Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Ba, 2024, 01:10:40 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Những gương anh hùng thời KCCM  (Đọc 80177 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
panphilov
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 780



« Trả lời #20 vào lúc: 08 Tháng Sáu, 2008, 03:58:33 am »


Cùng sinh năm 1944 như chị Tần, chị Cúc, nhưng Nhỏ có một hoàn cảnh tương tự Cúc. Bố mẹ mất sớm, nhà chỉ có 2 chị em gái: chị Miên và Nhỏ. Chị Miên thay bố mẹ nuôi Nhỏ từ tấm bé. Gọi Nhỏ vì bố mẹ mất sớm, cơm không có ăn, áo không có mặc, bệnh tật hành hạ, càng ngày cô bé càng còi cọc, không lớn được chút nào. Rồi đến tuổi, chị Miên đi lấy chồng, nhưng chị không về quê chồng mà ở lại cùng em. Chồng chị là bộ đội thỉnh thoảng mới ghé thăm nhà. Sau khi chị sinh cháu trai đầu lòng, chồng chị hy sinh. Chị đành ở vậy nuôi em và nuôi con.
 
Thế rồi chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ ngày một ác liệt. Nhỏ xin chị vào TNXP. Chị sợ em còn bé dại thơ ngây, chưa gánh vác nổi việc nước. Nhưng chị Miên vẫn để Nhỏ đi. Chị cho em bộ quần áo lành lặn nhất, gói cho em một nắm cơm, rồi bế con tiễn em gái lên đường. Nhỏ ra đi chỉ với bộ quần áo và nắm cơm của chị. 2 chị em quyến luyến bịn rịn khi chia tay. Nhỏ ôm chầm lấy cháu. Thằng bé cũng bám chặt lấy dì. Chị Miên dặn: “Em gắng làm việc cho bằng chị bằng em, phải cẩn thận nơi mũi tên hòn đạn. Nếu em làm sao thì chị chỉ còn một mình em thôi”. Bà con làng xóm ra tiễn đứng nhìn theo cho đến khi bóng cô khuất hẳn.
 
Sau một thời gian ở TNXP, Nhỏ về thăm quê. Bộ quần áo TNXP cô mặc còn nguyên nếp gấp khiến cô chững chạc hẳn lên. Chỉ một thời gian ngắn ở TNXP, Nhỏ phổng phao lên trông thấy. Khi vào TNXP Nhỏ mới thật sự bước vào tuổi dậy thì. Trên đôi má mới vương sắc máu hồng. Nhỏ ngày một xinh tươi hơn, thường lấy gương của Cúc soi trộm. Nhỏ chăm làm, xung phong gương mẫu hơn các em nên được chị Lê Thị Hồng kèm cặp để học thêm. Càng lăn lộn với thực tế của cuộc chiến đấu, Nhỏ càng thấm thía ý nghĩa tuổi thanh xuân và mong muốn đóng góp được nhiều sức lực hơn nữa để Nam - Bắc sum họp một nhà.
 
Nhỏ ra đi vào lúc 24 tuổi, không kịp giã biệt người chị và đứa cháu nhỏ thân yêu, để lại tiếc thương cho biết bao người.
Logged

''Chúng tôi đánh giặc và làm thơ"
panphilov
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 780



« Trả lời #21 vào lúc: 08 Tháng Sáu, 2008, 03:59:46 am »


Chị Trần Thị Hường là con của một liệt sĩ chống Pháp. Cha chị là vệ quốc quân hy sinh năm 1953 ở mặt trận. Khi ông hy sinh, Hường mới 4 tuổi, mẹ Hường đang có mang em Lý. Năm em Lý lên 2 và Hường tròn 5 tuổi, mẹ đi lấy chồng. Hai chị em ở với bà ngoại và cậu mợ tại xóm Đông Quế, thị xã Hà Tĩnh.

Tuy sống thiếu tình cảm bố mẹ nhưng được bà và cậu mợ thương yêu rất mực nên tính tình của Hường vẫn hồn nhiên vui vẻ. Chị có giọng hát hay và lại hay hát. Hường được mệnh danh là “chim sơn ca” của tiểu đội và của cả C522. Mái tóc Hường đen dài và óng ả. Với mái tóc và giọng hát trời phú ấy, Hường đã được nhiều chàng trai cảm mến. Sau những giờ lao động mệt nhọc ở ngoài trận địa. Hường và anh chị em lại quây quần hát múa, diễn kịch. Phong trào “Tiếng hát át tiếng bom” đã lan rộng khắp các chiến trường từ Bắc vào Nam. Ở C552 trong các buổi tập văn nghệ, Hương bao giờ cũng là hạt nhân chính. Những bài hát “Cô gái mở đường”,”Đường ta đi dài theo đất nước”,”Cô gái Sài Gòn đi tải đạn”... đã được Hường và anh chị em hát say sưa. C522 còn diễn kịch hát dân ca, vở “Con đường và dải lụa”.
 
Hường không chỉ hát hay mà còn là cô gái đằm thắm và dịu dàng, thích quan tâm đến mọi người theo cách riêng của mình. Cuộc chiến ngày càng ác liệt song không làm nụ cười và tiếng hát tắt trên đôi môi Hường. Chỉ tiếc rằng Hường không còn chờ đến ngày toàn thắng để cùng đồng đội hát bài ca khải hoàn. Hường đã vĩnh viễn ra đi giữa mùa hạ thứ 21 của đời mình.
Logged

''Chúng tôi đánh giặc và làm thơ"
panphilov
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 780



« Trả lời #22 vào lúc: 08 Tháng Sáu, 2008, 04:01:11 am »


Sinh ra tại xóm chài Thọ Thủy - Đức Vĩnh – Đức Thọ, từ nhỏ cô bé Rạng đã tỏ ra can đảm, ít nói song tinh nghịch. Thời thơ ấu Rạng theo cha mẹ làm nghề chèo lái trên sông La.
 
Rạng lớn lên lúc bom đạn giặc Mỹ đánh phá ác liệt ở bến đò Hào – quê hương. Chứng kiến cảnh đau thương của xóm và nhân dân. Rạng quyết định rời cuộc sống sông nước lên bờ sinh hoạt với đoàn thanh niên, tham gia phục vụ chiến đấu tại huyện nhà.
 
Ngày 3-11-1967, chị vào TNXP. Đơn xin tình nguyện thì nhiều nhưng số trúng vào TNXP thì ít. Rạng may mắn được ở trong số những người trúng tuyển. Rạng mừng lắm, về thuyền soạn sửa đồ đạc và từ giã gia đình. Ngày Rạng ra đi bố mẹ lên bờ tiễn và theo dõi bóng con. Rạng dong dỏng cao, nước da trắng hồng như bao nhiêu ngườì con gái từng uống nước sông La. 17 tuổi, chân trời mơ ước mở ra trước mắt Rạng. Được sống và chiến đấu ở nơi chiến trường khốc liệt đối với Rạng coi như là đã được thực hiện hoài bão của tuổi trẻ.
 
Đồng đội TNXP đều là những người cùng trang lứa. Cả tiểu đội A4 của Rạng chỉ có chị Tần, chị Cúc, chị Nguyễn Thị Xuân và chị Thao là đã từng ở TNXP 3 năm còn Rạng và 12 người nữa đều là “lính nhiệm kỳ II” vào TNXP với bao điều bỡ ngỡ. Vốn là con nhà chèo lái, tay cầm cào cuốc thuổng không quen, trình độ văn hoá còn thấp song với một quyết tâm sắt đá” vươn lên cho bằng chị, bằng em”, Rạng đã nhiệt tình lao động và say mê học tập văn hoá. Ngoài giờ ra trận địa, Rạng cùng chị em làm toán, làm văn, tập hát, lúc nghỉ giải lao lại tìm cách trêu đùa đại đội trưởng và mấy anh lái xe ủi. Cuộc sống tuy gian khổ, ác liệt nhưng vui tươi, sôi nổi, tràn đầy tinh thần lạc quan. Rạng ngày càng rắn rỏi, mạnh dạn.
 
Mặc dù lăn lộn với nắng mưa, bom đạn nhưng vẻ xinh tươi trên khuôn mặt Rạng vẫn không bao giờ tắt. 18 mùa xuân, cuộc đời đang như ánh ban mai, vậy mà Rạng đã phải vĩnh viễn giã từ đồng chí, đồng đội, yên nghỉ ngàn thu trên núi đồi quê hương.
Logged

''Chúng tôi đánh giặc và làm thơ"
panphilov
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 780



« Trả lời #23 vào lúc: 08 Tháng Sáu, 2008, 04:02:42 am »


Sinh ra ở thị trấn Đức Thọ, Hà vốn là cô gái không quen lao động nặng. Cha Hà – ông Võ Trọng Lạc quê gốc ở thị trấn Đức Thọ gặp bà Trần Thị Khuyên quê Bến Thuỷ- Vinh. Hai người cưới nhau và sinh được 5 người con. Hà là con thứ ba.
 
Khi Hà sinh ra thì đã có dòng sông La mải miết chảy xuôi về biển cả. Sông La cũng hiền hoà như người con gái dịu dàng, xinh đẹp, nhiều mộng mơ. Thuyền bè đi lại tấp nập. Những cánh buồm xa, cánh buồm gần, những chiếc ca nô ngược lên Linh Cảm hoặc xuôi về Vinh.
 
Chưa đầy 17 tuổi Hà đã gác lại những ước vọng về con đường học hành để lên đường vào TNXP, đến với Ngã ba Đồng Lộc, nơi “túi bom” khốc liệt. Mẹ Hà chuẩn bị đủ thứ cho Hà đi và dặn :” Con làm sao cho bằng chị, bằng em”. Có hôm Hà về thăm nhà, ăn vội ăn vàng để đi kẻo chậm. Lúc nào về Hà cũng mang theo một vài quyển truyện để đọc “ Không có sách, ngoài giờ ra trận địa con buồn lắm mẹ ạ”. Mẹ Hà hiểu đứa con gái thuỳ mị, đa cảm, có phần “tiểu tư sản” của mình, chưa từng lăn lộn với thực tế của cuộc sống, vẫn còn non dại so với chị em trong tiểu đội nên tìm mọi cách để động viên con. Sau mấy tháng ở tập thể, thấy con khoẻ mạnh , rắn rỏi hơn, bà rất mừng.
 
Lần cuối cùng Hà về thăm nhà, mẹ Hà có ý tìm đàn gà nhưng không thấy đâu cả. Biết mẹ tìm gà để làm thịt, Hà yên lặng, tủm tỉm cười quay đi ”mẹ tìm chi đó?”. Mấy con gà nỏ biết đi mô, hay lại mất rồi” “ mất sao được, con vừa thấy chúng ở sân mà”. Mẹ Hà yên tâm, 5 mẹ con quây quần bên nhau, ăn rất ngon lành. Các em tíu tít nghe chuyện, chuyện Khe Sanh, chuyện Đồng Lộc. Sau đó mẹ Hà gửi máy con gà con đến Đồng Lộc để chị em nuôi. Nó càng sinh sôi nảy nở. rồi có lần Hà đem về nhà một con gà mái. Một hôm tự nhiên nó vỗ cánh gáy như gà trống. Mẹ của Hà bảo với em” thế nào chị Hà cũng có chuyện rồi”. Quả thật như vậy – 2 ngày sau nghe tin Hà hy sinh.
 
Những ngày ở tiểu đội, vì Hà ít tuổi nhất nên bao giờ cũng được chị Tần, chị Cúc, chị Nhỏ coi như em út. Việc nặng các chị giành lấy, không cho Hà làm. Chị Tần hay vuốt tóc, tâm tình, động viên Hà những giây phút nhớ nhà, nhớ mẹ. Hà hay nghĩ ngợi. Thỉnh thoảng ngồi một mình trầm tư, có khi thơ thẩn một mình, có khi lại cặm cụi ghi nhật ký 17 mùa trăng, Hà thanh thản ra đi khi chưa hề vướng một chút tơ lòng.
Logged

''Chúng tôi đánh giặc và làm thơ"
panphilov
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 780



« Trả lời #24 vào lúc: 08 Tháng Sáu, 2008, 04:08:45 am »


Cúc cất tiếng khóc chào đời trên mảnh đất Nương Bao - xã Sơn Bằng – Hương Sơn, bên con sông Ngàn Phố trong xanh. Cúc vừa đầy một tuổi, nạn đối khủng khiếp năm 1945 đã cướp mất người cha, bà nội Cúc và bao người khác trong làng. Ông nội Cúc đưa 2 mẹ con Cúc về nha rau cháo lần hồi đợi ngày lúa chín... Đến năm Cúc 4 tuổi, mẹ Cúc đi bước nữa.
 
Từ đây Cúc sống trong sự đùm bọc của ông nội và o Loan. Chẳng bao lâu, vào một ngày tháng chạp, ông nội qua đời, một mình o Loan nuôi cháu, đến năm sau chú Dũng đi bộ đội về và cưới vợ. Từ đây Cúc sống với chú, mự và o Loan. Bà Trinh - mẹ Cúc lấy chồng ở Sơn Bằng thỉnh thoảng về thăm con, nhưng chẳng có gì để nuôi Cúc. Thời gian này Cúc còi cọc, mặt choắt lại, đôi mắt luôn nhìn xuống, lâu dần thành thói quen. Tóc Cúc vàng hoe, cụt cỡn như một túm đuôi lông bò. Quanh năm Cúc mặc chiếc quần lửng với tấm áo vá. Cúc đi chăn bò, cắt cỏ, bế em và làm bao việc không tên khác ở trong nhà. Cúc làm chậm nhưng cần cù, cẩn thận và thật thà nên thường gọi là “Cúc mục”.
 
Hồi Cúc lên 8, một hôm đun nồi cám lợn xong, Cúc lúi húi quét dọn bếp. Mự vào bưng nồi cám lợn ra, chẳng may trượt chân làm đổ cả nồi cám lên lưng Cúc. Cúc bị bỏng nặng, suốt ngày nằm sấp trên chiếc chõng con, lúc tỉnh lúc mê. O Loan hồi ấy ở nhà, thương xót cháu, 3 tháng liền tìm cách chữa cho cháu bằng các bài thuốc dân gian. Cuối cùng Cúc cũng khỏi. Nhưng vết sẹo sần sùi rất lớn, chạy suốt từ bả vai xuống đến thắt lưng thì không bao giờ xoá được. Cúc giấu tất cả mọi người điều đó.
 
Năm 1965 Cúc đi TNXP chống Mỹ cứu nước. Ba năm sống trong tập thể nam nữ thanh niên, chiến đấu trên mặt đường địch đánh phá, chị đã trưởng thành và không còn là o “Cúc mục “ ngày xưa nữa. Duy chỉ có vết sẹo trên lưng và nỗi đau sâu lắng trong lòng là không thể quên đi được.
 
Ngày nhập ngũ, chị Cúc đựợc ở với chị Tần. Đôi bạn cùng lứa tuổi, cùng ngày nhập ngũ đã sống với nhau trong niềm thương yêu đồng chí, đồng đội, luôn giúp đỡ nhau hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đựơc giao. Trong 3 năm cùng sống, cùng làm việc cả 2 chị đã đạt nhiều thành tích. Vinh dự lớn nhất trong đời, đó là giờ phút thiêng liêng 2 chị được đứng dưới Đảng kỳ và chân dung Hồ Chủ Tịch đọc lời tuyên thệ trước lúc vào Đảng 3-2-1967. Sau đó Cúc được giao nhiệm vụ Tiểu đội phó, tiểu đội 4C522. Càng vui sướng với niềm vui ấy bao nhiêu, Cúc càng hăng say công tác bấy nhiêu. Ba năm trời trôi qua, Cúc đã cùng Tần chỉ huy tiểu đội bám trụ chiến đấu, đảm bảo thông suốt đường 15A trên trận địa Ngã ba Đồng Lộc.
 
Một ngày tháng 7 nắng gắt ở Đồng Lộc, vào lúc 16 giờ ngày 24-7-1968, trong lúc cùng 11 người trong tiểu đội (trừ 5 cô đi lấy quân trang quân dụng, 1 người đã hy sinh trước đó) ra mặt đường cách Ngã ba Đồng Lộc về phía Nam khoảng 300 m để san lấp hố bom, sửa chữa đường kết hợp củng cố hầm trú ẩn, Cúc cùng 9 chị em trong tiểu đội đã hy sinh. Trong tiểu đội còn có chị Trần Thị Thao, “lính nhiệm kỳ I” vì lý do tập văn nghệ đi sau cùng tiểu đội 5 nên đã sống sót.
 
Hôm đó, 10 cô gái ra đến hiện trường đã nhanh chóng triển khai công việc. Kẻ đào, người xúc, hồ hởi làm việc, vừa làm vừa chuyện trò trêu đùa nhau. Bỗng có một tốp máy bay vượt qua trọng điểm. Tất cả chị em nhanh chóng nép mình vào triền đồi, nơi thành hố bom cũ tạo nên một cái rãnh lớn. Tốp đi sau của tiểu đội 5 cũng dừng lại quan sát. Một lúc sau, hết tiếng máy bay cả tiểu đội chồm dậy để tiếp tục làm việc. Bất ngờ, một trong tốp chiếc máy bay lúc nãy quay lại, thả một loạo bom. Một quả bom rơi trúng vào chỗ của các cô đang làm việc. Tiếng nổ chát chúa, đất đá tung toé, khói bom mù mịt, đen ngòm trùm lên cả đội hình 10 cô.
 
Tốp TNXP tiểu đội 5 đi sau chạy ào đến gào thét, bộ đội, nhân dân ở gần đó cũng lao ra gọi tên từng người. Đến nơi, chỉ còn thấy hố bómâu hoắm, một vài chiếc cuốc, xẻnh văng ra nhưng không còn thấy một ai, không nghe thấy một tiếng người. Cả 10 cô gái TNXP đã anh dũng hy sinh. Suốt đêm hôm đó và cả ngày hôm sau, đồng đọi đã đoà bới, tìm kiếm thi hài các chị, đem về tắm rửa sạch sẽ. Tất cả đều như đang vừa đi vào giấc ngủ dài. Đồng đội đã đặt các chị vào khu đồi Bãi Dịa với lòng xót thương vô hạn.
 
Riêng chị Hồ Thị Cúc, mãi sang ngày thứ 3 đồng đội mới tìm thấy chị trên đồi Trọ Voi cách hố bom cũ chừng 20m trong tư thế ngồi, đầu đội nón, bên cạnh là cái cuốc, 10 đầu ngón tay bị ứa máu vì đang bới đất để tìm đường ra. Thương xót người em, người đông đội có số phận không may mắn, tác giả Yến Thanh (tên thật Nguyễn Thanh Bình - cán bộ phụ trách kỹ thuật ngành GTVT) cùng có mặt lúc đó nghẹn ngào viết lên bài thơ: “Cúc ơi” 

Tiểu đội đã về xếp một hàng ngang
Cúc ơi! Em ở đâu không về tập hợp
Chín bạn đã quây quần đủ hết
Nhỏ, Xuân, Hà, Hường, Hợi, Rạng, Xuân, Xanh
A trưởng Võ Thị Tần đã điểm danh
Chỉ thiếu mình em
Chín bỏ làm mười răng được
Bọn anh đã bới tìm vẹt cuốc
Chỉ sợ em đau nên nhát cuốc chùng
Cúc ơi! Em ở đâu?
Đất nâu lạnh lắm
Da em xanh
Áo em thì mỏng
Cúc ơi! Em ở đâu?
Về với bọn anh
Tắm nước sông Ngàn Phố
Ăn quýt đỏ Sơn Bằng
Chăn trâu cắt cỏ
Bài toán lớp 5 em còn chưa nhớ
Gối còn thêu dở
Cơm chiều chưa ăn
Ở đâu hỡi Cúc?
Đồng đội tìm em
Đũa găm cơm úp
Gọi em,
Gào em
Khản cổ cả rồi
Cúc ơi!
 
25-7-1968
Logged

''Chúng tôi đánh giặc và làm thơ"
panphilov
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 780



« Trả lời #25 vào lúc: 08 Tháng Sáu, 2008, 04:21:24 am »


Hồ Thị Kỷ (1949-3/4/1970), Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân (truy tặng; 1972).

Sinh năm 1949 ở ấp Cây Khô xã Tân Lợi huyện Thới Bình (nay là xã Hồ Thị Kỷ), trong một gia đình nông dân nghèo. Năm 10 tuổi Hồ Thị Kỷ đã được hướng dẫn biết đưa thư bí mật, đưa tin; năm 12 tuổi được kết nạp vào Đội TNTP, sau đó tiếp tục làm giao liên ở ấp, xã. Năm 1968 chị được kết nạp vào Đoàn thanh niên.

 Năm 1969 chị tổ chức nhiều trận đánh biệt động vào thị xã Cà Mau diệt ác ôn và phá hủy kho tàng vũ khí, xe của địch. Với những thành tích xuất sắc chị được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam.

 Ngày 03/04/1970  chị đưa 10 kg mìn vào đánh ty Cảnh sát nhưng tình huống diễn ra ngoài ý định, không bỏ lỡ thời cơ chị giả giờ làm quen với địch và kịp ấn kíp mìn, một tiếng nổ long trời từ chị phát ra diệt 27 tên ác ôn (trong đó có 1 sĩ quan Mỹ)  3 xe quân sự và bốt gác địch bị phá sập.

 Là trận đánh mà Hồ Thị Kỷ đã anh dũng hy sinh trong tiếng nổ, chị là biểu tượng của tuổi trẻ anh hùng trên quê hương cách mạng Cà Mau. Chị hy sinh để lại muôn vàn tình thương của nhân dân với người con gái 21 tuổi vì nước quên mình. Trong mấy năm làm chiến sĩ biệt động chị đã đánh 6 trận diệt 46 tên địch, phá hủy nhiều xe, đạn dược, kho tàng của địch, Với thành tích đó năm 1972 chị được truy tặng danh hiệu anh hùng.

Để ghi nhận chiến công oanh liệt của nữ tuổi trẻ anh hùng, xã Tân Lợi quê hương chị đã mang tên Hồ Thị Kỷ; một trường cấp 3, một đường phố Cà Mau cũng được mang tên Hồ Thị Kỷ.

Theo trang thông tin điện tử Cà Mau.
Logged

''Chúng tôi đánh giặc và làm thơ"
panphilov
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 780



« Trả lời #26 vào lúc: 08 Tháng Sáu, 2008, 04:38:56 am »


Phan Thị Ràng sinh năm 1937 ở xã Lương Phi (Tri Tôn, An Giang) theo cách mạng năm 1950 khi mới 13 tuổi và hy sinh vào rạng sáng ngày 9/1/1962 khi mới 25 tuổi ở chân núi Hòn Đất này.

Cuộc đời thực của chị Phan Thị Ràng trở thành nhân vật trong tiểu thuyết dữ dội và tuyệt đẹp dường như không phải thêm thắt. Khi các chiến sỹ quân giải phóng bị vây hãm 100 ngày trong hang núi, được thế hiểm của núi non quê hương che chở, kẻ địch vũ trang tận răng và tập trung sát chân núi nhưng vẫn không “chạm được sợi chân lông”.

Tuy nhiên, những người ở trong hang núi hùng vĩ giữa mùa khô Nam Bộ lại có “gót chân Asin” là thiếu nước uống. Chị Phan Thị Ràng đã khôn khéo và dũng cảm đi hứng nước ở ngọn suối Lươn bằng chiếc nồi đất sản phẩm của xứ Hòn để tiếp tế cho bộ đội trong hang.

Đêm 8/1/1962, chị sa vào tay giặc và kẻ địch nham hiểm đã bỏ thuốc độc vào suối Lươn, đồng thời nới vòng vây cho bộ đội ta đi lấy nước. Trước khi chết, chị Phan Thị Ràng kịp hét vào vách núi báo cho bộ đội trong hang biết nước suối đã có độc. Chị cứu cả một đoàn quân cũng là cứu một chiến thắng oanh liệt.

Cây dừa treo cổ bà Phan Thị Ràng ở khoảnh đất bên trái mộ chị, nhìn từ dưới lên, nay không còn. Nơi đó, nay xanh tươi một vạt dừa lớn lên từ ngày giải phóng, không phải vạt dừa khô héo khói lửa chiến tranh.

Phía trước mộ chị Phan Thị Ràng, chân núi Hòn Đất, hồi nào khét mùi thuốc súng với máu chảy và tiếng kêu la vang động đất trời, bây giờ là khoảng sân rộng ấm ánh nắng thanh bình.

Chị Phan Thị Ràng chính là nguyên mẫu để Thiếu tướng Nhà văn Quân đội Anh Đức xây dựng lên nhân vận Chị Sứ trong tác phẩm Hòn Đất nổi tiếng.
Logged

''Chúng tôi đánh giặc và làm thơ"
hoacuc
Thành viên
*
Bài viết: 1597



« Trả lời #27 vào lúc: 17 Tháng Bảy, 2008, 06:17:28 pm »

Nữ anh hùng... giả trai đi đánh giặc

Trong lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, có lẽ bà là trường hợp duy nhất cải nam trang đi đánh giặc. Từ một cô gái xinh đẹp, da trắng, tóc đen dài, bà phơi nắng, cắt tóc như con trai, gào thét cho vỡ giọng để có tiếng nói được ồm ồm như đàn ông…

Cắt máu ăn thề trốn nhà đi kháng chiến

Sinh ra trong một gia đình khá giả ở huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang, Trần Thị Quang Mẫn được ba má cho ra tỉnh học trường tư thục. Khi đó, không ưa người Pháp, bà ghét luôn ngôn ngữ của họ nên không tha thiết với việc học lắm. Học hết lớp Nhứt, bà và người em về quê làm ruộng. Bà thường ra đồng thả trâu, bò, bày trò chơi trận giả với đám con nít xung quanh. Tính tình khảng khái như con trai, bà mê đọc sách sử, mê Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trung Trực, Phan Bội Châu…

Là phận gái nhưng trong bà luôn day dứt một điều. Đất nước bị xâm lược, đang cần người trẻ nhưng anh chị em bà không ai ra giúp nước. Ông ngoại bà vốn là người của Nguyễn Trung Trực, bị giặc Pháp giam cầm 18 năm ngoài Côn Đảo, các cậu bà hy sinh vì đất nước… Biết tính cha vốn không thích tham gia chính sự, bà “nhỏ to” với người em gái kế, hai chị em cắt máu ăn thề và lên kế hoạch trốn nhà theo kháng chiến. Ngón áp út bên tay trái của bà giờ vẫn còn hằn vết sẹo cắt máu ăn thề của 50 năm về trước.

Lần thứ nhất, khi bà và em gái lén mang túi xách trốn đến điểm đóng quân gần nhà khoảng một cây số thì bị người cha huy động lực lượng trong gia đình bắt mang về. Hai chị em bà bị nhốt kín trong nhà. Lần thứ hai, sau khi dặn em chạy theo mình, bà vừa phóng ra khỏi nhà mấy chục mét thì cha bà đã cầm con dao chạy theo. Ông dọa sẽ tự sát nếu chị em bà bỏ đi lần nữa. Giận con gái cứng đầu, sẵn con dao bén trên tay, ông cắt phăng mái tóc óng ả của con gái.

Càng bị cha ngăn cản, bà càng nung nấu khát vọng được cầm súng trực tiếp đánh giặc. Bà nhờ người anh họ xa đang tham gia kháng chiến viết thư báo lên cấp trên. Thư hồi âm của người Đội trưởng, trong đó có đoạn: "…Chúng tôi chỉ dám nhận khi có sự đồng ý của cha mẹ hai cô".

Người cha trước sau như một. Thấy không lay chuyển được ý định của con gái, ông mang hết quần áo hai cô ra đốt và đuổi hai chị em đi. Người mẹ vừa khóc vừa chạy theo dúi cho bà mấy đồng bạc và xấp vải xô có sẵn trong nhà. Đến bây giờ bà vẫn còn nhớ như in lời mẹ dặn: “Hai chị em con đi phải cho thành danh. Nếu không thành hay hư hèn gì thì đừng có vác mặt về nhà, xấu hổ cha mẹ lắm”.

Chuyện "anh" Mẫn đào hoa... cưới vợ

Bà quyết định giả làm con trai, đổi tên là Trần Quang Mẫn. Em gái bà được đưa vào đội cứu thương, còn bà ở bộ phận giao liên, trinh sát và khi cần thiết cũng trực tiếp cầm súng giết giặc trong Trung đội 1. Nam giới đi đánh giặc vốn đã cực khổ, người cải trang như bà càng khổ hơn. Mỗi tháng, sắp tới ngày của phụ nữ, bà lấy rau dăm giã nát, đổ rượu trắng vào uống nửa chén. Đây là "bài thuốc" bà học lóm từ người chị lớn. Áo quần mặc phải rộng hơn, ngủ trong nóp, tắm phải dòm trước ngó sau. Cũng may là sau một ngày đánh giặc mệt mỏi, mạnh ai nấy nhảy ào xuống sông tắm cho nhanh lên nghỉ nên không ai chú ý đến "anh" Mẫn da trắng trẻo như con gái.

Công việc của bà vất vả hơn em gái, thường ngủ lùm ngủ bụi. Mỗi lần đi thăm "anh Sáu" (em gái bà gọi thế), cô em cứ khóc sụt sùi vì thương chị. Bà động viên em, nhắc lại lời thề không sạch bóng quân thù không về khi hai chị em cắt máu ăn thề. Đối với bà, được cầm súng đánh giặc thì mọi vất vả chỉ là chuyện nhỏ. Gan dạ, thông minh, bà được cấp trên cử đi học sĩ quan ở Quân khu 9. Trở về đơn vị, bà lãnh đạo cảnh vệ binh Trung đoàn.

Cao 1,62m, da trắng, giọng nói trong trẻo, cải thành nam giới, bà nổi tiếng “đẹp trai” trong đơn vị, đi đến đâu cũng được các cô gái để ý đánh mắt làm quen.

Không may, gần nơi đóng quân của đơn vị có cô gái người Khơme xinh xắn để ý thương “anh” Mẫn. Hàng ngày, cô thường tới lui thăm nom anh. Cha cô gái biết chuyện đã đánh tiếng gả cô cho bà.

Biết được bà vốn là con của người quen, cha cô đã lân la đến nhà bà uống rượu với cha bà dò hỏi. Còn giận bà, người cha cũng không nói thật. Thế là trước sự thúc ép của gia đình cô gái và của cả đơn vị, bà phải hứa hôn với cô gái… Đến đây, bà ngừng lại. Cô gái yêu thương "anh" Mẫn ngày xưa đã bị bom vùi thây cùng người chồng bộ đội, để lại mấy đứa con thơ dại mà bà vẫn chưa một lần có dịp về thăm...

Bại lộ

Trước khi giả trai, gia đình bà có hứa hẹn gả bà cho một chàng trai ở huyện Phú Quốc. Hai người cũng qua lại thăm viếng vài lần. Từ ngày bà cải thành nam giới đi cách mạng, anh con trai tên Nguyễn Văn Bé đang đi bộ đội ở Tiểu đoàn 4010 tới lui không thấy, điều tra biết được bà đang ở Trung đoàn 124. Sau nhiều lần ông dò hỏi, thắc mắc, cuối cùng sự việc của bà bị bại lộ. “Anh” Trần Quang Mẫn trở lại là chị Trần Thị Quang Mẫn. Cả Trung đoàn bật ngửa vì trong suốt năm năm trời, không ai phát hiện ra chuyện "động trời" này.

Sau đó, đơn vị đứng ra tổ chức đám cưới cho hai người. Lúc này, bà lên chức Đại đội trưởng Trung đoàn 124, ông giữ chức Đại đội phó. Năm 1952, ông hy sinh, để lại đứa con trai mới bốn ngày tuổi lại cho bà. Mười tuổi, con trai bà tiếp bước cha mẹ đi bộ đội, 15 tuổi người con trai duy nhất của ông bà hy sinh…

Ước nguyện thành sự thật, tôi mãn nguyện rồi!

Có một giai thoại mà những người lính khi đó truyền nhau mãi. Vào năm 1974, trong một đợt hành quân, bà đã dùng dao rạch bụng cứu sống một đứa bé khi người mẹ bị bom dội chết.

Nghe tôi hỏi, bà chỉ tay lên tấm ảnh một người phụ nữ đang cười rạng rỡ bên đứa con trai bảo: "Nó đó!".

Lúc đó, bà là Tiểu đoàn trưởng. Gặp đợt oanh kích của giặc, cả tiểu đoàn chui hầm tránh bom. Khi chui ra khỏi hầm, bà phát hiện một người phụ nữ mang thai gần đến ngày sinh bị trúng bom đã tắt thở. Thấy thai nhi chòi đạp dữ dội, không chần chừ bà móc con dao găm nhỏ luôn mang sẵn bên mình rạch bụng người mẹ cứu đứa con. Không đành lòng mang đứa nhỏ đi cho, bà gởi người quen gần đó nuôi vài tháng rồi nhận lại đứa bé gái nuôi dưỡng đến ngày hôm nay.

Cô gái được bà đặt tên là Ngọc Hân, tốt nghiệp Đại học, hiện đang làm ở Ngân hàng Công thương tại TP.HCM. Vì việc học của con gái, bà đã bán nhà ở Kiên Giang, lên TP.HCM mua nhà sinh sống từ năm 1993 tại quận Tân Bình.

Bà được Nhà Nước phong tặng nhiều Huân chương và danh hiệu cao quý: Huân chương chiến công, Huân chương kháng chiến, Huân chương Độc lập… và Bà mẹ Việt Nam anh hùng trong đợt đầu tiên. Năm 1967, cùng với chị Út Tịch, bà được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang.

Tháng 4/1967, bà được ra Hà Nội gặp Bác Hồ, được Bác ưu ái tặng cho bà khẩu súng K54 làm kỷ niệm. Cuộc đời bà đã được nhà văn Bùi Hiển viết thành quyển sách “Cuộc đời tôi”. Bà suy nghĩ đơn giản rằng: “Hồi đó đi đánh giặc để giải phóng đất nước, mong cho đồng bào mình được sống trong cảnh thanh bình. Giờ ước nguyện đã thành sự thật, so với nhiều người khác, tôi may mắn còn sống đến ngày hôm nay. Đối với tôi như vậy đã mãn nguyện lắm rồi”.

Thanh Phúc
Logged

Hãy làm cho từng ngày bạn sống trở nên có ý nghĩa. Hãy nâng niu từng phút giây bạn có.
anhkhoi
Thành viên
*
Bài viết: 311


« Trả lời #28 vào lúc: 17 Tháng Bảy, 2008, 08:12:27 pm »


Chị Phan Thị Ràng chính là nguyên mẫu để Thiếu tướng Nhà văn Quân đội Anh Đức xây dựng lên nhân vận Chị Sứ trong tác phẩm Hòn Đất nổi tiếng.


Sợ quá  Grin
Logged
Trang: « 1 2 3   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM