Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 18 Tháng Tư, 2024, 03:00:59 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 6  (Đọc 61750 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #60 vào lúc: 30 Tháng Tư, 2010, 12:04:59 am »


Một trong những địa bàn nóng bỏng ở miền đông Nam Bộ trong mùa hè 1970 là Bà Rịa với cuộc chiến đấu của quân và dân huyện Long Đất bảo vệ Chiến khu Minh Đạm. Tại đây, từ sau Mậu Thân 1968, địch đánh phá vô cùng ác liệt nhằm tiêu diệt lực lượng vũ trang và căn cứ cách mạng của ta ở vùng này. Trên một diện tích thưa đầy 8 km2, Mỹ đã trút xuống trên 2000 tấn bom, song chúng vẫn không khuất phục được tinh thần chiến đấu anh dũng, bám trụ kiên cường của quân và dân Long Đất. Cuối tháng 4-1970, Mỹ đưa Lữ đoàn 199 cùng với Trung đoàn quân Ôtxtrâylia và ba liên đoàn bảo an có xe tăng và máy bay B52 yểm trợ, tổ chức bao vây tiến công Chiến khu Minh Đạm một lần nữa. Bộ đội địa phương huyện Long Đất cùng du kích xã Long Mỹ và lực lượng các cơ quan trong chiến khu đã ngoan cường chiến đấu, chặn đứng nhiều đợt tiến công của địch, cầm cự suốt 25 ngày, giữ vững được chiến khu. Xét tương quan lực lượng và sự đánh phá dữ dội của địch thì đây là một chiến thắng oanh liệt của quân dân Long Đất nói riêng, Bà Rịa - Vũng Tàu cũng như cả miền đông Nam Bộ nói chung. Nó chứng tỏ sức mạnh to lớn của chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích ở miền Nam Việt Nam.

Tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, bộ đội chủ lực Khu VIII, Khu IX cùng lực lượng vũ trang địa phương liên tục đánh địch gây cho chúng nhiều thiệt hại.

Đêm 31-3-1970, mở đầu đợt hoạt động xuân - hè, hàng trăm mục tiêu trọng điểm của địch ở Bến Tre bị tiến công. Cũng trong đêm này, ở Mỹ Tho, Tiểu đoàn 269 đặc công tập kích căn cứ 23, đánh thiệt hại nặng Ban Chỉ huy Trung đoàn 12 Sư đoàn 7, loại khỏi vòng chiến đấu 300 tên. Trung đoàn 1 tiến công đồn Xẻo Lác (Hiệp Đức) và đồn Ông Củn (Cái Bè), đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn của Sư đoàn 7 quân Sài Gòn. Tại An Giang, tháng 5-1970, ta tiến công căn cứ Chi Lăng và quận lỵ Tri Tôn. Cùng lúc, một lực lượng lớn quân địch gồm một trung đoàn của Sư đoàn 9, hai tiểu đoàn quân Nam Triều Tiên, 24 xe bọc thép, 12 máy bay và hàng chục khẩu pháo yểm trợ đã mở cuộc càn vào xã Thới Sơn - nơi mà chúng cho là “một khu Cộng sản nòi”, nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng ở đây. Bộ đội chủ lực Khu VIII cùng du kích xã Thới Sơn đã quần lộn với địch suốt hai tháng trời, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên, bắn cháy 12 xe M113, buộc địch phải rút khỏi địa bàn.

Trọng điểm của các đợt hoạt động xuân - hè 1970 của ta ở Khu IX là đánh địch hành quân lấn chiếm khu căn cứ U Minh. Tại đây, từ tháng 9-1969, địch đã sử dụng Sư đoàn 21, Lữ đoàn B thuỷ quân lục chiến, bốn tiểu đoàn biệt động quân, các giang đoàn và hải đoàn với sự yểm trợ của máy bay, tổ chức cuộc hành quân lấn chiếm U Minh lần thứ nhất nhưng không thành. Tháng 2-1970, chúng lại huy động Lữ đoàn A thuỷ quân lục chiến và Sư đoàn 21 hành quân lấn chiếm U Minh lần hai. Kiên quyết trụ bám địa bàn đánh bại cuộc hành quân của địch, giữ vững vùng căn cứ, từ đầu tháng 2-1970, quân khu sử dụng một bộ phận chủ lực cùng du kích xã, du kích cơ quan, bám đánh địch liên tục; đồng thời khẩn trương củng cố lực lượng, chuẩn bị phản công lớn. Sau khi đã tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận lực lượng thuộc Lữ đoàn thuỷ quân lục chiến. Sư đoàn 21, Sư đoàn 9 (hoạt động ở vùng Vĩnh Thuận), ngày 12-3-1970, quân khu sử dụng Trung đoàn 2, Tiếu đoàn đặc công của khu, Đoàn 6 pháo binh tập kích tiêu diệt Sở Chỉ huy Chiến đoàn 33 tại kênh Họa Đồ (gần kênh thứ 11 - An Biên) buộc địch phải rút chạy. Cuộc hành quân lấn chiếm U Minh lần thứ hai của định phải bỏ dở. Cũng vào thời gian này, Trung đoàn 10 mới từ Trị - Thiên vào được bổ sung cho quân khu đã đánh trận đầu tiên diệt Chi khu Giá Ngựa (26-5-1970). Ở Vĩnh Long, Tiểu đoàn 306 thuộc Trung đoàn 3 và một đại đội đặc công tiến công tiêu diệt Chi khu Càng Long, đánh thiệt hại nặng hậu cứ Trung đoàn 14 Sư đoàn 9 quân Sài Gòn. Tại Sóc Trăng, Chi khu Phước Long của địch cũng bị đánh chiếm.

Trên mặt trận chống phá bình định, rút kinh nghiệm năm 1969, bước sang năm 1970, ta mở các hoạt động quân sự, tập trung đánh mạnh vào hệ thống đồn bốt và bộ máy kìm kẹp của định ở cơ sở, hỗ trợ nhân dân nổi dậy diệt ác, phá kìm, giành quyền làm chủ.

Ở Quảng Nam (Khu V) chỉ trong vòng ba tháng (tháng 4, 5, 6-1970), bộ đội địa phương tỉnh đã diệt 45 chốt điểm, phá vỡ từng mảng hệ thống cứ điểm nhỏ và chính vì thế làm mất chỗ dựa cho hoạt động bình định nông thôn của địch. Tại Quảng Ngãi, Tiểu đoàn 48 bộ đội địa phương tỉnh phối hợp với cơ sở bên trong diệt các đoàn cán bộ bình định và các trung đội bảo an ngay tại các xóm ấp khiến bộ máy bình định bị tê liệt ở một số nơi. Phú Yên, Khánh Hoà, ta cũng thực hiện phương án diệt các tên ác ôn, đầu sỏ chỉ huy các đoàn cán bộ bình định, gây hoang mang cho đội ngũ cán bộ chính quyền Sài Gòn ở cơ sở. Sáu tháng đầu năm 1970, toàn Khu V, ta đã diệt 2000 ác ôn đầu sỏ, uy hiếp mạnh tinh thần của những tên khác, đánh mạnh vào chương trình bình định đặc biệt trên địa bàn Khu V.

Nổi bật hơn cả trong phong trào chống phá bình định trong năm 1970 phải kể đến các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Kịp thời lợi dụng việc quân Mỹ và quân Sài Gòn dồn sang tiến công và bị sa lầy ở Campuchia, quân và dân đồng bằng sông Cửu Long đẩy mạnh tiến công địch cả về quân sự và chính trị. Tại đây, trong 6 tháng đầu năm 1970, quân và dân ta đã bao vây, bức rút 1000 đồn bốt, phá 1.600 ấp chiến lược và khu dồn, làm chủ 320 ấp với 40 vạn dân. Nhiều cuộc hành quân lấn chiếm vùng giải phóng của địch bị ta đánh bại.

Với nỗ lực lớn của các địa phương trên toàn miền Nam, chương trình bình định của địch những tháng đầu của năm 1970 bắt đầu bị chững lại. Nửa đầu năm 1970, địch không dồn thêm được dân, lấy thêm được đất. Kế hoạch bình định đặc biệt mà Mỹ và chính quyền Sài Gòn đặt ra dự kiến thực hiện trong vòng bốn tháng đã không đạt được kết quả như mong muốn, buộc chúng phải kéo dài bằng kế hoạch “bình định bổ sung 1970”, dự kiến sẽ kết thúc vào tháng 2-1971.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #61 vào lúc: 30 Tháng Tư, 2010, 12:05:25 am »


Không chỉ các hoạt động quân sự chống phá bình định có bước phát triển, trên mặt trận đấu tranh chính trị và ngoại giao của ta trong năm 1970 cũng có chuyển biến tích cực.

Phong trào đấu tranh chính trị thời kỳ này tập trung vào các nội dung đòi Mỹ và chính quyền Sài Gòn chấm dứt chiến tranh, vãn hồi hoà bình, đòi quyền dân sinh, dân chủ, chống bắt lính và chống quân sự hoá học đường, đòi Mỹ phải rút quân về nước. Ngoài các cuộc biểu tình thu hút đông đảo các tầng lớp thanh niên, sinh viên, nhân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ, công thương gia, tín đồ các tôn giáo... tham gia, đã xuất hiện nhiều cuộc hội thảo về tình hình chiến tranh, về tương lai đất nước... Tại Sài Gòn, từ tháng 3-1970, thanh niên, sinh viên tổ chức biểu tình phản đối chính quyền Nguyễn Văn Thiệu bắt lính, buộc sinh viên vào lực lượng phòng vệ dân sự, đặt mật vụ ở các trường đại học; đòi bãi bỏ các bài học có nội dung phản động trong nhà trường. Cuộc biểu tình thu hút hàng ngàn thanh niên, học sinh tham gia. Lo sợ trước làn sóng đấu tranh mạnh mẽ của học sinh, sinh viên, ngày 11-3-1970, chính quyền Thiệu đã huy động một lực lượng lớn cảnh sát dã chiến đàn áp, bắt giam 40 sinh viên trong đó có anh Huỳnh Tấn Mẫn - Chủ tịch Hội sinh viên Đại học Y khoa, Quyền Chủ tịch Tổng hội sinh viên Sài Gòn. Ngay lập tức, khắp thành phố Sài Gòn bùng lên làn sóng đấu tranh mạnh mẽ của học sinh, sinh viên thuộc Tổng hội sinh viên Sài Gòn, kể cả sinh viên Phật tử. Ngày 19-3-1970, đại diện sinh viên Sài Gòn đã họp và quyết định thành lập Uỷ ban đấu tranh chống đàn áp sinh viên, học sinh. Ngày 23-3, hơn 6.000 sinh viên Trường đại học Y khoa Sài Gòn bắt đầu bãi khoá. Hưởng ứng phong trào của Đại học Y khoa Sài Gòn, ngay sau đó, tất cả các trường đại học và cao đẳng ở Sài Gòn tổ chức tổng bãi khoá để phản đối hành động khủng bố, đàn áp sinh viên của chính quyền Thiệu - Kỳ, đòi trả tự do cho những sinh viên bị bắt và anh Huỳnh Tấn Mẫn. Đến ngày 26-3, cuộc tổng bãi khoá đã thu hút tới 33.000 sinh viên.

Ngày 28-3-1970, Hội liên hiệp sinh viên giải phóng và Đoàn học sinh giải phóng miền Nam ra tuyên bố nhiệt liệt hoan nghênh và ủng hộ cuộc tổng bãi khóa. Tuyên bố khẳng định: Lúc này hơn lúc nào hết, chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ, đẩy mạnh phong trào đấu tranh ở các địa phương, cùng với học sinh, sinh viên Sài Gòn thành một mặt trận chống Mỹ - ngụy rộng rãi buộc chúng phải thoả mãn những yêu cầu chính đáng nhất của tuổi trẻ học đường.

Từ Sài Gòn, phong trào lan nhanh ra khắp các thành phố, thị xã, thị trấn trên toàn miền Nam. Đặc biệt sau sự kiện Mỹ giật dây cho Lonnon làm đảo chính và đưa quân sang Campuchia, mở rộng chiến tranh ra toàn cõi Đông Dương, phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên toàn miền Nam có thêm nội dung lên án tội ác của Mỹ và chính quyền Thiệu - Kỳ đối với Việt kiều ở Campuchia. Ngày 5-4-1970, 60.000 học sinh, sinh viên các trường đại học Sài Gòn, Huế, Đà Lạt, Cần Thơ cùng hàng vạn học sinh trên toàn miền Nam đã phát động đợt tổng bãi khoá mới. Tại Sài Gòn, đoàn biểu tình vượt qua hàng rào của cảnh sát, kéo đến trước toà Đại sứ quán Mỹ, nhà Quốc hội, trụ sở Bộ Giáo dục, Bộ Tư pháp và Tòa án quân sự đấu tranh đòi thả những sinh viên bị bắt trái phép và phản đối đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh sang Campuchia, tàn sát dã man Việt kiều ở Campuchia. Đây là cuộc tổng bãi khoá có quy mô lớn nhất của học sinh, sinh viên miền Nam tính đến thời điểm đó.

Trước phong trào đấu tranh mạnh mẽ của học sinh, sinh viên miền Nam, chính quyền Sài Gòn buộc phải trả lại tự do cho những sinh viên đã bị chúng bắt. Hơn nữa, hòng xoa dịu sự phẫn nộ của tuổi trẻ học đường, ngày 17-5-1970, Thiệu ra sắc lệnh công nhận Tổng hội sinh viên là một tổ chức hợp pháp của học sinh, sinh viên ở miền Nam.

Trên mặt trận đấu tranh ngoại giao, ngay sau khi Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam được thành lập (6-6-1969), những người đứng đầu Chính phủ lâm thời và Hội đồng cố vấn của Chính phủ đã đi thăm chính thức một loạt nước, bày tỏ lập trường thiện chí của ta trong việc giải quyết vấn đề chiến tranh Việt Nam, vạch rõ âm mưu của đế quốc Mỹ, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của các chính phủ và dư luận rộng rãi trên thế giới. Còn ở trong lòng nước Mỹ, phong trào phản đối chính quyền, phản đối chiến tranh, đòi đưa nhanh chân Mỹ ra khỏi Việt Nam, đưa nhanh binh sĩ Mỹ bị bắt làm tù binh về nước... tiếp tục bùng lên dữ dội, đặc biệt sau sự kiện Mỹ sử dụng máy bay B52 ném bom Campuchia, giật dây cho Lonnon làm đảo chính và huy động quân đội đánh tràn qua biên giới nước này, đẩy đất nước vốn một thời kiên trì chính sách ngoại giao trung lập, đứng ngoài cuộc chiến rơi vào vòng xoáy bạo lực... khiến cho triển vọng chấm dứt cuộc chiến của Mỹ ở Việt Nam trở nên xa vời. Giờ đây, nước Mỹ tiếp tục bị chia rẽ, bị phân cực sâu sắc...

Trước sức ép của phong trào phản đối thái độ và hành động hiếu chiến của chính quyền Mỹ đang dâng lên ngày càng mạnh mẽ trên toàn thế giới cũng như ở ngay chính trong lòng nước Mỹ, ngày 26-4-1970, Quốc hội Mỹ đã bỏ phiếu chấm dứt hiệu lực của Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ - một nghị quyết trao quyền tiến hành chiến tranh cho Tổng thống Mỹ, một nghị quyết đã mở đường cho chính quyền Giônxơn đẩy hàng chục vạn thanh niên Mỹ sang chiến trường Việt Nam để rồi hàng chục ngàn người trong số đó không bao giờ trở về, một nghị quyết đã khiến Mỹ bị sa lầy, bế tắc ở Việt Nam và làm suy yếu nghiêm trọng vai trò, vị trí của nước Mỹ trên phạm vi toàn cầu... Như vậy, với quyết định ngày 26-4-1970, Quốc hội Mỹ chính thức tước bỏ quyền sử dụng quân đội Mỹ ở nước ngoài của Tổng thống. Tiếp đó, ngày 30-6-1970, Thượng viện Mỹ lại thông qua quyết định bổ sung cấm sử dụng thêm quân Mỹ ở Campuchia. Đây cũng là một trong những nguyên nhân buộc Níchxơn phải rút quân khỏi Campuchia.

Mặc dù cuộc chiến tranh còn diễn biến phức tạp, song những thắng lợi của ta trên tất cả các mặt quân sự, chính trị, ngoại giao trong nửa đầu năm 1970 trên chiến trường ba nước Đông Dương là to lớn, toàn diện. Những thắng lợi đó tạo điều kiện cho quân và dân ta vượt qua những thử thách ác liệt, đưa sự nghiệp kháng chiến tiếp tục phát triển.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #62 vào lúc: 30 Tháng Tư, 2010, 12:06:09 am »


Ngày 19-6-1970, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp và ra nghị quyết về Tình hình mới ở bán đảo Đông Dương và nhiệm vụ mới của chúng ta.

Đánh giá bước phát triển mới trong cục diện cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường ba nước Đông Dương, Bộ Chính trị khẳng định: tình hình mới ở Campuchia là điểm nổi bật nhất trong thời gian gần đây trên bán đảo Đông Dương. Tại đây, đế quốc Mỹ đã câu kết với bọn phản động Lonnon gây ra của cuộc đảo chính phản cách mạng. Tiếp đó, “chúng lại mang quân mở cuộc tiến công xâm lược nước này hòng tạo nên thế mạnh mới. Âm mưu của chúng là tiêu diệt cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến ở miền Nam Việt Nam, cắt đứt đường tiếp tế và phá hoại các cơ sở hậu phương của ta, đồng thời lôi kéo nước Campuchia vào qũy đạo của Mỹ, đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân Khơme, biến Campuchia thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ”1. Thế nhưng, thực tế cho thấy, trái với những toan tính của chúng, trên chiến trường Campuchia, đế quốc Mỹ đã bị thất bại nặng nề, “chúng không tiêu diệt được cơ quan lãnh đạo kháng chiến của ta, chỉ thu được kết quả hạn chế trong việc đánh phá kho tàng. Trong lúc đó thì hậu phương cuộc kháng chiến của nhân dân hai nước đã được mở rộng nhanh chóng. Quân Mỹ và quân ngụy miền Nam đã bị tổn thất khá nặng ở Campuchia mà vẫn không cứu vãn được tình hình suy yếu nghiêm trọng của chính quyền Lonnon - Matắc. Quân ngụy miền Nam còn bị buộc phải phân tán một bộ phận quan trọng lên chiến trường này, ngày càng sa lầy nghiêm trọng trên một chiến trường không thuận lợi cho chúng. Tình hình đó đây tạo thêm những sơ hở mới ở miền Nam Việt Nam gây thêm khó khăn cho việc thực hiện kế hoạch Việt Nam hoá chiến tranh” của Mỹ2.

Trong khi đó, “trên chiến trường miền Nam nước ta, quân và dân ta đang ra sức thực hiện chủ trương của Trung ương, đẩy mạnh tiến công địch về mọi mặt, đánh bại kế hoạch bình định và âm mưu Việt Nam hoá của chúng”3. Còn tại Lào, âm mưu và hành động mở rộng chiến tranh, đẩy mạnh chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mỹ cũng bị thất bại nặng.

Nhận định về âm mưu và chủ trương chiến lược của đế quốc Mỹ trong thời gian tới, Bộ Chính trị cho rằng, tuy đã bị thất bại nặng nề, nhưng “do bản chất cực kỳ ngoan cố của chúng, lại do chúng còn có tiềm lực, đế quốc Mỹ sẽ tìm cách kéo dài chiến tranh, vừa xuống thang, vừa phản công bộ phận; vừa rút quân Mỹ vừa tiếp tục hành động phiêu lưu. Trong thế bị động thất bại, chúng còn tìm cách mở rộng chiến tranh xâm lược ra các nước trên bán đảo Đông Dương theo phương thức và hạn độ chúng cho là thích hợp và có lợi, nhằm phối hợp với Việt Nam hoá chiến tranh ở miền Nam Việt Nam và để đàn áp cách mạng Campuchia và Lào”4.

Đi vào từng chiến trường cụ thể, Bộ Chính trị chỉ rõ âm mưu của đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam, là thực hiện cho được Việt Nam hoá chiến tranh, tạo nên thế mạnh nhằm duy trì chủ nghĩa thực dân mới5. Đối với campuchia, mục đích của đế quốc Mỹ là xây dựng lực lượng tay sai mạnh kết hợp với quân ngụy miền Nam làm nòng cốt hòng đánh bật ta ra khỏi Campuchia, tiêu diệt phong trào cách mạng Campuchia, nhanh chóng thành lập phòng tuyến chiến lược mới ở Đông Nam Á để ngăn chặn phong trào cách mạng”6. Với Lào, Mỹ ra sức “củng cố và tăng cường các lực lượng phản động kết hợp với một bộ phận quân đội Thái Lan và quân ngụy miền Nam đẩy mạnh chiến tranh đặc biệt, lấn chiếm và đánh phá vùng giải phóng nhất là ở khu vực Trung và Hạ Lào hòng ngăn chặn đường vận chuyển chiến lược của ta, đàn áp cách mạng Lào, uy hiếp miền Bắc Việt Nam, xúc tiến việc thực hiện kế hoạch liên minh khu vực ở Đông Nam Á”7.

Mặc dù kẻ thù của nhân dân ba nước trên bán đảo Đông Dương còn những điểm mạnh nhất định như: có tiềm lực lớn về kinh tế và quân sự, quân số còn đông, hoả lực và khả năng cơ động tuy có sút kém so với trước nhưng vẫn còn rất đáng kể; mặt khác, chúng còn giữ được những địa bàn chiến lược quan trọng, nhất là ở thành thị lớn, những vùng đông dân, nhiều của ở miền Nam Việt Nam, Lào và một phần ở Campuchia, nhưng chúng cũng có những điểm yếu rất cơ bản. Những điểm yếu đó là, trong quá trình bị buộc phải tiếp tục rút thêm quân, giảm bớt chi phí chiến tranh, Mỹ càng vấp phải những khó khăn lúng túng ngày càng lớn về chính trị, quân sự, kinh tế, tài chính ở các nước Đông Dương, trên thế giới và ngay ở nước Mỹ. Nội bộ giới lãnh đạo cao cấp Mỹ bị chia rẽ ngày càng sâu sắc về vấn đề Việt Nam. Chính quyền và quân đội tay sai Mỹ ở miền Nam, ở Lào và Campuchia càng thêm phân hoá...

Từ sự phân tích, đánh giá và lường định xu thế diễn biến tình hình trên đây, Bộ Chính trị chủ trương: “Động viên nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trên cả hai miền nước ta, tăng cường khối đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương, làm cho lực lượng của ba nước trở thành một khối thống nhất, có một chiến lược chung, kiên trì và đẩy mạnh của kháng chiến cứu nước của nhân dân ba nước chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai”8.
_______________________________________
1÷8. Nghị quyết Bộ Chính trị, ngày 19-6-1970, lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #63 vào lúc: 30 Tháng Tư, 2010, 12:07:06 am »


Để thực hiện nhiệm vụ này, Bộ Chính trị lưu ý, cần nắm vững và vận dụng đúng đắn các quy luật của chiến tranh nhân dân và các phương châm chiến lược cho phù hợp với tình hình mới, phù hợp với điều kiện, đặc điểm từng chiến trường ở ba nước Đông Dương.

Đối với miền Nam Việt Nam, chiến trường quan trọng nhất trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ba nước Đông Dương phải “kiên trì và đẩy mạnh kháng chiến, kết hợp chặt chẽ hơn nữa đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và binh vận, tiếp tục xây dựng thế tiến công chiến lược mới ngày càng mạnh mẽ, tiêu diệt thật nhiều lực lượng quân sự của Mỹ - ngụy, tiêu diệt và làm tan rã một bộ phận quan trọng quân đội ngụy tay sai, tập trung lực lượng đập tan kế hoạch bình định và âm mưu Việt Nam hoá chiến tranh, làm thất bại chiến lược phòng ngự và kéo dài chiến tranh của chúng”1.

Campuchia là một chiến trường mới mở trên bán đảo Đông Dương. Tại đây đang diễn ra một kiểu chiến tranh xâm lược rất đặc biệt với lực lượng tham gia không chỉ có tay sai bản xứ với sự viện trợ của Mỹ mà có lúc, quân Mỹ cũng trực tiếp tham gia, lại có ngụy quân Nam Việt Nam làm nòng cốt. Thắng lợi của nhân dân Campuchia không những có tác dụng quyết định đối với cách mạng nước này mà còn có tác dụng quan trọng đối với cách mạng miền Nam Việt Nam và Lào. Nhiệm vụ của chúng ta là phải “ra sức giúp đỡ bạn và phối hợp với bạn nắm vững thời cơ, tiếp tục phát triển thế tiến công, liên tục đưa cách mạng Campuchia tiến lên mạnh mẽ”2.

Lào là một chiến trường quan trọng. Từ khi chiến tranh mở rộng sang Campuchia, vị trí của chiến trường này càng trở nên hiểm yếu, nhất là bộ phận Trung, Hạ Lào vì đó là hành lang nối liền hậu phương miền Bắc nước ta với chiến trường miền Nam và Campuchia. Chúng ta cần “ra sức giúp đỡ bạn và phối hợp với bạn tiếp tục khuếch trương thắng lợi vừa qua, kiên quyết tiến công địch về mọi mặt đưa cách mạng Lào tiếp tục tiến lên!”3. Một trong những nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết trong thời gian tới là “giúp đỡ bạn và phối hợp với bạn mở rộng và xây dựng Trung, Hạ Lào thành căn cứ đia ngày càng vững mạnh, có kế hoạch sẵn sàng đánh bại các cuộc tiến công lớn hoặc những hành động lấn chiếm của địch, bảo vệ hành lang chiến lược của ta”4.

Đông Dương đã trở thành một chiến trường thống nhất là đặc điểm mới trong cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Đông Dương vì vậy, đòi hỏi phải có một chiến lược chung. Chiến lược đó hướng vào mục tiêu đánh bại âm mưu kéo dài và tăng cường chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trên bán đảo Đông Dương, giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành thắng lợi quyết định ở miền Nam Việt Nam, ở Campuchia và Lào, đuổi đế quốc Mỹ ra khỏi Nam Việt Nam và toàn cõi Đông Dương. Miền Bắc lúc này không chỉ là hậu phương của tiền tuyến miền Nam mà còn là hậu phương chung của cả cách mạng Lào và Campuchia. Nhiệm vụ của chúng ta ở miền Bắc là: “Phải ra sức động viên sức người sức của chi viện cho tiền tuyến, góp phần của mình vào sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta ở miền Nam cũng như của nhân dân hai nước Campuchia và Lào”5.

Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 6-1970 là sự phát triển và hoàn thiện Nghị quyết 18 của Ban Chấp hành Trung ương (tháng 1- 1970) trong hoàn cảnh cục diện kháng chiến của nhân dân ba nước Đông Dương đang trên đà chuyển biến. Nó chứng tỏ tầm nhìn chiến lược, bao quát và sắc sảo của Đảng ta, đồng thời nó cũng thể hiện sự nhạy bén sáng tạo trong chỉ đạo chiến tranh của Đảng trước những diễn biến mau lẹ của tình hình. Đó thực sự là một đảm bảo vững chắc cho sự phát triển mạnh mẽ, đúng hướng của sự nghiệp kháng chiến của nhân dân ba nước Đông Dương, nhanh chóng đưa cách mạng mỗi nước vượt qua thời kỳ đầy khó khăn thử thách, tiến lên giành những thắng lợi mới to lớn hơn.

Tiếp theo Nghị quyết trên đây, tháng 7-1970, Bộ Chính trị ra Chỉ thị về việc củng cố và xây dựng căn cứ địa nhằm đảm bảo kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến cho đến thắng lợi, đồng thời tạo điều kiện để xây dựng kinh tế và củng cố quốc phòng, sau khi kết thúc chiến tranh. Trong bản chỉ thị này, Bộ Chính trị một lần nữa khẳng định, phải xây dựng căn cứ địa của cách mạng miền Nam vững mạnh toàn diện, song trước mắt cần tập trung xây dựng kinh tế nhằm đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm, công cụ sản xuất, vũ khí để bảo đảm nhu cầu sinh hoạt và chiến đấu của quân và dân ta. Nhưng trong khi nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng kinh tế là khâu trung tâm. Chỉ thị cũng lưu ý viện xây dựng căn cứ địa vững mạnh về chính trị và quân sự.

Bộ Chính trị chỉ rõ bốn nhiệm vụ mà các cấp uỷ đảng và chính quyền phải thực hiện:

1. Phải quán triệt đầy đủ chủ trương của Trung ương về việc xây dựng căn cứ bởi đây là nhiệm vụ chung của quân và dân cả nước ta.

2. Các chiến trường phải có kế hoạch cụ thể xây dựng căn cứ địa ở chiến trường mình. Thường vụ Hội đồng Chính phủ, các bộ, các ngành của nhà nước phải có kế hoạch sẵn sàng cung cấp nhu cầu mọi mặt cho việc xây dựng căn cứ địa cách mạng.

3. Việc xây dựng căn cứ ở các chiến trường phải đặt dưới sự chỉ đạo tập trung, thống nhất của các cấp uỷ đảng.

4. Cần phối hợp chặt chẽ với nhân dân Lào và Campuchia để triển khai nhanh chóng, có kết quả việc xây dựng căn cứ địa cách mạng.

Ngày 10-12-1970, Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra lời kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân sẵn sàng đập tan mọi âm mưu và hành động của đế quốc Mỹ. Khẳng định những thắng lợi to lớn, toàn diện của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thời gian qua của quân và dân ta trên cả hai miền Nam, Bắc; vạch rõ âm mưu, hành động mới của địch đối với ba nước Đông Dương, Lời kêu gọi của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chính phủ khẳng định, cho dù đế quốc Mỹ điên cuồng đẩy mạnh chiến tranh, nhưng: toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta càng đoàn kết nhất trí, cả nước một lòng, ra sức thực hiện Di chúc thiêng liêng của Hồ Chủ tịch, kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến, quyết chiến, quyết thắng, đánh cho quân Mỹ phải rút hết, đánh cho ngụy quân và ngụy quyền sụp đổ, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến lên hoà bình thống nhất nước nhà. Nhân dân ta quyết kề vai sát cánh với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia anh em kiên quyết đánh đuổi đế quốc Mỹ ra khỏi bán đảo Đông Dương6.
_______________________________________
1 ÷ 5. Nghị quyết Bộ Chính trị, ngày 19-6-1970, Tlđd.
6. Dẫn theo Những sự kiện lịch sử Đảng, Sđd, t.3, tr.552.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #64 vào lúc: 30 Tháng Tư, 2010, 12:08:13 am »


II- ĐÁNH THẮNG QUÂN ĐỘI SÀI GÒN TIẾN CÔNG RA ĐƯỜNG 9 - NAM LÀO, ĐÔNG BẮC CAMPUCHIA, NGÃ BA BIÊN GIỚI

Bước vào đông xuân 1970 - 1971, đế quốc Mỹ ráo riết thực hiện âm mưu tiếp tục đẩy mạnh chương trình bình định nông thôn, ra sức đôn quân bắt lính xây dựng quân ngụy và ráo riết chuẩn bị tiến hành các cuộc tiến công ra chiến trường ba nước Đông Dương nhằm triệt phá hành lang vận chuyển chiến lược của ta. Tháng 11-1970, Tổng thống Mỹ Níchxơn phê chuẩn đề nghị của Bâncơ - Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn và Tư lệnh quân Mỹ ở Nam Việt Nam Abram đánh ra đường 9 - Nam Lào, Đông Bắc Campuchia và Ngã ba biên giới. Ngày 2-2-1971, Tổng thống Níchxơn họp cùng Cố vấn Kítsinhgơ, Ngoại trưởng Râugiơ, Bộ trưởng Quốc phòng Leđơ và Tham mưu trưởng Liên quân Morơ thông qua kế hoạch ba cuộc hành quân. Ba cuộc hành quân đó mang mật danh Lam Sơn 719, Toàn thắng 1/71Quang Trung 4. Nhà Trắng và Lầu Năm góc nuôi tham vọng thông qua các cuộc hành quân này sẽ làm suy yếu sức chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương, tạo điều kiện cho Mỹ thực hiện chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh rút dần quân Mỹ về nước nhưng vẫn buộc đối phương nhân nhượng trước những điều kiện của Mỹ và chính quyền Sài Gòn.

Để thực hiện chủ trương chiến lược trên, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ và quân đội Sài Gòn tập trung 88 tiểu đoàn (trong tổng số 214 tiểu đoàn bộ binh mà họ hiện có ở Nam Việt Nam), 15 thiết đoàn xe tăng, xe thiết giáp, 40 tiểu đoàn pháo binh từ 105mm đến 175mm, ba sư đoàn không quân và hàng trăm tàu, xuồng chiến đấu các loại, cùng một lúc mở ba cuộc tiến công quy mô lớn trên ba vùng chiến lược nhằm vào tuyến vận tải chiến lược và hậu phương trực tiếp của ta. Cuộc hành quân Toàn thắng 1/71 địch dự định sẽ từ Tây Ninh, Lộc Ninh (Việt Nam) đánh sang hai tỉnh Côngpông Chàm, Crachiê (Đông Bắc Campuchia). Cuộc hành quân Lam Sơn 719 sẽ từ Trị - Thiên đánh sang khu vực đường 9 - Nam Lào. Cuộc hành quân Quang Trung 4 sẽ đánh ra vùng ba biên giới ở bắc Tây Nguyên bao gồm các khu vực Tà Xẻng, Pa Kha, Sê Sụ (Atôpơ - Lào).

Trong ba cuộc hành quân trên đây thì cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh sang khu vực đường 9 - Nam Lào có mục đích, quy mô và ý đồ lớn nhất trong việc kiểm nghiệm khả năng của quân đội Sài Gòn - và do đó, kiểm nghiệm kết quả của chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh[ sau hơn hai năm triển khai thực hiện... Trong tính toán chiến lược của Mỹ, đường 9 - Nam Lào là nơi ta tập trung nhiều kho tàng dự trữ chiến lược, là “cuống họng” của đường Hồ Chí Minh, là huyết mạch đặc biệt quan trọng để nuôi sống cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam Việt Nam và cách mạng Lào, Campuchia. Cắt đứt, tiến tới phá huỷ hoàn toàn tuyến vận tải và cơ sở hậu cần chiến lược ở khu vực đường 9 - nam Lào, do vậy, là chặn đứng và triệt bỏ được nguồn tiếp tế từ gốc khiến lực lượng vũ trang ta, mà trước hết là bộ đội chủ lực ở miền Nam không thể đánh lớn được trong mùa khô 1971 -1972, buộc phải quay về hoạt động nhỏ lẻ, phân tán trong khuôn khổ một cuộc chiến tranh du kích. Điều này sẽ làm cho cách mạng miền Nam phải bị “tàn lụi” và chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh có thêm điều kiện để thực hiện thành công, quân đội Sài Gòn qua hoạt động quy mô lớn và qua việc giành chiến thắng có ý nghĩa chiến lược này, chứng tỏ được và có thêm cơ sở để mạnh lên đủ sức thay thế vai trò của quân Mỹ trên chiến trường và là lực lượng nòng cốt cho quân đội tay sai Mỹ ở các nước Đông Dương.

Chọn đường 9 - Nam Lào mở cuộc tiến công trong mùa khô 1970 -1971, phía Mỹ và Sài Gòn tính toán rất kỹ về mặt quân sự. Đường 9 - Nam Lào trước hết là khu vực có nhiều thuận lợi trong việc phát huy sức mạnh binh khí, kỹ thuật hiện đại và hiệp đồng tác chiến giữa quân Sài Gòn với quân Mỹ. Từ Cửa Việt tới Khe Sanh, quân Mỹ và quân Sài Gòn đã có sẵn hệ thống căn cứ hoả lực, căn cứ hậu cần, các sân bay dã chiến hạng trung đảm bảo cho máy bay vận tải khổng lồ C130 có thể lên xuống được và mạng lưới giao thông thuỷ - bộ khá thuận tiện cho việc cơ động lực lượng và phương tiện chiến tranh. Dựa vào hệ thống phòng ngự đường 9 - bắc Quảng Trị, địch có thể xây dựng bàn đạp xuất phát tiến công sang Lào ra nam Quân khu IV và tây Trị - Thiên, hoặc sẽ có điều kiện thuận lợi trong việc đối phó với sự tiến công, phản công mãnh liệt của đối phương khi chúng buộc phải rút lui khỏi địa bàn chiến dịch.

Để đạt mục tiêu mang nhiều tham vọng chủ quan trên và trong điều kiện địa hình cho phép, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ và Sài Gòn đã huy động 42.000 quân, trong đó 33.000 quân Sài Gòn, 9.000 quân Mỹ1 vào chiến dịch này. Toàn bộ lực lượng trên được tổ chức thành 11 trung đoàn bộ binh, trong đó có 10 trung đoàn quân đội Sài Gòn, một trung đoàn bộ binh Mỹ, hai thiết đoàn thiết giáp với 464 xe tăng, xe bọc thép, 16 tiểu đoàn pháo 250 khẩu2... Hầu hết các lực lượng tham gia tiến công sang đường 9 - Nam Lào là những đơn vị thiện chiến, thuộc lực lượng dự bị chiến lược và lực lượng chủ lực cơ động của Quân khu I (Vùng I chiến thuật). Đảm bảo tiếp tế hậu cần, chi viện hoả lực cho các đơn vị tham gia chiến dịch là lực lượng tiếp vận trung ương, không quân và pháo binh Mỹ. Hỗ trợ cho hướng tiến công chính còn có một bộ phận lực lượng bộ binh và thiết giáp Mỹ phối hợp ở phía sau. Ở hướng tây đường số chín, quân phái hữu Lào bao gồm chín tiểu đoàn thuộc hai binh đoàn (GM30 và GM33) ở Sê Nô, Đồng Hến tiến đánh ra khu vực Sê Săng Soi, Sê Ta Mộc và dự kiến sẽ hội quân với các đơn vị quân đội Sài Gòn “ca khúc khải hoàn” ở Pha Lan, Mường Phìn. Rõ ràng, đây là cuộc hành quân lớn nhất và điển hình theo công thức Việt Nam hoáĐông Dương hoá chiến tranh của đế quốc Mỹ.
_______________________________________
1. Lực lượng Mỹ tham gia yểm trợ mặt đất cho quân Sài Gòn là Quân đoàn hỗn hợp 24 do viên Trung tướng Sơthớclen chỉ huy.
2. Lúc cao nhất (ngày 10-3-1971) địch huy động tới 55.000 lính, gồm 15 trung đoàn bộ binh, ba thiết đoàn thiết giáp 587 xe, 21 tiểu đoàn pháo binh 318 khẩu.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #65 vào lúc: 30 Tháng Tư, 2010, 12:08:45 am »


Ngay sau khi xác định hướng tiến công chủ yếu ra khu vực đường 9 - Nam Lào, địch bắt đầu thực hiện một kế hoạch nghi binh quân sự lớn. Đầu tháng 1-1971, địch tổ chức họp báo “công khai” tiến công cùng một lúc sang đông nam Campuchia, cao nguyên Bôlôven (Lào), A Sầu, A Lưới (Thừa Thiên). Giữa tháng 1-1971, chúng tung tin sẽ dùng hải - lục - không quân vượt vĩ tuyến 17 đánh ra nam Khu IV để “trả đũa Bắc Việt Nam gia tăng hoạt động ở Nam Việt Nam”. Chứng minh cho “kế hoạch đã dự kiến” này, đầu tháng 2-1971, địch cho ba lữ đoàn (258, 147, 369) lính thuỷ đánh bộ thuộc quân đội Sài Gòn bấy giờ đang đứng chân ở Trị Thiên “tập dượt” vượt phá Tam Giang, sông Bồ, sông Thạch Hãn đánh vào các địa hình đồi núi và đồng bằng ven biển...

Với lực lượng mạnh, kế hoạch nghi binh rộng lớn, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ tin tưởng sẽ giành được thế chủ động tiến công và đạt được thắng lợi trước khi chủ lực miền Bắc kịp cơ động tới chiến trường tham chiến. Phía Mỹ và Sài Gòn càng chắc tin vào việc cùng một lúc mở ba cuộc hành quân ra ba điểm quan trọng ở Sê Pôn, Ngã ba biên giới Tây Nguyên và Đông Bắc Campuchia, sẽ gây bất ngờ lớn cho đối phương, tạo ra tuyến chia cắt nhiều tầng, chặn đứng hoàn toàn hướng tiếp tế từ miền Bắc qua đường Hồ Chí Minh và cảng Côngpông Xom (Campuchia), lập tuyến ngăn chặn cắt đôi Đông Dương, cô lập cách mạng miền Nam, uy hiếp miền Bắc, hỗ trợ cho chiến tranh đặc biệt ở Lào và xâm chiếm toàn bộ đất nước Campuchia.

Về phía ta, ngay từ giữa năm 1970, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương đã lường tính khả năng địch có thể mở cuộc tiến công quy mô lớn trong mùa khô 1970-1971 ra các vùng Trung, Hạ Lào, Đông Bắc Campuchia. Chính vì thế, ngay từ mùa hè 1970, Bộ Tổng tham mưu đã xúc tiến chuẩn bị kế hoạch tác chiến, chuẩn bị chiến trường, chuẩn bị lực lượng sẵn sàng và chủ động ứng phó với tình huống này. Đồng thời, mọi mặt chuẩn bị được tiến hành khẩn trương. Cơ quan chỉ huy tiền phương Tổng cục Hậu cần được thành lập, phối hợp với Đoàn 559 gấp rút hình thành tuyến hậu cần chiến dịch tại khu vực đường 9. Những tháng cuối năm 1970, các trạm hậu cần và các cụm kho chiến dịch được tổ chức, đảm bảo tiếp nhận một khối lượng vật chất lớn cho chiến dịch từ miền Bắc chuyển vào...

Bộ Chính trị chỉ thị cho Quân uỷ Trung ương nhất thiết phải đánh thắng trận này dù có phải động viên sức người, sức của và hy sinh như thế nào, vì đây là một trong những trận có ý nghĩa quyết định về chiến lược. Chiến thắng trận này, ta sẽ tiêu diệt được một bộ phận lớn sinh lực tinh nhuệ của quân ngụy Sài Gòn và phá huỷ một mảng phương tiện chiến tranh của chúng, làm thất bại cố gắng cao nhất của địch trong quá trình thực hiện Việt Nam hoá chiến tranh, tạo nên những chuyển biến căn bản có tính chất chiến lược cho phong trào cách mạng ba nước Đông Dương. Đồng thời, chúng ta cho đế quốc Mỹ và bọn tay sai biết rõ sức mạnh và quyết tâm của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, củng cố niềm tin cho nhân dân ta và bạn bè trên thế giới, hỗ trợ tích cực cho phái đoàn ta đấu tranh tại Hội nghị Pari.

Với ý nghĩa đó, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định mở chiến dịch phản công đường số 9 - Nam Lào tiêu diệt lớn sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm có Binh đoàn 70 (Sư đoàn 308, 304, 320), Sư đoàn 324, Sư đoàn 2, các đơn vị vũ trang mặt trận B5 (đường 9 - bắc Quảng Trị), B4 (Quân khu Trị - Thiên), Đoàn 559, bốn trung đoàn pháo binh, bốn trung đoàn pháo cao xạ, ba trung đoàn công binh; ba tiểu đoàn xe tăng, thiết giáp và một số tiểu đoàn đặc công của bộ. Ngày 8-2-1971, theo đề nghị của Tổng tham mưu trưởng và Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị: Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, quyết định thành lập Bộ Tư lệnh Mặt trận đường 9 với mật danh Mặt trận 70, đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Quốc phòng. Thiếu tướng Lê Trọng Tấn, Phó Tổng Tham mưu trưởng, làm Tư lệnh. Thiếu tướng Lê Quang Đạo, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, làm Chính uỷ, kiêm Bí thư Đảng uỷ mặt trận. Đại tá Cao Văn Khánh, nguyên Tư lệnh Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị, Phó Tư lệnh; Đại tá Phạm Hồng Sơn, Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng; Đại tá Hoàng Phương, Phó Chính uỷ. Nhiều cán bộ phụ trách các tổng cục, các quân chủng, binh chủng được tăng cường cho cơ quan mặt trận. Thượng tướng Văn Tiến Dũng, uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân uỷ Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng được cử làm đại diện của Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh trực tiếp chỉ đạo mặt trận này. Đây là cơ quan chỉ huy mạnh có đủ quyền hạn và khả năng chỉ huy tất cả các lực lượng tham gia chiến dịch và tổ chức hiệp đồng với các chiến trường có liên quan như Quân khu IV, Quân khu Trị - Thiên, Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị (B5), Đoàn 559 và liên quân Việt - Lào ở Nam Lào.

Chiến dịch phản công đường 9 - Nam Lào diễn ra trên một địa bàn rộng, với chiều dài khoảng 140 km theo hướng đông - tây, từ Cửa Việt, Đông Hà (Việt Nam) tới Mường Phìn, Pha Lan (Lào), chiều rộng (theo hướng bắc - nam) từ Mường Trương đến Mường Noọng, khoảng 60 km. Trên địa bàn gồm khu vực đồng bằng ven biển, đồi núi trung du xen kẽ làng mạc và núi cao rừng rậm từ Cửa Việt tới Lao Bảo dài 80km có trục đường 9 phía đông chạy qua, địch đã tập kết hàng chục trung đoàn, hàng chục kho tàng bến bãi, hàng chục trận địa pháo và sân bay dã chiến các loại ở Đông Hà, Cam Lộ, Khe Sanh, Lao Bảo, sẵn sàng cho cuộc tiến công nhằm vào các mục tiêu chiến lược chủ yếu của ta ở đường 9 - Nam Lào. Đoạn cửa khẩu từ Lao Bảo đến Mường Phìn dài 60 km thuộc địa giới tỉnh Xavanakhẹt (Lào), là khu vực rừng núi. Ở hai phía bắc - nam trục đường 9 kéo dài từ Bản Đông đến Sê Pôn, hầu hết là những dãy núi kế tiếp nhau cao từ 500 m đến 800 m, đôi chỗ thoải dần xuống trục đường 9, tạo ra những chiều, ngả giao thông chạy song song với dòng sông Sê Pôn sâu rộng. Đồng thời, các dãy điểm cao này cũng tạo ra những bức bình phong án ngữ bảo vệ trục đường chiến lược số 9. Nhìn chung, địa thế khu vực Bản Đông, Sê Pôn, Mường Phìn khá thuận lợi cho việc mở đường đảm bảo triển khai binh khí kỹ thuật trong tác chiến hiệp đồng binh chủng của cả hai phía ta và địch.

Đồng thời với việc gấp rút điều chỉnh lực lượng, tổ chức thế trận chuẩn bị tham gia chiến dịch phản công đường 9 - Nam Lào, Bộ Tổng tư lệnh cũng chỉ thị cho Đoàn 559 và Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị khẩn trương xây dựng mạng lưới giao thông và hậu cần chiến dịch. Về mạng đường cơ động lực lượng công binh và thanh niên xung phong làm thêm đường số 10, nâng cấp mở rộng đường 16, đường 129, mở thêm một số nhánh đường mới, đảm bảo cho các đơn vị vận tải cơ giới đẩy mạnh và hoàn thành việc vận chuyển vật chất vào các khu vực tập kết của bộ đội xong trước khi chiến dịch mở màn.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #66 vào lúc: 30 Tháng Tư, 2010, 12:09:14 am »


Đầu tháng 1-1971, với sự cố gắng cao nhất của các lực lượng tham gia vận tải hàng hoá quân sự, lượng vật chất đưa vào các hướng chiến dịch đã lên tới 60 nghìn tấn, đảm bảo cho bốn đến năm vạn quân tác chiến trong ba, bốn tháng. Ngoài ra, trên các tuyến vận tải thuộc Đoàn 559, hơn 30.000 tấn vật chất dự trữ cũng đã được tập kết, cất giấu. Lúc này các sư đoàn chủ lực cơ động được trang bị đầy đủ vật chất đang triển khai trinh sát thực địa. Hệ thống thông tin liên lạc phục vụ tác chiến ở khu vực đường 9 - Nam Lào được Bộ Tư lệnh Thông tin và các bộ tư lệnh 70, 559, đường 9 - bắc Quảng Trị khẩn trương hoàn tất. Mạng lưới quân y chiến dịch hình thành trên cơ sở các bệnh viện, bệnh xá của Đoàn 559, của Mặt trận Trị - Thiên, Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị và các đội điều trị, đội phẫu thuật của Cục Quân y có khả năng cấp cứu và điều trị ở tuyến một cho hàng nghìn thương binh, bệnh binh.

Phòng ngừa tình huống địch mở rộng tiến công bằng bộ binh ra phía nam Quân khu IV, Bộ Tổng tham mưu giao thêm nhiệm vụ cho Binh đoàn 70 chuẩn bị kế hoạch tác chiến phối hợp với các lực lượng vũ trang Quân khu IV sẵn sàng tiêu diệt địch; đồng thời điều động vào Quân khu IV mười tiểu đoàn pháo cao xạ nhằm tăng thêm lực lượng bảo vệ các tuyến giao thông vận tải và các mục tiêu trọng yếu; tăng cường cho các huyện ven biển từ Thanh Hoá đến Nam Hà mười đại đội bộ đội địa phương sẵn sàng đánh địch tập kích đường biển.

Để thu hút giam chân lực lượng địch tạo điều kiện cho các đơn vị bạn chuẩn bị chiến trường, những tháng cuối năm 1970, các đơn vị thuộc Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị và các đơn vị Liên quân Việt - Lào liên tục mở các đợt tiến công vào lực lượng cơ động quân đội Sài Gòn; đánh phá giao thông và các mục tiêu nằm sâu trong hậu phương địch. Ở hướng đông đường 9 - Nam Lào, trong ba tháng cuối năm 1970, các lực lượng vũ trang Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị đã đánh hơn 500 trận lớn nhỏ, loại khỏi vòng chiến đấu hàng ngàn tên địch, bắn rơi 50 máy bay, phá huỷ nhiều xe quân sự, 12 tàu, xuồng vận tải và nhiều phương tiện chiến tranh của địch; ghìm chân toàn bộ lực lượng cơ động của Sư đoàn 3 quân Sài Gòn, phá vỡ kế hoạch vận chuyển hàng hoá quân sự ra Ái Tử, Đông Hà của địch. Đặc biệt, trong hai tháng cuối năm 1970 và tháng 1-1971. quân dân hai huyện Gio Linh, Cam Lộ đã bảy lần đánh bại các cuộc hành quân nống lấn của địch hòng đánh phá các bàn đạp của ta ở khu vực hai xã Trung Giang, Gio An (Gio Linh) và bốn xã phía bắc huyện Cam Lộ. Hạ tuần tháng 1-1971, một bộ phận của quân Mỹ (một tiểu đoàn bộ binh, hai tiểu đoàn thiết giáp) được sự chi viện tối đa của không quân và pháo binh, mở trận càn mang mật danh Điuêcunion đánh ra đường 9 phía nam khu phi quân sự, chiếm lại khu vực Khe Sanh. Trận càn này của quân Mỹ vừa nhằm lập bàn đạp, vừa nghi binh cho các đơn vị quân đội Sài Gòn chuẩn bị mở cuộc tiến công ra đường 9 - Nam Lào. Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 27, Tiểu đoàn 2 trung đoàn 84 pháo binh được lệnh đã tiến công, chế áp địch ở khu vực Tân Lâm, Sa Mưu. Tiểu đoàn 3 độc lập tập kích địch ở tây Đầu Mầu. Tiểu đoàn 15 đánh cắt giao thông từ Bồng Kho đi Rào Quán. Hai ngày 6 và 7-2-1971. Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 84 đã dội 200 quả đạn pháo các loại vào căn cứ Đông Hà và Sở Chỉ huy tiền phương Sư đoàn 1 quân đội Sài Gòn ở điểm cao 241.

Trên hướng tây đường 9 gồm Đồng Hến, Pha Lan, Mường Phìn (Lào), Trung đoàn 48 Sư đoàn 320 bộ binh phối hợp cùng Quân giải phóng nhân dân Lào trong hai ngày 25 và 26-1-1971, liên tục tiến công tuyến bàn đạp Pha Lan - Sê Săng Soi, bước đầu làm thất bại ý đồ đánh chiếm Mường Phìn của quân phái hữu Lào - nơi hội tụ từ hai hướng đông - tây của cuộc hành quân Lam Sơn 719 của quân Mỹ và quân Sài Gòn.

Trong khi bộ đội ta đẩy mạnh các hoạt động ghìm chân địch trên hai hướng đông tây đường 9 - Nam Lào và Quảng Trị, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương chỉ thị cho các chiến trường toàn miền đẩy mạnh hoạt động phối hợp nhằm phân tán lực lượng địch. Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương chỉ rõ đây không chỉ là nhiệm vụ phối hợp tác chiến mà còn là nhiệm vụ thiết thân của mỗi chiến trường. Các đảng bộ địa phương và lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị, lực lượng binh vận cũng được lệnh nhân cơ hội địch điều phần lớn lực lượng cơ động ra tuyến ngoài, đẩy mạnh tiến công và nổi dậy chống bình định.

Từ ngày 30-1 đến ngày 6-2-1971, bằng đường không và đường bộ, quân Sài Gòn được sự hỗ trợ của quân Mỹ đã vận chuyển 22 tiểu đoàn lính dù, lính thuỷ đánh bộ và bảy tiểu đoàn pháo từ Sài Gòn, Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Thừa Thiên ra khu vực Đông Hà, Ái Tử, Khe Sanh. Để nghi binh, ngày 2-2, địch cho Lữ đoàn 147 lính thuỷ đánh bộ diễn tập thực binh trên sông Hiếu ở phía đông thị trấn Đông Hà 1 km và cho Lữ đoàn 258 lính thuỷ đánh bộ từ La Vang (Quảng Trị) vào cửa biển Thuận An (Huế) xuống tàu thuỷ đi lên hướng bắc Cửa Tùng. Từ biển đông, Hạm đội 7 Mỹ cho một số tàu khu trục tiến vào uy hiếp vùng biển phía nam Quảng Bình tham gia nghi binh hòng thu hút sự chú ý của ta.

Căn cứ vào âm mưu và lực lượng triển khai của địch, lúc đầu ta bố trí quân sẵn sàng ứng phó cả hai tình huống địch hành quân ra đường 9 - Nam Lào và tiến công ra nam Khu IV. Nhưng về sau, cuối tháng 1, đầu tháng 2-1971, nhận thấy nam Khu IV chỉ là hướng địch nghi binh, nên Bộ Tổng tham mưu quyết định chuyển trọng tâm chuẩn bị tác chiến vào hướng đường số 9 - Nam Lào. Vì vậy, ngày 7-2-1971, khi địch triển khai xong toàn bộ lực lượng trên các khu vực bàn đạp như Sư đoàn dù do Dư Quốc Đống chỉ huy ở Làng Vây, Ta Kút; Liên đoàn 1 biệt động quân của tên Đại tá Mai Hiển ở Tà Púc, động A Hai; Trung đoàn 3 Sư đoàn 1 bộ binh ở Làng Cát; ba thiết đoàn xe tăng, xe bọc thép do Đại tá Nguyễn Trọng Luật chỉ huy từ Khe Sanh lên Lao Bảo; Lữ đoàn 147 lính thủy đánh bộ ở nam Làng Vây; Lữ đoàn 1 bộ binh cơ giới Mỹ từ Tân Lâm đến Hướng Hoá; tám tiểu đoàn quân phái hữu Lào nống lấn ra Pha Lan và Phađôtuya ở hướng tây đường 9..., thì cũng là lúc các sư đoàn chủ lực thuộc Binh đoàn 70 và lực lượng vũ trang Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị đã hoàn tất các mặt chuẩn bị chiến dịch và chiến đấu, sẵn sàng đón đánh địch.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #67 vào lúc: 30 Tháng Tư, 2010, 12:09:57 am »


Ngày 8-2-1971, Bộ Chỉ huy quân Mỹ và quân Sài Gòn ở vùng một chiến thuật ao tên tướng hai sao Sơthớclen và tên tướng hai sao Hoàng Xuân Lãm chỉ huy được lệnh bắt đầu tiến công khu vực đường 9 - Nam Lào. Hàng chục trận địa pháo với hàng trăm khẩu từ 105mm tới 175mm bố trí dọc biên giới Việt - Lào trên một chính diện 30 km và hàng chục tốp máy bay phản lực các loại đồng loạt đánh phá dữ đội các mục tiêu dọc hai bên đường 9 - Nam Lào, mở màn cho cuộc hành quân Lam Sơn 719. Khói lửa của bom đạn bốc lên trùm kín vùng trời biên giới Việt Nam - Lào.

Với sự chi viện tối đa về hoả lực và được sự yểm trợ của Lữ đoàn 1 bộ binh cơ giới Mỹ, bảy trung đoàn bộ binh, dù, thiết giáp quân Sài Gòn chia thành ba cánh vượt biên giới Việt - Lào. Cánh quân trên hướng tiến công chủ yếu của địch do chiến đoàn đặc nhiệm gồm Lữ đoàn dù 1, hai thiết đoàn (11, 17), tiến đánh theo trục đường 9 bằng cơ giới và thiết giáp; Tiểu đoàn 9 Lữ đoàn dù 1 được trực thăng đổ xuống đánh chiếm Bản Đông. Cánh quân bảo vệ sườn bắc gồm Lữ đoàn 3 dù và Tiểu đoàn 39 biệt động quân cơ động bằng máy bay lên thẳng, đổ xuống chiếm các điểm cao và thiết lập các căn cứ hoả lực ở điểm cao 500, 316, bắc Làng Sen, điểm cao 655 (Phu A Rinh), điểm cao 543, 532, 546... Cánh quân bảo vệ sườn nam là Sư đoàn 1 bộ binh do tên tướng Phạm Văn Phú chỉ huy chiếm khu vực Ku Bốc và các điểm cao 619, 537, 550, 532, 540. Trong một vài ngày đầu của cuộc hành quân, tốc độ tiến quân của địch khá nhanh, địch chiếm lĩnh hầu hết các dãy điểm cao hai bên nam - bắc đường số 9, thiết lập bình phong bảo vệ đội hình hành quân chủ yếu của chúng ở Bản Đông.

Về phía ta, từ đầu tháng 2-1971, sau khi địch đưa quân ra đường 9 - bắc Quảng Trị đánh chiếm lại Khe Sanh, Hướng Hoá, thiết lập hệ thống bàn đạp xuất phát tiến công sang đường 9 - Nam Lào, Trung ương Đảng trong lời kêu gọi toàn thể cán bộ, chiến sĩ trên Mặt trận đường 9 kiên quyết phản công và tiến công đập tan cuộc hành quân của địch đã chỉ rõ: đây là trận có ý nghĩa quyết định về chiến lược. Đánh trận này không những để giữ vững tuyến vận tải chiến lược mà còn nhằm tiêu diệt nhiều đơn vị dự bị chiến lược của địch, tạo điều kiện đánh bại một bước quan trọng âm mưu Việt Nam hoá chiến tranh, đẩy cuộc kháng chiến tiến lên mạnh mẽ, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, làm tròn nhiệm vụ quốc tế vẻ vang và rèn luyện bộ đội chủ lực.

Ngày 9-2-1971 - một ngày sau khi quân đội Sài Gòn ồ ạt đánh sang đường 9 - Nam Lào, Quân uỷ Trung ương ra chỉ thị: “Kiên quyết đập tan bước phiêu lưu quân sự mới của đế quốc Mỹ và tay sai, giành toàn thắng cho chiến dịch X” (đường 9 - Nam Lào). Sau khi chỉ rõ tầm quan trọng của chiến dịch có ý nghĩa quyết định về chiến lược, bản chỉ thị xác định: “Thắng lợi của chiến dịch không những bảo đảm cho sự chi viện của hậu phương đối với tiền tuyến mà còn tiêu diệt một lực lượng dự bị chiến lược quan trọng của quân ngụy trên chiến trường miền Nam và một bộ phận quan trọng của quân Mỹ, đánh một đòn rất mạnh vào ý chí xâm lược của Mỹ - ngụy”1.

Quân uỷ Trung ương yêu cầu cấp uỷ đảng và chỉ huy các cấp ra sức động viên chính trị, tinh thần cán bộ, chiến sĩ, đảng viên, đoàn viên nhận thức rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của chiến dịch, từ đó xây dựng tinh thần triệt để chấp hành chỉ thị, mệnh lệnh của trên, không ngừng nâng cao ý chí quyết chiến, quyết thắng. Quá trình chiến đấu luôn luôn nắm vững tư tưởng chỉ đạo tác chiến chiến dịch, tích cực chủ động liên tục tiến công địch làm chủ chiến trường, bắt tù binh thu vũ khí, giành thắng lợi giòn giã ngay từ trận đầu.

Quân uỷ Trung ương kêu gọi: “Toàn thể cán bộ, chiến sĩ, đảng viên, đoàn viên hãy ra sức thực hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu và quyết tâm chiến lược của Trung ương Đảng... Tập trung cao nhất tinh thần và sức lực dũng mãnh tiến công, liên tục tiến công tiêu diệt thật nhiều lực lượng tinh nhuệ của địch, quyết bảo vệ con đường Hồ Chí Minh. Xốc tới giành thắng lợi cao nhất trong chiến dịch quan trọng này”2.

Đáp lời kêu gọi của Trung ương Đảng và Quân uỷ Trung ương, toàn quân, toàn dân trên Mặt trận đường 9 - Nam Lào khẩn trương bước vào chiến dịch phản công với khí thế quyết tâm cao nhất. Trên hướng chủ yếu, trong hai ngày 8 và 9-2, bộ đội cao xạ, bộ binh, công binh đứng chân ở các khu vực từ tây Huội San đến Bản Đông đã chặn đánh quyết liệt Lữ đoàn dù 1 và Thiết đoàn 17 quân Sài Gòn hành quân bằng trực thăng và xe cơ giới, bắn rơi 50 máy bay lên thẳng, bắn cháy 12 xe thiết giáp các loại. Sáng ngày 9-2, Trung đoàn bộ binh 24 Sư đoàn 304 - lực lượng tăng cường cho Sư đoàn bộ binh 308, liên tiếp đánh lui 5 đợt tiến công của Chiến đoàn đặc nhiệm dù ở khu vực điểm cao 351, cầu Cha Ky, diệt hơn 100 tên, loại khỏi vòng chiến đấu hai đại đội địch, giữ vững trận địa.

Biết lực lượng ta chốt giữ khá mạnh ở dọc trục đường 9, sáng ngày 10-2, Chiến đoàn đặc nhiệm dù với hơn 100 xe tăng, xe bọc thép và hơn 3.000 lính dù được sự chi viện tối đa của pháo binh và máy bay (kể cả máy bay B52), chia làm ba mũi bám hai bên trục đường 9, dùng tốc độ cao của cơ giời ồ ạt đánh qua các điểm chốt của Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 24 tiến về phía Bản Đông. Do lực lượng có hạn, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 24 không tổ chức xuất kích đánh chặn địch, mà kiên quyết bám trụ hầm hào, giữ vững trận địa, đánh nhỏ lẻ làm chậm bước tiến của địch. Chiều ngày 10-2, bằng cách dùng máy bay trực thăng đổ quân và sử dụng xe cơ giới đột phá dọc đường 9, Chiến đoàn đặc nhiệm dù và các đơn vị hỗ trợ của địch trên hướng chủ yếu đã chiếm được Bản Đông. Tuy nhiên, ngay sau khi Chiến đoàn dù vào chốt giữ Bản Đông, chúng đã bị bộ đội ta vây chặt. Đồng thời, pháo binh ta bắn chế áp, không cho chúng phát triển lên Sê Pôn. Ngày 11-2, tại khu vực cầu Cha Ky, điểm cao 351, Trung đoàn 24 và các lực lượng binh chủng phối thuộc dùng chiến thuật vận động tiến công kết hợp chốt đã đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 1 dù, phá huỷ 22 xe quân sự các loại, bắn rơi 30 máy bay lên thẳng của địch. Ngày 12 và 13-2, Trung đoàn 24 bất chấp bom đạn địch đánh phá ác liệt, tiến công ra mặt đường 9, cắt đứt một số đoạn hiểm yếu từ tây Lao Bảo đến đông Bản Đông, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên, phá huỷ hàng chục xe quân sự của địch.
_______________________________________
1, 2. Chỉ thị 009/QUTW do Bí thư Quân uỷ Trung ương Võ Nguyên Giáp ký ngày 9-2-1971, hồ sơ 594 - Cục Lưu trữ Bộ Quốc phòng.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #68 vào lúc: 30 Tháng Tư, 2010, 12:11:30 am »


Trên khu vực phía bắc đường 9, đoạn từ đường 16 đến tây Phu A Rinh dài gần 20 km do Sư đoàn 308, Trung đoàn 64 Sư đoàn 320 và các lực lượng pháo mặt đất, pháo phòng không, công binh, vận tải đảm nhiệm, bộ đội ta ngay trong hai ngày 8 và 9-2, đã phản công mãnh liệt địch ở điểm cao 655 (căn cứ 30), điểm cao 543 (căn cứ 31), điểm cao 316 và điển cao 500, bắn rơi 14 máy bay lên thẳng chở quân, loại khỏi vòng chiến đấu gần 200 tên địch. Ngày 10-2, tại khu vực đường 16, Trung đoàn 88 Sư đoàn 308 sử dụng Tiểu đoàn 6 vận động tiến công đánh thiệt hại nặng Đại đội 2 Tiểu đoàn 21 biệt động quân, diệt 80 tên, bảo vệ an toàn hai trận địa pháo ở bắc Làng Sen. Chiều ngày 11-2, Tiểu đoàn 4 Trung đoàn 88 và Đại đội 9 tiểu đoàn 11 Trung đoàn 64 phối hợp tập kích Tiểu đoàn 2 dù ở bắc Sê Nun. Đêm 12-2, Tiểu đoàn 4 được tăng cường Đại đội 9 Tiểu đoàn 6 Trung đoàn 88 tập kích hai đại đội của Tiểu đoàn 39 biệt động quân ở điểm cao 500, buộc địch phải co lại, không dám nống ra lùng sục. Ở hướng Trung đoàn 64 đảm nhiệm, ngày 10-2, Tiểu đoàn 9 chặn đánh hai đại đội thuộc Tiểu đoàn 3 dù từ căn cứ 31 nống ra Rơ Niêm lùng sục, loại khỏi vòng chiến đấu gần một đại đội địch. Tiếp đó, ngày 13-2, Trung đoàn 64 sử dụng hai tiểu đoàn (9 và 10) vận động tiến công Tiểu đoàn 6 dù đổ bộ xuống đồi Không Tên nhằm thiết lập căn cứ 32 bảo vệ Sở Chỉ huy Lữ đoàn dù 3 ở căn cứ 31, tiêu diệt hai đại đội địch, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 200 tên, buộc địch phải đưa Tiểu đoàn 6 về phía sau củng cố. Trong đợt chiến đấu ở đồi Không Tên, Trung đội 2 Đại đội 9 Tiểu đoàn 9 do Trung đội trưởng Phùng Quang Thanh chỉ huy, đã chiến đấu mưu trí dũng cảm, đột phá qua 6 cụm địch, diệt và bắt hơn 50 tên cùng Tiểu đoàn 9 hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Lực lượng tại chỗ Đoàn 559 trên hướng thứ yếu nam Bản Đông bao gồm các khu vực Ku Bốc, điểm cao 619, 537, 550... tích cực đánh chặn địch tạo điều kiện cho bộ đội chủ lực Sư đoàn 324 cơ động tiến công, diệt và đánh thiệt hại nặng hai tiểu đoàn, hai đại đội thuộc Sư đoàn 1 bộ binh quân đội Sài Gòn, bắn rơi 12 máy bay lên thẳng. Ở hướng tây đường 9, Sư đoàn 2 do Sư đoàn trưởng Nguyễn Chơn và Chính uỷ Nguyễn Huy Chương chỉ huy có sự phối hợp của Trung đoàn 48 Sư đoàn 320 và Quân giải phóng nhân dân Lào đánh thiệt hại nặng GM30, GM33 quân phái hữu Lào ở Phađôtuya và Pha Lan, bức địch rút chạy về Saravan và Đồng Hến.

Trên hướng đông đường 9, được Bộ Tổng tham mưu và Bộ Tư lệnh Quân khu IV tăng cường 3 tiểu đoàn đặc công (19, 31, 35), hai tiểu đoàn pháo cao xạ (13,14), tám đại đội pháo mang vác, Bộ Tư lệnh Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị chỉ đạo các lực lượng khẩn trương đánh địch, hỗ trợ cho hướng chủ yếu. Trong tuần lễ đầu từ ngày 8 đến ngày 14-2, Đoàn đặc công 126 hải quân đánh bốn trận, diệt sáu tàu LST của địch đang trên đường từ Cửa Việt đi Đông Hà, phá huỷ 2.000 tấn hàng hoá quân sự. Sáu trận địa pháo cơ giới và mang vác cơ động của ta bố trí dọc khu vực bắc đường 9 từ miếu Bái Sơn đến Rào Quán, La Rường đã bắn hàng trăm quả đạn cối từ 82mm đến 120mm vào các cụm địch chốt giữ đoạn đường 9 từ Tân Lâm, Sa Mưu, Bồng Kho đến Động Tri, Tia Đông, gây cho chúng nhiều tổn thất về sinh lực và phương tiện chiến tranh.

Sau tuần đầu tiến công (từ ngày 8 đến 13-2) ba cánh quân địch trên ba hướng bắc, nam và trục đường 9 bị chặn đánh quyết liệt, một số đơn vị bị thiệt hại nặng, khiến tốc độ và mục tiêu tiến công trên hướng chính của chúng không đạt được như tính toán ban đầu.

Phát huy chiến thắng, ngày 14-2, Bộ Chỉ huy Mặt trận đường 9 - Nam Lào quyết định tập trung phần lớn lực lượng Binh đoàn 70 (Sư đoàn 308, Trung đoàn 64, Sư đoàn 320) và lực lượng binh chủng phối thuộc đẩy mạnh tiến công, tiêu diệt cánh quân bảo vệ sườn phía bắc đường 9, bao vây, chia cắt các cụm quân địch trên các điểm cao, cô lập cánh quân chủ yếu ở Bản Đông, không để chúng phát triển tiến công lên Sê Pôn. Đồng thời, Bộ Tư lệnh chiến dịch đường 9 - Nam Lào cũng quyết chọn khu vực bắc đường số 9 làm hướng phản công chủ yếu và điểm cao 500 từng được địch mệnh danh là lá chắn thép do Tiểu đoàn 39 thuộc Liên đoàn biệt động quân số 1 chiếm giữ, là mục tiêu then chốt và điểm cao 543 do Tiểu đoàn 3, Lữ đoàn bộ Lữ đoàn 3 dù và trận địa pháo đóng chốt, là mục tiêu đặc biệt quan trọng.

Nhiệm vụ đánh mở cửa điểm cao 500 được giao cho Sư đoàn 308 và điểm cao 543 được giao cho Trung đoàn 64 Sư đoàn 320 tiến công tiêu diệt.

Điểm cao 500 nằm ở khoảng giữa đường 16B và đường 16A, cách Bản Đông 12 km, có vị trí rất lợi hại về chiến thuật. Chiếm giữ điểm cao này, địch có thể khống chế đường 16A, 16B, khu kho hậu cần Đoàn 559 ở Mường Chương, Ngã ba Cha Ky, ngăn chặn bộ đội ta triển khai binh khí kỹ thuật và cơ động xuống hướng nam. Trong Liên đoàn biệt động quân số 1, Tiểu đoàn 39 được đánh giá là đơn vị “công thủ toàn diện”. Tiểu đoàn này được biên chế 500 quân, trang bị bảy khẩu ĐKZ (trong đó có hai khẩu 106,7mm, hai khẩu 75mm), bốn khẩu cối 81mm, chín khẩu đại liên và nhiều súng phóng lựu M79. Với sự chi viện hoả lực của các trận địa pháo binh đặt tại Tà Púc, điểm cao 543, Bản Đông, Lao Bảo và được không quân Mỹ chi viện tối đa, địch vững tin điểm cao 500 là một lá chắn thép ngăn chặn ta trên hướng bắc.

Nhận thức rõ trận đánh chiếm điểm cao 500 có tác động lớn đến quá trình phát triển chiến dịch, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 308 quyết định sử dụng Trung đoàn 102 được tăng cường Tiểu đoàn 6 (Trung đoàn 88), năm đại đội pháo mặt đất và nhiều trận địa pháo cao xạ của mặt trận vào trận đánh quan trọng này. Tác chiến trong điều kiện địa hình rừng núi, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 308 lệnh cho Trung đoàn 102 tổ chức vây lấn, áp sát, tiến tới tiêu diệt quân địch ở điểm cao 500.

Đêm 15 rạng ngày 16-2, Trung đoàn 102 do Trung đoàn trưởng Hoàng Ngọc Tý và Chính uỷ Nguyễn Hữu Ích chỉ huy cùng các lực lượng phối thuộc tiến vào xây dựng trận địa vây lấn quân địch ở điểm cao 500. Tiếp đó, trong hai ngày 16 và 17-2, từ các trận địa vây lấn vừa được đào đắp xong, quân ta dùng hoả lực bắn phá hỗ trợ cho các đơn vị bộ binh áp sát địch đào công sự chiến đấu. Địch phản ứng quyết liệt bằng việc sử dụng phi pháo oanh kích dữ dội trận địa bộ đội ta hòng nới rộng vòng vây, đồng thời sử dụng máy bay trực thăng chở quân và đồ tiếp tế cho lực lượng đang bị vây chặt trên điểm cao 500. Tuy nhiên, hoả lực phòng không của ta đã kịp thời khống chế bầu trời khu vực tác chiến, làm cho máy bay trực thăng địch không hạ cánh nổi. Điểm cao 500 bị vây ép chặt và bắt đầu bị cô lập. Đêm 18-2, Tiểu đoàn 6 đánh chiếm mỏm số 2 thuộc khu vực điểm cao 500. Địch chống trả quyết liệt dồn hoả lực bắn xối xả vào các tổ xuất kích của ta. Bất chấp ác liệt, hy sinh, tiểu đội trưởng Dương Đăng Hải dũng cảm, linh hoạt dẫn tiểu đội thọc sâu xông lên chia cắt địch, tạo thế thuận lợi cho đại đội xung phong. Chiến sĩ Phạm Văn Đỗ dũng mãnh tiến công diệt 17 tên địch và mặc dù bị thương vẫn không rời tay súng, tiếp tục cùng đồng đội truy kích địch cho đến khi trận đánh kết thúc. Sau hơn một giờ chiến đấu, Tiểu đoàn 6 diệt gọn Đại đội 4 Tiểu đoàn 39 biệt động quân, làm chủ trận địa. Ngay sau đó, Tiểu đoàn 6 liên tục đánh lui các đợt phản kích của địch, giữ vững mỏm hai, tạo điều kiện cho Tiểu đoàn 7 phát triển sang mỏm 3 và buộc địch phải dồn về co cụm ở mỏm 4 và mỏm 5. Trước nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn, sáng 20-2, địch sử dụng hoả lực pháo binh bắn phá dữ dội các khu vực quân ta chốt giữ, sau đó cho máy bay trực thăng tới hòng bốc số quân còn lại đang bị vây chặt trên điểm cao 500. Nắm được ý đồ của địch, lực lượng pháo phòng không của Trung đoàn 102 tập trung bắn trả quyết liệt, bắn rơi ba máy bay trực thăng. Cùng đường sống, lính biệt động quân còn lại trên khu vực điểm cao 500 liều mạng cắt rừng, chạy về hướng điểm cao 316, nhưng tất cả đều sa vào các trận địa đón lõng của quân ta. Đúng 16 giờ 30 phút ngày 20-2, Trung đoàn 102 và các lực lượng tăng cường làm chủ hoàn toàn điểm cao 500, tiêu diệt gọn Tiểu đoàn 39 biệt động quân, bắn rơi sáu máy bay lên thẳng, thu và phá huỷ toàn bộ quân trang, quân dụng, mở tung cánh cửa phía bắc trên hướng phản công chủ yếu của chiến dịch.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #69 vào lúc: 30 Tháng Tư, 2010, 12:20:33 am »


Trong lúc chiến sự ở khu vực điểm cao 500 đang diễn ra, ngày 17-2-1971, Bộ Tư lệnh chiến dịch đường 9 - Nam Lào lệnh cho Trung đoàn 64 Sư đoàn 320 cùng các lực lượng xe tăng, pháo mặt đất, pháo phòng không, công binh, vận tải phối thuộc tiến công, tiêu diệt căn cứ 31 (điểm cao 543).

Căn cứ 31 án ngữ đường 16 A, có tác dụng ngăn chặn lực lượng ta phát triển xuống Bản Đông. Căn cứ này gồm bốn mỏm đồi kế tiếp nhau. Mỏm 1 là khu trung tâm do Bộ Chỉ huy Lữ đoàn dù 3 quân đội Sài Gòn đóng giữ. Mỏm 2 ở phía đông bắc, mỏm 3 và 4 ở phía tây bắc, do Tiểu đoàn 3 dù chốt giữ. Trận địa pháo và sân bay dã chiến của căn cứ nằm xen kẽ giữa các mỏm đồi. Sau mười ngày đổ quân xuống khu vực này, địch đã xây dựng xong công sự, hào giao thông. Tuy nhiên, do bị pháo binh ta uy hiếp liên tục nên hệ thống phòng ngự của địch tại đây chưa hoàn chỉnh. Vật cản, dây thép gai bảo vệ căn cứ còn thiếu nhiều. Đường cơ giới từ Bản Đông lên căn cứ 31 chưa làm xong. Hoả lực tại chỗ của căn cứ có sáu khẩu pháo 105mm, bốn khẩu 12,8mm. Hoả lực gián tiếp chi viện bị hạn chế, chỉ có trận địa pháo ở Bản Đông là bắn tới được. Sau trận thắng của ta ở đồi Không Tên, quân địch ở căn cứ 31 không dám nống ra lùng sục dọc đường 16A, mà chỉ cố thủ trên bốn mỏm của căn cứ, lực lượng khoảng 650 tên.

Sau ba ngày gấp rút hoàn thành công tác chuẩn bị chiến đấu, sáng 20-2, Trung đoàn 64 và các lực lượng tăng cường do Trung đoàn trưởng Khuất Duy Tiến và Chính uỷ Đặng Văn Trượng chỉ huy, bắt đầu nổ súng tiến công căn cứ 31. Từ ngày 20 đến 24-2, bằng chiến thuật vây lấn, Trung đoàn 64 lần lượt tiêu diệt các trận địa hoả lực và các tuyến chốt phòng ngự vòng ngoài của địch, cắt đường tiếp tế cả trên không và mặt đất, làm cho căn cứ 31 bị cô lập hoàn toàn. Trưa ngày 25-2, sau đòn tập kích bằng hoả lực pháo binh mãnh liệt, bộ binh và xe tăng ta từ hai hướng tây - bắc và đông - nam đồng loạt tiến công căn cứ 31. Địch huy động hàng chục máy bay, hàng chục khẩu pháo từ đường 9, Bản Đông ném bom, bắn phá dữ dội hòng cản sức tiến công của ta, đồng thời tổ chức các đợt phản kích bằng bộ binh nhằm đẩy quân ta ra khỏi khu vực căn cứ. Nhưng với quyết tâm cao, cách đánh sáng tạo, được sự chi viện đắc lực của xe tăng, Trung đoàn 64 lần lượt đè bẹp các đợt phản kích của địch. 16 giờ 30 phút ngày 25-2-1971, bộ đội ta làm chủ căn cứ 31, tiêu diệt Tiểu đoàn 3 dù, tiểu đoàn pháo binh và Sở Chỉ huy Lữ đoàn 3 dù, bắt sống Đại tá Nguyễn Văn Thọ - Lữ đoàn trưởng và toàn bộ Ban Tham mưu lữ đoàn địch. Cùng với thắng lợi to lớn ở điểm cao 500, chiến thắng vang dội ở căn cứ 31 đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho quân ta triển khai lực lượng, binh khí kỹ thuật trên đường 16A, 16B tiến công địch trên đường 9 và Bản Đông.

Ở phía nam đường 9, Sư đoàn 324 chốt giữ khu vực Sa Đi, Mường Noòng. Bộ Tư lệnh sư đoàn sử dụng Trung đoàn 2, lực lượng phòng không, công binh mặt trận tiến hành vây lấn trận địa của Trung đoàn 3 Sư đoàn 1 quân Sài Gòn ở Bản Ngan; Trung đoàn 1 vây ép Trung đoàn 1 Sư đoàn 3 quân Sài Gòn ở điểm cao 619. Trên hướng này, Trung đoàn 141 Sư đoàn 2, lực lượng dự bị của mặt trận đứng chân ở Ku Bốc có nhiệm vụ sẵn sàng chi viện cho Trung đoàn 2 và Trung đoàn 1 Sư đoàn 324. Ngày 24-2, được chiến thắng của các sư đoàn bạn ở hướng bắc đường 9 cổ vũ, Trung đoàn 3 do Trung đoàn trưởng Hoàng Trọng Thế chỉ huy, sử dụng Tiểu đoàn 9 vận động tiến công Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 1 địch ở điểm cao 619 bấy giờ đang nống ra lùng sục đánh phá các kho hậu cần của ta ở Đông Bắc Bản Ngan. Bị tiến công dồn dập từ nhiều phía suốt hai ngày 24 và 25-2, hai tiểu đoàn của Trung đoàn 1 quân Sài Gòn chốt giữ khu vực Bản Ngan bị thiệt hại nặng. Sư đoàn 1 quân Sài Gòn buộc phải gọi máy bay trực thăng đến bốc số quân còn lại về điểm cao 504 và Phu Khe Gio. Trong khi đó, ở hướng điểm cao 619, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 1 Nguyễn Hữu Thảo và Chính uỷ Phạm Đình Lưu trên cơ sở dự kiến địch từ điểm cao 550 sẽ phản kích cứu nguy cho đồng bọn khi ta vây ép mạnh điểm cao 619, nên đã lệnh cho Tiểu đoàn 1 bí mật phục kích ở bình độ 300 thuộc điểm cao 619. Đúng như dự kiến, khi bị vây ép, địch cho một tiểu đoàn phản kích sang điểm cao 619. Đợi cho hai đại đội địch lọt vào trận địa phục kích, Tiểu đoàn 2 đồng loạt nổ súng. Hoàn toàn bất ngờ, địch không kịp trở tay, phần lớn bị tiêu diệt, số còn lại chạy về điểm cao 550.

Nắm bắt thời cơ địch ở khu vực điểm cao 619 đang rất hoang mang, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 324 quyết định mở đợt tiến công đồng loạt nhằm vào các mục tiêu do Trung đoàn 3 quân đội Sài Gòn chiếm giữ, đánh quỵ trung đoàn này. Đúng 14 giờ ngày 27-2, sau khi pháo binh của mặt trận và sư đoàn bắn chế áp các mục tiêu, Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 1, Tiểu đoàn 6 Trung đoàn 2 và các lực lượng tăng cường mở đợt tiến công mãnh liệt tiêu diệt Tiểu đoàn 3 quân Sài Gòn và chiếm mục tiêu Phu Khe Gio. Tiểu đoàn 2 địch chốt giữ điểm cao 405 bị hở sườn đã vội vã tháo chạy về điểm cao 619, nhưng trên đường rút chạy, tiểu đoàn này bị Tiểu đoàn 7 Trung đoàn 2 của ta đón lõng, loại khỏi vòng chiến đấu. Ngày 28-2, chỉ huy Trung đoàn 3 và Tiểu đoàn 1 quân Sài Gòn ở căn cứ 619 bị hoả lực ta khống chế, bộ binh ta vây ép mạnh. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, tối 28-2, chỉ huy Trung đoàn 3 bí mật rời căn cứ 619, bỏ mặc binh sĩ Tiểu đoàn 1 bám giữ trận địa. Rạng sáng ngày hôm sau, bộ đội ta tổ chức truy kích địch ở Phu Rộp, loại khỏi vòng chiến đấu gần 200 tên, thu nhiều súng cá nhân. Qua một tuần lễ phối hợp chiến đấu với hướng chính chiến dịch, Sư đoàn 324 đã đánh thiệt hại nặng hai trung đoàn (1 và 3) thuộc Sư đoàn 1 bộ binh quân đội Sài Gòn, phá bỏ căn cứ hành quân 6 19 và hàng chục điểm chốt chiến thuật của địch ở hướng nam đường 9, tạo điều kiện thuận lợi để bộ đội ta từ hướng nam triển khai trận địa vây ép Bản Đông, chia cắt đường 9.

Phối hợp chặt chẽ với lực lượng Binh đoàn 70 hoạt động ở đường 9 - Nam Lào, Bộ Chỉ huy Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị ở hướng đông chỉ đạo các đơn vị liên tục đánh cắt giao thông, kho tàng và các cụm quân địch cơ động dã ngoại. Ngày 15-2, Tiểu đoàn 15 đánh cắt giao thông đoạn Úc Nghi đi Rào Quán, phá huỷ 10 xe tăng, xe bọc thép. Chiều 17-2, tiểu đoàn tiếp tục tập kích địch ở Bông Kho, điểm cao 620, loại khỏi vòng chiến đấu một đại đội địch. Ngày 18-2, Tiểu đoàn 33 đặc công đột nhập khu tổng kho Ái Tử, đốt cháy hơn một triệu lít xăng, phá huỷ gần 10 nghìn viên đạn pháo các loại. Các phân đội pháo của Trung đoàn 84 đưa pháo ĐKB, AH12 vào sau lưng địch bắn phá khu vực Sa Mưu, Đông Hà, Tân Lâm, Cam Lộ, tiêu hao nhiều sinh lực và phá huỷ một số kho tàng, phương tiện chiến tranh của chúng.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM