Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 10:42:45 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 6  (Đọc 61662 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #10 vào lúc: 27 Tháng Tư, 2010, 06:24:25 pm »


Ở miền Nam hiện nay, ở vùng giải phóng hay trong vùng còn tạm bị kiểm soát, hầu hết ruộng đất từ ruộng đất của địa chủ đến ruộng đất Pháp kiều bán lại cho Diệm - Nhu từ năm 1958 đều do cách mạng chia cấp và do nông dân làm chủ cấy cày, làm ăn từ ngày đồng khởi đến nay. Thực tế đã xảy ra và đang xảy ra trong vùng chúng còn tạm kiểm soát hoặc vùng chúng lấn chiếm, là bọn ngụy quyền ấp xã và một số địa chủ lưu vong cướp giật ruộng đất cách mạng đã cấp cho nông dân từ trước, ruộng đất của gia đình cán bộ, chiến sĩ ta, đem chia cho bọn tề ngụy và tay chân của chúng. Ở các huyện Đức Hoà, Bến Lức, Thủ Thừa (Long An) chúng lấy đất nông dân được cấp trong kháng chiến trước để cấp cho ngụy binh. Ở xã Nhị Bình (tỉnh Long An), chúng lấy đất của cách mạng cấp cho nông dân để cấp cho gia đình ngụy quân rồi cấp bằng khoán để chứng nhận quyền sở hữu ruộng đất cho số này. Ở huyện Gò Dầu (Tây Ninh), chúng lấy ruộng đất của nông dân đi tản cư bán cho kẻ khác. Ở tỉnh Bình Thuận, Bà Rịa, chúng còn lấy công điền nông dân đang cày cấy đem bán đấu giá hoặc cấp cho gia đình ngụy quân...

Trò hề cải cách điền địa của Thiệu - Kỳ không những là trò bịp đối với nông dân, mà thực chất là một âm mưu cướp đoạt trắng trợn ruộng đất của nông dân, của gia đình cán bộ, chiến sĩ ta còn trong vùng chúng kiểm soát để cấp cho bọn tay sai của chúng để tạo một chỗ dựa về chính trị phản động ở nông thôn, chống lại phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp”1.

Ở các địa phương, tỉnh trưởng được toàn quyền trách nhiệm về an ninh lãnh thổ. Từ tỉnh đến quận, xã, ấp, chính quyền mỗi cấp có toàn quyền hành động “bảo đảm an ninh” trong phạm vi lãnh thổ mình cai quản. Do vậy bọn chúng tha hồ lộng hành, sách nhiễu nhân dân, tự do bắt bớ đánh đập, giam cầm, tra tấn dã man những người dân lương thiện bị chúng liệt vào loại tình nghi có quan hệ với “cộng sản”. Nguyễn Văn Thiệu còn ban hành các sắc luật quy định án tử hình đối với những người chống lại các chính sách về kinh tế, chính trị, quân sự của Mỹ và Sài Gòn. Bộ máy cai trị của chính quyền Sài Gòn thời kỳ Việt Nam hoá chiến tranh độc tài phát xít không thua kém thời Diệm - Nhu.

Song song với tăng cường và hiện đại hoá quân đội Việt Nam Công hòa, củng cố chính quyền Sài Gòn làm chỗ dựa cho Việt Nam hoá chiến tranh, Mỹ, ngụy đẩy mạnh chương trình bình định, dùng tổ chức Phượng Hoàng, Thiên Nga điều tra, phát hiện cán bộ và cơ sở cách mạng, tiêu diệt những người yêu nước. Địch coi đây là biện pháp quan trọng nhất trong cuộc đấu tranh giành dân, giành quyền làm chủ của chúng. Bình định được Níchxơn và Nguyễn Văn Thiệu xem như xương sống của Việt Nam hoá chiến tranh. Đây là một bộ phận quan trọng gắn liền với toàn bộ hoạt động quân sự, chính trị, kinh tế của Mỹ và chính quyền Sài Gòn đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của cơ quan chỉ đạo trung ương. Cơ quan này là sự hợp nhất các cơ quan chỉ đạo bình định của Bộ Tư lệnh MACV, Sứ quán Mỹ, Phân cục tình báo Trung ương CIA Mỹ ở Sài Gòn do tướng A.Bram - Tư lệnh quân viễn chinh Mỹ ở Nam Việt Nam điều hành. Theo Mỹ và chính quyền Sài Gòn thì bình định dồn dân vào các ấp tân sinh, ấp đời mới là biện pháp chiến lược quyết định sự tồn vong của chính quyền Sài Gòn và sự thành bại của Việt Nam hoá chiến tranh.

Do tầm quan trọng đó, địch chia kế hoạch bình định ra làm nhiều giai đoạn để thực hiện:

Từ tháng 11-1968 đến tháng 6-1969, tiến hành bình định cấp tốc.

Từ tháng 7-1969 đến tháng 6-1970, bình định phát triển nông thôn.

Từ tháng 7-1970 đến tháng 2-1971, bình định đặc biệt.

Từ tháng 3-1971 đến tháng 3-1972, chương trình cộng đồng tự vệ và phát triển nông thôn...

Tiến hành bình định cấp tốc và bình định phát triển nông thôn, Níchxơn và Thiệu nhằm ba mục đích: khôi phục và mở rộng quyền kiểm soát của chính quyền Sài Gòn ở nông thôn Nam Việt Nam đang bị thu hẹp; tăng cường đánh phá phong trào cách mạng ở cơ sở để triệt tận gốc “cộng sản”; tranh thủ trái tim và khối óc của nhân dân bằng chiến tranh tâm lý, chiến tranh chính trị đầu độc, lôi kéo quần chúng; vơ vét nhân tài, vật lực của nhân dân miền Nam để giảm bớt chi phí cho Mỹ kéo dài chiến tranh. Chúng coi đây là “trận cuối cùng”; “ai thắng ai trong trận này sẽ chiến thắng trong cuộc chiến tranh”. Đây là mũi phản công chủ yếu của Mỹ và chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đánh vào cách mạng miền Nam. Địch tập trung mọi lực lượng, mọi sức mạnh quân sự và chính trị, quyết thực hiện cho được chỉ tiêu kế hoạch bình định năm 1969 là kiểm soát 90% dân số miền Nam tương đối an toàn; tiêu diệt 33.000 cán bộ cơ sở của “Việt cộng”; thiết lập chính quyền ngụy ở tất cả các xã, ấp; tuyển cho được hai triệu người vào địa phương quân và nghĩa quân. Do đó, chương trình bình định của Mỹ, ngụy thời kỳ này nổi lên những đặc điểm chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, lực lượng tập trung vào nhiệm vụ bình định đông. Địch huy động từ 60% đến 70% quân chủ lực phối hợp với 800 đội, đoàn bình định gồm 40.000 tên, cùng hàng trăm đơn vị cảnh sát, bảo an, địa phương quân, nghĩa quân đánh phá cơ sở cách mạng liên tục ở hầu hết các vùng nông thôn chúng kiểm soát. Chúng dùng không quân, hải quân, pháo binh bắn phá, ném bom suốt ngày đêm vô cùng ác liệt, san phẳng nhiều làng mạc, ruộng vườn gây nên cảnh tàn phá hoang tàn, làm cho dân chúng hoảng loạn, kết hợp với thanh lọc dân cư, bắt, tra tấn dã man những người dân lương thiện, ép buộc dân phải vào trong các ấp tân sinh, ấp đời mới mà thực chất là những “trại giam” trá hình.

Hơn nửa triệu quân chủ lực của chính quyền Sài Gòn được huy động vào bình định, nên Mỹ gọi đây là “cuộc tổng tấn công” nhằm “tiêu diệt du kích”, “nhổ tận gốc cộng sản, đánh bật Việt cộng ra khỏi xóm làng”, “lập hệ thống an ninh nghiêm ngặt 100%”. Khẩu hiệu của địch đề ra trong cuộc “tổng tiến công” này là “bành trướng kiểm soát toàn bộ lãnh thổ quốc gia”, “diệt trừ tất cả cán bộ hạ tầng cơ sở của cộng sản”.

Như vậy, cuộc đấu tranh chống phá địch bình định của nhân dân ta diễn ra trên quy mô rộng lớn ở hầu hết vùng nông thôn đông dân và với tính chất rất ác liệt. Đây là một trong những thử thách quyết tâm, sức mạnh, ý chí của quân và dân ta ở miền Nam trong những năm đầu địch tiến hành Việt Nam hoá chiến tranh.

Thứ hai, cuộc chiến tranh giành dân rộng lớn ở miền Nam mà Mỹ và chính quyền Sài Gòn triển khai giờ đây không chỉ gồm những cuộc bao vây, càn quét, bắt bớ, đốt nhà, dồn dân như thời kỳ chiến tranh đặc biệt, mà còn là việc biến những vùng nông thôn trù phú, đông dân thành những “vùng bắn phá tự do”, buộc những người nông dân phải rời bỏ xóm làng ruộng vườn, quê cha đất tổ vào các ấp tân sinh, ấp đời mới, vào các khu dinh điền sống dưới sự kiểm soát chặt chẽ của bọn ác ôn. Âm mưu của Mỹ và chính quyền Sài Gòn là tàn phá các vùng đông dân, uy hiếp dữ dội tinh thần nhân dân để tạo nên một cuộc di cư ồ ạt từ nông thôn ra thành thị hoặc buộc người nông dân miền Nam phải vào các ấp đời mới, ấp tân sinh để tách dân chúng khỏi cơ sở của cách mạng theo phương châm cổ điển “tát nước, bắt cá”. Về điểm này, một học giả người Mỹ Nôam Chômxky (Noam Chomsky) nhận xét: “Điều rõ ràng là chừng nào một đời sống xã hội có tổ chức còn có thể duy trì được ở Nam Việt Nam thì chừng đó Mặt trận dân tộc giải phóng còn là một lực lượng mạnh, còn chiếm ưu thế”, cho nên “tàn sát nhân dân ở nông thôn Việt Nam và buộc họ phải ly tán không phải là một sản phẩm ngẫu nhiên của chiến tranh, nó thuộc vào nội dung chiến lược của Mỹ”2.

Thứ ba, địch lập ra các ấp tân sinh, ấp đời mới lớn thay cho các làng xã đã bị bom đạn Mỹ huỷ diệt, rồi dồn dân vào đó. Của cải, nhà cửa của người nông dân miền Nam bị cướp, bị đốt; vườn tược, mồ mả ông bà bị bom đào xới và máy xúc san ủi. Nhân dân bị dồn vào ấp chiến lược, khu dồn với hai bàn tay trắng, sống bằng gạo cứu tế từng ngày một của Mỹ. Đây thực sự là một loại trại giam khổng lồ mà ở đó, Mỹ và chính quyền Sài Gòn dễ dàng bóc lột sức lao động của người dân để phục vụ chính sách Việt Nam hoá và cũng dễ dàng bắt lính đôn quân.

Vừa càn quét, đánh phá triệt hạ xóm làng, dồn dân vào các ấp tân sinh, ấp đời mới, Mỹ, ngụy vừa triển khai chương trình cấp phân bón, thuốc trừ sâu, giống lúa mới cho nông dân sản xuất; xây trạm y tế, trường học; mở mang đường sá, chợ búa ở nông thôn, cố tạo ra sự đối lập về cuộc sống giữa vùng chúng kiểm soát với vùng của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, hòng thu hút đồng bào ở vùng giải phóng chạy sang vùng địch. Nhưng, trên thực tế cuộc sống của đồng bào ta trong các khu dồn, các ấp tân sinh vô cùng khốn khổ, mất hết quyền tự do, phải sống nhờ của bố thí mà Mỹ, ngụy cấp cho từng ngày một.
______________________________________
1. Theo Trần Văn Giàu: Miền Nam giữ vững thành đồng, Nxb. Khoa học xã hội. Hà Nội, 1978, t.5, tr. 408, 409.
2. Dẫn theo Trần Văn Giàu: Miền Nam giữ vững thành đồng, Sđd, t.5, tr. 406,407.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #11 vào lúc: 27 Tháng Tư, 2010, 06:25:43 pm »


Mặc dù đế quốc Mỹ buộc phải ngừng ném bom và mọi hành động quân sự khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, song chúng vẫn thường xuyên dùng máy bay trinh sát do thám và khiêu khích miền Bắc Việt Nam, đồng thời tăng cường ném bom, bắn phá vùng giới tuyến quân sự tạm thời, đặc biệt là đường mòn Hồ Chí Minh. Trong hai năm 1969, 1970, máy bay Mỹ đã ném xuống chiến trường Đông Dương năm triệu tấn bom, trong số đó chủ yếu là ở Việt Nam, gấp đôi số lượng bom các nước đồng minh đã thả xuống châu Âu trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Chỉ tính riêng năm tháng đầu của năm 1970, máy bay Mỹ đã ném xuống các vùng giải phóng miền Nam và đường mòn Hồ Chí Minh hơn 600.000 tấn bom, bằng xấp xỉ số bom Mỹ đã thả trong cuộc chiến tranh Triều Tiên. Tiếp đó, tổng số bom Mỹ thả xuống Việt Nam trung bình 1.400.000 tấn mỗi năm. Những năm 1970, 1971, bầu trời Việt Nam không lúc nào ngớt tiếng gầm rú của các loại máy bay trinh sát, máy bay phản lực tiềm kích, máy bay trực thăng và máy bay B52 của Mỹ quần lượn, do thám, chỉ điểm, ném bom bắn phá và tung biệt kích, thám báo xuống phá hoại các vùng căn cứ, vùng giải phóng. Máy bay B52 thường xuyên ném bom rải thảm các vùng Mỹ cho là “tự do bắn phá”, các khu vực chúng tình nghi lực lượng ta tập kết, đường chiến lược Trường Sơn. Chúng ném xuống miền Nam và đường Trường Sơn những loại bom phát quang, bom đào, bom mảnh sát thương, bom na pan và các loại “bom thông minh” được điều khiển bằng tia lade và tín hiệu vô tuyến truyền hình. Cũng vào những năm này, phía Mỹ còn tiến hành cuộc chiến tranh hoá học hết sức tàn bạo, dã man. Cuộc chiến này thực ra được xúc tiến từ thời Kennơđi, nấp dưới màn che lừa bịp dư luận, là chúng chỉ dùng “chất diệt cỏ”. Không quân Mỹ đã trút xuống các cánh đồng lúa, làng mạc và rừng núi Nam Việt Nam, nhất là núi rừng Trường Sơn, hàng triệu thùng chất độc hoá học “diệt cỏ”. Thực chất “chất diệt cỏ” là chất độc vô cùng nguy hiểm, tác dụng của nó đối với người và gia súc không có thứ phản độc tố nào có thể chữa trị được. Trong thời kỳ tiến hành chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh, Níchxơn đã thả xuống miền Nam Việt Nam 72 triệu lít chất độc hoá học, trong đó có 62% chất độc da cam, làm hơn 2 triệu km2 rừng và biết bao làng mạc, ruộng vườn bị phá huỷ. Ở một mức tàn ác hơn, chất độc hoá học của Mỹ đã gây tai hại cho sản xuất và đời sống nhân dân miền Nam, phá huỷ môi trường sinh thái và để lại những di chứng nặng nề cho con người là nạn đói, bệnh tật, các quái thai trong nhiều năm sau không thể khắc phục được. Đó là một cuộc chiến tranh diệt chủng, huỷ hoại môi trường sống, một tội ác ghê rợn vô nhân đạo nhất mà Mỹ đã tiến hành ở Việt Nam. Bộ Quốc phòng và Cục tình báo Trung ương Mỹ còn mở các chiến dịch “chiến tranh khí tượng học” gây mưa nhân tạo trên vùng rừng núi Trường Sơn, làm cho nước sông, suối dâng cao, chảy xiết, đồi núi sụt lở, đường trơn lầy lội quanh năm, ngăn cản ta vận chuyển vật chất, vũ khí vào chiến trường, hạn chế quân ta di chuyển... Mỹ cũng đã dùng các chất hóa học đặc biệt rắc vào mây, tạo ra những trận mưa a- xít làm hư hỏng vũ khí và phương tiện chiến đấu của ta. Theo báo cáo ngày 20-5-1974 của Bộ trưởng quốc phòng Mỹ lên Uỷ ban đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ về chương trình hoạt động chiến tranh khí tượng gây mưa nhân tạo trên đường mòn Hồ Chí Minh thì trong bảy năm chi phí cho chương trình này là 26,6 triệu đôla.

Dồn sức mở các cuộc chiến tranh không quân, chiến tranh hoá học, chiến tranh khí tượng cùng với việc thiết lập chiến trường điện tử ở Nam Việt Nam, phía Mỹ hy vọng rằng, bằng cách đó, sẽ nâng đỡ tinh thần, gây niềm tin cho quân lực Việt Nam Công hòa, hỗ trợ được phần nào cho chúng tiến hành các cuộc hành quân càn quét, hành quân bình định. Bằng việc xây dựng chiến trường điện tử tự động hoá, tiến hành cuộc chiến tranh vũ khí công nghệ cao theo hướng cuộc “chiến tranh tăng cường tư bản”, đế quốc Mỹ gây cho ta không ít khó khăn trong năm đầu chống “Việt Nam hóa chiến tranh” - nhất là khó khăn về tiếp tế hậu cần. Song, những vũ khí ấy, chiến trường điện tử tự động ấy không làm suy giảm được ý chí quyết tâm của nhân dân và lực lượng vũ trang ta giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới thống nhất Tổ quốc. Bởi vì như Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói, “cuộc chiến tranh này không phải chỉ là sự đối chọi giữa những thiết bị tối tân nhiều hay tối tân ít. Nó còn là sự đối chọi giữa những khối óc. Mỹ đã huy động những trí tuệ thông thái nhất, những nhân vật có năng lực nhất trong quân đội, trong bộ máy hành chính và các trường đại học. Họ hẳn có những bộ óc rất cừ, nhưng những bộ óc đó không được sử dụng tốt bởi vì bị đưa vào một cuộc chiến tranh mà người ta thấy trước là họ sẽ thua. Họ đã dựng lên một bộ máy hùng mạnh, nhưng bộ máy ấy thế nào cũng thất bại. Và, ở Mỹ có những khối óc khác đang tố cáo cuộc chiến tranh này, tố cáo những mục tiêu và phương pháp tiến hành cuộc chiến tranh này.

Mỹ đã tiến hành cuộc chiến tranh này với tất cả những phương tiện khoa học mà họ có thể có trong tay. Nhưng với phương tiện mà chúng tôi có, chúng tôi tiến hành cuộc chiến tranh này một cách khoa học, ngay cả khi trang bị của chúng tôi chỉ ở mức trung bình. Cố nhiên chúng tôi không có ý hạn chế chúng tôi trong việc sử dụng những vũ khí hiện đại mà chúng tôi có thể có được nhưng không phải chỉ cần có trong tay những phương tiện tiên tiến về kỹ thuật là đủ để cho chiến tranh được tiến hành một cách khoa học. Nhận thức của chúng tôi về chiến tranh là khoa học bởi vì chúng tôi chiến đấu trên mảnh đất của chúng tôi, vì những mục tiêu của chính chúng tôi và những phương pháp của riêng chúng tôi. Vì lẽ đó mà mặc dù có cả một bộ máy khoa học, kẻ địch đã bị thua chạy. Chính chúng tôi là những người nắm quyền chủ động”1.
______________________________________
1. Trả lời phỏng vấn nhà báo Pháp Cờlốt Guyliêng (Claude Julien) của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ngày 18-5-1972.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #12 vào lúc: 27 Tháng Tư, 2010, 06:27:23 pm »


Song song với việc thực hiện kế hoạch Việt Nam hoá chiến tranh ở miền Nam Việt Nam duy trì các hoạt động do thám, khiêu khích miền Bắc, đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương thi hành chính sách Khơme hoá, Lào hoá chiến tranh. Âm mưu của đế quốc Mỹ là xoá bỏ “đất thánh của Việt cộng” ở Campuchia, đưa nước này đi vào quỹ đạo của Mỹ; thu hẹp vùng giải phóng của cách mạng Lào, uy hiếp sườn phía tây miền Bắc xã hội chủ nghĩa; ngăn chặn sự chi viện của hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến lớn miền Nam, cô lập cách mạng miền Nam. Mở rộng chiến tranh sang Campuchia và Lào, đế quốc Mỹ đã làm cho ta bị động lúng túng trong năm đầu Việt Nam hoá chiến tranh, nhưng đây lại cũng chính là một sai lầm lớn về chiến lược của Mỹ.

Do sai lầm về chiến lược, lực lượng Mỹ và quân đội Sài Gòn bị phân tán trên chiến trường ba nước Đông Dương, nên cho dù quân chủ lực Sài Gòn có được tăng cường và hiện đại hoá, thì kế hoạch bình định của địch trong hai năm đầu Việt Nam hoá trên thực tế đã sụp đổ. Đến năm 1970, Mỹ và chính quyền Sài Gòn dù đã nỗ lực tối đa, huy động tất cả lực lượng và phương tiện để thực hiện cho được kế hoạch bình định đã đề ra, nhưng cho đến thời điểm đó, chúng cũng chỉ mới lập được 72 ấp tân sinh, ấp đời mới.

Từ giữa năm 1970 đến đầu năm 1972, kết hợp với hành động phiêu lưu quân sự mở rộng chiến tranh xâm lược sang Campuchia, Lào, Mỹ và chính quyền Sài Gòn tiến hành bình định đặc biệt và chương trình cộng đồng tự vệ, phát triển nông thôn, nhằm tiếp tục thực hiện những mục tiêu mà chương trình bình định cấp tốc trước đây chưa làm được, đồng thời chuẩn bị trước một bước cho chính quyền Sài Gòn đủ sức chống đỡ các đòn tiến công của cách mạng miền Nam, khi Mỹ buộc phải chấp nhận một giải pháp chính trị cho vấn đề miền Nam Việt Nam.

Địch đề ra mục tiêu cho chương trình bình định này phải đạt: một là, xây dựng, phát triển lực lượng địa phương quân (bảo an), nghĩa quân (dân vệ) mạnh, có khả hoạt động trên địa bàn rộng, bảo đảm an ninh lãnh thổ và có thể thay chân quân chủ lực ở một số vùng ngoài phạm vi đảm trách của quân địa phương; hai là, mở rộng lực lượng cảnh sát, tổ chức cho mỗi xã có từ 6 đến 12 cảnh sát vũ trang để phát hiện và diệt trừ cán bộ và cơ sở cách mạng ở nông thôn; ba là, bắt nhân dân trong vùng chúng kiểm soát vào lực lượng phòng vệ dân sự, phát súng cho lực lượng này chống lại cách mạng dưới sự giám sát, kìm kẹp của cảnh sát; bốn là, dùng vật chất mua chuộc, lung lạc cán bộ cách mạng; năm là, ra sức tuyên truyền đầu độc nhân dân “tinh thần chống cộng” “quốc gia dân tộc”; sáu là, xoa dịu lòng căm phẫn trong thương phế binh ngụy bằng cách hứa “cải thiện đời sống” cho họ; bảy là, củng cố bộ máy hành chính xã ấp, tận thu các sắc thuế địa phương để tăng thêm chi phí chiến tranh đỡ bớt gánh nặng cho Mỹ; tám là, tuyên truyền “chuẩn bị kế hoạch phát triển kinh tế” để che giấu “bức tranh kinh tế đen tối” ở vùng Mỹ, Sài Gòn tạm thời kiểm soát để lừa bịp nhân dân.

Điểm khác giữa bình định đặc biệt và chương trình cộng đồng tự vệ, phát triển nông thôn với bình định cấp tốc là, trước đây địch sử dụng hơn 70% quân chủ lực vào bình định nhưng nay, do việc quân chủ lực phải thay thế quân Mỹ, nên bình định chủ yếu do lực lượng địa phương quân (bảo an), nghĩa quân (dân vệ) đảm nhiệm. Quân địa phương không đủ sức chống đỡ trước những đòn tiến công, phản công của lực lượng vũ trang giải phóng và quần chúng cách mạng, nên kế hoạch bình định đặc biệt dự định thực hiện trong bốn tháng, đến tháng 10-1970 kết thúc nhưng trên thực tế, Mỹ phải kéo dài thêm bốn tháng nữa bằng kế hoạch bình định bổ túc và kế hoạch này kết thúc vào tháng 2-1971. Trong khi đó, bị thất bại về quân sự, quân chủ lực ngụy Nam Việt Nam ngày càng sa sút ý chí chiến đấu và điều đó đã tác động xấu đến tinh thần của quân địa phương, làm cho kế hoạch bình định đặc biệt, bình định bổ túc thất bại. Tám mục tiêu mà Mỹ và chính quyền Sài Gòn đặt ra cho chương trình bình định năm 1970, 1971, không có một mục tiêu nào đạt được. Trước tình hình bình định ngày càng tụt dốc, Việt Nam hoá chiến tranh không tiến triển mà hơn thế, đang đứng trước nguy cơ có thể phá sản, trong một cố gắng nhằm cứu vãn tình thế, đế quốc Mỹ quyết định chi hơn một tỉ đôla cho chương trình “bình định và phát triển mới” mang tên “Chương trình cộng đồng tự vệ và phát triển nông thôn” do Bộ Quốc phòng Mỹ và Cục Tình báo Trung ương Mỹ đảm nhiệm chính. Chương trình này phát triển, củng cố phòng vệ dân sự; lập một “hệ thống thông tin đại chúng” - mà thực nhất là tổ chức một mạng lưới tình báo, gián điệp, chiến tranh tâm lý; lùng diệt cán bộ kháng chiến và quần chúng cách mạng ở cơ sở để bảo đảm an toàn cho lực lượng tề điệp ác ôn, địa phương quân và cán bộ bình định.

Để thực hiện được các mục đích bình định trên đây, Mỹ và chính quyền Sài Gòn kết hợp quân sự với chính trị, kinh tế và văn hoá với những thủ đoạn tàn bạo, nham hiểm đánh vào lực lượng cách mạng và quần chúng nhân dân nông thôn.

Về quân sự, địch sử dụng lực lượng địa phương quân, nghĩa quân và cảnh sát làm lực lượng chủ yếu, trực tiếp tiến hành bình định. Quân chủ lực Sài Gòn kết hợp với một phần quân địa phương mở liên tiếp các cuộc hành quân quy mô từ tiểu đoàn đến sư đoàn càn quét đánh phá vòng ngoài hỗ trợ cho các đoàn, đội bình định dồn dân vào các ấp tân sinh đời mới. Hệ thống đồn bốt dày đặc cũng được thiết lập, củng cố và tăng cường để khống chế nhân dân.

Về chính trị, Mỹ, ngụy ra sức tuyên truyền, cổ suý cho tinh thần “quốc gia, dân tộc”, tô vẽ cho “nền đệ nhị cộng hoà” của Thiệu, xuyên tạc mục tiêu, ý nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, ráo riết tăng cường chiến tranh tâm lý, chiêu hàng, chiêu hồi, ép thanh niên vào các tổ chức phản động của chúng.

Về kinh tế, địch dùng các phương tiện và kỹ thuật (kể cả chất độc) phá hoại mùa màng, triệt đường sống của nhân dân, đồng thời với “cải cách điền địa” tịch thu ruộng đất của nông dân lương thiện đem chia cho những người trong quân đội, chính quyền Sài Gòn chống lại Tổ quốc, dân tộc, làm xáo động nông thôn. Mặt khác, Mỹ tìm cách mị dân bằng đưa máy móc, phương tiện sản xuất về các ấp tân sinh cho nông dân trong ấp vay tiền, giống cây trồng để sản xuất.

Dưới sự chỉ đạo chỉ huy trực tiếp của Bộ Quốc phòng và Cục Tình báo Trung ương Mỹ, gần như toàn bộ các hoạt động quân sự chính trị của Mỹ và chính quyền, quân đội Sài Gòn giờ đây đều tập trung vào công tác dồn dân, lập ấp chiến lược. Ở nhiều vùng nông thôn đồng bằng, địch dựng hàng vạn đồn bốt, tháp canh, tăng thêm binh lính trực tiếp làm nhiệm vụ kìm kẹp, khống chế dân chúng, đạt đến tỷ lệ cứ bảy người dân (kể cả già trẻ, lớn nhỏ) có một lính ngụy. Mặc dù kẻ địch đã nỗ lực tối đa thực thi chính sách “Việt Nam hoá”, huy động toàn lực vào nhiệm vụ bình định để giành dân giành quyền làm chủ với ta, nhưng kết quả trên cách lĩnh vực đạt được chẳng là bao. Về quân sự, quân số lực lượng vũ trang Việt Nam Công hòa được tăng lên về số lượng đông, được trang bị hiện đại và được huấn luyện kỹ để lãnh vai trò thay thế quân Mỹ, nhưng tinh thần của đội quân này đang ngày càng sa sút, ý chí chiến đấu thấp kém chẳng những không thay thế được quân Mỹ trong nhiệm vụ đương đầu với Quân giải phóng miền Nam, mà còn bị thiệt hại nặng trên các chiến trường, không hỗ trợ được cho quân địa phương trong nhiệm vụ bình định như tính toán ban đầu của Mỹ. Những chương trình phát triển kinh tế trong khuôn khổ Việt Nam hoá chỉ đạt những kết quả rất hạn chế vì những trận ném bom, bắn pháo bừa bãi vào xóm làng, ruộng đồng, vì những cuộc hành quân càn quét, vây ráp, dồn dân của quân ngụy diễn ra liên miên. Trong những điều kiện đó, để lấp vào chỗ trống thiếu hụt của nền kinh tế Nam Việt Nam, hàng hoá Mỹ nhập vào miền Nam ngày càng nhiều, biến miền Nam thành một thị trường tiêu thụ hàng Mỹ. Mặt khác, Hoa Kỳ nhận lãnh trách nhiệm cung ứng hậu cần cho quân đội Sài Gòn. Kết quả là kinh tế Nam Việt Nam vốn phụ thuộc nặng nề vào viện trợ của Mỹ nay càng phụ thuộc thêm và điều đó khiến cho vốn là một vựa lúa lớn ở vùng Đông Nam Á đã không còn tự cung, tự cấp được nữa. Một nền kinh tế lệ thuộc Mỹ cộng với một chế độ phản nước, hại dân, khiến cho chính quyền Sài Gòn, mặc dù tìm mọi cách tuyên truyền cho cái “tinh thần quốc gia, dân tộc” vẫn không thể nào lường gạt được, tranh thủ được “trái tim, khối óc” của nhân dân miền Nam. Chính quyền Sài Gòn bị nhân dân miền Nam và nhân dân tiến bộ thế giới coi là chướng ngại ngăn cản hoà bình, hoà hợp dân tộc, một công cụ phục vụ đắc lực cho cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới của Mỹ. Về “Việt Nam hoá chiến tranh”, Bộ Quốc phòng Mỹ nhận xét, “Mục tiêu của Mỹ nhằm tăng cường các lực lượng quân sự Việt Nam Công hòa và khả năng đẩy lùi kẻ địch thông qua chương trình Việt Nam hoá, cuối cùng đã bị thất bại, vì quân đội Việt Nam Công hòa ngày càng phụ thuộc vào viện trợ quân sự và giúp đỡ kỹ thuật của Mỹ”; “Những cố gắng ban đầu của chính phủ Việt Nam Công hòa nhằm định ra chương trình bình định và phát triển nông thôn đã thất bại, vì đó là những chương trình đầu đuôi lẫn lộn được vạch ra một cách vụng về”1


*
*   *


Ngày 20-1-1969, bước vào Nhà Trắng làm Tổng thống nước Mỹ nhiệm kỳ 1969-1972, Níchxơn tuyên bố trước dân chúng Mỹ là sẽ chấm dứt chiến tranh Việt Nam trong vòng sáu tháng với sự cộng tác của người Nam Việt Nam (ngụy Sài Gòn) bằng việc thực hiện chính sách Việt Nam hoá. Việt Nam hoá chiến tranh bắt đầu được triển khai từ tháng 3-1969, với việc Mỹ điều chỉnh kế hoạch phi Mỹ hoá của Giônxơn, đồng thời với việc tăng cường, hiện đại hoá dần quân đội Việt Nam Công hòa và xúc tiến bình định cấp tốc. Một năm sau đó đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh xâm lược ra toàn cõi Đông Dương, đẩy mạnh chương trình bình định phát triển nông thôn. Địch đã sử dụng không quân, pháo binh đánh phá ác liệt các vùng căn cứ, vùng giải phóng cách mạng và hành lang chiến lược Bắc - Nam, ngăn chặn tiếp tế vận chuyển của ta trên đường mòn Hồ Chí Minh, hòng cô lập cách mạng - miền Nam, hỗ trợ cho kế hoạch bình định. Qua hai năm đầu thực thi chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh, kế hoạch bình định gom dân, lập ấp chiến lược được Mỹ, ngụy xác định là xương sống của Việt Nam hoá đã bị thất bại nặng nề, những mục tiêu chúng đề ra không có mục tiêu nào đạt được, ngoại trừ mục tiêu hiện đại hoá quân ngụy. Đó là một thất bại có ý nghĩa chiến lược, thất bại này sẽ đẩy Mỹ và chính quyền Việt Nam Công hòa vào thế bị động, lúng túng hơn nữa trong chủ trương và điều hành thực hiện chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh. Chính Bộ Quốc phòng Mỹ cũng đã thừa nhận “trong thời kỳ này, Chính phủ Việt Nam Công hòa đã không dập tắt được phong trào cộng sản và không khắc phục được những điểm yếu căn bản về chính trị của bản thân nó. Sau đó, những cố gắng của Mỹ nhằm giúp đỡ các chương trình bình định của Chính phủ Việt Nam Công hòa lại phạm phải những sai lầm:

- Dựa vào các phương pháp, trang bị và huấn luyện chính quy;

- Các phương hướng phát triển không thực tiễn và không phù hợp về mặt văn hoá;

- Không đề ra được những chương trình thích hợp về mặt quan niệm.

- Biện pháp gây sức ép với Việt Nam Công hòa (chính quyền Thiệu) không đủ mạnh và không có hiệu quả”2.

Các sai lầm đó của phía Mỹ, cộng với sự đánh trả ngoan cường và khôn khéo của đối phương, sẽ là những nhân tố có ý nghĩa quyết định làm thất bại chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh của Níchxơn. Trong trường hợp này, “Mỹ phải tìm cách cho nó (chính quyền và quân đội Sài Gòn) không tan rã trong một thời gian nào đó đủ để cho Mỹ rút lui lực lượng của Mỹ và để thuyết phục thế giới chấp nhận tính độc nhất vô nhị (và sự tuyệt vọng có tính chất bẩm sinh) của vấn đề Nam Việt Nam”3.
______________________________________
1. Tóm tắt Tổng kết chiến tranh Việt Nam của Bộ Quốc phòng Mỹ, bản đánh máy, lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, t.5, tr. 12, 14.
2. Tóm tắt Tổng kết chiến tranh Việt Nam của Bộ Quốc phòng Mỹ, Tlđd, tr. 12, 13.
3. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ, Bản dịch của Việt Nam Thông tấn xã, t.2, tr. 54.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #13 vào lúc: 28 Tháng Tư, 2010, 09:09:21 pm »


CHƯƠNG 24
CÁCH MẠNG MIỀN NAM VƯỢT QUA THỬ THÁCH MỚI,
KHÔI PHỤC TỪNG BƯỚC LỰC LƯỢNG VÀ THẾ TRẬN,
GIÀNH VÀ GIỮ THẾ CHỦ ĐỘNG TRÊN CHIẾN TRƯỜNG


I- MIỀN NAM SAU TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY 1968,
CHỦ TRƯƠNG CHIẾN LƯỢC CỦA ĐẢNG TA

Bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 mà hướng chính là nhằm vào các cơ quan đầu não của Mỹ, của chính quyền và quân đội Sài Gòn ở một loạt các thành phố, thị xã và hầu khắp các vùng nông thôn rộng lớn toàn miền Nam, đồng thời đẩy mạnh tiến công thu hút, giam chân và tiêu hao một bộ phận quan trọng sinh lực, vũ khí và phương tiện chiến tranh của Mỹ ở Khe Sanh1 quân và dân ta ở miền Nam đã giáng một đòn bất ngờ lớn vào cố gắng chiến tranh của phía Mỹ và đẩy cả Mỹ lẫn chính quyền Sài Gòn vào tình thế lúng túng và bị động về chiến lược. Ngày 31-3-1968, L.Giônxơn thông báo quyết định đơn phương ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, nhận đàm phán với ta tại Pari và tuyên bố không ra tranh cử Tổng thống nhiệm kỳ hai. Tiếp đó, ngày 1- 11-1968, đế quốc Mỹ phải tuyên bố xuống thang chiến tranh, chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, rút dần quân chiến đấu Mỹ và quân các nước đồng minh ra khỏi miền Nam. Có thể coi đây là việc thừa nhận công khai sự phá sản của chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ.

Tuy nhiên, qua các đợt tiến công và nổi dậy năm 1968, cả thế và lực của ta cũng bị những tổn thất nghiêm trọng: lực lượng vũ trang nói chung, lực lượng đặc công, biệt động nói riêng bị thiệt hại nặng nề; lực lượng chính trị của quần chúng (bao gồm cả bộ phận công khai, bí mật và bộ phận hợp pháp, không hợp pháp) bị địch phát hiện và thẳng tay đàn áp; nhiều chi bộ, cấp uỷ và đoàn thể quần chúng cách mạng ở vùng địch tạm chiếm, vùng tranh chấp bị tan vỡ; các vùng giải phóng rộng lớn ở nông thôn cũng bị thu hẹp dần. Thế trận chiến tranh nhân dân trên ba vùng chiến lược bị suy giảm. Mất dần bàn đạp tiến công, chỗ đứng chân cũng bị thu hẹp dần, nhiều đơn vị lực lượng vũ trang địa phương cũng như chủ lực, các cơ quan lãnh đạo và chỉ huy các mặt trận, các địa phương phải cơ động lên biên giới hay sang đất bạn tạm trú đóng quân, xốc lại đội hình, bổ sung người và vũ khí để tiếp tục chiến đấu. Riêng ở mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị - địa bàn ta tập trung nhiều đơn vị bộ đội chủ lực mạnh, thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ thu hút và giam chân một bộ phận lớn lực lượng cơ động chiến lược của Mỹ, tạo điều kiện cho các địa phương toàn miền thực hiện Tổng tiến công và nổi dậy, năm 1968 đã có 10.779 cán bộ, chiến sĩ ta hy sinh và bị thương...2. Nguyên nhân của tình trạng trên trước hết là do ta “... chủ quan trong việc đánh giá tình hình, cho nên ta đã đề ra yêu cầu chưa thật sát với tình hình thực tế3. Mặt khác, sau đợt Tổng tiến công Tết, ta không kịp thời rút kinh nghiệm, chậm chuyển hướng và không thấy hết được những âm mưu và thủ đoạn mới của địch; trong khi chủ lực ta bị đẩy ra xa các thành phố, thị xã, các bàn đạp tiến công bị mất, lực lượng, vũ khí và trang bị kỹ thuật, lương thực, thực phẩm và thuốc men bị tiêu hao nhiều mà chưa được bổ sung, sức chiến đấu của bộ đội giảm sút. Cho đến những tháng cuối năm 1968 và đầu năm 1969, cuộc Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta ở miền Nam đứng trước một tình thế đầy thử thách phức tạp và chồng chất khó khăn.

Về phía địch, mặc dù bị giáng một đòn quyết định, ý chí xâm lược suy giảm buộc phải đơn phương xuống thang chiến tranh, song với bản chất hiếu chiến và ngoan cố, Mỹ vẫn khẩn trương tăng cường sức mạnh quân sự để tiếp tục bám giữ miền Nam Việt Nam, giành thế mạnh chiến trường để ép ta trên bàn hội nghị. Chúng ra sức bắt lính đôn quân khẩn trương hiện đại hoá vũ khí và trang bị cho quân đội Sài Gòn. So với năm 1968, năm 1969, riêng quân chủ lực tăng từ 281.000 lên 300.000, lực lượng bảo an từ 110.000 lên 125.000, dân vệ từ 96.000 lên 105.000, phòng vệ dân sự có vũ trang từ 485.000 lên 1.000.000 và cảnh sát từ 69.000 lên 80.000 tên. Trong khi đó, việc rút dần quân Mỹ ra khỏi miền Nam dù không muốn, nhưng là xu thế mà chính quyền Níchxơn không cưỡng lại được. Chính vì thế, số lượng quân chiến đấu Mỹ năm 1969 có giảm so với năm 1968, từ 535.000 xuống còn 470.0004. Cùng với quá trình này, một số lượng lớn vũ khí, phương tiện chiến tranh vẫn được Mỹ đưa vào miền Nam nhằm tăng cường sức mạnh chiến đấu cho quân đội Sài Gòn. Đây là biện pháp chiến lược nhằm đảm bảo cho Mỹ nhanh chóng chuyển gánh nặng chiến tranh sang vai chính quyền và quân đội Sài Gòn để từng bước rút quân chiến đấu Mỹ ra khỏi cuộc chiến mà vẫn giữ được thể diện và danh dự cho nước Mỹ.
______________________________________
1. Theo thú nhận của địch, chỉ sáu tháng đầu năm 1968, chúng đã bị loại khỏi vòng chiến đấu 101.400 quân các loại, trong đó có 9.301 quân Mỹ và đồng minh của Mỹ cùng với hàng trăm máy bay, hàng ngàn xe quân sự và vũ khí, phương tiện chiến tranh bị phá huỷ, phá hỏng...
2. Bộ chỉ huy mặt trận B5, Báo cáo tình hình năm 1968 trên chiến trường đường 9 - Khe Sanh, tài liệu lưu trữ Bộ Quốc phòng (K4), phông 102, hồ sơ 64.
3. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Nghị quyết hội nghị lần thứ 21, ngày 13-10-1973.
4. Ban Tổng kết - Lịch sử Bộ Tổng tham mưu: Thống kê số liệu chiến tranh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975), tr.32.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #14 vào lúc: 28 Tháng Tư, 2010, 09:11:39 pm »


Khai thác triệt để những khó khăn của cách mạng miền Nam từ giữa năm 1968 và tiếp đó, bước vào năm 1969, địch tập trung một bộ phận lực lượng và phương tiện chiến tranh liên tiếp mở các cuộc phản công quyết liệt nhằm tiêu diệt và đẩy lực lượng vũ trang, lùng sục, triệt phá các cơ sở bí mật của ta ở thành phố, thị xã, thị trấn, đẩy mạnh tốc độ và quy mô các cuộc hành quân càn quét chiếm đất, giành dân mở rộng địa bàn chiếm đóng ở các vùng nông thôn; đồng thời, điều một số đơn vị về phòng thủ các thành phố, thị xã, các địa bàn chiến lược trọng yếu. Đặc biệt, đối với vòng ngoài, các đơn vị quân Mỹ và ngụy tổ chức các cuộc hành quân ngăn chặn các đơn vị ta rút ra khỏi thành phố, thị xã, kết hợp mở những trận đột kích sâu vào các căn cứ, các khu vực kho tàng, bến bãi hành lang tiếp tế và ngăn chặn quyết liệt tuyến vận tải chiến lược 559 của ta... Hầu hết các đơn vị cơ động chiến lược của địch giờ đây được tung vào các cuộc phản công tại các địa bàn trọng điểm. Trên chiến trường Nam Bộ, Sư đoàn 1 kỵ binh cơ động đường không, Sư đoàn 101 dù, Sư đoàn 25 bộ binh cơ giới, Trung đoàn 11 thiết giáp quân viễn chinh Mỹ luân phiên hành quân đánh dọc theo hành lang biên giới Việt Nam - Campuchia; Sư đoàn 21 bộ binh và Liên đoàn 4 biệt động Sài Gòn chốt chặn tuyến biên giới từ Kiến Tường đến kênh Vĩnh Tế. Tại chiến trường Khu V, Sư đoàn 1 lính thuỷ đánh bộ, Sư đoàn 23 bộ binh (Amêricơn), Lữ đoàn 173 dù Mỹ cùng Sư đoàn Mãnh Hổ, Sư đoàn Bạch Mã quân Nam Triều Tiên đánh vào các căn cứ Giang Rây (Quảng Đà), Giá Rai (Bình Tuy - nay là Bình Thuận), An Lão, Kim Sơn, Núi Bà (Bình Định), Cây Vững, Kỳ Lộ, Sông Hinh (Phú Yên). Ở Trị - Thiên, địch mở các cuộc hành quân càn quét lên vùng núi Côcava - Cô Tiên, Tam Tanh - A Giới (tây nam Quảng Trị), đánh vào thung lũng A Lưới, A Bia. Đông Pho, Tà Bạt... Trên chiến trường Tây Nguyên, địch tăng cường tuyến phòng thủ bắc Kon Tum, tây Gia Lai, tây Đắc Lắc...

Ngoài mục đích đẩy lùi, ngăn chặn, tiêu diệt lực lượng vũ trang, thu hẹp vùng giải phóng căn cứ, chỗ đứng chân của lực lượng vũ trang, các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy, phá cơ sở hậu cần, kho tàng, hành lang vận chuyển và các tổ chức mật của ta, các cuộc hành quân của quân Mỹ và đồng minh Mỹ còn được giao nhiệm vụ kết hợp với quân đội Sài gòn thực hiện chương trình “bình định”. Đầu năm 1969, Níchxơn triển khai kế hoạch “bình định và phát triển” ba giai đoạn1, nhằm giành giật vùng nông thôn đồng bằng, lập lại thế kìm kẹp ở những nơi bị mất trong các đợt tổng tiến công và nổi dậy của ta, thiết lập quyền kiểm soát trên những vùng địa bàn có tầm quan trọng chiến lược. Chỉ tiêu bình định mà Mỹ và chính quyền Sài Gòn đặt ra cho năm 1969 là phải tiêu diệt 30% trong tổng số 98.763 cán bộ cách mạng cơ sở của ta theo phát hiện của địch; đến giữa năm 1970 phải bảo đảm an ninh cho 60% lãnh thổ toàn miền Nam.

Để đạt được các chỉ tiêu trên đây, địch huy động từ 60 đến 70% đơn vị chủ lực (quân Mỹ, quân đồng minh và quân đội Sài Gòn) kết hợp chặt chẽ với lực lượng địa phương với các đội “cán bộ xây dựng nông thôn” vào làm nhiệm vụ “bình định”. Tuy nhiên, căn cứ vào thực tế phong trào đấu tranh của ta và vị trí chiến lược của từng vùng địa bàn cụ thể mà mức độ sử dụng lực lượng cũng như áp dụng các biện pháp và thủ đoạn bình định ở từng nơi có sự khác nhau:

- Càn quét, xúc dân vào các khu dồn, ủi phá toàn bộ nhà cửa, dùng chất độc hoá học huỷ diệt hoa màu, cây trái, tạo nên những vùng trắng đất, trắng dân.

- Hành quân càn quét quy mô lớn, “tảo thanh” địa bàn, diệt và bắt cán bộ đảng viên, du kích mật... kết hợp dồn dân vào các khu tập trung, xây dựng bộ máy tề điệp để khống chế, kìm kẹp nhân dân.

- Càn quét, dồn dân lập ấp chiến lược tại chỗ cùng với xây dựng các cứ điểm quân sự nhỏ để kiểm soát dân.

- Dùng máy bay, pháo binh đánh phá dai dẳng, liên tục nhiều ngày vào các khu vực dân cư thuộc vùng tranh chấp hay vùng giải phóng kết hợp với rải chất độc hoá học tàn phá mùa màng, buộc nhân dân phải chạy vào sống trong các khu dồn chuẩn bị sẵn của địch.

Cùng với việc liên tiếp triển khai các đợt bình định, quyết giành giật lại những vùng đã mất, xiết chặt quyền kiểm soát đối với những địa bàn có tầm quan trọng chiến lược, Mỹ và chính quyền Sài Gòn tập trung củng cố và hoàn thiện hệ thống cơ cấu tổ chức bộ máy chỉ đạo chương trình bình định từ trung ương đến tận cơ sở; khẩn trương phân loại địa bàn để sử dụng các lực lượng và áp dụng các biện pháp quản chế dân một cách thích hợp:

- Thứ nhất, đối với những vùng mà chúng đã kiểm soát hoàn toàn, chính quyền cơ sở địch đảm bảo việc điều hành các công việc hành chính, việc bảo đảm an ninh lấy lực lượng dân vệ làm nòng cốt, cảnh sát và bảo an là lực lượng hỗ trợ.

- Thứ hai, với những vùng đã thiết lập được quyền kiểm soát nhưng còn yếu, bên cạnh việc áp dụng những biện pháp như đối với loại thứ nhất, địch nhấn mạnh vai trò của cảnh sát dã chiến và lực lượng này được tăng cường hơn.

- Thứ ba, đối với những vùng tranh chấp, địch sử dụng lực lượng và các biện pháp quân sự là chủ yếu; trong đó, bảo an là nòng cốt, dân vệ trợ giúp và chủ lực hỗ trợ, nhằm vừa đối phó với các hoạt động của ta và bảo vệ chính quyền cơ sở của chúng.

Trên cơ sở sự phân loại đó, địch dồn sức mở các cuộc hành quân càn quét, hành quân bình định rất quyết liệt. Tại đồng bằng sông Cửu Long, chúng sử dụng ba sư đoàn chủ lực quân đội Sài Gòn, bốn lữ đoàn quân đội Mỹ, hàng chục ngàn cảnh sát, bảo an, dân vệ, phòng vệ dân sự, cán bộ bình định, liên tiếp mở các cuộc hành quân càn quét lớn, vừa và nhỏ chà đi xát lại từng xóm ấp, từng khu vực (trung bình mỗi tháng khoảng 427 cuộc) để thanh lọc địa bàn, dồn dân lập ấp chiến lược.
______________________________________
1. Giai đoạn 1: từ đầu năm 1969 đến tháng 6-1970, tiến hành bình định xây dựng.
    Giai đoạn 2: từ tháng 7-1970 đến tháng 6-1971, tiến hành bình định đặc biệt.
    Giai đoạn 3: từ tháng 7-1971 trở đi tiến hành bình định cộng đồng tự vệ và phát triển nông thôn.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #15 vào lúc: 28 Tháng Tư, 2010, 09:13:04 pm »


Ở vùng ven Sài Gòn, địch sử dụng tới 38 tiểu đoàn quân Mỹ, 67 tiểu đoàn quân đội Sài Gòn và bốn tiểu đoàn quân đội các nước đồng minh của Mỹ, tổ chức tuyến phòng thủ vành đai bảo vệ vòng ngoài, bịt các cửa ngõ ra vào thành phố. Ngoài ra, mỗi tháng địch còn tổ chức hơn 300 cuộc hành quân các loại, với quy mô cấp tiểu đoàn để tìm diệt lực lượng vũ trang cách mạng và hỗ trợ cho kế hoạch gom dân, lập ấp chiến lược.

Riêng trên địa bàn Khu V, do lực lượng quân Mỹ, đồng minh và quân Sài Gòn lên tới 389.000 tên, nên bên cạnh việc mở những cuộc hành quân quy mô lớn để ngăn chặn và đánh bật lực lượng chủ lực của ta ra xa các thành phố, thị xã, căn cứ…, địch còn sử dụng các đại đội, trung đội chủ lực trực tiếp xuống các địa phương hỗ trợ cho lực lượng bảo an, dân vệ hành quân càn quét, lùng sục từng xóm ấp, xăm từng khóm tre, mô đất bụi cây... nhằm phát hiện, tiêu diệt du kích và cơ sở mật của ta, kết hợp với khoanh dân, dồn dân lập ấp. Cùng với việc tổ chức các cuộc hành quân càn quét, địch sử dụng không quân, pháo binh liên tục tập kích hoả lực kết hợp với rải chất độc hoá học xuống các vùng ven đô thị - nơi chúng tình nghi là địa bàn đứng chân ém dấu lực lượng và vũ khí của chủ lực Quân giải phóng, chờ thời cơ tiến công vào các căn cứ quân sự của chúng ở trong nội đô. Do mật độ bom pháo đánh phá dữ dội của địch, nên hầu hết nhà cửa ruộng vườn, thôn ấp hoặc bị cày xới nham nhở, hoặc bị chất độc hoá học thiêu trụi, khiến nhiều vùng dân cư trù phú trở thành vùng trắng.

Đồng thời với sử dụng sức mạnh quân sự, địch đẩy mạnh hoạt động tình báo, gián điệp. Hệ thống tổ chức Phượng Hoàng, Thiên Nga được triển khai từ trung ương đến tận các địa phương, dưới sự chỉ đạo trực tiếp và chặt chẽ của Cục Tình báo trung ương Mỹ (CIA). Nhân viên của những tổ chức này tìm mọi cách len lỏi vào tận các hang cùng ngõ hẻm, các xóm ấp, thậm chí trá hình trà trộn vào dân chúng, các tổ chức xã hội... nhằm dò la, phát hiện và tiêu diệt các cơ sở mật của ta, dụ dỗ mua chuộc, thủ tiêu, ám sát, bắt cóc cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng... Bằng những thủ đoạn hoạt động này, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã gây cho cách mạng miền Nam rất nhiều tổn thất nghiêm trọng về cơ sở và lực lượng.

Trước sự đánh phá khốc liệt của kẻ thù cùng những thủ đoạn nham hiểm trong hoạt động tình báo, gián điệp của địch và những khó khăn gay gắt của cách mạng miền Nam, một bộ phận cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang, cán bộ và đảng viên các cơ sở ở địa phương lâm vào tình trạng hoang mang, dao động dẫn đến đào ngũ, bỏ ngũ; một số khác bị cám giỗ mua chuộc đã ra đầu hàng, đầu thú, chấp nhận làm tay sai cho địch. Tình hình đó càng làm cho phong trào đấu tranh của quân và dân trên toàn miền chẳng những không phát triển được, mà ngược lại ngày thêm sa sút; tình trạng mất đất, mất dân diễn ra ở nhiều nơi, vùng giải phóng và vùng tranh chấp dần bị thu hẹp. Tại tỉnh Trà Vinh, Vĩnh Long, từ 182 ấp giải phóng đầu năm 1968, đến giữa 1969 chỉ còn một ấp; vùng tranh chấp từ 192 ấp xuống còn 178 ấp. Ở Cà Mau, vùng giải phóng đầu 1968 chiếm quá một nửa diện tích, đến cuối năm 1969 chỉ còn 13 xã. Ở Kiến Phong, KiếnTường, An Giang, Mỹ Tho, vùng giải phóng của ta bị địch lấn chiếm gần hết. Riêng vùng căn cứ Đồng Tháp Mười và U Minh tuy ta vẫn giữ được, nhưng khoảng một nửa dân cư (phần lớn là ở vùng xung quanh căn cứ quân sự địch), do tình thế quá khó khăn phải tạm thời chấp nhận vào sống trong vùng địch kiểm soát để tránh sự đánh phá của chúng. Tại miền Đông Nam Bộ, địch lấn chiếm và kiểm soát hầu như toàn bộ các vùng nông thôn bao quanh thành phố Sài Gòn và các tỉnh Phướn Long, Bình Tuy. Ở Khu VI, phần lớn vùng đồng bằng thuộc các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận đã bị địch lấn chiếm và dồn dân vào các ấp chiến lược. Tại Khu V và Tây Nguyên, nhiều vùng giải phóng và căn cứ cách mạng của ta bị địch lấn chiếm, tái chiếm và thiết lập ách kìm kẹp; nhiều cán bộ, đảng viên ở cơ sở và lực lượng du kích mật của ta phải tạm thời rút lên căn cứ hoặc vùng giáp ranh để bảo toàn lực lượng, chờ thời cơ trở lại hoạt động.

Do mất dân, mất đất, nên lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam không những không duy trì được thế đứng chân, sức chiến đấu mà quân số nhiều đơn vị cũng mỗi ngày một giảm dần và việc bổ sung quân số, vũ khí, việc đảm bảo hậu cần trở nên cực kỳ khó khăn. Lấy mốc thời gian trước và sau cuộc Tổng tiến công Mậu Thân 1968 để so sánh, thì tại Khu VIII bộ đội chủ lực từ hai trung đoàn xuống còn một trung đoàn thiếu; bộ đội địa phương của tỉnh Bến Tre từ bốn tiểu đoàn xuống còn một tiểu đoàn không đủ biên chế, tỉnh Long An từ 21 xuống còn 4 tiểu đoàn không đủ quân1, các tỉnh Mỹ Tho, Kiến Tường, Kiến Phong, An Giang - mỗi tỉnh cũng chỉ còn khoảng hai đại đội. Về bộ đội huyện trong khu, mỗi huyện còn khoảng một trung đội, du kích và tự vệ mỗi xã còn từ một đến hai tiểu đội. Đặc biệt, số cán bộ nòng cốt, có nhiều kinh nghiệm trong tổ chức và chỉ huy chiến đấu bị tiêu hao nhiều, quân số bổ sung rất hạn chế, bảo đảm lương thực, thực phẩm gặp nhiều khó khăn do sự đánh phá, lùng sục gắt gao của địch, do vậy khả năng phục hồi chiến đấu của lực lượng vũ trang ta trên địa bàn Khu VIII rất chậm. Bên cạnh đó trong các thị xã, thị trấn và các địa bàn xung yếu khác, qua cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, phần lớn số cán bộ, đảng viên cơ sở cách mạng trung kiên bị lộ, bị tiêu hao, khả năng phục hồi là vô cùng khó khăn và không thể giải quyết trong một thời gian ngắn được.
______________________________________
1. Theo Lê Quốc Sản: Cuộc đọ sức thần kỳ, Nxb.Quân đội nhân dân. Hà Nội, 1991, tr. 281.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #16 vào lúc: 28 Tháng Tư, 2010, 09:14:58 pm »


Tại địa bàn Khu IX, trước khi bước vào cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, chủ lực quân khu có ba trung đoàn, đến cuối năm 1968, đầu 1969 giảm xuống chỉ còn lại quân số tương đương một trung đoàn và một tiểu đoàn. Các Sư đoàn 5, 7 và 9 bộ đội chủ lực miền do mất địa bàn đứng chân và bàn đạp xuất phát tiến công nên phải tạm thời rút lên khu vực biên giới giáp với Campuchia để củng cố lực lượng...

Ở Khu V, trước sự phản kích dữ dội của quân địch, vùng giải phóng, vùng làm chủ ở đồng bằng ngày càng bị thu hẹp; toàn bộ vùng căn của ở khu vực giáp ranh và miền núi bị uy hiếp dữ dội; đồng thời, lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị giảm sút. Lúc này, cơ sở đảng và quần chúng ở một số xã, trị trấn, thị xã bị tổn thất, bị tan rã; số lượng du kích ở mỗi xã chỉ còn 20 đến 25 tay súng, phải trụ bám chiến đấu trong tình trạng vũ khí, lương thực, thực phẩm, thuốc men thiếu thốn và hầu như không có nguồn bổ sung. Tại Tây Nguyên, số lượng lương thực dự trữ ngày càng vơi cạn. Bộ đội ở Ô Môn nhiều tuần lễ liền phải đào củ chuối, củ môn nấu ăn thay cơm trừ bữa. Khan hiếm lương thực, thực phẩm, thuốc men, lại phải sống nơi rừng thiêng nước độc nên bệnh tật phát sinh ngày càng nhiều... Giải quyết tình trạng khó khăn trên là cả một vấn đề cực kỳ nan giải do sự đánh phá ngăn chặn, lùng sục dữ dội và gắt gao của địch lúc bấy giờ. Tại các căn cứ và vùng giải phóng, bộ đội và nhân dân ta phải đào củ mài, hái rau rừng nấu ăn thay cơm, nhường khẩu phần gạo ít ỏi cho bộ đội và du kích đang trực tiếp chiến đấu1. Thậm chí ở khu căn cứ Khánh Hoà, do quá khan hiếm về quân trang, vải vóc nên một số đơn vị nữ dân công hoả tuyến phải dùng vỏ cây gió làm quần áo và mở một lối đi riêng để vận chuyển hàng hoá. Bên cạnh đó, hàng ngày, quân và dân ta phải đương đầu với các đợt tập kích khốc liệt, triền miên của không quân, pháo binh cùng với sự lùng sục phá hoại ráo riết của bọn biệt kích, thám báo địch. Do vậy, trong những tháng ngày đó, đã có hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ta anh dũng hy sinh và bị thương trong lúc làm nhiệm vụ vận chuyển, thu mua lương thực thực phẩm và vũ khí. Để góp phần nhanh chóng khắc phục những khó khăn trước mắt, một số đơn vị lực lượng vũ trang của khu phải giảm quân số, có những đơn vị buộc phải tạm thời giải tán như Sư đoàn 3 bộ binh... hoặc phải cơ động ra khu vực đường 9 để “ăn gạo” của Đoàn 559 như Sư đoàn 2, Trung đoàn 141, Trung đoàn 220. Bộ Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên quyết định đưa các đơn vị không trực tiếp chiến đấu ra miền Bắc, các đơn vị trực tiếp chiến đấu cơ động vào đứng chân tại các địa bàn kề cận với Khu VII để “ăn gạo” Nam Bộ.

Tại Trị - Thiên - Huế, chiến trường tiếp giáp với hậu phương miền Bắc, từ cuối năm 1968 và suốt năm 1969, địch tập trung đánh phá một cách khốc liệt hơn lúc nào hết. Những cuộc hành quân càn quét kết hợp với tập kích bằng hoả lực pháo binh và không quân của Mỹ và quân đội Sài Gòn diễn ra với cường độ ác liệt trên hầu khắp các địa bàn. Hàng ngàn người dân vô tội bị giết hại, nhà cửa cùng hàng ngàn hécta hoa màu, cây trái của nhân dân bị san phẳng, bị tàn hại nặng nề. Đau thương tang tóc bao trùm khắp các xóm làng... Phần lớn địa bàn đứng chân của bộ đội bị mất, cơ sở đảng và quần chúng cách mạng bị tróc nã... Tâm lý hoang mang, dao động, mất ý chí chiến đấu... xuất hiện trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, chiến sĩ lực lượng vũ trang và nhân dân. Để bảo tồn lực lượng, đại bộ phận các đơn vị chủ lực, trong đó có các sư đoàn chủ lực cơ động chiến lược của bộ tham gia trong chiến dịch Khe Sanh như Sư đoàn 304 bộ binh, Sư đoàn 320 bộ binh... đã được lệnh rút ra Quảng Bình, Hà Tĩnh để củng cố, bổ sung lực lượng và trang bị, vũ khí, chuẩn bị cho các đợt hoạt động tiếp theo.

Như vậy, sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, bên cạnh việc giành được những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược rất quan trọng, mở ra bước ngoặt quyết định trong cục diện của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ta cũng gặp những khó khăn, gay gắt. Đến cuối năm 1968 và năm 1969, Cách mạng miền Nam đứng trước thử thách cô cùng nghiêm trọng. Quân số, vũ khí, trang bị của các đơn vị lực lượng vũ trang và bán vũ trang bị tiêu hao rất nhiều, nguồn bổ sung hầu như không có. Bên cạnh đó là tình trạng thiếu đói về lương thực, thuốc men diễn ra trong nhiều ngày... Lợi dụng tình hình này, địch tập trung lực lượng phản kích một cách quyết liệt làm cho lực lượng vũ trang ta tiếp tục bị tiêu hao, cơ sơ bí mật tiếp tục bị phá, vùng giải phóng và tranh chấp của ta ngày càng bị thu hẹp. Nhiều đơn vị bộ đội ta phải rút lên căn cứ. Thế trận chiến tranh nhân dân bị suy giảm. Cục diện thực tế trên chiến trường tạm thời có lợi cho địch. Đây cũng là một thời điểm khó khăn nhất của cách mạng miền Nam.

Để tháo gỡ tình hình khó khăn, từng bước khôi phục thế trận và lực lượng cho cách mạng miền Nam. tháng 4-1969, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã họp bàn về tình hình và nhiệm vụ mới. Bộ Chính trị thống nhất nhận định: Đế quốc Mỹ đã bị những thất bại nặng nề về mọi mặt, ý chí xâm lược bị lung lay rõ rệt, chúng không thể duy trì cuộc chiến tranh xâm lược với quy mô như hiện nay (1969) trong một thời gian dài mà phải tìm cách xuống thang chiến tranh. Song, với bản chất hiếu chiến, ngoan cố, đồng thời đang có một lực lượng, phương tiện chiến tranh khổng lồ và chiếm giữ được những địa bàn chiến lược quan trọng ở miền Nam Việt Nam; vì vậy, giới lãnh đạo Nhà Trắng và Lầu Năm góc quyết định từng bước triển khai chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh, đồng thời đẩy nhanh tốc độ hành quân càn quét chiếm đất, chiếm dân, hy vọng sớm kết thúc cuộc chiến tranh trên thế mạnh.
______________________________________
1. Tại Khu V và Tây Nguyên, khẩu phần đó là 1/2 lon mỗi người mỗi ngày cho lực lượng đang trực tiếp chiến đấu và 1/8 lon cho lực lượng cơ quan.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #17 vào lúc: 28 Tháng Tư, 2010, 09:18:44 pm »


Phân tích tình hình thực tế diễn biến chiến trường, chỉ rõ những âm mưu và hành động cụ thể của địch, Bộ Chính trị đồng thời chỉ ra những mâu thuẫn cơ bản khó có thể khắc phục được của chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh:

“Vì thất bại và suy yếu mà phải bị động xuống thang song lại muốn chủ động xuống thang trên thế mạnh. Đó là một mâu thuẫn không sao khắc phục được, vì đang thua, buộc phải rút bớt lực lượng và giảm bớt chi phí chiến tranh thì Mỹ không bao giờ tạo ra được thế mạnh. Mỹ càng xuống thang thì thế và lực càng yếu, càng bị đánh đau và sẽ phải chịu thất bại.

Xuống thang chiến tranh rút dần quân Mỹ ra mà lại muốn cho quân ngụy mạnh lên để thay thế được quân Mỹ. Đó lại là một mâu thuẫn không sao khắc phục được, vì hơn bao giờ hết, lúc này (1969) quân Mỹ đang là chỗ dựa sống còn của quân ngụy, do đó nếu Mỹ xuống thang, rút quân Mỹ ra thì quân ngụy sẽ nhất định bị đánh cho suy sụp.

Tình thế buộc Mỹ phải gấp rút xuống thang rút quân Mỹ ra càng sớm càng tốt để giảm bớt thương vong của Mỹ và chi phí chiến tranh, song muốn tăng cường lực lượng ngụy thì Mỹ lại phải kéo dài chiến tranh. Đó lại là mâu thuẫn không khắc phục được, vì càng kéo dài thì quân Mỹ càng tổn thất nặng, chi phí chiến tranh không thể giảm đáng kể và ngụy vẫn suy sụp. Do đó Mỹ càng kéo dài thì thất bại và khó khăn sẽ lên đến mức Mỹ không chịu đựng nổi.

Mỹ càng lúng túng không rút được quân Mỹ ra thì mâu thuẫn nội bộ bọn cầm quyền Mỹ và mâu thuẫn giữa nhân dân Mỹ với bọn cầm quyền càng trầm trọng. Mặt khác, Mỹ rút quân ra, ngụy càng có nguy cơ sụp đổ thì mâu thuẫn giữa Mỹ với ngụy, mâu thuẫn giữa các phe phái trong bọn ngụy càng trở lên gay gắt”1.

Như vậy chỗ yếu nhất của Mỹ trong lúc này là sự bế tắc trầm trọng về chủ trương chiến lược đối với việc tìm một lối thoát ra khỏi cuộc Chiến tranh cục bộ - một cuộc chiến tranh mà ở đó nỗ lực quân sự của Mỹ đã đạt tới nấc thang cao nhất, nhưng cũng đã chịu những thất bại nặng nề nhất. Sự tập trung những mâu thuẫn nêu trên trong chủ trương chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh là sự phản ánh rõ nét thế bế tắc, thế suy yếu của Mỹ trên chiến trường Việt Nam. Mỹ càng ngoan cố muốn kéo dài chiến tranh để tạo thế mạnh thì chỗ yếu này càng bị khoét sâu thêm. Chỗ yếu của Mỹ còn được thể hiện ở tinh thần quân đội Mỹ và quân đội Sài Gòn ngày càng bị sa sút, uy tín của Mỹ trên trường quốc tế ngày càng bị suy giảm do sự sa lầy, bị thất bại ở Việt Nam.

Bên cạnh việc chỉ ra những chỗ yếu chí tử, những mâu thuẫn không sao khắc phục được của chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh. Bộ Chính trị cũng nhận thấy thực lực trên chiến trường miền Nam trong năm 1969 của địch vẫn còn mạnh. Tổng số quân các loại của địch cho đến tháng tháng đầu năm 1969 là 1.152.000; trong đó có 535.000 quân Mỹ, 62.000 quân đồng minh, 555.000 quân chủ lực Sài Gòn, 485.000 phòng vệ dân sự, cùng với 2.228 khẩu pháo các loại, 3.922 xe thiết giáp, 3.952 máy bay và 674 tàu, thuyền chiến đấu các loại2. Địch vẫn còn chiếm giữ được phần lớn những địa bàn chiến lược quan trọng. Đặc biệt, đối với các thành phố, các căn cứ quân sự và kho tàng chiến lược, Mỹ và quân đội Sài Gòn tổ chức bố phòng cẩn mật nhiều tầng, nhiều lớp với nhiều loại phương tiện chiến tranh hiện đại và hệ thống công sự trận địa kiên cố. Mặt khác, Mỹ là nước có tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh đủ khả năng bổ sung quân chiến đấu cũng như vũ khí và phương tiện chiến tranh cho cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam khi cần thiết.

Xuất phát từ sự phân tích những mâu thuẫn nảy sinh, những điểm yếu khó có thể khắc phục, cùng những mặt mạnh tạm thời của địch, mục đích đặt ra đối với cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam trước sau vẫn không thay đổi của đế quốc Mỹ. Bộ Chính trị dự kiến: giới cầm quyền Nhà Trắng và Lầu Năm góc có thể sẽ lựa chọn cách thức “kết thúc” vai trò của Mỹ đối với cuộc chiến tranh ở Việt Nam theo một trong hai khả năng. Một là, Mỹ buộc phải kết thúc sớm cuộc chiến tranh thông qua một giải pháp chính trị mà chúng có thể chấp nhận được. Hai là, nếu ta tiến công không đủ mạnh, Mỹ sẽ còn cố kéo dài cuộc chiến tranh ở miền Nam trong một thời gian để tìm cách xuống thang trên thế mạnh, trước khi phải chịu thua và chấp nhận giải pháp chính trị. Đối với trường hợp Mỹ cố tình kéo dài thời gian xuống thang chiến tranh để gây sức ép với ta, rất có thể chúng sẽ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc một lần nữa bằng không quân trong một khoảng thời gian và phạm vi hạn định, thậm chí có thể mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược sang chiến trường Lào và Campuchia. Song, cuộc chiến tranh dù diễn biến theo khả năng nào cũng đều phụ thuộc một cách trực tiếp và chặt chẽ vào sức mạnh tiến công của quân và dân ta trên cả ba mũi quân sự, chính trị, ngoại giao và những khó khăn về quân sự, chính trị, tài chính và kinh tế do cuộc chiến tranh Việt Nam gây ra cho nước Mỹ. Vì vậy, Bộ Chính trị khẳng định: “Chúng ta đang đứng trước thời cơ lớn để thừa thắng tiến lên, đẩy mạnh tiến công toàn diện và liên tục, tiến lên một bước mới rất cơ bản, đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, đánh cho Mỹ phải rút quân, đánh cho ngụy phải suy sụp, giành thắng lợi quyết định, tạo điều kiện để tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn”3.
______________________________________
1. Nghị quyết Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, tháng 4 -1969. Về tình hình và nhiệm vụ cách mạng miền Nam, tr.7-8.
2. Cục Tác chiến - Bộ Tổng tham mưu: Thống kê lực lượng địch ở miền Nam Việt Nam (1954 - 1975), Tài liệu Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng (K4), tr.260.
3. Nghị quyết Bộ Chính trị Ban chập hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam tháng 4 năm 1969, Về tình hình và nhiệm vụ cách mạng miền Nam, tr.9.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #18 vào lúc: 28 Tháng Tư, 2010, 09:19:49 pm »


Để chủ động đón thời cơ chiến lược lớn, Bộ Chính trị chủ trương: trước mắt chúng ta phải khẩn trương “động viên nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trên cả hai miền, phát huy thắng lợi đã đạt được, tiếp tục đẩy mạnh tổng công kích, tổng khởi nghĩa, đẩy mạnh ba mũi giáp công, kết hợp với tiến công ngoại giao, ra sức xây dựng lực lượng quân sự và chính trị, phát triển chiến lược tiến công một cách toàn diện, liên tục và mạnh mẽ làm thất bại các mục tiêu và biện pháp phòng ngự của địch, đánh bại âm mưu kết thúc chiến tranh trên thế mạnh và chủ trương “phi Mỹ hoá” chiến tranh của chúng...”1; nhằm thực hiện các mục tiêu chiến lược đặt ra là:

- Đánh mạnh, đánh thật đau quân Mỹ, đánh cho Mỹ phải rút quân.

- Đánh mạnh vào quân đội Sài Gòn, tiêu diệt bộ phận ngoan cố nhất trong bộ máy chính quyền các cấp và quân đội của chúng, đánh cho chúng phải suy sụp không thể làm được nhiệm vụ “quét và giữ”, không thể củng cố được lực lượng để thay thế quân Mỹ.

- Ra sức xây dựng lực lượng quân sự và chính trị của ta ngày càng lớn mạnh, bố trí trên một thế trận tiến công chiến lược ngày càng mạnh.

- Tiếp tục đánh đổ và làm suy yếu hệ thống chính quyền các cấp của chế độ Việt Nam Công hòa, thành lập chính quyền cách mạng trung ương.

- Đập tan ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải từ bỏ ý đồ kết thúc chiến tranh trên thế mạnh và sớm chấm dứt chiến tranh, rút hết quân Mỹ về nước và chấp nhận một giải pháp chính trị.

Về phương châm chiến lược, Bộ Chính trị chỉ rõ: trong khi tập trung nỗ lực cao độ để giành thắng lợi quyết định, chúng ta cần nắm vững chiến lược đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, song cũng cần phải linh hoạt chủ động nắm bắt thời. cơ và chủ động tạo thời cơ để giành thắng lợi trong thời gian tương đối ngắn. Do vậy, các cấp, các địa phương và lực lượng vũ trang cần kiên quyết đẩy mạnh tiến công quân sự, kết hợp với xây dựng và củng cố lực lượng; đẩy mạnh tiến công quân sự ở các đô thị bằng lực lượng tại chỗ, lực lượng nhỏ và tinh nhuệ; kiên quyết khắc phục khó khăn, phát triển bằng được phong trào chiến tranh du kích; đẩy mạnh đấu tranh chính trị và xây dựng lực lượng chính trị ở thành thị; kết hợp chặt chẽ giữa tiến công quân sự và đấu tranh chính trị nhằm giữ và tạo thế; ra sức giành và giữ dân, mở rộng và củng cố vùng giải phóng nông thôn, làm chủ phần lớn nông thôn xung yếu, vùng rừng núi và giáp ranh, chuẩn bị tốt chiến trường đánh tiêu diệt lớn. Để đảm bảo cho đấu tranh thắng lợi, cần đặc biệt tăng cường sự lãnh đạo và chỉ đạo chiến tranh của các cấp uỷ đảng; cán bộ, đảng viên phải luôn tích cực, chủ động bám sát địa bàn, nắm chắc tình hình cụ thể ở từng cơ sở, từng âm mưu và hành động của địch, đưa ra những phương châm, biện pháp phù hợp, kịp thời để tổ chức, lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành thắng lợi.

Thực hiện Nghị quyết tháng 4-1969 của Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng chỉ thị cho tất cả các quân khu và đơn vị trên toàn miền Nam, một mặt, căn cứ vào thực lực về quân số, vũ khí và trang bị nhanh chóng điều chỉnh tổ chức, biên chế và bố trí lực lượng cho phù hợp với nhiệm vụ chiến đấu; mặt khác, tiếp tục nâng cao chất lượng của bộ đội chủ lực, củng cố, tăng cường bộ đội địa phương và dân quân du kích về mọi mặt, phát triển bộ đội tinh nhuệ (bộ đội đặc công) trong cả lực lượng ba thứ quân cùng với tăng cường số lượng và chất lượng bộ đội công binh, phòng không, kiên quyết bảo vệ và mở rộng tuyến vận tải chiến lược 559... nhằm tạo cho ta có đủ điều kiện để tiếp tục đẩy mạnh tiến công, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của quân Mỹ và quân đội Sài Gòn, đánh bại về cơ bản kế hoạch bình định cấp tốc của chúng. Trước đó, ngày 29-3-1969, Trung ương Cục miền Nam chỉ thị cho các chiến trường, địa phương “phát huy cách đánh mạnh, đánh liên tục vào các đô thị, thị xã hơn nữa; nhất là các thành phố Đà Nẵng, Huế, Sài Gòn; đẩy mạnh đấu tranh chính trị, binh vận, ra sức xây dựng lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị”2. Tiếp đến, ngày 6-4-1969, chỉ thị về việc tích cực, chủ động chống địch càn quét, bảo vệ vùng căn cứ dọc biên giới Việt Nam - Cămpuchia, chỉ rõ nhiệm vụ cụ thể của các cơ quan, ban ngành, đoàn thể, các đơn vị và địa phương trên mặt công tác này.

Đưa nghị quyết của Bộ Chính trị và chỉ thị của Quân uỷ Trung ương Bộ Quốc phòng, Trung ương Cục vào thực tế, các khu uỷ, quân khu uỷ và đảng uỷ các cấp đã tổ chức nhiều đợt sinh hoạt chính trị nhằm quán triệt những nội dung cơ bản về tư tưởng, chủ trương, phương hướng chỉ đạo kháng chiến của Trung ương, bàn định những phương châm, biện pháp đấu tranh cụ thể của địa phương đơn vị mình; đồng thời xác định quyết tâm giữ vững ý chí chiến đấu, bằng mọi cách kiên quyết bám trụ, giữ vững thế chiến trường.

Nêu cao quyết tâm, tăng cường đoàn kết, chủ động thực hiện kết hợp song song hai nhiệm vụ vừa tăng gia sản xuất, vừa chiến đấu, lực lượng vũ trang và nhân dân các địa phương miền Nam đã bền bỉ trụ bám địa bàn, giữ vững niềm tin, khắc phục muôn vàn gian khổ, hy sinh từng bước vượt qua khó khăn, thử thách. Ở Khu V, bộ đội và du kích đều tận dụng thời gian và linh hoạt phân công nhau trồng rau, khoai, sắn... quyết tạo ra nguồn cung cấp tại chỗ để đảm bảo cho công tác trụ bám vững chắc địa bàn trong bất kỳ tình huống nào. Trong khó khăn, ác liệt, mối quan hệ gắn bó tình cảm máu thịt giữa nhân dân với bộ đội và du kích càng trở nên bền chặt, keo sơn. Mặc dù địch đánh phá ác liệt và kiểm soát hết sức ngặt nghèo nhưng nhân dân vẫn trước sau một lòng đùm bọc, che chở, giúp đỡ bộ đội. Nhiều mẹ già, chị em phụ nữ và cả những cháu thiếu niên đã không quản khó khăn, gian khổ, hiểm nguy đe dọa đến tính mạng,... hàng ngày vẫn chắt chiu từng ang gạo, cân muối... và tìm mọi cách vượt qua mạng lưới kiểm soát dày đặc, gắt gao của địch chuyển tới các căn cứ cung cấp cho bộ đội và du kích. Tại Khu VIII, cán bộ, chiến sĩ phải tự túc may vá quần áo, tổ chức đánh bắt cá, tôm làm thức ăn, đồng thời lập ra những xưởng quân khí để sản xuất, sửa chửa vũ khí đánh giặc. Trên chiến trường Trị - Thiên, bên cạnh việc khẩn trương khắc phục khó khăn về hậu cần, ta đã từng bước đưa lực lượng trở lại đứng chân trên các địa bàn xung yếu, kiên quyết bảo vệ hành lang chiến lược và dần dần khôi phục lại thế làm chủ ở vùng rừng núi. Tại các thành phố lớn như Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế và các thị xã, lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang và an ninh không quản gian khổ, hy sinh, kiên quyết tìm mọi cách bám dân, móc nối với quần chúng cách mạng, phục hồi và phát triển hệ thống cơ sở, gây dựng lại phong trào, kể cả việc ém giấu vũ khí, chuẩn bị mọi mặt cho các đợt hoạt động tiếp theo.
______________________________________
1. Tlđd, tr.9.
2. Chỉ thị số 81/CTNT của Trung ương Cục ngày 29 tháng 3 năm 1969. Những sụ kiện Lịch sử Đảng. Nxb. Thông tin lý luận. Hà Nội.1985, t. 2, tr.470.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #19 vào lúc: 28 Tháng Tư, 2010, 09:21:46 pm »


Song song với sự nỗ lực vượt bậc của quân và dân miền Nam, trong năm 1969, hậu phương miền Bắc đã bổ sung cho chiến trường miền Nam 81.090 cán bộ, chiến sĩ (gồm một số đơn vị pháo binh, công binh, thông tin và 13 tiểu đoàn, 99 đại đội bộ binh, 35 trung đội đặc công), 52.424 tấn vật chất (vũ khí, phương tiện chiến tranh, lương thực, thực phẩm và thuốc chữa bệnh) và 34.888.629 đôla (USD). Bên cạnh đó, từ miền Bắc, 40.200 quân tình nguyện, 28.701 tấn vật chất và 41.300.488 đồng Việt Nam1 được đưa tới chiến trường nước bạn Lào. Xuất phát từ những yêu cầu thực tế của các chiến trường, các mặt trận, Bộ Tổng tư lệnh quyết định điều động Sư đoàn bộ binh 1 (gồm các trung đoàn 95C, 101C, 209) và các trung đoàn 33, 174, 10, 20 từ mặt trận Tây Nguyên và Khu V vào tăng cường cho chiến trường miền Đông Nam Bộ.

Để tăng cường hơn nữa khối đại đoàn kết dân tộc, tạo nền tảng vững chắc cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, trong các ngày 6, 7 và 8-6-1969, Đại hội quốc dân miền Nam khai mạc trọng thể tại Chiến khu Đ (căn cứ Trung ương Cục miền Nam). Thành phần tham gia đại hội gồm 72 khách mời và 88 đại biểu đại diện cho các chính đảng, dân tộc, tôn giáo, các tầng lớp nhân dân và lực lượng vũ trang cách mạng trên toàn miền Nam. Đây là cuộc hội tụ của tinh thần đoàn kết, ý chí và nguyện vọng thiết tha của toàn thể đồng bào miền Nam là đánh bại quân xâm lược Mỹ, đánh đổ chế độ Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn miền Nam, tiến tới thống nhất nước nhà.

Đại hội đã chính thức thông qua Chương trình hành động (những nhiệm vụ trước mắt của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam), với nội dung cơ bản là: lãnh đạo toàn quân, toàn dân đoàn kết một lòng, đẩy mạnh đấu tranh quân sự và chính trị, đánh bại âm mưu Việt Nam hoá chiến tranh của Mỹ - ngụy, buộc Mỹ phải thừa nhận Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam là một thực thể chính trị, kinh tế và quân sự ở miền Nam Việt Nam. Đại hội nhất trí lấy lập trường năm điểm của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam làm cơ sở cho việc đàm phán ở hội nghị Pari. Theo đó, miền Nam Việt Nam quyết phấn đấu để thực hiện độc lập, dân chủ, trung lập và phồn vinh, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc, đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút quân đội, mọi phương tiện chiến tranh và huỷ bỏ các căn cứ quân sự ở miền Nam Việt Nam; công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam phải do nhân dân Việt Nam tự giải quyết theo cương lĩnh chính trị của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam; thành lập chính phủ liên hiệp dân tộc và dân chủ rộng rãi, tổ chức tổng tuyển cử tự do ở miền Nam; việc thống nhất nước Việt Nam sẽ do nhân dân Việt Nam ở hai miền giải quyết từng bước bằng phương pháp hoà bình, trên cơ sở bàn bạc và thoả thuận giữa hai miền và không có sự can thiệp của nước ngoài; miền Nam Việt Nam thực hiện chính sách ngoại giao hoà bình, trung lập không liên minh quân sự với nước ngoài dưới bất kỳ hình thức nào, đặt quan hệ hữu nghị với tất cả các nước trên cơ sở năm nguyên tắc chung sống hoà bình, thiết lập quan hệ láng giềng tốt với Vương quốc Campuchia, Lào trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, trung lập và toàn vẹn lãnh thổ và biên giới hiện tại đã được xác lập.

Đại hội kết thúc với việc bầu ra Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, do kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát - Phó Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam làm Chủ tịch; Luật sư Nguyễn Hữu Thọ - Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam làm Chủ tịch Hội đồng cố vấn Chính phủ; luật sư Trịnh Đình Thảo - Chủ tịch Uỷ ban liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình miền Nam Việt Nam làm Phó Chủ tịch Hội đồng cố vấn Chính phủ; ông Trần Nam Trung làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; bà Nguyễn Thị Bình làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao; kỹ sư Cao Văn Bổn phụ trách Bộ Kinh tế - Tài chính...

Đánh giá sự ra đời của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, ngày 12-6-1969, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra tuyên bố nhấn mạnh: “Đây là kết quả rực rỡ của những thắng lợi quân sự, chính trị và ngoại giao của nhân dân miền Nam đã giành được, nhất là từ đầu năm 1968 đến nay. Đây là bước phát triển tất yếu của quá trình xây dựng chính quyền cách mạng của nhân dân miền Nam, là biểu hiện rực rỡ ý chí của nhân dân miền Nam, thực hiện quyền làm chủ của mình”; “Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam do Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam Việt Nam bầu ra là chính phủ hợp pháp, đại diện chân chính của nhân dân miền Nam Việt Nam”; “Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhiệt liệt hoan nghênh đường lối và chương trình hành động của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam”2.

Việc Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra đời không chỉ tạo niềm phấn khởi, tin tưởng vào thắng lợi tất yếu của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đối với toàn thể nhân dân trên khắp hai miền Nam Bắc của đất nước ta, mà đó còn là nhân tố quan trọng làm cho nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới hiểu rõ hơn và ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân ta ngày càng mạnh mẽ hơn. Chính vì thế ngay sau khi thành lập, đã có 22 nước Xã hội chủ nghĩa và dân chủ tiến bộ trên thế giới công nhận sự tồn tại hợp pháp và đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

Nhìn chung lại, mặc dù phải đối mặt với những khó khăn gay gắt, những thử thách nặng nề của tình hình chiến trường sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, song dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương, trực tiếp là Trung ương Cục và các đảng bộ chiến trường sự chi viện hiệu quả của hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa, quân và dân các chiến trường, các mặt trận, các địa phương miền Nam đã bền bỉ, dũng cảm khắc phục muôn vàn gian khổ hy sinh, nêu cao quyết tâm giữ vững niềm tin, tăng cường đoàn kết, vừa đánh địch phản kích, vừa phục hồi lực lượng và thế trận chiến tranh nhân dân. Đặc biệt, việc thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã tạo ra hình thế mới liên quan tới cuộc đàm phán đang diễn ra tại Pari. Từ đây, ở miền Nam xuất hiện hình thái hai chính quyền song song tồn tại. Cách mạng miền Nam có thêm điều kiện thuận lợi để tăng cường hoạt động đối ngoại và tranh thủ hơn nữa sự đồng tình ủng hộ của quốc tế đối với sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân ta. Đây là những nhân tố rất quan trọng đảm bảo vững chắc cho ta tiếp tục tiến công và nổi dậy giành những thắng lợi mới đưa sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ tiếp tục phát triển.
______________________________________
1. Thống kê số liệu về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), tài liệu lưu trữ Bộ Quốc phòng (K4), bản số 5.
2. Tuyên bố của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 12 tháng 6 năm 1969, dẫn theo Trần Văn Giàu “Miền Nam giữ vững thành đồng”, Nxb. Khoa học xã hội. 1978. t.5, tr.238-239.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM