Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 04:21:35 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Thủy quân nhà Nguyễn  (Đọc 17542 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
shmel
Thành viên
*
Bài viết: 186


Man in Iron Mask


« vào lúc: 04 Tháng Năm, 2008, 03:54:13 pm »

Thủy quân nhà Nguyễn
Vũ Hữu San


Nghiệp Đế Xuất phát Từ Lý do Phòng thủ Hải biên

Khi Trịnh Kiểm âm mưu chiếm gọn binh quyền, giết người anh của Ông là Nguyễn Uông, Nguyễn Hoàng tìm cách thoát hiểm và trả thù họ Trịnh. Tính toán mãi chưa biết nên làm gì, bèn sai người thỉnh ý Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, thì được khuyên một câu: "Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân" (một dải núi Hoành Sơn có thể dung thân muôn đời). Hoàng hiểu ra, nhờ chị gái là Ngọc Bảo nói với Trịnh Kiểm cho Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa với lý do: "Đất ấy hiểm trở, xa xôi, khí hậu khắc nghiệt, lại là mặt Nam dễ bị tập kích, quân Mạc có thể dùng thuyền vượt biển đánh sau lưng bất cứ lúc nào".

Kiểm buộc lòng phải thuận theo vì biết chỉ có họ Nguyễn là giỏi thủy chiến, đủ sức phòng thủ hải biên an toàn cho phía Nam. Trịnh Kiểm dâng biểu tâu vua trao quyền cho Nguyễn Hoàng làm trấn thủ Thuận Hóa, toàn quyền xử lý mọi việc. Hoàng đem người nhà và nhóm quân bản bộ xuống chiến thuyền vào Nam năm Mậu Ngọ (1558) khi 34 tuổi. Cùng đi với Ông, còn có số người nghĩa dũng Tống Sơn Thanh Hóa. Mấy ngàn người này, hầu hết có ít nhiều hiểu biết về thủy quân, đã mở đầu ra một sự nghiệp rất dài 400 năm (cho đến 1954).

Năm 1572, sau khi đem quân đánh Thanh Nghệ, tiến về Thuận Hóa, Mạc Kính Điển dùng 60 chiến thuyền do hải đạo vào tiến chiếm làng Hồ Xá và Lãng Uyển, vượt qua sông Cửa Việt. Nguyễn Hoàng lập mưu mỹ nhân kế. Tướng địch là Lập Đạo trúng kế cầu hòa, bị bắn chết. Nguyễn Hoàng đánh tan đạo quân này.

Sau khi việc trấn thủ vùng Thuận Quảng đã yên ổn, năm 1593 Nguyễn Hoàng lại đưa Hạm đội ra giúp vua Lê dẹp nhà Mạc và gian đảng gần 8 năm. Năm Canh Tý (1600) được lệnh vua Lê từ Thăng Long đem thủy quân đi dẹp các tướng nổi loạn Phan Ngạn, Ngô Đình Hàm và Bùi Văn Khuê ở vùng sông ngòi Nam Định, Nguyễn Hoàng cùng quân bản bộ kéo qua Cửa Đại An, bất thần giương buồm thẳng ra Biển Đông vào ngay Thuận Hóa. Sau chuyến hải hành quyết tâm ra đi này, Hoàng lo việc lập nghiệp tại duyên hải phương Nam, không nghĩ việc quay về lại đất Bắc lần nữa.


Khởi nghiệp bằng đoàn Thủy quân nhỏ bé

Nói chung, hầu hết các triều đại Việt Nam thường thường khởi nghiệp bằng những chiến công diệt ngoại xâm hay thống nhất đất nước. Anh hùng nước ta đã quy tụ được những tấm lòng yêu nước thuộc mọi ngành nghề sinh hoạt, đến từ khắp nơi trong nước, hợp quần cùng nhau đứng lên giết giặc, dành độc lập cho quê hương.

Đặc biệt sự nghiệp họ Nguyễn lại có một chỗ đứng hoàn toàn riêng rẽ. Thoạt tiên, đoàn quân của họ rất nhỏ bé chỉ mong được thoát hiểm, gồm các đồng hương vùng Thanh Hóa, tương đối đồng nhất về khả năng và kinh nghiệm chuyên biệt về thủy chiến. Nếu được kể là từ khi Nguyễn Hoàng có quyết tâm khởi đầu cơ nghiệp cho đến khi họ Nguyễn đủ thế lực xưng Chúa, thành phần nòng cốt của họ đã chiến đấu sinh hoạt cạnh nhau trong vòng nhiều chục năm trời. Nhóm quân lính đó đặt cứ điểm trên Hạm đội, thường qua lại khắp các vùng biển Quảng Nam, Thuận Hoá, Nghệ An, Thanh Hóa và ra vào các sông ngòi miền châu thổ hai sông Hồng và Thái Bình, Bắc Đại Việt.

Truyền thống thủy chiến được con cháu họ Nguyễn chuyên cần phát triển và nuôi dưỡng suốt một chiều dài lịch sử gần 350 năm, kéo theo con đường Nam Tiến của họ từ Thanh Hóa đến tận Phú Quốc Hà Tiên. Truyền thống này theo một vài sử gia chính là động lực lớn nhất đưa Nhà Nguyễn đến sự thành công trong việc mở mang bờ cõi, thống nhất giang sơn và duy trì được vương quyền sau nhiều cơn sóng gió.


Hành lang Biển Đông

Đi từ một nhóm binh lính dân đinh năm, bảy ngàn người; bám chặt vào duyên hải Miền Trung, chúa Nguyễn đã không bị nghiền nát bởi hàng chục vạn binh sĩ của chúa Trịnh tấn công liên tục mọi mặt gần một thế kỷ. Trái lại, Nguyễn Hoàng và những người lãnh đạo tiếp theo đã đưa Việt Nam tiến những bước thật dài chưa từng có trong lịch sử.

Biển Đông biến thành hành lang hữu hiệu đưa đoàn thuyền Nam tiến. Thủy quân thường đi trước, làm nơi nương tựa cho quân dân lập nghiệp trên bờ phối hợp cùng di chuyển. Làng mạc định cư cứ thế chuyển dần về Nam, chinh phục toàn bộ miền Trung và Nam Bộ. Các Chúa Nguyễn đã đưa đất nước vươn mình đến tận vịnh Thái Lan và tỏa ảnh hưởng văn hoá trên toàn bán đảo Hoa Ấn.

Đàng Trong đần dần trở thành một vương quốc hùng mạnh, tự trị với Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài (Bắc Hà). Các nhà truyền giáo ngoại quốc trong giai đoạn này đã hết sức ngạc nhiên và khâm phục trước lực lượng quân sự hùng mạnh, sức sống mãnh liệt của nhân dân cũng như trước mức độ văn hóa và đạo đức rất cao của đất nước Việt Nam Xứ Đàng Trong.


Hải Chiến với Hải tặc Nhật Bản

Cuối thế kỷ 16, khi hoành hành cướp phá bờ biển Trung Quốc, Hải tặc Nhật Bản cũng tràn qua cả nước ta. Chúng kéo nhau đến Cửa Việt vào năm 1585. Hoàng Tử Nguyễn Phước Nguyên, con thứ sáu của Chúa Nguyễn Hoàng đã điều binh đánh chìm hai chiếc tầu Ngọa khấu (giặc lùn Kenki). Đây là sử liệu đầu tiên đề cập đến mối liên hệ giữa Nhật Bản và ĐàngTrong. Năm 1599, một chiếc tàu Kenki khác khi hải hành bị mắc cạn tại Cửa biển Thuận An cũng bị một tướng của Chúa Nguyễn Hoàng chận bắt được. Đầy đủ trang cụ bị tịch thu, cả thủy thủ đoàn tàu cướp biển bị bắt. (xem Thuần Lục, trang web http://charm.ru/coins/vn/nagasaki.shtml).

Hai năm sau, 1601, Chúa Nguyễn Hoàng gửi bức thư ngoại giao chính thức đầu tiên của nước ta đến Tướng Quân Shogun Tokugawa. Hai xứ Việt Nhật bắt đầu lập giao thương đường biển. Thương điếm vùng Hội An được thành lập với nhiều thương nhân ngoại quốc và đặc biệt đông nhất là người Nhật Bản, bắt đầu phát triển mạnh mẽ.


Trận Hải Chiến đầu tiên trong Việt Sử

Đọc Việt Sử ta thấy từ xa xưa, Tổ tiên chúng ta từng sử dụng thủy quân nhiều lần. Tuy vậy nếu tò mò xem xét thì rõ ràng chưa bao giờ thực sự có hải chiến xảy ra. Các trận Chương Dương, Hàm Tử ... kể cả hai lần đại thắng Bạch Đằng của Ngô Vương Quyền và Trần Hưng Đạo đều là giang chiến, diễn ra trong sông.

Vào năm 1585 ngoài cửa biển Lục Thủy Dương, thủy quân Trần Khánh Dư đã ghi công thắng trận duyên chiến đầu tiên. Cả trận Cửa Việt năm 1585 nói trên cũng thuộc loại này. Phải đợi đến cuối thời Chúa Nguyễn Phước Lan, ta mới thấy một anh hùng hải chiến thực sự. Đó là Thế tử Nguyễn Phước Tần, sau này trở thành Chúa Hiền. Sử chép rằng đội chiến thuyền cảm tử của Ông đã rượt đuổi và đánh tan hạm đội chiến thuyền Hòa Lan (1648) ngoài khơi vùng biển từ Cù Lao Chàm đến Cù Lao Hàn. Hòa Lan lúc đó đang là đế quốc có lực lượng hải quân hùng mạnh nhất thế giới.


Ưu thế Thủy Chiến và Binh Thư

Có lẽ họ đã nói đúng nhưng hơi ... quá đáng chăng? Các giáo sĩ Alexandre De Rhodes và Tisannier trong ký sự, khen quân lực của chúa Nguyễn hùng hậu hơn cả Pháp và Bồ Đào Nha. Trong Chiến tranh Trịnh Nguyễn lần thứ nhất kéo dài đến 45 năm, nói chung họ Trịnh thường khởi thế công. Họ Nguyễn chuyên phòng thủ. Trong tất cả các đợt tấn công, họ Trịnh chủ yếu dùng quân bộ, còn họ Nguyễn lưu tâm điều động thủy quân với nhiều sự mềm dẻo trong việc điều quân hầu bảo toàn lãnh thổ của họ. Thoạt đầu khi đất đai còn nhỏ hẹp, Quân lực Đàng Trong ít ỏi và yếu kém hơn Đàng Ngoài, nhà Nguyễn phải nghiên cứu binh pháp để làm sao được tồn tại.

Mối quan tâm về chiến thuật điều quân và đặc biệt về thủy chiến của nhà Nguyễn đã được chính vị Đại quan Khai Quốc Công Thần Đào Duy Từ suy luận và viết ra với rất nhiều chi tiết. Trong cuốn sách Hổ Tướng Khu Cơ của Ông (1572 1634), chương Thủy chiến rất là quan trọng. Ngay đến tập Binh Thư Yếu Lược của Trần Hưng Đạo mà ta thấy truyền tụng ngày nay cũng đã có nhà quân sự ghi thêm lẫn lộn nhiều đoạn của Hổ Tướng Khu Cơ. Ông Nguyễn Ngọc Tỉnh, khi phiên dịch cuốn sách Binh Thư Yếu Lược của Trần Hưng Đạo (Paris, 1988, trang 267) đã ghi chú rằng: Sách Hổ Tướng Khu Cơ: Phép lấy nước uống trong biển (Trích cả một thiên Thủy Chiến của sách Hổ Tướng Khu Cơ, gồm 9 chương, ở đây bỏ cả, xem ở sau...)

Ngày trước, nghệ thuật thủy chiến như được viết chi tiết trong các cuốn sách Binh thư thật là hiếm có.


Cải tiến Hải hành

Như ta đã biết, hải hành cần những hải đồ và đồng hồ chính xác. Chúa Nguyễn Phước Chu cho đặt các đồng hồ Tây phương nơi các công sở và đồn tàu dọc biển, sau đó Ông Nguyễn Văn Tú rồi tiếp theo những người khác nữa lại chế tạo được đồng hồ. Từ đó, sự điều động thủy quân theo thời gian được chính xác hơn xưa.

Chúa Nguyễn nhờ cánh tay dài Thủy Quân đã nối dài đất nước tới tận Hoàng Sa và Trường Sa. Sách sử Việt Nam đã ghi chép về quần đảo Hoàng Sa từ thế kỷ XVII với chi tiết địa lý rõ ràng trong sách "Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư" (1630 1653) của Đỗ Bá.

Sau cuốn sách này, ta có "Phủ biên Tạp lục" một tác phẩm của Lê Quý Đôn mà trong đó ông tường thuật những công tác thi hành chủ quyền Việt Nam trên Hoàng Sa và Trường Sa. Các đội Hoàng Sa trách nhiệm những đảo Cát Vàng và đội Bắc Hải trách nhiệm Trường Sa, Phú Quốc; tuân hành theo lệnh Chúa Nguyễn.

Ít nhất đã khởi sự vào cuối thế kỷ XVII, sau những chuyến đi biển hàng năm thường dài tới 6,7 tháng, các đội Hoàng Sa đã báo cáo lại mọi diễn biến trên hải trình làm kinh nghiệm cho những chuyến công tác sau này. Từ đời chúa Nguyễn phúc Nguyên (1613 1615) hay có thể trước đó nữa, các đội Hoàng Sa đã được thành lập để thu lượm hải vật. Học giả Lê quý Đôn (1726 1784) từng tham khảo sổ biên của Cai đội Thuyên đức Hầu (một chức quyền Hải Quân cao cấp ngày trước) thấy năm 1702 đội Hoàng Sa lấy được 30 thỏi bạc, năm 1704 được 5,100 cân thiếc, năm 1705 được 126 thỏi bạc... Vì không có tài liệu ghi nhận bất cứ một tai nạn đắm tàu nào, ta thấy rằng khả năng hải hành lúc đó đã khá và việc nghiên cứu đường biển trong thời các Chúa Nguyễn cũng khá đầy đủ.


Bước Đường Bôn tẩu Trên Biển

Khi đọc Sử, chúng ta thường ca tụng Vua Quang Trung trọng dụng chữ Nôm, Tuy vậy, có một câu chuyện chữ Nôm về Nhà Nguyễn rất thích thú và cảm động sau đây.

Qua 9 đời Chúa, sau thời hưng thịnh họ Nguyễn đến lúc suy vong. Nguyễn Ánh may mắn sống sót, trốn chạy bằng đường thủy, mưu cầu phục quốc. Nay thuyền Ông tấp vào bớ sông vắng, mai tàu Ông trôi dạt ra hòn đảo ngoài khơi. Trong khi bị truy sát, sinh mạng như chỉ mành treo chuông, chẳng có loại ngôn ngũ nào hay hơn khi Nguyễn Ánh muốn bộc lộ lòng mình bằng những tiếng nôm na của mẹ cha ông bà của mình. Điều này khác xa với các văn bản của Sử Quán. Các Quan thường dùng chữ Hán và văn chương biền ngẫu, sau này còn tô vẽ thêm cho nhà Vua một thứ sơn lót chân mạng đế vương.

Linh Mục Cadier là người đã đi tìm đọc thấy 14 bức thư chữ Nôm của Nguyễn Ánh gửi các giáo sĩ. Trong số đó có cả tờ lệnh ban cho Sĩ quan Pháp thuộc Hải quân của Ông.

Chúng ta vô cùng thương cảm cho một Ông Hoàng đã mất hết uy quyền, cải trang thường dân, lênh đênh góc biển chân trời, hải đảo xa vắng, thốt lời chua chát, than thở cho số phận đắng cay, ray rứt vì chưa làm tròn bổn phận với Tổ tiên. Bằng văn Nôm, Ông tự biểu lộ là một người bạn thành thực chí tình, một người cha thương nhớ đứa con mình xa cách nửa vòng trái đất...

Có lẽ nhà Vua đã viết nhiều tài liệu tương tự hay tác phẩm nôm na như vậy, nhưng nay đã bị thất lạc. Khi cần khích động lòng quân sĩ và đồng bào Việt Nam của mình, Ông cũng viết tiếng Việt Nam. Đạo Dụ bằng quốc văn trong cuộc duyệt binh ngày 26 tháng 3 năm 1800, trước khi binh đoàn khởi hành hay xuống tàu đi cứu Võ Tánh, là một bằng chứng vậy!


Giao thương Khắp Nẻo

Nối tiếp sự nghiệp các Chúa, Nguyễn Ánh mở mang việc thương mại với các nước láng giềng và thuyền buôn Tây phương. Sau khi chiếm lại được Gia Định lần chót từ tay Tây Sơn, Nội viện Trần Vũ Khách đưa tàu đi Giang Lư Ba (Batavia), Cai đội Ô li vi, Đội trưởng Ba la di đi Goa, Mã la Kha (Ba la kha Malacca). Tài liệu Tây phương cho biết L. Barizy còn trương hiệu kỳ của chúa Nguyễn buôn bán với thương nhân Đan mạch, Hanop và Stevenson. Đứng trung lập trong chiến tranh Anh Pháp, họ làm đại lý cho Ánh ở Tranquebar (Ấn Độ). Các thương cảng miền Nam bắt đầu hồi sinh.

Trước nội chiến, Tourane nườm nượp những ghe trọng tải từ 40 150 tấn đến chở cau, đường. Mỗi chuyến riêng mỗi thứ mang đi hàng 40 ngàn tấn. Nhưng vào khoảng năm 1790, khi Âu châu e ngại với Tây Sơn, đường cát tuy có rất nhiều ở Quảng Nam nhưng không trở thành món hàng xuất cảng. Kết quả của sự thiếu giao thương là hiệu năng vũ khí của Tây Sơn suy kém hẳn đi. Trong Lịch Sử Nội Chiến Ở Việt Nam, Tạ Chí Đại Trường viết: Những khẩu súng nhồi bằng thuốc đạn Trung Hoa không bắn xa bằng thứ cùng loại ở Gia Định nhồi bằng thuốc đạn Tây Phương.


Thủy chiến là Sở trường của ta

Trở lại với thủy chiến, ta thấy Liệt Truyện q.10, 6b chép rằng; Nguyễn Ánh và các tướng của Ông thường lý luận và tin tưởng rằng: "Thủy chiến là sở trường của ta". Thủy binh bao giờ cũng tiến nhanh và là mũi nhọn phóng sâu vào đất địch trước bộ binh. Tư thế chủ động và tính cách độc lập của thủy quân còn được Sử gia Tạ Chí Đại Trường xác nhận là quân ngoài biển không những luôn luôn đi tiên phong mà nhiều khi còn phải làm thế nương tựa cho quân bộ chiến có khả năng tiến lên nữa.

Nhận biết thủy quân là quan trọng, giá tiền thưởng khi bắt lính đào ngũ có sự cách biệt rõ rệt: quân nào bắt được lính bộ thì thưởng 30 quan, còn được thủy binh thì được hưởng tới 40 quan (thực lục quyển 4, 12a).

Nhà Nguyễn kiến trúc nhiều chiến hạm tân tiến. Các Tây dương dạng thuyền như Thoại Phụng do Barizy điều khiển, Loan phi của Chaigneau, Bằng Phi của DeForcan, Phượng Phi của Vannier đều có kỹ thuật rất cao, với thủy thủ đoàn và quân đổ bộ đông tới 300 người.


Đánh tan Hạm đội thuyền Tề ngôi Trung Hoa

Khi Vua Quang Trung qua đời, lực lượng quân sự phía mặt biển suy yếu thấy rõ. Tây Sơn phải tìm cách bù đắp. Bọn cướp biển Tề Ngôi người Trung Hoa được bổ túc vào sự thiếu sót đó. Các thuyền Tề Ngôi vừa giữ nhiệm vụ tiếp tế cho nội địa vừa chính là một bộ phận của thủy quân Tây Sơn để quân bình sự yếu kém vậy.

Ngoài Bắc Hà, thuyền buôn không đến nhiều. Của cải trong nước hư hao. Sử nhà Nguyễn chép: Cha con Nguyễn Quang Bình dùng binh cướp nước, sai hơn 100 chiếc Tàu ô, 12 viên Tổng binh lấy tiếng là tìm mua quân lương, đi chiêu tập nhiều tụi vong mạng dọc bờ biển Trung Quốc. Lấy quan tước làm mồi nhử, cấp cho thuyền và khí giới, sai đưa đường cướp Mân, Việt, Giang, Chiết... (Lịch Sử Nội Chiến Ở Việt Nam, Tạ Chí Đại Trường, trang 221).

Tuy số lượng tàu hải tặc Trung Hoa rất đông, nhưng chúng thường ô hợp, nên dần dần bị Chúa Nguyễn đánh tan. Chủ tướng của chúng là Đông hải Vương Mạc Quần Phù cùng các tướng bị bắt ngoài khơi Thị Nại khoảng tháng 5 năm 1801. Thủy Quân Gia Định tung hoành ra lấy Phú Xuân, rồi Thăng Long mà không sợ một lực lượng lưu động biển nào theo đuổi ngăn trở nưã.


Logged
shmel
Thành viên
*
Bài viết: 186


Man in Iron Mask


« Trả lời #1 vào lúc: 04 Tháng Năm, 2008, 03:56:48 pm »

Sự Chắc chắn của các Chiến Hạm Nam Hà

Thực ra sau khi làm chìm chiếc tầu Macao tịch thu được của người Bồ bị bão dạt vào Quy Nhơn, Tây Sơn cũng cố gắng phát triển thủy quân. Nguyễn Huệ đã cho đóng những chiếc đại hiệu thuyền có thể chở nổi các con voi trận. Có lẽ đó là những chiếc tàu mà người Anh đi lạc vào thành Quảng Nam chuyến tháp tùng phái bộ MacCartney đã nhìn thấy và ước lượng đến 150 tấn trọng tải và chắc cũng là loại tàu Định quốc mà Vũ Văn Dũng đem án ngữ ở cửa Thị Nại trong trận thủy chiến năm 1801.

Thế nhưng chúng ta hãy nghĩ tới những chiếc tàu chiến bọc vỏ đồng của Nguyễn Ánh rõ là tân tiến và có sức chịu đựng hơn nhiều.


Học hỏi Kỹ thuật Nhưng không Nệ Người Tây Phương

Trình độ xâm nhập kỹ thuật Tây phương tăng tiến trong những năm đầu chinh chiến, nhưng ảnh hưởng cá nhân của bọn phiêu lưu người Pháp sụt xuống rõ rệt về sau này. Nguyễn Ánh dùng người Ngoại Quốc làm Cố Vấn nhưng Ông rất quyết đoán, không để Nam quân lệ thuộc vào họ.

Năm 1792 trong cuộc thủy chiến Thị Nại lần đầu, Jean Marie Dayot và mấy Hạm Trưởng người Pháp tham dự việc tấn công. Cũng tại nơi đó chỉ 9 năm sau, 1801, các Tướng Lãnh người Việt là Nguyễn Văn Trương, Võ Di Nguy Lê Văn Duyệt ào ạt đốt thuyền địch. Trong khi đó, Chaigneau, Vannier, De Forcan đứng ở hậu đội.

Năm 1793, sử quan nhắc tới bọn Tây Dương Binh theo quân ở Bình Thuận, vây quanh Qui Nhơn. Năm 1797, trong lực lượng xuất phát vào tháng 4 1797 có 447 chiến thuyền và 42,000 chiến binh, vẫn còn những thoại hạm (fregate và corvette) do người Âu chỉ huy. Thế mà chỉ đến năm 1801, Chaigneau, Vannier chỉ làm nhiệm vụ lấy lương tiếp tế cho Qui Nhơn, Phú Xuân mà thôi (Lịch Sử Nội Chiến Ở Việt Nam, Tạ Chí Đại Trường, trang 356).

Sau năm 1799, lúc J. Dayot đã đi thì Olivier cũng muốn từ chức. Khi nhóm nho sĩ đứng đằng sau Nguyễn Vương tăng thêm thanh thế, uy tín Tây phương hạ xuống rất nhanh (trang 306).

Phải nói thêm rằng: bọn phiêu lưu người Pháp rất "ngán" Nguyễn Ánh. Vào năm 1795, dù phải sửa soạn binh thuyền đi cứu Diên Khánh bị vây lần thứ hai, Ông đã tống giam Dayot vì tội làm chìm chiếc tàu được nhà Vua giao cho trông giữ. Sau đó ít lâu, Dayot bỏ đi và chết đuối khi thăm dò thủy đạo tại Vịnh Bắc phần. Thời gian gần cuối cuộc chiến, một Sĩ Quan khác nữa là L. Barizy bị bỏ tù, khi có người tố cáo Barizi đầu độc một chủ tàu buôn.


Số Thủy binh trong Quân đội

Vào đầu thập niên 1800, Thủy binh chuyên nghiệp của Nguyễn Ánh gồm có:

Lính làm thuốc đạn xưởng đóng tàu 8,000

Thủy binh trên các tàu trong cửa biển 8,000

Thủy binh trên các tàu đóng kiểu Âu 1,200

Thủy binh trên các ghe bầu 1,600

Thủy binh trên các thuyền chiến có chèo 8,000

Tổng số Thủy quân là 26.800 người trong một quân lực 139.800. (Lịch Sử Nội Chiến Ở Việt Nam, Tạ Chí Đại Trường, trang 230).

Lưu ý rằng quân đội Nguyễn Ánh bao gồm nhiều quân, binh chủng như tượng quân, công binh, pháo binh, tiếp vận, truyền tin ... Riêng về nhân lực của Xưởng Đóng Tàu (8,000 người) cần một sự so sánh với Hải Quân Công Xưởng Ba Son để được dễ hiểu. Trong thế kỷ 20, thường thường chỉ có từ 2,000 đến 3,000 thợ mà thôi.


Hoàng Đế Nguyễn Ánh, một Biểu tượng Hải Quân

Những người lính thủy ngày nay cho dù có bất đồng ý kiến về bất cứ một vai trò lịch sử nào của nhà Nguyễn, cũng phải công nhận Hoàng Đế Nguyễn Ánh là một trong những biểu tượng Hải Quân vĩ đại nhất trong dòng Sử Việt. Ông đã làm nức lòng quân đội, nhất là Thủy quân khi đích thân nhận quyền Hạm Trưởng một chiếc Thoại hạm.

Vị Hoàng đế này cũng là nhà chiến lược hải chiến tài ba và rất có thể là vị tướng lãnh Việt Nam đầu tiên sử dụng hải pháo để mở đường tiến quân, phá hủy mục tiêu, đồng thời dùng thủy quân xung phong, giúp cho bộ binh chiếm đóng đồn địch. Những hoạt động quân sự này chính là bước đi tiền thân của các Hải Đoàn Xung Phong mà ta thấy sau này.


Trận Thủy Chiến quyết định: Đệ nhất Vũ công

Trận Thủy Chiến quyết định mà Sử quan Nhà Nguyễn ghi nhận là Đệ nhất vũ công đã diễn ra tại Thị Nại. Khi đó Võ Tánh bị vây tại thành Qui Nhơn khá lâu. Tháng giêng năm Canh Thân 1800, Tướng Tây Sơn là Võ Văn Dũng đưa hai chiếc Định quốc Đại hiệu thuyền, chở từ 50 đến 60 khẩu đại bác chắn ngay cửa Thị Nại. Dày đặc bên trong là 40 tàu lớn, 20 tàu nhỏ hơn với 100 ghe chiến đậu san sát đến cửa vào Đầm Nước Mặn. Triền núi, Dũng cho đặt đại bác yểm trợ đoàn tàu. Trên bộ, Dũng còn có hơn 50 voi trận và quân lính. Nguyễn Vương cử đại quân ra tiếp viện bằng đường biển, sai Nguyễn Văn Thành và các tướng tiến qua Phú Yên ra Bình Định. Quân thủy và quân bộ của Vương không thông được với nhau và cũng vì vậy, không cứu viện được Võ Tánh. Tháng giêng năm Tân Dậu 1801, Ánh sai các tướng Nguyễn Văn Trương và Tống Phúc Lương đánh đồn thủy Tây Sơn, trong khi đó Lê Văn Duyệt và Võ Di Nguy đem chiến thuyền đánh thẳng vào cửa Thi Nại. Dù biết Võ Di Nguy đã bị trúng đạn chết, nhưng Lê Văn Duyệt vẫn ra sức xông đột, đốt được cả tàu và thuyền của Tây Sơn.

Vì Tây Sơn đã dồn toàn thể thủy quân để chiến đấu nên một khi bị tiêu diệt, Tây Sơn không còn uy thế nào đáng kể trên mặt biển nữa. Quân Nam Hà tiến dần dần ra Phú Xuân, rồi thẳng ra chiếm Bắc Hà rất nhanh chóng.

Biển Đông đã Nối liền Gia Định và Thăng Long thành Đế hiệu Gia Long.

Bằng cách ngự trị biển cả, từ một giấc mộng nhỏ bé của Nguyễn Hoàng là mong mỏi được một phần đất tự trị "vạn đại dung thân" tiếp tục trải qua đời 9 vị Chúa, sau cùng họ Nguyễn đã đi đến một thành tích vĩ đại là thống nhất quốc gia, đưa đất nước qua cảnh nhiễu nhương chia ba, xẻ bảy. Năm 1802, hai miền thủ phủ Gia Định và Thăng Long đã nối liền. Nguyễn Ánh lên ngôi với đế hiệu Gia Long.


Đốt cháy Hạm Đội Anh Cát Lợi

Dù không còn phải dụng binh nhiều sau năm 1802, Thủy quân Nhà Nguyễn vẫn còn rất mạnh. Nước Anh đưa thư xin ngoại giao thông thương ba bốn lần đều bị khước từ. Năm 1803 khi một Hạm đội của họ gồm 7 chiếc tàu tiến từ Biển Đông theo đường sông vào Hà Nội, bị quân ta đốt cháy. Không thấy chính phủ Anh Cát Lợi phản đối.

Có lẽ vì Anh Quốc biết rằng mình có lỗi khi xâm nhập hải phận và lãnh thổ Việt Nam một cách bất hợp pháp, nên mọi việc cũng êm. Tài liệu hiếm này được Nhà Quân Sử Phạm Văn Sơn ghi lại trong Việt Sử Toàn Thư, xuất bản năm 1960, trang 591.


Truyền thống Tàu Thuyền Ngàn Năm: Trống đồng và Cửu đỉnh

Sau Gia Long, vị vua thứ hai triều Nguyễn là Minh Mệnh. Ông Vua này đáng được kể là một nhà Văn Hóa lớn khi chính Ông đã cho thực hiện bộ Cửu đỉnh gồm 9 cái đỉnh đồng rất lớn. Chúng tôi xin trình bày nội dung công trình đó một cách ngắn gọn như sau:

Đồ Đồng Đông Sơn được sản xuất vào thiên kỷ thứ nhất TTL. tiêu biểu cho nền văn hoá đặc thù của dân tộc Việt Nam trong thời kỳ mở nước và dựng nước các triều đại Hùng Vương.

Khi khảo sát văn hoá thời Đông Sơn, nhiều học giả, gồm cả Đông phương lẫn Tây phương như Chikamouri, Bezacier, Manuel, và nhất là Keith Weller Taylor (tác giả "The Birth of Vietnam", University of California Press, California, 1983); đã đồng ý rằng: "Các hình vẽ và trang trí tàu thuyền trên trống đồng Đông Sơn luôn luôn tạo nên ý tưởng về những biểu tượng của nghệ thuật hàng hải, đồng thời minh chứng một cách không thể lầm lẫn về tầm ảnh hưởng của một thế lực dựa trên căn bản của biển cả." Khi hiểu như vậy, ta thấy tinh thần tập đoàn của thủy thủ đã tạo thành gốc rễ cho sự đoàn kết và phát triển quốc gia chúng ta suốt bốn ngàn năm lịch sử.

Bẵng đi hơn 2,000 năm, Nhà Nguyễn nhận thức được cái tinh thần hàng hải cao quý lâu đời đó cần phải được phát huy trở lại. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí, Quyển Biểu Kinh Sư, trang 86 (Bản dịch: Nguyễn Tạo, Saigòn 1960), năm 1836 nhà Vua cho đúc chín cái đỉnh. Trong những biểu tượng quốc gia chạm khắc trên đỉnh, người ta thấy xuất hiện những hình ảnh thuộc nhiều loại tàu thuyền như sau :

 Cao đỉnh: Đa tác thuyền 3 cột buồm, có nhiều giây

 Nhân đỉnh: Lâu thuyền tính từ hầm thuyền lên có 2 tầng lầu

 Chương đỉnh: Mông Đồng thuyền, thuyền chiến có 8 cặp chèo

 Nghị đỉnh: Hải Đạo Thuyền, thuyền chuyển vận đường biển có 7 cặp chèo

 Thuần đỉnh: Đĩnh, thuyền đua hẹp ngang và dài có 9 cặp chèo

 Tuyên đỉnh: Lê Thuyền, ghe lê có 6 cặp chèo

 Du đỉnh: Ô Thuyền, ghe Ô có hai buồm

Đây là những kỷ vật quý giá vô cùng, đồng thời là những thành tích văn hóa sâu đậm dành cho hậu thế muôn đời về mai sau...
Logged
shmel
Thành viên
*
Bài viết: 186


Man in Iron Mask


« Trả lời #2 vào lúc: 05 Tháng Năm, 2008, 06:15:31 pm »

LỜI NÓI ĐẦU

 

Để cho em và các con
N.D.C.

Thế kỷ 19 là một bước ngoặt lớn trong lịch sử nhân loại. Những quốc gia có những nhà lãnh đạo thức thời nhìn ra được xu hướng thời đại đã đưa dân tộc đến chỗ vinh quang. Ngược lại nhiều nước vì không nhìn ra cái mấu chốt của cải cách đã lỡ những dịp may và chuốc lấy cái thảm họa bị nước ngoài cai trị. Việt Nam ta ở vào trường hợp thứ hai mặc dầu không hiếm những sĩ phu thiết tha với tiền đồ của dân tộc, hoặc dâng sớ xin cải tổ, hoặc soạn thảo điều trần. Một trong những người đó là Mạnh Dực Bùi Viện, và ông đã tiến thêm một bước là đưa ra chương trình tổ chức việc hải phòng nhưng tiếc thay công việc chưa đi đến đâu thì ông mất.

Nghiên cứu về Bùi Viện bị một số trở ngại khách quan và chủ quan. Trở ngại khách quan là tài liệu về ông hiện có rất ít, có lẽ vì ông chết quá trẻ (39 tuổi) và sự nghiệp chỉ giới hạn trong vòng 5 năm cuối cùng của đời ông, sau khi xuất dương qua Mỹ.[1]

Sự nghiệp đó có lẽ cũng đi vào quên lãng nếu thời tiền chiến nhà văn Phan Trần Chúc không soạn một cuốn sách về ông nhan đề Bùi Viện với Chính Phủ Mỹ – Lịch sử Ngoại Giao thời Tự Đức (Đông Nam Á, Paris tái bản 1985). Tuy nhiên, tác phẩm của nhà văn họ Phan có nhiều điểm không chính xác đối chiếu với niên biểu của sử sách, nhiều đoạn viết theo trí tưởng tượng của người cầm bút mà không kiểm chứng.

Ở hải ngoại, Bảo Vân (Bùi Văn Bảo) có ra một quyển sách nhan đề Bùi Viện – Một Nhà Nho Sáng Suốt- Lỗi Lạc – Phi Thường (Quê Hương, Toronto, Canada 1988) nội dung không có gì mới lạ hơn tác phẩm của Phan Trần Chúc, chỉ thêm một số chi tiết trích trong Gia Phả Họ Bùi ở Trình Phố, Thái Bình[2]. Mặc dù tác giả cũng có tham khảo thêm một số tài liệu của Đào Trinh Nhất, Tùng Hiệp, Thái Văn Kiểm, Lãng Nhân … nhưng tựu trung nhiều câu hỏi vẫn không có câu trả lời.

Ngay cả tài liệu ghi lại trong Gia Phả Họ Bùi cũng có giới hạn. Một số sự kiện chép lại từ sách báo không được tra cứu kỹ lưỡng nên cũng ghi nguyên văn những chỗ đúng ra còn phải tồn nghi[3]. Gia Phả chỉ có thêm một số chi tiết về quê hương, bản quán và thân nhân, cùng những truyện kể của các cụ truyền lại, nhưng không có gì để đối chiếu. Phần lớn bổ xung là văn thơ, những tài liệu đó nặng phần sự nghiệp văn chương mà ít phần tài liệu lịch sử nên cũng không sử dụng được bao nhiêu.

Trở ngại chủ quan là người viết là không có điều kiện để truy nguyên những nơi có thể còn giữ một số tài liệu liên quan đến Bùi Viện ở Huế, cũng chưa thể trực tiếp về làng Trình Phố để làm công việc sưu tầm và thu thập dữ kiện.

Tuy nhiên, ở hải ngoại lại có một số ưu điểm mà những người đi trước bị hạn chế. Với những tiến bộ về thông tin và những nguồn tài liệu phong phú của nước ngoài, chúng ta có thể nhìn được thế giới nói chung và khu vực Đông Á nói riêng một cách rõ rệt khiến cho sự so sánh và nhận thức dễ dàng hơn. Một điểm đáng nói khác là vào thế kỷ 19, phương tiện ấn loát, sách vở và nhất là hình ảnh đã có nhiều nên chúng ta không những có thể đọc mà còn có thể hình dung được khung cảnh của những khu vực cần nghiên cứu.

Nhờ những tài liệu đó, chúng ta mới thấy quan điểm của Bùi công trên lãnh vực cải cách là một thay đổi quan trọng trong xu hướng của đương thời. Cùng với những nhà nho tiêu biểu khác vào thời kỳ đó như Nguyễn Lộ Trạch, Nguyễn Trường Tộ, Phạm Phú Thứ, Vũ Duy Thanh … sĩ phu Việt Nam đã tạo ra những hướng phát triển rất tích cực và thích đáng. Hơn nữa, chủ trương của Bùi Viện có ít nhiều cơ hội để thực hiện trong khi những người khác phải ngừng lại nơi những bản điều trần, ẩm hận nhi chung.

Chúng ta cũng lại có cơ hội so sánh cải cách của ông với những công cuộc duy tân vận động của các nước Đông Á để nhìn lại ưu khuyết điểm. Tiếc thay triều đình Huế không có một chính sách liên tục, cũng không kế thừa công trình dở dang của họ Bùi khiến chúng ta lỡ một dịp bước vào quĩ đạo thế giới sớm hơn.
Logged
shmel
Thành viên
*
Bài viết: 186


Man in Iron Mask


« Trả lời #3 vào lúc: 05 Tháng Năm, 2008, 06:17:01 pm »

BỐI CẢNH CHÍNH TRỊ VÀ QUÂN SỰ
 

Một trong những câu hỏi mà nhiều người trong chúng ta thường đặt ra là cái cốt lõi của lịch sử Việt Nam ở đâu mà có thể tồn tại được trong mấy ngàn năm qua. Người thì bảo là do dân tộc chúng ta anh hùng, kẻ thì lại cho rằng nước mình có những nhân tài kiệt xuất. Xét tiến trình phát triển, dân tộc Việt Nam vì một vị trí địa dư đặc biệt, định cư trên một bờ biển dài và hẹp dọc theo một dãy núi cao khiến chúng ta ở trong vị thế rất dễ bị tấn công. Suốt 2000 năm hữu sử, hầu như tình trạng xã hội của ta thay đổi rất ít. Đời sống của đại đa số người Việt Nam vào thế kỷ 19 không khác với ông cha chúng ta thời lập quốc bao nhiêu, vẫn dệt lấy vải mà mặc, trồng lấy lúa mà ăn.

Làng xã, đơn vị căn bản của xã hội là một tiểu quốc độc lập về kinh tế, có phong tục và sinh hoạt riêng, ngay cả tiếng nói cũng đại đồng tiểu dị với vùng lân cận, tuy không hẳn là một ngôn ngữ khác nhưng so sánh cũng có rất nhiều điểm bất đồng. Chỉ gần đây, khi sự thông tin và trao đổi rộng rãi, chúng ta mới chấp nhận những tiêu chuẩn và quên lãng dần phương ngôn, phương ngữ của vùng mình.

Làng nào cũng có lũy tre vây quanh như một bức tường ngăn chặn xâm nhập từ bên ngoài, là một đơn vị cơ bản trong chiến đấu. Giặc đến nhà đàn bà phải đánh nói lên ý niệm đàn bà cũng dự phần vào việc bảo vệ xã thôn, vì trong nhiều thời kỳ, giặc giã liên miên đi ăn cướp từ vùng này sang vùng khác là mối đe dọa chính, chứ không hẳn có ý nghĩa đàn bà tòng quân diệt giặc như nhiều người cố đề cao. Đơn vị đó có những ưu điểm nhưng cũng có khuyết điểm, thích hợp cho kiểu chiến tranh du kích, chiến tranh nhân dân -- chờ đợi, đón đánh kẻ địch ngay trên địa bàn mình -- nhưng lại không đủ mạnh để vận dụng vào một cuộc chiến qui ước. Chính vì thế, tới thế kỷ 19 Việt Nam chưa xây dựng được qui mô quân sự đáng kể và khi nhìn lại, triều đình nhà Nguyễn cũng mắc phải những trì trệ tương tự với Trung Hoa trong cùng thời kỳ đó.
« Sửa lần cuối: 05 Tháng Năm, 2008, 06:32:05 pm gửi bởi shmel » Logged
shmel
Thành viên
*
Bài viết: 186


Man in Iron Mask


« Trả lời #4 vào lúc: 05 Tháng Năm, 2008, 06:19:32 pm »

A - THẾ GIỚI VÀO THẾ KỶ 19

 

1/ Cuộc cách mạng kỹ nghệ

Thế kỷ 19 đưa các nước châu Âu từ tình trạng lạc hậu về nhiều mặt thành chủ nhân ông của thế giới. Những tiến bộ kỹ thuật, kỹ nghệ và cơ cấu xã hội mới đã thay đổi hẳn nhiều quốc gia đưa đến việc gia tăng tranh giành ảnh hưởng và thuộc địa đưa đến những bước nhảy vọt về quân sự. Cuộc cách mạng khởi đầu từ cuối thế kỷ 18 khi người châu Âu biết áp dụng máy chạy hơi nước vào ngành hàng hải cùng áp dụng một số khoa học mới để sử dụng các loại súng đại bác trên thương thuyền và chiến hạm. Trước đây nhiều quốc gia đã có những hạm đội lớn nhưng chỉ dùng các loại máy ném đá (projectile-throwing machines) cồng kềnh, kém chính xác và thiếu linh động. Những cải cách về tàu bè và xe hỏa đã tạo nên những chuyển động mới trong sản xuất và nhu cầu tiêu thụ. Năm 1765, James Watt chế tạo được máy chạy bằng hơi nước và đến năm 1791 thì tìm ra cách có thể biến sức hơi nước thành sức quay tròn[4]. Ở Pháp, trường Bách Khoa (Ecole Polytechnique) được thành lập tại Paris năm 1794. Một loạt các phát minh tiếp theo như máy điện tín (telegraph), điện[5], động cơ điện, máy ảnh … vào cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19 tạo nên những thay đổi lớn trong sinh hoạt, thúc đẩy những quốc gia châu Âu đi tìm thị trường và nguyên liệu.

Đầu thế kỷ 19, chiếc tàu Savannah chạy bằng hơi nước đã có thể vượt Đại Tây Dương đến châu Mỹ trong 29 ngày rưỡi [6]. Chỉ vài chục năm sau, bộ mặt của nhiều đô thị Âu Mỹ đã thay đổi hẳn. Người ta đã biết sử dụng điện và nhiều lãnh vực kỹ nghệ mới được thành hình. Đường sắt chạy từ Stockton đến Darlington được xây dựng năm 1826 và nhanh chóng đi vào phục vụ hành khách năm 1830 sau khi Robert Stevens vẽ kiều đường rầy hình chữ T (T-Rail). Đến năm 1860, người Pháp tên là Lenoir chế tạo được máy nổ (internal-combustion engine).

Những tiến bộ đó đã gia tăng năng suất chuyên chở lên hàng chục lần đồng thời giảm được phí tổn khiến cho các quốc gia châu Âu, châu Mỹ bỏ nhiều tài khoản lớn xây dựng thiết lộ và đóng tàu. Năng suất kỹ nghệ và nông nghiệp vì thế cũng tăng vọt. Nhiều hãng xưởng sản xuất với qui mô lớn khởi đầu cho chế độ tư bản.

Những khám phá mới trong khoa học đã đóng góp cho sự phát triển của nhân loại trên nhiều mặt, kể cả kỹ thuật quân sự. Không một kỹ thuật nào có thể tách rời thành một phát minh vĩ đại nếu không có những tiến bộ tương tự ở mặt khác. Nhu cầu giao thông khiến cho đường sá, cầu cồng được mở mang đồng thời cải thiện hệ thống truyền tin khiến cho thế giới càng ngày càng thu hẹp lại. Kỹ thuật được trao đổi, vay mượn, chế biến cho thích nghi với từng khu vực và càng ngày càng đa dạng.


2/ Cải cách quân sự của châu Âu

Ngay từ thế kỷ 15, nhiều quốc gia đã tìm cách đóng những chiến thuyền có trang bị đại bác để dùng vào chiến đấu trên biển cả. Tiến bộ cơ khí trên cả việc chế tạo súng thần công lẫn kỹ thuật đóng tàu cộng thêm kiến thức mới về hàng hải đã đưa những đoàn thủy thủ có óc mạo hiểm đến những vùng xa xôi. Ưu điểm về hỏa khí (firearms) đã khiến họ chinh phục được nhiều vùng đất cách chính quốc hàng nghìn dặm.

Việc cải tiến súng ống cũng tạo ra những chiến thuật, chiến lược mới. Trước hết là sự thay đổi về bố phòng. Ở những thế kỷ trước, phương pháp chính yếu là xây đồn đắp lũy, lấy hào sâu tường cao để cố thủ, là kết quả của một nền văn minh nông nghiệp chú trọng vào bảo vệ đất đai và thực phẩm thu hoạch. Phương pháp cố thủ đó hữu hiệu trong đoản kỳ nhưng thất bại ở thế kỷ 12, 13 khi người Mông Cổ dùng con ngựa là phương tiện di động chính với vũ khí là cây cung gọn nhẹ và mạnh, lấy tàn sát phá hủy làm mối đe dọa chính.[7] Tới thế kỷ 15 khi thuốc nổ đã được sử dụng nhiều, súng thần công được coi là vũ khí chính trên chiến trường và có thể tấn công từ xa thì hình thể và cách bố trí thành lũy cũng thay đổi. Từ lối xây tường dày trơn nhẵn của thời Trung Cổ thành trì được chuyển sang việc xây dựng những pháo đài để đặt súng bắn ra theo nhiều hướng (thời gian đó súng thần công rất nặng nề, khó chuyển hướng và thường đặt theo một lối nhất định). Sebastien Le Preste de Vauban (1633-1707), kỹ sư công phá chính của vua Louis XIV đã hoàn chỉnh kỹ thuật và vẽ kiểu thành, thường được gọi là kiểu Vauban.[8] Kiểu thành này có khả năng phòng ngự chặt chẽ và khó mà tấn công nếu đối phương không vượt trội về nhân lực và hỏa lực.[9]

Song song với những tiến bộ về kỹ thuật và vận chuyển, tiếp liệu, càng về sau tổ chức quân đội càng trở nên qui mô hơn và số lượng quân sĩ trong một chiến dịch cũng tăng dần. Ba trọng điểm: cách bố phòng, hỏa khí và qui mô của binh đoàn đã đem đến những thay đổi lớn trong chiến lược và chiến thuật.

Quân đội không chỉ là những người lính cầm súng mà là những đoàn quân được chuyên môn hóa, đòi hỏi sự hiểu biết về kỹ thuật các loại võ khí, máy móc, theo tiêu chuẩn huấn luyện cho từng cấp bậc. Việc sử dụng đại pháo đòi hỏi sĩ quan và xạ thủ phải am tường những cơ bản về đạn đạo, biết tính toán độ nhắm và tầm xa để đạt được hiệu quả chính xác. Thành thử các đoàn quân và thuyền bè bắt buộc phải cần đến những chuyên viên hay kỹ sư có căn bản về toán pháp (mathematics-based engineer). Ngoài ra quân đội lại còn phải có sĩ quan cơ khí đi theo để sửa chữa mỗi khi bị trục trặc.[10]

Về mặt hàng hải, từ cuối thế kỷ 16 đến đầu thế kỷ 19 các sử gia gọi là thời đại giương buồm (The Great Age of Sail), giai đoạn mà nhiều quốc gia tranh nhau làm chủ biển cả đưa những đoàn tàu đi chinh phục các xứ xa lạ làm thuộc địa. Vì nước nào cũng muốn làm bá chủ và lấn lướt nước kia, các quốc gia Tâu Âu phải tăng cường sức mạnh hải quân để bảo vệ lấy mình.
Dưới thời Louis XIV nước Pháp đã tiến lên tranh giành ảnh hưởng với nước Anh. Trong khoảng từ 1661 đến 1683, nước Pháp theo đuổi một chính sách trọng thương toàn bộ (full-scale mercantilist policy), khuyến khích mọi loại buôn bán nếu đem lợi về cho chính quốc. Pháp nhanh chóng biến thành một quốc gia hàng đầu về hải quân khiến họ có những đoàn thương thuyền đồng thời cũng là những đoàn quân đi xâm lăng nước khác.

Nước Anh cũng lập tức đề phòng ông bạn láng giềng bằng một chính sách tương tự chú trọng đến chiếm đóng lãnh thổ, dùng chiến tranh nuôi chiến tranh, lấy ngay tài nguyên của các vùng vừa chinh phục làm bàn đạp cho những chiến dịch tiếp theo. Sự giàu có của chính quốc, sức mạnh của hải quân, tài nguyên chiến lược của thuộc địa và trọng điểm quân sự là bốn yếu tố chính trong việc đề ra một chính sách phát triển của Anh quốc vào giai đoạn này. Nhờ chính sách buôn bán và khai thác thuộc địa, nước Anh ngày càng giàu, hải quân Anh càng lúc càng mạnh và đế quốc Anh mỗi ngày một thêm mở rộng.

Đến cuối thế kỷ 18, người Anh đề ra chiến thuật thủy bộ tác chiến (amphibious operations) và chú trọng về tấn công gần trong khi người Pháp thì lại dùng kỹ thuật bắn đại bác từ xa trước khi đổ bộ theo kiểu mà sau này người ta gọi là tiền pháo hậu xung. Sự tranh chấp và chiến tranh giữa các cường quốc châu Âu đã đem đến nhiều cải tiến, từ việc tiêu chuẩn hóa các tín hiệu truyền tin (signal) đến hoàn chỉnh các loại súng ống. Chiến thuyền của người Anh được chế tạo nhiều tầng, bọc đồng bên ngoài, súng đại bác cũng không còn cố định mà có thể xoay một góc 900 (mỗi bên trái phải 450) và họ có thể bắn tới ba viên trong một phút. Họ cũng chế tạo được đại bác ngắn nòng (carronade hay short-barreled gun) rất tiện cho di chuyển và cận chiến, hữu dụng cho việc yểm trợ bộ binh.
Logged
shmel
Thành viên
*
Bài viết: 186


Man in Iron Mask


« Trả lời #5 vào lúc: 05 Tháng Năm, 2008, 06:27:43 pm »

B- ĐÔNG Á GIỮA THẾ KỶ 19

 
Đông Á được định nghĩa là các quốc gia ở khu vực bờ biển phía Tây Thái Bình Dương và những đảo quốc bao gồm Hàn Quốc, Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản, Philippines, Indonesia. Người châu Âu còn gọi là Viễn Đông (The Far East) vì thời kỳ đó họ phải đi vòng qua châu Phi, vượt qua Ấn Độ Dương mới tới được vùng đất này.

Vào giữa thế kỷ 19, khi các nước châu Âu xâm chiếm khu vực Á Đông, các quốc gia ở khu vực này có hai khuynh hướng chính:

- Khuynh hướng bảo thủ, đóng cửa lấy chủ trương “bế quan tỏa cảng” và nhắm mắt làm ngơ trước hiện tình thế giới. Những quốc gia đại diện cho đường lối này có thể kể đến Trung Hoa và Việt Nam.

- Khuynh hướng canh tân và mở cửa giao thiệp với nước ngoài, một mặt học hỏi những điều mới lạ, thay đổi cơ chế học thuật, thi cử, du nhập những cái hay của người. Đại diện cho chiều hướng này phải kể đến Nhật Bản, Thái Lan.


1/ Trung Hoa

Trung Hoa là quốc gia có một nền văn minh sớm sủa, tiến trước các quốc gia châu Âu đến mấy trăm năm. Ngay từ thế kỷ 11, họ đã chế tạo được máy in và sách vở đã tương đối khá phổ biến. Thương mại và kỹ nghệ cũng phát triển với nhiều công trình đồ sộ về giao thông bao gồm cả đường sá và thủy đạo. Nhiều thành phố lớn được xây dựng một cách qui mô, to lớn và văn minh hơn các thành phố châu Âu cùng thời. Tiền giấy được phát minh do nhu cầu buôn bán và riêng kỹ nghệ sắt, họ đã đạt được mức 125.000 tấn một năm để dùng trong quân sự với một đội quân lên đến trên 1.000.000 người. Họ đã tìm ra và biết sử dụng thuốc súng để chế tạo súng thần công vào cuối thế kỷ 14.

Năm 1420, Minh triều đã có một hải đội hùng hậu lên đến 1350 chiến thuyền, trong đó có 400 chiến hạm kiên cố và 250 hải thuyền được đặc biệt dùng cho viễn hành. Tuy nhiên kể từ năm 1433, sau những chuyến viễn du của thái giám Trịnh Hòa, triều đình nhà Minh không những ngưng việc phát triển hải quân mà còn cấm không cho chế tạo những chiếc tàu nào lớn hơn 2 cột buồm và quan quân được điều qua những thuyền nhỏ hơn dùng để đi lại và tuần tiễu trong các kinh đào.[11]

Cho tới thế kỷ 16, kỹ thuật đóng tàu của châu Á vẫn có nhiều điểm vượt trội so với thuyền bè của châu Âu. Tàu phương bắc có thể có đến 5 cột buồm, hai chính, ba phụ trong khi tàu sử dụng ở ngoài khơi nước ta thường là ba buồm, 1 chính hai phụ. Tàu của Nhật và tàu phương bắc thường có buồm hình vuông trong khi ở phương nam thì buồm thường theo hình quạt. Tuy nhiên, trong hàng nghìn năm tàu bè ở châu Á không cải tiến gì, ngược lại nhờ biết áp dụng kiến thức khoa học và kỹ thuật mới, thuyền của châu Âu có những bước tiến vượt bực hồi thế kỷ 18 và đến đầu thế kỷ 19 đã hơn hẳn thuyền bè của Trung Hoa.

Từ khoảng giữa thế kỷ 19, vì sự suy yếu của triều đình Mãn Thanh nhiều cuộc nổi dậy đã lan tràn khắp nước, nhất là miền Nam Trung Hoa. Đáng kể nhất có thể kể các cuộc nổi dậy của Thiên Địa Hội, loạn Thái Bình Thiên Quốc, giặc Niệm và người Hồi ở Tân Cương.

a/ Chiến tranh nha phiến

Người phương Tây buôn bán nha phiến ở Đông Á từ thế kỷ 16 nhưng tới thế kỷ 19 thì lên đến một con số khổng lồ. Năm 1838, người Tàu nhập cảng đến 34.776 thùng (mỗi thùng 20 kg) và Thanh triều quyết định cấm việc buôn bán thuốc phiện. Năm1839, khi Lâm Tắc Từ được cử làm Khâm Sai đại thần đến Quảng Đông, ông ta liền ra lệnh tịch thu thuốc phiện của các thương nhân người Anh rồi trộn với muối, vôi bột đem đổ xuống sông. Số hàng đó lên đến 20.000 thùng trị giá khoảng 6.000.000 Mỹ kim.

Người Anh tức giận đem quân tấn công Quảng Đông và đánh vào một số căn cứ phòng thủ dọc theo duyên hải khiến cho Thanh đình phải bãi chức Lâm Tắc Từ. Kỳ Thiện lên thay vội vàng điều đình đưa đến một tạm ước. Tuy nhiên hai bên đều không đồng ý và quân Anh lại tiến đánh Ninh Ba khiến cho Thanh triều phải ký hòa ước Nam Kinh (Treaty of Nanking) ngày 29 tháng 8 năm 1842 mở năm cửa ải là Quảng Đông, Hạ Môn, Phúc Châu, Ninh Ba và Thượng Hải cho người ngoại quốc vào buôn bán. Ngoài ra còn phải nhường Hongkong cho người Anh và bồi thường 21.000.000 Mỹ kim bao gồm 6.000.000 Mỹ kim tiền thuốc phiện, 3.000.000 Mỹ kim tiền nợ của các thương gia Trung Hoa và 12.000.000 Mỹ kim chiến phí.[12]

Nhà Thanh đặt ra chức Tổng Lý Nha Môn để trông coi việc giao thiệp với nước ngoài và nhiều quốc gia được quyền thiết lập lãnh sự quán ở Bắc kinh. Hòa ước Nam Kinh mở đầu cho một loạt các hòa ước bất bình đẳng khác.

b/ Quân sự

Nhà Thanh chia quân của họ thành ba loại: Mãn Châu, Mông Cổ và Hán Tộc, mỗi loại chia ra tám nhóm với màu cờ khác nhau gọi là Bát Kỳ.

Mãn Châu Bát Kỳ là quân lực quan trọng nhất, tất cả là người Mãn Châu, được thế tập cha truyền con nối.

Mông Cổ Bát Kỳ là những đội quân ngoài sa mạc là thành phần bị người Mãn Châu chinh phục trước khi chiếm được Trung Hoa. Họ cũng là những đội quân được ưu đãi.

Chỉ có Hán Tộc Bát Kỳ là những đơn vị người Hán bao gồm nhiều thành phần khác nhau, không có tính thế tập và phức tạp hơn cả. Vì lương bổng ít ỏi, số lính ma có khi đến quá nửa, lại không được tập luyện nên khả năng chiến đấu rất kém. Vũ khí của họ cũng cổ lỗ, vẫn còn dùng gươm giáo, cung tên, đao kiếm và rất ít súng đạn. Một trong những nhận xét của các tác giả ngoại quốc là tuy người Tàu có vũ khí họ cũng không biết cách sử dụng cho hiệu quả. Điển hình là khi quân Thanh vào đánh Trung Nguyên, về phương diện trang bị, quân Minh tuy có nhiều súng ống hơn nhưng lại thất bại vì thiếu tập luyện và tinh thần cũng kém hơn.[13] Quân nhà Thanh cũng ở vào tình trạng đó ở thế kỷ 19. Chỉ có sau khi F.T. Ward và C. G. Gordon đem quân vào giúp nhà Thanh đánh với quân Thái Bình Thiên Quốc (được gọi là Vạn Thắng Quân) hồi thập niên 1860, súng trường mới được trang bị cho Hoài quân của Lý Hồng Chương.

Thủy binh của họ thì vẫn dùng các loại thuyền chèo bằng tay hay các loại thuyền buồm cũ kỹ. Các pháo đài dọc theo bờ bể cũng không sử dụng được vì thiếu tu bổ, binh lính trú phòng thiếu huấn luyện. Năm 1870, Trung Hoa mướn Đại Tá Luxmore, một sĩ quan hải quân Anh, chỉ huy chiến hạm lớn nhất có tên Dương Vụ. Viên quan nhà Thanh cao cấp nhất trên chiến hạm đó là một Đề Đốc. Đại Tá Luxmore mô tả ông ta như sau :

Tôi không biết ông Đề Đốc làm gì trên chiến thuyền này vì ít khi thấy ông ta ở trên tàu. Mỗi khi ông đến ông thường đóng cửa chặt trong phòng riêng, trong đó có tượng Mã Tổ mà người ta tin rằng độ trì cho thuyền trên biển. Ông lão ở trong phòng chẳng làm gì ngoài việc tụng kinh và nhập định... Chẳng hiểu sao viên tướng già này lại được giao chức vụ này vì ông ta chẳng biết gì về máy hơi nước hay Anh ngữ là ngôn ngữ chỉ huy duy nhất dùng trên chiến hạm.

Theo tác giả cuốn Hải Trình Lupwing (The Navigation of Lupwing), vấn đề của lực lượng Trung Hoa là thiếu kỷ luật, thiếu tổ chức, thiếu lãnh đạo và thiếu đạo đức. Ông viết :

Ai ai cũng biết rằng một quân đội chỉ có nhân sự mà không có kỷ luật và tổ chức thì không những vô dụng mà còn có hại nữa. Hơn nữa, ngay cả hạm đội hay quân đội có năng lực nhất cũng sẽ bị đánh bại nếu người chỉ huy không có khả năng, hiểu biết và khôn ngoan. Nói về lực lượng vĩ đại của quân đội Trung Hoa, người ta thấy rằng các cấp chỉ huy thiếu khả năng lãnh đạo nặng nề.

Lời phê bình sau cùng của ông ta như sau :

Đánh giá theo tiêu chuẩn phương Tây, quân đội Trung Hoa hình thức khá hơn thực chất. Tổ chức, nếu chữ đó có thể để mô tả hệ thống của người Tàu thì quả thực là một trò cười. Quân lực Trung Hoa chỉ giản dị là một đám người ô hợp có trang bị nhưng không có kỷ luật gì cả.[14]

c/ Canh tân quân đội

Sự thất bại của Trung Hoa trong những cuộc chiến tranh với nước ngoài đã làm cho sĩ phu thức tỉnh. Cũng như nhiều quốc gia Á Đông thời kỳ đó, nhiều nho sĩ Trung Hoa đã yêu cầu Thanh đình cải cách về quân sự, chính trị cũng như xã hội.

Hai người đi đầu trong việc hoạch định một chính sách mới là Ngụy Nguyên và Phùng Quế Phương. Ngụy Nguyên đưa ra những biện pháp nhan đề Trù Hải Thiên (Kế Hoạch Phòng Thủ Duyên Hải) năm 1842 đại lược như sau:

- Cải cách quân đội bằng cách học hỏi cách chế tạo vũ khí, đóng tàu của người phương Tây. Ngoài ra phải đãi ngộ xứng đáng, trả lương hậu hĩ để có được những binh sĩ ưu tú

- Tập trung phòng thủ trên đất liền và dụ địch vào trong các thủy đạo để tiêu diệt tại một khu vực đã sắp xếp trước

- Liên minh với nhiều nước để họ kiềm chế lẫn nhau và mượn tay kẻ thù này tiêu diệt kẻ thù kia
- Mở cửa cho người ngoại quốc vào buôn bán

Phùng Quế Phương đi sâu hơn vào những cải cách chính trị và xã hội trong đó ông nhấn mạnh:

- Học hỏi và tự chế tạo những vũ khí cần thiết, thúc đẩy người học về kỹ thuật để thoát ra khỏi những đe dọa của nước ngoài.

- Cải cách giáo dục để đào tạo nhân tài bao gồm nhiều lãnh vực kỹ thuật và khoa học khác đồng thời biến cải kỹ nghệ quốc phòng

- Cải cách cách huấn luyện binh sĩ, đào tạo những lực lượng nhỏ nhưng tinh nhuệ hơn là duy trì một đội quân khổng lồ nhưng kém cỏi

- Áp dụng lý thuyết Thể Dụng, duy trì tinh thần Khổng Mạnh nhưng áp dụng kỹ thuật mới.

Những quan điểm mới đó sau này được phát động để trở thành một phong trào dưới cái tên Dương Vụ Vận Động. Tuy nhiên những vận động có tính chất “lửa rơm” đó không đi đến đâu vì chỉ do nhiệt huyết sĩ phu mà không phải là những chương trình được nghiên cứu chu đáo và áp dụng một cách qui củ. Những cải cách quân sự vẫn chỉ hời hợt bề ngoài nên không thành công.

Về sau, để đôái phó với những tổ chức nổi dậy, nhiều đơn vị quân sự địa phương được thành lập và ít nhiều mang lại những sinh khí mới như Tương Quân của Tăng Quốc Phiên, gia tăng lưu động tính, nhấn mạnh vào đức tính của quân sĩ, Hoài Quân của Lý Hồng Chương, sử dụng vũ khí phương Tây, Sở Quân của Tả Tông Đường nhấn mạnh vào vai trò hệ thống tiếp liệu.

Tuy nhiên những cải cách đó vẫn chỉ giới hạn và không bao giờ thành công hoàn toàn cho tới khi nhà Thanh bị lật đổ năm 1911.

Logged
shmel
Thành viên
*
Bài viết: 186


Man in Iron Mask


« Trả lời #6 vào lúc: 05 Tháng Năm, 2008, 06:28:39 pm »

2/ Việt Nam

a/ Tình hình chính trị và xã hội

Cho tới giữa thế kỷ 19, nước ta vẫn còn là một quốc gia hết sức lạc hậu. Công nghệ gần như
không có gì, buôn bán thì không biết, chỉ biết làm ruộng để lấy gạo mà ăn. Lệ Thần Trần Trọng Kim đã viết trong Việt Nam Sử Lược:

… thuở ấy tuy một tiền được bốn bát gạo mà vẫn có người chết đói vì rằng giá gạo thì rẻ nhưng kiếm được đồng tiền thật là khó …

Nhà cửa phần nhiều là nhà tranh nhà lá, ít khi có nhà ngói nhà gạch … Cách ăn mặc thì chỉ có đồ vải nâu, người nghèo khổ chỉ có manh áo cánh và thường thì đóng cái khố, có đi đâu mới mặc cái quần vải dài đến đầu gối. Người sung túc mới có vài cái áo nâu đen và vài cái quần nhuộm nâu hoặc để trắng, chứ không được mặc đồ gấm đồ vóc và đi giày …

Nước nghèo dân khổ, lại phải lúc có nhiều tai biến, người ngoài vào xâm lược, triều đình ngơ ngác không biết xoay xở ra thế nào, lòng người ly tán, phân ra bè nọ đảng kia, giết hại lẫn nhau 18]

Trong khi liệt cường tiếp tục xâu xé Trung Hoa thì vua Tự Đức vẫn chủ trương “bế quan tỏa cảng”, sợ mở cửa thì người nước ngoài sẽ lũng đoạn. Năm 1873, khi Jean Dupuis gây hấn ở Bắc Kỳ, tiến sĩ Đặng Xuân Bảng tâu lên:

Lấy tình thế mà nói, thì đánh là hơn, nhưng xét thời thế thì cũng có lúc nên hòa. Tỉnh Hải Dương, cửa Cấm Giang, tàu bè tiện lối giao thông như xứ Gia Định vậy. Hạ thần nghĩ người Pháp đã lấy Nam Kỳ thế nào rồi cũng lại xin thông thương xứ Bắc Kỳ. Kế sách hay không gì bằng mở hội buôn ở cửa Cấm, gửi thư cho các nước Thái Tây đến đây thông thương. Tự mình phát thư thì mình làm chủ, lợi quyền ở mình, hễ nước nào chực chiếm lợi riêng thì đã có nước khác ngăn trở.

Vua Tự Đức đã phê lên tờ sớ:

Một nước còn giao thiệp không xong nữa là để nhiều nước đến.[19]

Khi Vũ Duy Tuân thi Đình, trả lời về việc hòa hay chiến, họ Vũ chủ chiến, nhà vua đã trách:
Kim nhật thỉnh chiến, minh nhật thỉnh chiến, chiến nhi bất thắng, tương trí trẫm ư hà địa? (Nay xin đánh, mai xin đánh, đánh như không thắng thì để ta ở chỗ nào?)

Mặc dù tình thế nước ta lúc đó không quá lạc quan như sĩ phu lầm tưởng, vua Tự Đức vẫn chỉ thu mình trong cung điện, làm thơ xướng họa, lấy cái hiếu nhỏ của người con làm trọng mà quên cái hiếu lớn với cả xã tắc. Trong khi đó miền Bắc Việt Nam luôn luôn loạn lạc, giặc giã liên miên. Trần Trọng Kim đã viết:

… Tuy vậy mặc lòng, không có đời nào lắm giặc giã bằng đời ngài làm vua. Chỉ được vài ba năm đầu thì còn hơi yên trị, còn từ năm Tân Hợi (1851) là năm Tự Đức thứ 4 trở đi thì càng ngày càng nhiều giặc. Mà nhất là đất Bắc kỳ có nhiều giặc hơn cả, bởi vì đất Bắc kỳ là đất của nhà Lê cũ, dân tình cũng còn có nhiều người tưởng nhớ đến tiền triều, nên chi những người muốn làm loạn, hoặc tự nhận là dòng dõi nhà Lê, hoặc tìm một người nào giả nhận dòng dõi nhà Lê, rồi tôn lên làm minh chủ để lấy cớ mà khởi sự.[20]

Trong vòng 15 năm từ 1851 đến 1866, Bắc kỳ có đến hàng chục vụ nổi loạn lớn như giặc Tam Đường (giặc khách ở Thái Nguyên, 1851), giặc Châu Chấu (Lê Duy Cự, Cao Bá Quát ở Sơn Tây, 1854), Tạ Văn Phụng (Quảng Yên, 1861), Cai Tổng Vàng (Bắc Ninh, 1862) … Ngoài ra còn các nạn giặc khách ở ngoài bể luôn luôn quấy phá:

… Cuối năm Quí Hợi (1863) là năm Tự Đức thứ 16, quân giặc họp hơn 500 chiếc thuyền ở đảo
Cát bà và ở núi Đồ Sơn, có ý muốn đem quân vào đánh đất Kinh kỳ, nhưng chẳng may phải bão, thuyền đắm mất nhiều. Quan đề đốc là Lê Quang Tiến và quan bộ phủ Bùi Huy Phan được tin ấy liền đem quân ra đánh, bị quân giặc đánh tập hậu, quan quân bỏ chạy. Lê Quang Tiến và ông Bùi Huy Phan phản nhảy xuống bể tự tận.

Đến tháng 6 năm Giáp Tí (1864) là năm Tự Đức thứ 17, quan hiệp thống Trương Quốc Dụng, quan tán lý Văn Đức Khuê, quan tán tương Trần Huy Sách và quan chưởng vệ Hồ Thiện đánh nhau với giặc ở đất Quảng Yên, bị giặc giết cả. Trận ấy quan quân thua to, quân sĩ thiệt hại rất nhiều 24]

Trong lá thư đề ngày 18-5-1842, viên cố đạo Jean Miche đã kể như sau về việc huấn luyện của lính triều đình ta:

… Từ khi chúng tôi ở đấy, chúng tôi chưa từng thấy một tên lính tập dùng võ khí. Có kẻ đã đi tòng quân từ 20 năm mà chưa từng thấy rút gươm ra khỏi vỏ, trừ khi có những vụ xử trảm. Đây là cách duy nhất để tập luyện: buổi chiều trước khi mặt trời lặn, người ta đặt ở giữa sân trong mỗi trại lính một hình nộm bằng rơm che thân bằng một manh chiếu rách cố làm cho giống mặt người rồi những tên lính tiến lên tay cầm một chiếc roi mây, chăm chỉ nghe chỉ thị của một ông râu già nhất trong trại và quất vào con ma ấy cho đến khi nó bị rách bươm. Những lính nào quất phát sau trúng phát trước và tạo nên một đường rãnh sâu là anh hùng, chúng đã biết cách tra tấn
Logged
shmel
Thành viên
*
Bài viết: 186


Man in Iron Mask


« Trả lời #7 vào lúc: 05 Tháng Năm, 2008, 06:31:18 pm »

A- TIỂU SỬ BÙI VIỆN

 
Bùi Viện chánh quán làng Trình Phố, tỉnh Thái Bình, sinh năm 1839, mất năm 1878 lúc mới 39 tuổi. Theo Gia Phả họ Bùi, ông là con trưởng ông Bùi Ngọc (tức Việp), đỗ Tú Tài năm Giáp Tí (1864), đỗ Cử Nhân năm Mậu Thìn (1868) [28] nhưng không đỗ Tiến Sĩ. Nhiều sách nói rằng khi vào Huế thi Hội, ông đã tập văn và học ông Vũ Duy Thanh (1806-1861) (tức ông Bảng Kim Bồng) nhưng có lẽ chi tiết này không chính xác vì Vũ Duy Thanh đã mất từ bảy năm trước khi Bùi Viện vào đến kinh 33]. Bỏ qua những đoạn thêm mắm thêm muối của nhà văn họ Phan như

“từ biệt các liêu hữu, Bùi Viện cho giương buồm về phía Bắc, vào một buổi sáng quang đãng mà mặt trời mới mọc trồi lên mặt nước gợn sóng, không khác một cái đĩa ngọc lớn để nghiêng trên tấm thảm hồng” (tr. 45)

hay

“Sau mươi ngày lênh đênh trên mặt bể, mười ngày đêm vật lộn với gió bão phải đè lên những ngọn sóng to tầy đình kế tiếp nhau, nhô lên rồi lại đổ xuống như cố ý hành hạ chiếc thuyền mỏng mảnh mà tay ông chèo lái, Bùi Viện trông xa đã thấy đất liền, khoảng đất rọi một tia sáng vui mừng trong khối óc đầy hi vọng của ông” (tr. 47)

chúng ta khó có thể tin tưởng một sứ bộ được cử ra ngoại quốc được đích thân nhà vua tiễn đi lại sơ sài đến thế.

Những năm tháng Bùi Viện đi sứ cũng không rõ rệt. Nếu đúng như Phan Trần Chúc viết, thời gian ông ở Mỹ kể cả hành trình và chờ đợi cũng phải hơn 1 năm, thêm đi lại từ Việt Nam tới Hương Cảng, Nhật Bản, vừa đi vừa về cũng phải cả năm nữa, có thể tin rằng ít nhất khi trở về Huế phải vào năm 1875. Việc ông sang gặp Tổng Thống Grant nhưng không thành công vì không có quốc thư cũng hơi vô lý nếu thực sự vua Tự Đức đã cử ông đi sứ thì ắt phải giao cho ông một giấy tờ gì để làm bằng, đồng thời mang theo những phẩm vật trao đổi và thường thường bao giờ cũng có Chánh Sứ, Phó Sứ và tùy tòng chứ không thể chỉ chơ vơ một người.

Một số tác giả lại chép rằng Bùi Viện chỉ được cử đi Hương Cảng để liên lạc với người Anh vì triều đình biết rằng Anh và Pháp hai bên có nhiều xung đột trong quá khứ. Việc ông ra nước ngoài có lẽ chỉ được coi như một công tác liên lạc và thăm dò, hoặc có khi ông được nghe người khác kể lại cảnh trí nước người mà tò mò nổi máu phiêu lưu nên tự ý ra đi không chừng.

Tuy nhiên khi tới Trung Hoa, ông đã nhận ra được rằng người Anh cũng thực dân không kém, nếu không nói rằng còn hơn người Pháp nên rất thất vọng. Trong thời gian lưu lại đây, ông đã kết giao được với viên lãnh sự Mỹ (?)[34] và có ý sang Hoa Kỳ cầu viện. Ông lập tức quay trở về trình lên vua Tự Đức nhưng nhà vua không mấy sốt sắng với đề nghị này nên ông đã mạo quốc thư và tự chế mũ áo hàng tam phẩm rồi qua Hương Cảng nhờ người bạn Mỹ đưa về gặp Tổng Thống Grant.[35] Tổng Thống Grant bằng lòng giúp nhưng Bùi Viện khi đó lại sợ tội đã tự quyền và mạo quốc thư nên xin được về tâu lại. Đến khi vua Tự Đức bằng lòng cử ông làm chánh sứ thì chính tình nước Mỹ đã thay đổi.[36]

Câu chuyện này xem ra có lý hơn và cũng phù hợp với thời gian ba năm (từ 1873 đến 1876), trước khi ông được chỉ định để tổ chức hải quân. Như vậy có thể ông chỉ qua Mỹ một lần nhưng đi Hương Cảng đến ba lần. Chúng ta có thể đưa ra một vài nghi vấn:

- Ông không có phái đoàn chính thức như một phái bộ quốc gia,

- Ông không đủ tư cách để đại diện triều đình (tuy đỗ Cử Nhân, Bùi Viện chưa giữ một chức vụ gì và khi muốn liên lạc với người Mỹ, ông phải giả mạo quốc thư và mũ áo tam phẩm – một vị trí không mấy gì làm cao). Cũng có thể vì thấy ông xuềnh xoàng quá nên chính phủ Mỹ đã từ chối khéo bằng cách yêu cầu ông trở về trình bày với triều đình để đưa một phái đoàn qua chính thức.

Tuy nhiên chuyện đó không quan trọng ngoài việc ông là người Việt Nam đầu tiên đặt chân lên châu Mỹ ở thế kỷ 19.
Logged
shmel
Thành viên
*
Bài viết: 186


Man in Iron Mask


« Trả lời #8 vào lúc: 05 Tháng Năm, 2008, 06:37:40 pm »

B- VAI TRÒ CỦA HẢI QUÂN TRONG VIỆC BẢO VỆ ĐẤT NƯỚC
 

1/ Nạn hải khấu

Từ thế kỷ 16, dưới triều Minh, nước Tàu bị nạn cướp biển quấy phá. Những hải tặc đó thường là người Nhật nên được đặt tên là oải khấu (wokou, giặc lùn). Hải tặc không phải chỉ hoạt động dọc theo bờ biển Trung Hoa mà kéo dài từ Triều Tiên xuống đến tận Mã Lai. Thành thử, cả một vùng duyên hải rộng lớn coi như không thuộc quyền kiểm soát của quan quân. Các toán giặc đó cũng hoành hành dọc theo duyên hải nước ta và được gọi là giặc tàu ô vì thuyền của chúng sơn đen. Gernet Jacques đã nhận định như sau:

Vào thế kỷ 16, hải tặc bành trướng đến một mức độ chưa từng có và nguyên nhân có thể tìm ra được là nó có liên quan trực tiếp đến việc phát triển thương mại trên mặt biển ở Đông Á, từ Nhật Bản kéo đến Indonesia. Các vua nhà Minh đối phó bằng chính sách ngăn cấm nhưng thiếu liên tục và chặt chẽ chỉ vì quan điểm chiến lược và kinh tế mỗi lúc một khác.[37]

Từ thời vua Thế Tông nhà Minh, cướp bể càng hoành hành, lấy các đảo ngoài khơi làm căn cứ, đói thì vào cướp bóc, bảy tỉnh duyên hải không nơi nào yên.[38] Đến khi Hồ Tôn Hiến, Tổng Đốc Chiết Giang ra lệnh cấm dân chúng liên lạc, tiếp ứng cho họ, nạn giặc bể mới suy dần.[39] Thời đó, người Trung Hoa không những không muốn giao thiệp với bên ngoài mà họ còn cấm không cho học ngoại ngữ cũng như dạy tiếng Tàu cho người nước ngoài. Trong khi người châu Âu phát triển hàng hải và tìm đường chinh phục thuộc địa thì Trung Hoa lại tài giảm hải quân vì từ khi đào xong Vận Hà (Grand Canal) năm 1411 họ không còn cần đến việc chuyên chở hàng hóa bằng đường biển.

Sang đời Thanh, nước Tàu vẫn tiếp tục chính sách bỏ trống duyên hải nhằm mục tiêu cô lập bọn giặc biển. Thời kỳ đó, Việt Nam ta đang thời kỳ Nam Bắc phân tranh, có những lực lượng hải quân tương đối mạnh nên hải khấu không dám cướp phá nhiều mà lại tập trung vào miền Nam Trung Hoa rồi lan dần lên tận miền Bắc. Chúng chuyển hướng xuống lập căn cứ ở Đài Loan, Philippines và những đảo ngoài khơi Thái Bình Dương. Nước ta thời đó cũng có nhiều tướng tài như Hoàng Ngũ Phúc, Hoàng Đình Bảo, Nguyễn Hữu Chỉnh … khiến bọn giặc bể phải kiêng dè.

Đời Tây Sơn, thủy quân nước ta rất mạnh nên hải khấu không dám quấy nhiễu. Hơn thế nữa, khi chúng bị quân Thanh đánh đuổi còn sang thần phục nước ta, được vua Quan Trung phong quan chức và cấp dưỡng để quay trở lại quấy phá miền Nam nước Tàu.[40]

Vào thời trung cổ, những loại thuyền bè của hải khấu đều nhẹ và nhanh, sử dụng cả chèo chống lẫn buồm. Bọn chúng lại liều lĩnh và tàn ác, chính vì thế quan quân triều đình không sao tiễu trừ được.


2/ Tuần Dương Quân

Không phải đến thế kỷ 19 người Việt Nam mới nhìn thấy sự quan trọng của mặt biển. Ngay từ thời Tây Sơn, cuối thế kỷ 18 Nguyễn Huệ đã chủ trương phát triển một lực lượng hải quân và hải quân thời Tây Sơn đã đạt được nhiều chiến công hiển hách, tiêu diệt nhiều chiến thuyền của châu Âu.

Quan điểm của Bùi Viện cũng tương tự và sự nghiệp của ông được nhắc đến nhiều là thay vì chỉ dâng sớ yêu cầu triều đình cải cách, chính tiên sinh đã đứng ra chịu trách nhiệm để cải tổ hải quân, đồng thời thành lập một hạm đội có khả năng lưu động tác chiến để chứng minh những gì ông đề nghị.

a/ Vai trò của Tuần Dương Quân

Một trong những vai trò chính yếu của Tuần Dương Quân là để bảo vệ mặt biển. Nước ta có đến hơn 2000 cây số mặt biển nên việc giữ yên hải phận là một công tác quan trọng không phải chỉ trong việc quốc phòng mà cả về giao thông và thương mại.

Dưới triều Nguyễn kinh đô nước ta đặt tại Huế để cân bằng hai đầu Gia Định – Thăng Long. Tuy nhiên về mặt kinh tế, Huế nhỏ hẹp và cằn cỗi không thuận tiện cho việc đi lại, chính vì thế Hà Nội và Saigon vẫn có nhiều ưu điểm hơn về mặt ngoại thương.

Khi đề ra dự án xây dựng một đội ngũ hải quân, Bùi Viện đã nhấn mạnh đến vai trò thu lợi của nó, cái mà ngày nay trong quản trị người ta gọi là ROI (return-on-investment), nghĩa là cái được so sánh với cái mất. Ông đã sớm hiểu được tình hình túng quẫn của triều đình sau những chiến phí và bồi thường cho những nước thắng trận theo hòa ước năm Nhâm Tuất (1862) và Giáp Tuất (1874), lại chinh chiến giặc giã liên miên nên kho đụn đều trống rỗng.

Việc xây dựng một hạm đội, dù là tuần tiễu hay phòng ngự đều đòi hỏi một kinh phí rất cao, triều đình Huế vì thế rất tiện tặn trong những chi phí binh bị. Do đó, Bùi Viện gần như phải tự xoay sở lấy để thực hiện nguyện vọng của mình. Tuần Dương Quân vì thế được xây dựng theo những tiêu chuẩn sau đây:

- Tự túc tự cường: Tuần Dương Quân đóng vai trò bảo vệ các thuyền buôn đi từ Bắc vào Nam. Vì địa thế nước ta dài và hẹp, đường sá chưa được mở mang nên đi từ Bắc vào Nam chủ yếu vẫn là đường bể. Tuy nhiên giặc cướp rất nhiều mà triều đình thì bất lực khiến cho dân chúng không thể qua lại và vì thế kinh tế không thể nào phát triển được.

Biết rằng nếu trông chờ vào triều đình cung cấp phương tiện thì sẽ không bao giờ thành, Bùi Viện đã mở rộng tầm hoạt động quốc phòng, biến Tuần Dương Quân từ một lực lượng bảo vệ duyên hải thành một lực lượng hải quân đóng vai bảo tiêu và tuần hành bằng cách:

* Sử dụng ngay đội Tuần Dương Quân mà triều đình thành lập để đi tiễu trừ giặc bể

* Cải tiến Tuần Dương Quân thành một đội vận tải lương tiền cho triều đình

* Dùng Tuần Dương Quân để hộ vệ các nhà buôn thu lợi dùng vào việc trang b44]

b/ Tổ chức

Bùi Viện được giao cho chức Tuần Tải Nha Chánh Quản Đốc kiêm Tham Biện Thương Chính[45], ông lập tức cùng với Phó Quản Đốc Đặng Văn Ứng (võ cử xuất thân) tuyển mộ binh lính và chia thành hai loại:

- Thủy Dũng: là binh lính người Việt tuyển mộ từ các dân chài dọc theo duyên hải có những điều kiện “trí dũng, đức hạnh, bơi lội giỏi, thuộc đường bể, biết trước những lúc có thể xẩy ra mưa gió, thông các phép tính” (điều 1 chiêu mộ)

- Thanh Đoàn: là những người Tàu, kể cả giặc bể được chiêu mộ làm lính trong Tuần Dương Quân, do chính người Tàu chỉ huy.

Việc thành lập Tuần Dương Quân được Bùi công soạn thành điều lệ, bao gồm lời nói đầu và 20 điều khoản chia ra như sau:

a/ Thể lệ tổng quát (điều 1, điều 2)
b/ Lương bổng và cấp bậc (điều 3)
c/ Tưởng thưởng cho người chiêu mộ (điều 4)
d/ Phụ cấp, binh phục (điều 5)
e/ Trợ cấp gia đình (điều 6)
f/ Chế tài đối với lính đào ngũ (điều 7)
g/ Kỷ luật binh trại (điều Cool
h/ Kỷ luật khi giao tranh (điều 9)
i/ Kỷ luật đối với dân chúng (điều 10)
j/ Tưởng thưởng khi giao tranh (điều 11)
k/ Trợ cấp tử tuất (điều 12, 13)
l/ Các hình phạt:
- vi phạm khi tại ngũ (điều 14)
- hà lạm của công (điều 15)
- thi hành công tác (điều 16)
m/ Các ngạch thư lại:
- tuyển mộ (điều 17),
- lương hướng (điều 18)
- kỷ luật (điều 19)
n/ Các ngạch tạp vụ khác (điều 20)

Logged
shmel
Thành viên
*
Bài viết: 186


Man in Iron Mask


« Trả lời #9 vào lúc: 05 Tháng Năm, 2008, 06:39:34 pm »

c/ Tuyển mộ

Vì chú trọng đến khả năng binh lính, Bùi Viện đã đưa ra những tiêu chuẩn tuyển mộ rõ rệt và tưởng thưởng những ai tìm được người. Người nào mộ được:

- 5 đến 10 thủy binh: thì được phong đội trưởng
- 10 thủy binh: -- tòng cửu phẩm
- 20 thủy binh: -- chánh cửu phẩm
- 30 thủy binh: -- tòng bát phẩm
- 40 thủy binh: -- chánh bát phẩm
- 50 thủy binh: -- tòng thất phẩm
- 60 thủy binh: -- chánh thất phẩm
- 70 thủy binh: -- tòng lục phẩm
- 80 thủy binh: -- chánh lục phẩm
- 90 thủy binh: -- tòng ngũ phẩm
- 100 thủy binh: -- chánh ngũ phẩm
- 200 thủy binh: -- tòng tứ phẩm
- 300 thủy binh: -- chánh tứ phẩm [46]

Ông cũng đưa ra những tiêu chuẩn nhất định để tuyển mộ, mặc dù còn đại cương nhưng đã có những nguyên tắc rõ rệt để chia ra thượng hạng, trung hạng và hạ hạng (điều 2). Điều chính yếu đây là những người tình nguyện chứ không phải bị cưỡng bách và chính vì thế không phải bất cứ ai cũng có thể gia nhập Tuần Dương Quân mà phải hội đủ một số điều kiện nhất định. Ngoài ra những người đó còn phải có lý lịch tốt, được thân thuộc và lý dịch bảo đảm (điều 1).

d/ Kỷ luật

Có thể nói kỷ luật mà Bùi Viện đưa ra là kỷ luật thép áp dụng trong thời chiến. Điều đó cũng không lấy làm lạ vì kỷ luật là sức mạnh của đoàn quân, chưa nói những kẻ ông chiêu mộ đều là thành phần rất táo tợn, vừa phải lấy lợi mà dụ, vừa phải lấy uy mà trừng trị. Ông đưa ra những trách nhiệm liên đới giữa binh sĩ và người chiêu mộ, vừa chịu tội, vừa phải bồi thường công quĩ. Ông lại áp dụng những hình phạt khắt khe chúng ta thường thấy trong sử sách những giai đoạn cần phải củng cố lại uy quyền của người làm tướng, chẳng hạn như “Nếu binh sĩ nào gặp trời mưa mà lấy nón của dân để đội thì lập tức bị chém đầu để thị chúng” (điều 10).

Một điều chúng ta cũng nhận ra là Bùi Viện không trị binh theo lối nhân nghĩa của nhà nho mà theo kiểu giang hồ nghĩa sĩ – nghĩa là ông áp dụng chính những qui luật có sẵn của bọn hải khấu. Hải khấu ở biển đông thường là hội viên của một số bang hội, giáo phái, có những nghĩa khí riêng của tổ chức nhưng đồng thời cũng rất tàn nhẫn với kẻ phản bội hay không hết lòng. Có lẽ Bùi Viện đã nghiên cứu khá sâu rộng về những tổ chức này và nắm vững được những qui luật của họ nên đã đưa ra những biện pháp tưởng thưởng và trừng phạt khác thường.

Kêu gọi tính anh hùng hảo hán, lòng trọng lợi, cùng kỷ luật nghiêm minh đã khiến đám giặc bể có cảm tưởng ông là một thủ lãnh kiệt hiệt gần gũi với họ hơn là một văn quan thư sinh. Hết lòng với anh em, chia vui xẻ buồn, đụng trận xông ra trước, ông đã áp dụng đúng mức đạo làm tướng mà cổ nhân thường đề cao. Cũng nên thêm rằng, trước đây các quốc gia Đông Á chưa có trường huấn luyện tướng soái mà chỉ bổ nhiệm theo nhận xét riêng của vua quan, vốn thường là văn nhân chuyển sang võ nghiệp rồi tự mình tìm hiểu và học hỏi kinh nghiệm.

Trước đây, việc một văn quan bị chỉ định cầm quân thường là một cách trừng phạt chứ không phải là thăng thưởng nên ai nấy đều lo sợ và bối rối. Trái lại Bùi Viện trông chờ một dịp để thi thố tài năng và điều đó cũng là một chí hướng khác thường so với những nhà nho khác.

e/ Lương bổng

Xét về lương bổng, có thể nói Bùi Viện đã đưa ra một qui chế rất hậu hĩ để chiêu dụ
nhân tài. Quả thực vậy, đời Minh Mạng, nhà vua cua cũng đã đặt ra tiền “dưỡng liêm” để ngăn ngừa tham quan ô lại. Khi tổ chức Tuần Dương Quân, Bùi Viện đã ấn định không những lương bổng cho người lính mà còn nghĩ đến trợ cấp gia đình và nhất là cả tiền tử tuất rất hậu cho thân nhân người quá cố nếu chết trong khi giao tranh. Điều đó chứng tỏ ông quan tâm đến những nỗi lo của binh sĩ dưới quyền và hiểu rằng muốn họ yên tâm và hết lòng trong công tác, phải cho họ được thoải mái không phải lo đến cơm áo cho vợ con ở nhà.

Tuy nhiên, chúng ta cũng phải đặt câu hỏi là những con số mà ông Phan Trần Chúc ghi ra có thực sự chính xác hay không? Đối chiếu lương bổng một vài cấp bậc dưới triều Minh Mạng[47] và của Tuần Dương Quân do Bùi Viện đưa ra[48] ta thấy sự chênh lệch quá xa:

Phẩm hàm
Lương năm
Xuân phục
Gạo
Lương TDQ
Phụ cấp

Tứ phẩm
80 quan
14 quan
60 phương
360 quan


Ngũ phẩm
40 quan
9 quan
43 phương
300 quan


Lục phẩm
30 quan
7 quan
25 phương
264 quan


Thất phẩm
25 quan
5 quan
20 phương
240 quan


Bát phẩm
20 quan
5 quan
18 phương
216 quan


Cửu phẩm
18 quan
4 quan
16 phương
180 quan


Binh sĩ /Thủy binh thượng hạng
12 quan

24 phương
72 quan
24 phương
24 quan

Lương một Tuần Dương Quân hạng tứ phẩm gấp 4 lương của triều đình, ngang với nhất, nhị phẩm là một chuyện khó tin và xem ra công quĩ khó lòng mà đảm đương nổi, dẫu rằng có thêm những nguồn lợi tức khác, dù đã thu tiền “mãi lộ” của các nhà buôn. Đó là chưa kể các phụ cấp gia đình của các viên chức có ngạch trật mà chúng ta không thấy đề cập đến. Nếu đúng như thế, chắc chắn sẽ gặp sự chống đối của đồng liêu hay triều thần.

Ngay cả các viên chức “hành chánh”, nha lại, sai dịch cũng được trợ cấp hậu hĩ tới mức khó tưởng tượng:

… Theo quốc lệ hiện hành chung cho các ngạch: Bát phẩm mỗi viên mỗi tháng được 1 quan 8 tiền, gạo 1 phương 20 bát, cửu phẩm 1 quan 5 tiền, gạo 1 phương 10 bát; vị nhập lưu thư lại (người chưa vào ngạch gì) 1 quan tiền, 1 phương gạo.

Theo lệ mới định riêng về ngạch tuần tải: viên bát phẩm mỗi tháng được cấp thêm tiền 14 quan, cửu phẩm 12 quan, vị nhập lưu thư lại 10 quan
Logged
Trang: 1 2 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM