bí mật mang tiền đến cho họ. Số tiền mang đến trong mỗi lần tuy ít nhưng “tích thiểu thành đa”. Công đoàn Đoàn kết đã có những việc làm rất mạnh dạn, họ đã bằng cách nào đó có những hoạt động ủng hộ phái phản đối của hai nước Ba Lan và Tiệp Khắc trong một vùng hẻo lánh tại một cánh rừng dọc theo biên giới hai nước. Họ đã tiến hành hiệp thương nhiều lần về vấn đề đó. Nếu tổ chức bí mật của hai nước liên hợp lại với nhau, thì thế lực của Liên Xô ở vùng này sẽ phải đối mặt với những thách thức rất bất lợi.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #158 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2010, 09:32:33 pm »


Hoạt động bí mật phía sau “Bức màn sắt”, đó là một công việc mạo hiểm, nhưng xác định con đường cung cấp viện trợ cũng không dễ gì! Cô-xây giao cho Cơ-le-rơ Gióoc-giơ, Trưởng phòng Hành động mới nhận chức của Cục ông một bản Bị vong lục, với ý định yêu cầu xác định một số công tác về mặt hoạt động của phái phản đối và trả lời câu hỏi nên làm như thế nào để giúp đỡ họ được tốt hơn! “Cô-xây muốn biết trong việc giúp đỡ phái phản đối ở khu vực đó thì Cục ông có thể làm những gì. Ông khuyến khích Công đoàn Đoàn kết hợp tác với mọi phái phản đối khác”. Một quan chức đã hiểu rõ bản Bị vong lục đó nhớ lại.

Một vấn đề khác là kế hoạch có thể bị lộ. Cơ quan tình báo của tập đoàn Liên Xô có khả năng tiết lộ kế hoạch này từ đó họ sẽ phá hoại tổ chức bí mật. Ngay từ những năm 20, Cảnh sát bí mật của Bôn-sê-vích đã lập ra mấy tổ chức bí mật “hư cấu”, rồi lấy những tổ chức này làm công cụ, qua đó bắt được những người phản đối chính quyền Liên Xô. Tổ chức nổi tiếng nhất là “Hiệp hội của những người theo chủ nghĩa quân chủ ở Trung bộ Nga (MOR)”; còn tổ chức có tên là “Tín nhiệm” thì càng nổi danh hơn. “Tín nhiệm” đã thành công trong việc chui vào các tổ chức chống Cộng khác, đồng thời phá hoại mấy hoạt động tình báo của những tổ chức này ở nước Nga.

Nhưng nếu coi Ba Lan là một ví dụ, thì điều đó chứng minh sự ủng hộ ở bên ngoài có thể có tác dụng rất lớn. Ngoài số tiền mà Cục Tình báo trung ương cung cấp ra, mỗi năm Công đoàn Đoàn kết còn có được khoản tiền quyên góp chừng nửa triệu đôla từ hải ngoại, trong đó có 300.000 đôla đến từ “Lao liên - Sản liên”. Tuy nhiên, khoản viện trợ này không phải là không có lúc gián đoạn. Đầu mùa xuân năm 1986, từ Xtốc-khôm ở Thụy Điển và thành phố cảng Sta-đơ chuyển đến mấy đợt vật tư nhưng đều bị ngăn chặn ở dọc đường; lí do là một người nào đó, hoặc một nơi nào đó trên đường dây liên lạc đã báo với chính quyền. Nếu đường dây vận chuyển bị phá hoại thì sự cung ứng vật tư sẽ bị cắt đứt. Tuy nhiên, tổ chức bí mật còn có sự lựa chọn khác nữa.

Trong toàn bộ hành động, sự hoài nghi phần lớn đều chuyển hướng về phía Thụy Điển. Đối với con tàu vận chuyển, các phần tử tích cực của Công đoàn Đoàn kết chỉ có một con đường là áp tải cho đến khi hàng hoá đến được Thụy Điển. Tuy nhiên, trong các phần tử tích cực của Công đoàn Đoàn kết phương Tây có khả năng bị nhân viên tình báo của địch gài người vào, nhưng điều này cũng chưa thật xác thực. Chỉ có những phần tử tích cực của Công đoàn Đoàn kết rất được tín nhiệm mới có thể tham gia vào việc bí mật vận chuyển các cung ứng phẩm. Người mới đến không được tham gia vào việc này. Nếu có người biết được sự bí mật của “thùng thư”, thì có thể họ do bị cám dỗ này khác mà đi báo nhà đương cục. Giữa tháng 2, Cô-xây đã từ phòng làm việc của ông ở Nhà Trắng gọi điện cho một quan chức Thụy Điển rất thông thạo các hành động bí mật. Mục đích cuộc gọi điện này là: toàn bộ các đường liên lạc ở Thụy Điển có “lỗ hổng”. Cô-xây yêu cầu vị quan chức này bịt những “lỗ hổng” đó lại.

Một số nhân viên tình báo nước Mỹ được phái tới Thụy Điển giúp đỡ các đương sự ở đó điều tra việc này. Tổ liên hợp này đã mất hai tuần rưỡi thời gian để điều tra các khâu trong toàn bộ hành động của Thụy Điển. Họ đã tiến hành kiểm tra rất tỉ mỉ, bao gồm quan sát, kiểm tra biên bản và cả việc giám sát các công nhân, nhưng đều không phát hiện được điều gì! Cuối cùng, căn cứ vào sự cáo giác của một công nhân bên cảng, họ mới phát hiện được nguyên nhân của vấn đề. Tổ này đã theo dõi một nhân viên hải quan Sta-tơ thì phát hiện người này đang đánh điện báo cho một quan chức hải quan ở Gơ-đan-sư-khơ. Tổ liền thông qua sự kiểm tra những giấy tờ về tài khoản ngân hàng của nhân viên hải quan này, thì thấy mỗi lần anh ta đi cáo giác đều được 200 đôla tiền thưởng.

Dù đã phát hiện ra tội phạm, tổ liên hợp này vẫn ở trong trường hợp “tiến thoái lưỡng nan”. Bất luận là bắt anh ta hay cách chức anh ta thì báo chí cũng đều đăng tin. Như vậy sẽ lộ hết mọi bí mật! Phía Thụy Điển liền quyết định áp dụng biện pháp là phân công công tác khác, rồi tăng lương khiến cho anh ta có được kết quả thiết thực. Đối với một công chức của Chính phủ mà nói, do cung cấp tình báo cho một nước trong Hiệp ước Vác-sa-va mà bản thân được thăng tiến về sự nghiệp, trường hợp này có lẽ chỉ có một chứ không có hai! Công việc của người này sau đó rất bình ổn, lỗ hổng như vậy là bịt lại được!

Đang lúc Chính phủ Ri-gân tăng sự ủng hộ tài chính bí mật cho những hoạt động bí mật ở phía sau: “bức màn thép” thì Mi-khai-in Goóc-ba-chôp cũng ngồi trên ghế Chủ tịch của Đại hội đại biểu lần thứ 27 của Đảng Cộng sản Liên Xô. Trong 10 hôm hội nghị, các lãnh tụ các đảng Cộng sản đến từ nhiều nơi trên thế giới đã tề tựu tại Mat-xcơ-va. Họ đã “vẽ ra” tương lai của phong trào Cộng sản. Trong đoàn Chủ tịch, Goóc-ba-chôp ngồi bên cạnh Ri-ca-sép; người ngồi đằng sau ông là Đa-ru-del-xki và Hô-nec-cơ.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #159 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2010, 09:33:27 pm »


Bài diễn văn trong đại hội, Goóc-ba-chôp phát biểu rất có ý nghĩa lịch sử đối với một số vấn đề đã có sự thảo luận đầy đủ. Sau đó ông bắt đầu tiết lộ những “tội lỗi” trước kia của Liên Xô. Ông còn đưa ra những lời hiệu triệu cảm động lòng người trong việc xây dựng lại xã hội Liên Xô. Giọng nói của Goóc-ba-chôp sang sảng, dõng dạc, tràn trề một tình cảm hăng say, cuốn hút. Ông đề cập tới rất nhiều vấn đề quan trọng. Ông nói với các đại biểu rằng kỹ thuật tiến bộ đối với tương lai của Liên Xô vô cùng quan trọng. Chỉ có tiến triển được về mặt kỹ thuật, chúng ta mới có thể khiến Đảng thực hiện được mục tiêu của mình, khiến cho “tiềm lực kinh tế” được tăng lên gấp đôi. Kế hoạch 5 năm mới sẽ đặt tiến bộ kĩ thuật vào vị trí trung tâm. Ông nói: “Đảng yêu cầu đưa tiền của và vốn vào những lĩnh vực nào mà chỉ trong một thời gian ngắn có thể thu được rất nhiều lợi nhuận, không được tăng số lượng công nhân, nhưng phải sáng tạo ra thiết bị và kĩ thuật mới có hiệu suất cao”. Kế hoạch 5 năm kêu gọi phải coi “ngành khoa học kỹ thuật cao” là lĩnh vực đầu tư trọng điểm. Hơn 200 tỉ rúp sẽ được phân phối vào lĩnh vực này, từ đó thực hiện hiện đại hoá công nghiệp. Con số này còn nhiều hơn tổng số đầu tư của 10 năm trước. Đối với việc đầu tư vào lĩnh vực khoa học kĩ thuật cao, chúng ta chan chứa hi vọng về một nền kinh tế tăng trưởng và phát triển.

Goóc-ba-chôp còn cảnh cáo đối với ý đồ của Mỹ. Ông nói “Nguyện vọng chân thành của ông là huỷ bỏ gánh nặng “Chiến tranh trên các vì sao” và sự chạy đua về vũ trang thông thường”. Ông cảnh cáo là: “Nước Mỹ và nền công nghiệp quân sự của nó đã giữ tác dụng đầu tàu của chủ nghĩa đế quốc mà cho đến nay họ vẫn không muốn hãm bớt tốc độ của nó lại”. Ông còn nói: “Nguyên tắc cơ bản của an ninh kinh tế là nước Mỹ cần huỷ bỏ bất cứ sự trừng phạt nào về kinh tế, và không được có bất cứ một sự phong toả và kì thị nào!” Ông công khai chỉ trích việc Mỹ can thiệp vào công việc của các nước khác, nhất là đối với nội chính của Ba Lan và Ap-ga-ni-xtan. Ông cảnh cáo: thế lực đế quốc muốn mưu đồ “lật đổ Ba Lan”. Ông nói với các “tín đồ” của chủ nghĩa Cộng sản rằng: “Thế lực phản cách mạng và chủ nghĩa đế quốc đang làm cho Ap-ga-ni-xtan chảy máu”.

Mùa xuân năm 1986, sự sụt giá dữ dội về dầu mỏ quốc tế không chỉ làm cho toàn thế giới hết sức hoang mang, mà cũng làm cho 1/4 các quan chức trong Chính phủ Mỹ lo lắng. Ngay cả phó Tổng thống Gióoc-giơ Bus tuy đang chuẩn bị cho động thái về sự việc làm mọi người chú ý vừa xảy ra trong 10 ngày nay ở vịnh Ba-tư, nhưng trước việc giá dầu mỏ sụt xuống nhiều; là phó Tổng thống nhưng đồng thời cũng là một thương gia về dầu mỏ ở bang Tếch-dát, ông đã thấy đây là một sự nguy hiểm chứ không phải là một việc gì có thể hy vọng. Giá dầu cao đối với cơ sở chính trị của ông - miền Tây Nam nước Mỹ là một việc tốt. Phó Tổng thống đã nói lên quan điểm của ông về vấn đề này trong những trường hợp phi công khai.

Ngày 1 tháng 4, trước khi lên đường, Bus đã tổ chức một buổi họp báo ở Oa-sinh-tơn. Ông nói: “Điều hết sức quan trọng là sự “ổn định” của giá dầu mỏ, vì lợi ích của nước ta, tôi sẽ ra sức tuyên truyền về quan điểm này... Lợi ích này có liên quan tới sự an ninh của quốc gia chúng tôi... Tôi cho rằng chúng ta cần thiết trao đổi với nhau về sự ổn định thị trường, vì chúng ta không thể để cho giá dầu mỏ như những người lính nhảy dù cứ tự do rơi không có dù!”

Những ý kiến này không phù hợp với lời nói và việc làm của Chính phủ Mỹ. Tổng thống, Cai-xpa Uyn-pak, Cô-xây và Giôn Pin-đơ Kô-xtô khi chưa trưng cầu ý kiến của cố vấn “Sự vụ quốc nội” đã cho rằng giá dầu xuống thấp là một việc rất tốt đối với nước Mỹ. Sau khi bình luận về lời phát biểu trên của Bus, quan điểm bất bình thường này bị công khai phản bác. Một người phát ngôn Nhà Trắng nói: “Con đường làm cho giá dầu ổn định là để cho thị trường tự do phát huy tác dụng”. Người này còn chỉ rõ rằng, Bus sẽ khẳng định với Quốc vương Pha-khơ-đơ là, lực lượng thị trường sẽ quyết định mức giá của dầu mỏ.

Sau mấy hôm phát biểu quan điểm trên, Bus bay đến Ri-yat. Nơi ông đến đầu tiên ở Ri-yat là Đại sứ quán mới xây của Mỹ. Trong bữa tiệc tối hôm đó, phó Tổng thống trao đổi với mấy vị bộ trưởng Xau-đi, trong đó có Xiê-khơ A-ma-ni. Họ thảo luận thẳng thắn với nhau rất nhiều vấn đề, nhưng vấn đề đột xuất là giá dầu mỏ. Bus cảnh cáo rằng, nếu giá dầu vẫn ở mức thấp nhất thì những nhà sản xuất dầu mỏ nước Mỹ sẽ gây áp lực với Quốc hội, đánh thuế vào dầu mỏ nhập khẩu hoặc sẽ có hình thức đấu tranh để bảo vệ lợi ích của họ. Đối với lời cảnh cáo của phó Tổng thống, A-ma-ni không để tâm, nhưng như vậy lại làm tăng thêm sự hỗn loạn của Xau-đi. Đã mấy tháng nay, các quan chức cao cấp của nước Mỹ trước sau vẫn thuyết phục Xau-đi hạ thấp giá dầu mỏ. Trước tiên là Uyn-pak và Cô-xây cuối cùng là Tổng thống. Trước sau họ vẫn động việc tăng sản lượng dầu. Nay Bus lại đến Ri-yat để phát biểu quan điểm trái hẳn lại!
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM