Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 04:57:32 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5  (Đọc 70892 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #70 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2010, 11:58:32 pm »


Trong tháng 9 và 10-1968, Bộ chỉ huy Vùng IV chiến thuật đã tăng cường cho Bến Tre hai tiểu đoàn thuỷ quân lục chiến ngụy, Lữ đoàn 3 bộ binh và Lữ đoàn 117 tàu xung kích Mỹ, với ý đồ diệt cho được các tiểu đoàn cơ động của ta, thực hiện kế hoạch bình định, gom dân lập ấp chiến lược. Khởi đầu ngày 3-11, chúng sử dụng các trung đoàn 10, 11 (Sư đoàn 7 quân đội Sài Gòn) mở cuộc càn quét, đánh phá vào vùng giải phóng Giồng Trôm (gồm các xã Long Mỹ, Tân Hào, Thuận Điền, Phước Long, Thạnh Phú Đông), đồng thời, dùng một đại đội bảo an càn quét vào địa bàn xã Nhơn Trạch. Được chuẩn bị tốt về các mặt nên quân và dân hầu khắp các ấp xã trên đã dựa vào hệ thống công sự trận địa tại chỗ đánh trả, đẩy lùi nhiều đợt xung phong của địch, tiêu hao một bộ phận quan trọng sinh lực của chúng, giữ vững địa bàn. Qua giao chiến địch phát hiện được đội hình các tiểu đoàn chủ lực cơ động của ta, lập tức chúng “bốc” ngay một tiểu đoàn Mỹ đang ở lộ 26 và một tiểu đoàn thuỷ quân lục chiến ngụy đang chốt tại xã Phú Hưng về Nhơn Trạch phối hợp với các đơn vị hiện có trên địa bàn, hình thành thế bao vây, quyết diệt gọn các tiểu đoàn cơ động của ta. Cuộc chiến đấu của Tiểu đoàn 5, Tiểu đoàn 516 và các lực lượng vũ trang địa phương tại Giồng Trôm trở lên vô cùng ác liệt và kéo dài đến hết ngày 3-11.

Trước một thực tế bất lợi cho ta cả về tương quan lực lượng cũng như vũ khí và phương tiện chiến tranh, nếu tiếp tục trụ lại chiến đấu thì nguy cơ bị tổn thất lớn là không tránh khỏi. Do vậy, để bảo toàn lực lượng, ngay trong đêm 3-11 Ban chỉ huy thống nhất của Tỉnh đội Bến Tre quyết định bí mật rút toàn bộ lực lượng về đứng chân tại xã Sơn Phú - một địa bàn hẻo lánh, nhưng là điểm mật phục đánh các tàu địch cơ động trên sông Hàm Luông rất lợi hại. Mặc dầu vậy, sáng hôm sau trinh sát địch cũng “mò” tìm ra được đội hình trú quân của ta. Một cuộc đọ sức mới lại bắt đầu.

Sau khi bắn cấp tập hơn 400 quả đạn pháo các loại vào khu vực bố trí đội hình của ta, từ Vĩnh Long, Hải đoàn 23 ngụy tiến vào sông Hàm Luông, Chi đoàn xe bọc thép M113 đã triển khai đội hình trên lộ 5 hình thành thế bao vây, tổ chức các mũi đột phá tiến công vào trận địa ta. Để giữ vững trận địa, bộ đội ta tập trung lực lượng và hoả lực tổ chức phòng ngự chặt, chủ động, kiên quyết đánh trả quân địch. Trong ngày 4-11, ta đã đẩy lùi được hàng chục lần xung phong của địch, tiêu diệt được hàng trăm tên, phá huỷ, phá hỏng nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh của chúng. Nhưng quân địch đông lại có xe tăng, xe bọc thép yểm trợ đang bao vây quân ta. Ban chỉ huy thống nhất quyết định phải nhanh chóng mở đường máu rút hết lực lượng ra ngoài. Đêm 4-11, một trung đội đặc công, một trung đội bộ binh và một số hoả lực đã được lệnh bí mật tập kích vào khu vực bố trí của Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 10 ngụy. Bị đánh đòn bất ngờ và áp đảo ngay trong đêm, địch vội cho quân trên các hướng cơ động gấp đến ứng cứu - thế bao vây của chúng tan vỡ. Nhân thời cơ này, các đơn vị ta lần lượt rút êm ra ngoài tiếp tục củng cố lực lượng chiến đấu. Với thành tích chiến đấu trên, Tiểu đoàn 5 và Tiểu đoàn 516 được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam tặng Huân chương Chiến công hạng ba.

Phối hợp với các trận chiến đấu của quân chủ lực cơ động, trong những tháng cuối năm 1968, các đội đặc công nước, đặc công bộ đã đánh nhiều trận đạt hiệu suất cao. Điển hình nhất là ngày 15-11, đại đội đặc công nước bí mật đột nhập gắn chất nổ đánh chìm 15 tàu thuộc một hạm đội trên sông của Mỹ trên vàm Bến Tre.

Mặc dù ta đã giành được nhiều thắng lợi, nhưng do tập trung lực lượng chiến đấu vào đô thị, nên nhiều vùng nông thôn của ta, cơ sở cách mạng đã bị thiệt hại rất lớn chưa có điều kiện củng cố, bổ sung; do đó, địch tập trung lực lượng càn quét, thực hiện kế hoạch “bình định cấp tốc”, nhiều vùng đất đai Phú Phụng, Vĩnh Bình, Bình Hoà Phước, Đồng Phú thuộc huyện Chợ Lách... trong đó có cả một số vùng mới giải phóng cũng bị chúng dồn dân lập ấp, xây dựng đồn bốt, thiết lập hệ thống kìm kẹp. Đối với vùng căn cứ, chúng tăng cường sử dụng máy bay B52 đánh phá kết hợp với rải chất độc hoá học triệt phá cây cối, ruộng vườn, đi đôi với dùng trực thăng chở quân nhảy cóc xuống lùng sục, tiêu diệt các cơ quan lãnh đạo kháng chiến và lực lượng vũ trang cách mạng. Tất cả những hành động trên của địch đã gây nhiều khó khăn cho phong trào cách mạng của Bến Tre. Song nhìn chung, cũng như các đợt trước, trong đợt 3 và những tháng cuối năm 1968, quân dân Bến Tre đã tự lực, tự cường, vừa chiến đấu vừa xây dựng phát triển lực lượng, luôn luôn đáp ứng yêu cầu chiến tranh tại chỗ, đánh bại các cuộc càn quét, tiêu diệt một bộ phận quân số và phương tiện chiến tranh của địch, giữ căn cứ và vùng giải phóng. Với những thành tích đạt được trong năm 1968 quân và dân toàn tỉnh đã được Uỷ ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng tám chữ vàng truyền thống “Anh dũng Đồng khởi - thắng Mỹ, diệt ngụy”.

Ở Mỹ Tho và Gò Công, sau đợt 2 tổng tiến công và nổi dậy của ta, Mỹ - ngụy lập các căn cứ chốt chặn giao thông trên lộ 4 (tại các điểm Nhị Bình, Thẻ 23, Thẻ 33 và Bà Lâm). Mỗi căn cứ chúng bố trí một đại đội bộ binh và một đại đội pháo 105 mm, riêng căn cứ 23 bố trí một tiểu đoàn. Thực hiện chiến thuật nhảy cóc, với sự yểm trợ của pháo binh và máy bay, quân địch từ các căn cứ trên tổ chức đánh sâu vào các căn cứ kháng chiến và hành lang vận chuyển của ta. Mặt khác, để phục vụ cho kế hoạch “bình định cấp tốc”, địch huy động nhiều đơn vị chủ lực xuống kết hợp với quân địa phương và các đội bình định tiến hành càn quét, dồn dân lập ấp chiến lược, trước hết là “ưu tiên” ở các huyện trọng điểm Gò Công, Hoà Đồng, Chợ Gạo, vùng ven thành phố Mỹ Tho, hai bên lộ 4 và hai triền sông Tiền.

Để chuẩn bị địa bàn đứng chân cho lực lượng cơ động của khu, của tỉnh tiến công vào thành phố Mỹ Tho khi có lệnh, Thành uỷ và Thành đội Mỹ Tho đã phát động lực lượng du kích cơ quan, du kích ấp, xã và bộ đội địa phương trú đóng trên các địa bàn ven thành phố Mỹ Tho và huyện Chợ Gạo phân tán thành các đơn vị nhỏ, dựa vào hệ thống công sự, trận địa của các xóm ấp chiến đấu chuẩn bị sẵn, tổ chức đánh địch phản kích, giữ vững chỗ đứng chân cho chính mình và cho các đơn vị bộ binh, đặc công, công binh, pháo binh của Tỉnh đội.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #71 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2010, 11:59:26 pm »


Song song với hoạt động của bộ đội đặc công, pháo binh..., các tiểu đoàn bộ đội chủ lực của tỉnh Mỹ Tho và Gò Công vẫn là lực lượng chủ công trong đợt 3 Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968.

Theo kế hoạch của Tỉnh đội, đêm 24-8, Tiểu đoàn 514A và Tiểu đoàn 263 triển khai lực lượng chiếm lĩnh trận địa xuất phát tiến công, chuẩn bị đánh chiếm Chi khu Giáo Đức. Nhưng khi cối 120 mm của ta đánh đòn hoả lực chuẩn bị do trời tối không phát hiện được nền đất nơi đặt bàn đế bị lún, đạn rơi trúng vào đội hình quân ta, làm nhiều cán bộ, chiến sĩ bị thương vong, nên kế hoạch tiến công phải huỷ bỏ. Riêng Tiểu đoàn 514B, cuối tháng 8, đầu tháng 9 tập kích diệt gọn một đại đội biệt kích ngụy ở Cá Chốt và một trung đội bảo an ở đồn Vàm Giồng, phục kích diệt hai xe quân sự Mỹ trên lộ Hoà Đồng..., sau đó rút về hậu cứ để bổ sung lực lượng. Chiến đấu dài ngày, lực lượng ta bị tiêu hao, sức chiến đấu giảm, trong khi địch tập trung lực lượng, phương tiện phản kích quyết liệt kết hợp với việc triển khai kế hoạch “bình định cấp tốc” trên quy mô toàn tỉnh, nên vùng giải phóng của ta bị thu hẹp dần, phong trào đấu tranh tạm thời lắng xuống1.

Tại Kiến Phong2, sau hai đợt 1 và 2 Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 lực lượng vũ trang và cơ sở bị tổn thất rất nghiêm trọng, hầu hết các đơn vị bộ đội tỉnh, huyện, du kích và tự vệ ấp xã đều mất sức chiến đấu, lại chưa có điều kiện để củng cố, bổ sung. Đợt 3 tổng tiến công và nổi dậy lại đúng vào mùa nước nổi, nên phong trào ở Kiến Phong diễn ra yếu ớt. Những tháng cuối năm 1968, địch lại tiếp tục đánh phá quyết liệt trên diện rộng, làm cho lực lượng vũ trang của tỉnh tiếp tục bị thiệt hại nặng nề. Chỉ trong tuần đầu tháng 12-1968, máy bay B52 ném bom huỷ diệt khu vực từ rạch Cái Lân đến Kinh Phèn thuộc địa phận xã Thanh Mỹ, giết hại các đồng chí Võ Văn Trị (Mười Đồng) - Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chính trị viên Tỉnh đội, Lê Văn Nhị (Hai Tiến) - Thường vụ Tỉnh uỷ, Tỉnh đội trưởng Kiến Phong. Cũng thời gian này, chúng tổ chức lực lượng bất ngờ “nhảy cóc” đánh vào cơ quan Huyện uỷ Cao Lãnh, giết hại một số cán bộ của ta, trong đó có đồng chí Hồ Văn Tiến - tỉnh uỷ viên, Bí thư Huyện uỷ Cao Lãnh; tại khu vực bờ nam kinh Nguyễn Văn Tiếp, trong khi chỉ huy Tiểu đoàn 1 chống càn, đồng chí Đỗ Hữu Cảnh (Út Mới) - tỉnh uỷ viên, chính trị viên tiểu đoàn đã anh dũng hy sinh. Như vậy, cũng như nhiều địa phương khác của đồng bằng sông Cửu Long, tuy đợt 3 vẫn được quân dân Kiến Phong thực hiện đúng với mệnh lệnh của trên, nhưng kết quả rất hạn chế, lực lượng tiếp tục bị hao tổn nghiêm trọng. Đây là vấn đề bức xúc, gay cấn nhất cho Kiến Phong trong năm 1969 và những năm tiếp theo.

Nhìn lại toàn bộ hoạt động trong đợt 3 và những tháng cuối năm 1968, quân và dân đồng bằng sông Cửu Long tuy đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện nghiêm túc mệnh lệnh tổng tiến công và nổi dậy của Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Miền, song kết quả đạt được hạn chế. Mặt khác, do phải liên tục tác chiến trong nhiều tháng ròng, lực lượng, vũ khí, thuốc men, lương thực... bị hao tổn nhiều mà chưa có điều kiện bổ sung, củng cố, trong khi đó, từ nửa cuối năm 1968, địch càng tăng cường đánh phá với cường độ mạnh và quy mô rộng lớn, ta càng bị mất đất, mất dân. Dù vậy, những hoạt động của đợt 3 với kết quả giành được đã chứng minh ý thức chấp hành mệnh lệnh cấp trên nghiêm túc và sự nhất trí cao giữa địa phương với trung ương là một trong những yếu tố rất quan trọng để giành thắng lợi trong chiến đấu của quân và dân miền Nam trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 nói riêng và trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung. Đó còn là biểu hiện tinh thần khắc phục khó khăn, ý chí sắt đá quyết đánh và quyết thắng giặc Mỹ trong bất kỳ hoàn cảnh, điều kiện nào dù là gian khổ, ác liệt nhất của quân và dân ta.

Trên chiến trường Khu V, tuy đợt 1 và 2 tổng tiến công và nổi dậy đã giành được những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược hết sức quan trọng, song lực lượng, vũ khí, trang bị, vật chất bảo đảm, cơ sở mật ở cả nông thôn và thành thị của toàn khu đã bị tiêu hao nghiêm trọng, phải mất một thời gian khá dài mới khôi phục lại được bằng mức đầu năm 1968. Ngược lại, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã tăng cường lực lượng, phương tiện chiến tranh, tổ chức các tuyến phòng thủ bảo vệ các thành phố, thị xã, các căn cứ quân sự quan trọng. Sau khi rút quân khỏi Khe Sanh, Mỹ - ngụy đã cấp tốc đưa một bộ phận quan trọng lực lượng và phương tiện chiến tranh từ Trị - Thiên về tăng cường đánh phá các tỉnh Quảng Đà, Quảng Nam, Quảng Ngãi; đồng thời, điều Trung đoàn 44 thuộc Sư đoàn 23 ngụy và một bộ phận của Sư đoàn kỵ binh không vận Mỹ từ Tây Nguyên xuống Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà mở các cuộc hành quân phục vụ cho kế hoạch “bình định cấp tốc”.
_____________________________________
1. Theo cuốn Cuộc kháng chiến 30 năm của quân dân Tiền Giang, Bộ chỉ huy quân sự Tiền Giang xuất bản, 1988, tr. 287 thì: năm 1968, Mỹ Tho và Gò Công đã loại khỏi vòng chiến đấu 6.280 tên địch, phá huỷ 179 xe quân sự, 24 tàu thuyền vũ trang, bắn rơi và phá huỷ 63 máy bay, bức hàng và diệt 96 đồn tua.
2. Cuối năm 1965, chính quyền Diệm đã cắt các huyện Hồng Ngự, Thanh Bình, Cao Lãnh, Mỹ An, quận Đồng Tiến, Kiến Văn và thị trấn Cao Lãnh thuộc bốn tỉnh Sa Đéc, Long Xuyên, Châu Đốc, Mỹ Tho thành lập nên tỉnh Kiến Thạnh, sau vài tháng đổi thành Kiến Phong và lấy thị trấn Cao Lãnh làm tỉnh lỵ.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #72 vào lúc: 22 Tháng Tư, 2010, 12:07:56 am »


Điểm ưu tiên hàng đầu cho kế hoạch phòng thủ của địch trên địa bàn Khu V là thành phố Đà Nẵng, căn cứ quân sự lớn thứ hai của Mỹ ở miền Nam (sau Sài Gòn). Tại đây, Mỹ xây dựng các tuyến vành đai bảo vệ vững chắc xung quanh thành phố. Chúng hy vọng sẽ ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả các cuộc tiến công của lực lượng vũ trang ta vào thành phố, đồng thời, chống phá được các cuộc nổi dậy của nhân dân.

Bên cạnh việc xây dựng các hệ thống phòng thủ ở các thành phố, thị xã, địch sử dụng các đơn vị chủ lực cơ động mạnh tiến hành thường xuyên các cuộc hành quân càn quét quy mô lớn và tổ chức các cuộc mật phục đón lõng tại các vùng giáp ranh và vùng núi nhằm tiêu diệt, tiêu hao và đẩy lùi những đơn vị chủ lực của ta; đồng thời, thực hiện kế hoạch “bình định cấp tốc” để giành lại vùng đồng bằng.

Những hoạt động chống trả quyết liệt của địch sau hai đợt đầu của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã gây cho quân và dân toàn khu những khó khăn nghiêm trọng. Ngoài sự thiếu thốn về vũ khí, đạn dược, thì lượng dự trữ về lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh... cũng đều đã cạn, trong khi nguồn khai thác tại chỗ đã bị địch khống chế gần như hoàn toàn. Còn nguồn của trung ương, bị địch đánh phá ngăn chặn rất ác liệt trên tuyến hành lang chiến lược nên số lượng hàng hoá chi viện không được bao nhiêu. Nhiều đơn vị lực lượng vũ trang (kể cả quân địa phương) và cơ quan lãnh đạo chỉ huy các cấp trên địa bàn quân khu lâm vào tình trạng đói cơm, thiếu thuốc, sức khoẻ của cán bộ chiến sĩ suy giảm nghiêm trọng. Khắc phục tình trạng này, hầu hết các đơn vị phải thực hiện phương châm ngày đánh giặc, đêm bí mật vượt qua vòng vây của địch xuống vùng sâu lấy gạo. Mặc dù vậy, khi nhận được mệnh lệnh tổng tiến công và nổi dậy đợt 3, toàn quân, toàn dân Khu V vẫn triển khai thực hiện đúng với thời gian quy định.

Trong đợt 3 Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Bộ Tư lệnh Quân khu V vẫn xác định mục tiêu chủ yếu là các đô thị. Xuất phát từ tình hình thực tế về thế cũng như lực của ta và địch, rút kinh nghiệm từ các đợt trước, việc tổ chức các trận tiến công vào thành phố lần này bảo đảm tập trung hơn, nhưng lực lượng thực hiện các trận đánh chủ yếu là những đơn vị đặc công, biệt động, pháo cối và các tiểu đoàn chủ lực cơ động của tỉnh.

Mở đầu cho đợt tổng tiến công và nổi dậy tháng 8, mặc dù còn rất nhiều khó khăn về mọi mặt, song tại mặt trận Tây Nguyên, các đơn vị chủ lực đã tổ chức tiến công Chi khu quân sự quận lỵ Đức Lập và tuyến phòng thủ phía tây nam Đắc Lắc, loại khỏi vòng chiến đấu gần 2.000 tên địch, hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy mở rộng vùng làm chủ. Tại các tỉnh đồng bằng Khu V một bộ phận lực lượng của Sư đoàn 3 tiến công các vị trí địch ở tây Tư Nghĩa (Quảng Ngãi). Sư đoàn 2 (thiếu) đánh địch ở vùng Tam Kỳ (Quảng Nam). Các Trung đoàn 21 (Sư đoàn 2), Trung đoàn 36 và Trung đoàn 141 (vừa từ miền Bắc bổ sung vào) triển khai đánh địch ở vùng B Đại Lộc, Điện Bàn, Thượng Đức (Quảng Đà). Do có chủ trương kịp thời sớm đưa lực lượng chủ lực cơ động về đứng chân, hoạt động ở các vùng nông thôn, nên Khu V vẫn củng cố và xây dựng được nhiều địa bàn chiến lược quan trọng, lập được thế trận phối hợp đánh địch giữa bộ đội chủ lực với bộ đội địa phương và dân quân du kích một cách chặt chẽ. Khó khăn của ta tuy còn chồng chất, địch tập trung càn quét, đánh phá ác liệt, đi đôi với thực hiện kế hoạch “bình định cấp tốc” xúc được một bộ phận dân chúng vào các ấp chiến lược và khu tập trung, nhưng Mỹ - ngụy vẫn không “thu hẹp” được vùng giải phóng của ta. Thế trận chiến tranh nhân dân trên ba vùng chiến lược của Khu V cơ bản được giữ vững.

Phối hợp chặt chẽ với các cuộc tiến công ở các vùng nông thôn, bộ đội đặc công, biệt động và các phân đội hoả lực đã thực hiện nhiều trận đánh đạt hiệu quả tại nhiều thành phố, thị xã và căn cứ quân sự của Mỹ - ngụy.

Tại thành phố Đà Nẵng, đêm 22-8, Đội biệt động Lê Độ tiến công các mục tiêu Đặc khu Đà Nẵng, Đài phát thanh, đồn cảnh sát ngã năm, trụ sở cơ quan ngụy quyền quận Mỹ Khê, trụ sở Hội đồng xã Thanh Khê. Cùng lúc, Tiểu đoàn đặc công 484 (Đà Nẵng) đánh chiếm quận lỵ Hoà Vang và một số mục tiêu ở trung tâm thị trấn Cẩm Lệ. Theo nhận xét của một số hãng tin nước ngoài thì đây là trận đánh ác liệt nhất trong số khoảng 50 trận do ta mở trong tháng 8-1968 đánh vào các thành phố, thị xã toàn miền Nam.

Trên địa bàn Quảng Nam, cũng vào đêm 22-8, các tiểu đoàn đặc công 406, 409 Quân khu V cùng Tiểu đoàn đặc công 10 (Sư đoàn 2) hiệp đồng tiến công cụm căn cứ gồm: 10 sở chỉ huy cấp tiểu đoàn, 2 sở chỉ huy cấp lữ đoàn trong tổng số 14 sở chỉ huy đóng tại Chu Lai của Sư đoàn Amêricơn (Mỹ). Đây là trận tiến công diễn ra ác liệt và kéo dài trong bốn ngày đêm liên tục, trong đó có những mục tiêu bộ đội ta phải thực hành đánh đi, đánh lại đến hai, thậm chí ba lần mới dứt điểm được. Phát huy chiến quả của bộ đội đặc công, ngày 23-8, một tiểu đoàn bộ binh của Sư đoàn 2 đã tiến công tiêu diệt một tiểu đoàn thiết giáp ngụy đứng chân ở Kỳ Thịnh và đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 1 thuộc Trung đoàn thiết giáp 11 của Mỹ. Tiếp đó, ngày 19-9, lực lượng đặc công phối hợp với bộ đội địa phương tại chỗ tổ chức tập kích quận lỵ Thăng Bình. Với lực lượng áp đảo và tạo được yếu tố bất ngờ, nên chỉ sau vài giờ chiến đấu ta loại khỏi vòng chiến đấu được 350 tên địch, làm chủ mục tiêu. Được đòn quân sự tạo thế, bộ đội hỗ trợ trực tiếp, các cơ sở mật đã phát động nhân dân nổi dậy diệt ác, phá kìm, giành quyền làm chủ ở bảy thôn. Hơn 20.000 dân được giải phóng trở về làng cũ làm ăn. Đặc biệt, ngay sau khi các thôn xóm được giải phóng đã có hơn 100 thanh niên tình nguyện gia nhập bộ đội và du kích. Một không khí cách mạng sôi nổi, trào dâng trên các địa phương huyện Thăng Bình và các vùng lân cận.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #73 vào lúc: 22 Tháng Tư, 2010, 12:09:35 am »


Ở Bình Định, cuối tháng 8-1968, phân đội du kích đặc công của huyện Phù Mỹ gồm bốn đồng chí bất ngờ tập kích diệt gọn một đoàn cán bộ bình định, thu 2 khẩu súng và 26 quả lựu đạn. Tiếp đó, các đơn vị trong lực lượng vũ trang của tỉnh đã tổ chức được một số trận đánh nữa, song kết quả đạt được rất hạn chế.

Bằng những cố gắng vượt bực của mình, trong đợt 3 và các tháng cuối năm 1968, lực lượng vũ trang và nhân dân Khu V đã liên tục tiến công và nổi dậy, tạo được sự tiếp nối liên tục cho khí thế quyết đánh và quyết thắng trong toàn quân khu1. Nhưng sau ba đợt tiến công liên tục, quân số, vũ khí, đạn dược, sức chiến đấu của các đơn vị vũ trang ba thứ quân bị giảm sút nghiêm trọng, trong khi đó Mỹ - ngụy lại tăng cường hoạt động với quy mô lớn, nếu tiếp tục trụ lại đánh địch trong thành phố và vùng ven chẳng những không đạt kết quả mà thương vong nhất định sẽ tăng. Để bảo toàn lực lượng còn lại Bộ Tư lệnh Quân khu V ra lệnh cho các đơn vị rút lên các căn cứ rừng núi củng cố. Đối với những đơn vị đặc công đến cuối năm 1968, quân số, vũ khí bị tiêu hao nhiều, hiệu quả chiến đấu giảm sút, đặc biệt là nguồn tiếp tế rất khó khăn, nên Trung đoàn đặc công 401 của quân khu, các đội đặc công 202 của Phú Yên, 90 của Khánh Hoà phải tạm thời giải tán; các trung đoàn hoả tiễn 575 và 577 phải rút gọn lại thành các tiểu đoàn. Đây là những khó khăn rất lớn đặt ra cho phong trào đấu tranh của quân dân Khu V trong năm 1969.

Cũng như Khu V, bước sang nửa cuối năm 1968, tuy thế và lực đã giảm, địa bàn đứng chân đã bị địch tập trung lực lượng đánh phá thu hẹp một phần đáng kể, song lực lượng vũ trang Khu VI vẫn trụ lại cùng nhân dân các địa phương tổ chức đợt 3 tổng tiến công và nổi dậy như chủ trương của Bộ Chính trị.

Trong hơn một tháng của đợt 3 (17-8 - 28-9-1968 ), tiếng súng tiến công của quân và dân các tỉnh của Khu VI không lúc nào ngừng. Tại tỉnh Bình Thuận, được nhân dân hỗ trợ, lực lượng vũ trang của tỉnh tổ chức nhiều trận tiến công tiêu diệt hệ thống đồn bốt địch và phá các ấp chiến lược mới xây dựng trên vành đai phòng thủ bảo vệ xung quanh thị xã Phan Thiết của địch. Các đơn vị đặc công, biệt động, pháo cối mang vác luồn sâu tập kích kho chứa nhiên liệu ở trung tâm thị xã, phá huỷ một số kho chứa hàng hoá quân sự của Mỹ trên khu vực căng Êxepíc. Tiểu đoàn 200C phối hợp với một bộ phận Tiểu đoàn 840 tiến công tiêu diệt Chi khu quân sự Hoà Đa, tạo thế uy hiếp hệ thống phòng ngự Chợ Lầu - Phan Rí của địch. Cũng trong khoảng thời gian trên, các đơn vị pháo, cối tỉnh Tuyên Đức tập kích quận lỵ Đức Trọng, Yếu khu Thạnh Mỹ, tiêu hao nặng đại đội bảo an ngụy chốt tại M’lơn. Lực lượng vũ trang huyện Đơn Dương sử dụng pháo mang vác đánh phá quận lỵ Đran, cắt giao thông trên lộ 11. Ở nội đô thành phố Đà Lạt, các tổ hoả lực pháo, cối luồn sâu đã bất ngờ tập kích sân bay Cam Ly, Trường võ bị Đà Lạt và căn cứ Mỹ tại Nam Thiên. Các tiểu đoàn 186 và 145 phối hợp tiến công Chi khu quân sự Di Linh, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch, phá hỏng sáu khẩu pháo cỡ lớn, hàng chục xe quân sự và nhiều phương tiện chiến tranh của địch. Quân và dân Ninh Thuận tổ chức bao vây, kết hợp với bắn pháo vào sân bay Thành Sơn, phá huỷ, phá hỏng một số máy bay cùng một số đoạn đường băng, loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục giặc lái và nhân viên kỹ thuật. Được Tiểu đoàn 610 hỗ trợ, lực lượng vũ trang vùng ven các thị trấn Phú Quý, Krông Pha, Cà Ná và ven quốc lộ số 1 và 11 liên tục tiến công, loại khỏi vòng chiến đấu nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch. Phối hợp với các hoạt động vũ trang, ở các thị xã, thị trấn Phan Thiết, Phan Rang, Bảo Lộc..., dưới sự lãnh đạo của các tổ chức mật, nhân dân đã nổi dậy mít tinh, biểu tình, đưa kiến nghị yêu cầu ngụy quyền cơ sở chấp nhận cho dân đào hầm tránh phi pháo, không được khám xét, lục soát nhà dân vào ban đêm, không được tự ý tăng thuế và cưỡng ép thanh niên gia nhập phòng vệ dân sự. Riêng nhân dân vùng nông thôn đã tổ chức nhiều đợt đấu tranh chống kế hoạch “bình định cấp tốc” của địch, phá banh, phá rã, phá lỏng được gần 50 khu dồn và ấp chiến lược, tạo điều kiện cho gần một vạn dân giành được quyền làm chủ ở nhiều mức độ khác nhau2. Nhờ đó, trong đợt 3 tổng tiến công và nổi dậy, mặc dù địch tập trung lực lượng phản kích quyết liệt, song quân dân Khu VI cơ bản giữ được khu vực giải phóng ở nông thôn, giữ được thế giằng co với địch ở vùng giáp ranh các thị xã, thị trấn. Nhưng cũng như các địa phương khác trên toàn miền Nam, sau nhiều tháng ròng chiến đấu không nghỉ, sức chiến đấu của lực lượng vũ trang sa sút dần, mà nguồn bổ sung hầu như không có, trong khi địch ngày càng tập trung phản kích lại ta với quy mô rộng lớn hơn, cường độ ác liệt hơn, nên đến cuối năm 1968, phần lớn lực lượng vũ trang ba thứ quân của khu đều bị địch đẩy ra xa. Thực trạng này đã ảnh hưởng lớn đến hoạt động của toàn khu trong những năm tiếp theo.

Trên chiến trường Trị - Thiên sau đợt Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, địch dồn lực lượng và phương tiện tổ chức phản kích đẩy lùi lực lượng ta ra khỏi thành phố Huế và các thị xã thị trấn, đồng thời mở nhiều cuộc hành quân kết hợp với việc sử dụng không quân, pháo binh đánh phá dữ dội hành lang vận chuyển chiến lược, dùng các toán biệt kích, thám báo ngày đêm lùng sục, tập kích phá các kho tàng, căn cứ kháng chiến của ta và hình thành các tuyến phòng thủ chặn các mũi tiến công của ta vào thành phố. Trong nội thành địch sử dụng quân đội cảnh sát mở liên tiếp các cuộc hành quân tảo thanh chà đi xát lại các khu phố và vùng ven yểm trợ cho các đội bình định thực hiện kế hoạch “bình định cấp tốc”. Do sự đánh phá ác liệt của địch, hầu hết các cơ sở cách mạng bị chúng phát hiện tróc nã, quần chúng nhân dân một số bị dồn ép vào các trại tập trung và ấp chiến lược, hàng trăm thanh niên bị chúng ép buộc vào lực lượng phòng vệ dân sự. Bên cạnh đó, do mưa lũ kéo dài, địa hình bị chia cắt, việc cơ động lực lượng cũng như công tác tiếp tế của ta trở nên vô cùng khó khăn. Đến khi nước rút, địch lại rải chất độc hoá học huỷ diệt nốt những vùng trồng cây lương thực, hoa màu còn sót lại qua mùa lũ, do vậy cảnh đói kém diễn ra nghiêm trọng, các loại bệnh dịch phát sinh đe doạ tính mạng nhân dân và lực lượng vũ trang trên nhiều vùng cả ở đồng bằng và rừng núi Trị - Thiên. Để giải quyết vấn đề lương thực duy trì cuộc sống và chiến đấu, quân và dân Trị - Thiên không những phải đổ mồ hôi, công sức mà còn phải trả bằng máu và tính mạng của chính mình. Trước thực tế vô cùng khó khăn này, một số cán bộ, đảng viên và nhân dân hoang mang, dao động, dẫn đến nhiều đảng viên, cán bộ và quần chúng cách mạng ra đầu hàng, đầu thú hoặc chạy sang vùng địch cư trú. Tuy gặp khó khăn chồng chất, nhưng Đảng bộ và Bộ Tư lệnh Quân khu Trị - Thiên - Huế đã lãnh đạo nhân dân và lực lượng vũ trang khắc phục khó khăn, gắng sức tiến công và nổi dậy phối hợp với chiến trường toàn Miền. Tại Quảng Trị, sau khi 6 tiểu đoàn bộ binh, 6 đại đội đặc công, 3 tiểu đoàn phòng không, 3 tiểu đoàn pháo và súng cối, hàng trăm thanh niên xung phong và dân công hoả tuyến từ Quảng Bình vào khu vực Đường 9 thay cho các đơn vị chủ lực B5 rút ra hậu phương củng cố, bổ sung lực lượng3, đã nhanh chóng phối hợp với các đơn vị địa phương tổ chức một số trận đánh địch trên Đường 9, sử dụng pháo, cối luồn sâu tập kích các căn cứ 241, Cồn Tiên, Dốc Miếu, mật phục đánh các đoàn tàu cơ động trên sông Cửa Việt tiêu hao một bộ phận quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch. Riêng đối với lực lượng vũ trang hai huyện Triệu Phong và Hải Lăng, phong trào thi đua bắn máy bay lên thẳng (phương tiện chủ yếu để thực hiện chiến thuật “nhảy cóc” của địch) phát triển rộng khắp. Nổi bật nhất là ở Triệu Phong, trong ngày 19-8, lực lượng vũ trang và nhân dân toàn huyện đã phối hợp chiến đấu bẻ gãy hầu hết các đợt càn quét của Lữ đoàn kỵ binh bay Mỹ, bắn rơi 19 máy bay trực thăng. Cũng vào thời gian trên, tại Thừa Thiên, nhân thời cơ địch dồn lực lượng mở các cuộc hành quân lên vùng núi và giáp ranh, bộ đội địa phương và du kích các huyện Hương Thuỷ, Phú Vang, Phú Lộc chủ động tiến công một số đồn bốt, trụ sở ngụy quyền cơ sở, diệt nhiều tên ác ôn, cảnh sát có nhiều tội ác với nhân dân. Được lực lượng vũ trang hậu thuẫn, huyện uỷ các huyện Quảng Điền, Phong Điền, Hướng Điền đã khẩn trương đưa dần cán bộ, đảng viên về trụ bám địa bàn lãnh đạo quần chúng chống địch, giữ thế, xây dựng và củng cố cơ sở. Còn ở thành phố Huế, cuối tháng 8, Thành uỷ đã tổ chức thêm được hai đội biệt động và một số đội công tác mật hoạt động trong các quận nội thành, nên cả những khi tình hình khó khăn nhất, tiếng súng tiến công cũng không bao giờ ngừng. Nhiều mục tiêu quan trọng của Mỹ - ngụy vẫn liên tục bị ta đánh đi, đánh lại nhiều lần. Mặc dù vậy, những kết quả giành được còn hạn chế nhiều mặt, chưa tạo ra được sự thay đổi lớn về thế và về lực có lợi cho ta. Các đơn vị chủ lực quân khu phải tạm rút ra Quảng Bình củng cố, chỉ để lại một bộ phận giữ địa bàn, giữ thế4.
_____________________________________
1. Theo cuốn Khu V - 30 năm chiến tranh giải phóng, Bộ Tư lệnh Quân khu V xuất bản, tr. 352 thì đến cuối năm 1968, dân số vùng giải phóng Khu V vẫn còn 1.100.000 so với trước Tết Mậu Thân là 1.219.000 và thời điểm cao nhất là tháng 4-1968 là 1.400.000 người.
2. Trong đợt 1 và 2 Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, lực lượng vũ trang và nhân dân Khu VI đã loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 15.000 tên địch, phá huỷ và phá hỏng một số lượng lớn vũ khí và phương tiện chiến tranh của Mỹ - ngụy.
3. Khi đợt 3 Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 bắt đầu, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập mặt trận Trị - Thiên. Chủ lực của mặt trận Trị - Thiên khi đó gồm Sư đoàn 308, Sư đoàn 324, các đơn vị cao xạ, xe tăng và toàn bộ lực lượng vũ trang của B4, đồng thời được uỷ nhiệm chỉ huy cả lực lượng vũ trang còn lại của B5.
4. Theo số liệu thống kê trong tài liệu Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ của Bình Trị Thiên, không kể mặt trận Đường 9 - Khe sanh, qua ba đợt Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 (31-1 - 30-9), quân dân Trị -Thiên - Huế đã loại khỏi vòng chiến đấu 200.000 tên địch, bắn rơi và phá huỷ 200 máy bay các loại, phá huỷ và phá hỏng trên 400 xe quân sự, 48 tàu xuồng chiến đấu, 13 kho đạn, 70 khẩu pháo, diệt, bức rút và bức hàng 34 đồn, bốt và chi khu.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #74 vào lúc: 22 Tháng Tư, 2010, 12:10:23 am »


Cuối tháng 8-1968, Khu uỷ Trị - Thiên họp phân tích tình hình, so sánh lực lượng địch, ta trên chiến trường đã đi đến quyết định: “không tiếp tục tổng công kích - tổng khởi nghĩa vào thành phố, mà phải đẩy mạnh tiêu hao, tiêu diệt từng bộ phận địch, giữ gìn và xây dựng lại cơ sở, xây dựng lại thế ba vùng liên hoàn có lợi cho ta, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, đấu tranh hợp pháp với nửa hợp pháp ở vùng địch kiểm soát, nhằm từng bước vượt qua khó khăn, khôi phục lại thế và lực của ta trên chiến trường, triển khai ngay thế đứng chân mới ở miền núi, phát động phong trào sản xuất, tự túc, phấn đấu trồng cho được 15 triệu gốc sắn để chống đói. Để bảo vệ sản xuất phải đẩy mạnh phong trào săn máy bay, hạn chế máy bay rải chất độc hoá học, đồng thời kiên quyết chặn đánh các cuộc hành quân “nhảy cóc”, “chốt giữ điểm cao” của địch, bảo vệ tốt kho tàng, căn cứ và đường vận chuyển chiến lược. Ở đồng bằng và thành phố phải khẩn trương tập hợp lực lượng, phát triển lực lượng mới, chuyển dần sang đấu tranh chính trị thích hợp, kết hợp với đấu tranh vũ trang, từng bước phá kế hoạch bình định của địch”1.

Thực hiện chủ trương của Khu uỷ, đầu tháng 9-1968, Bộ Tư lệnh quân khu chỉ đạo cho các tỉnh và các đơn vị nhanh chóng đưa cán bộ và bộ đội về các thôn, xã bám dân, giúp đỡ nhân dân khắc phục khó khăn, dần dần khôi phục lại cơ sở và phong trào cách mạng, vận động toàn dân thực hành tăng gia sản xuất trồng ngô, khoai, sắn... tạo nguồn lương thực tại chỗ cho không chiến. Tại Hướng Hoá, tính đến tháng 10, nhân dân và các lực lượng vũ trang đã trồng được hơn ba triệu gốc sắn, quyên góp được 250 tấn lương thực các loại cung cấp cho lực lượng vũ trang... Dựa vào lòng dân và cùng chia sẻ với nhân dân cảnh thiếu cơm, nhạt muối và phải thường xuyên đối phó với mọi âm mưu, thủ đoạn tàn bạo của địch, bộ đội và du kích vẫn kiên cường bám trụ, bảo vệ địa bàn, bảo vệ an toàn cho nhân dân. Tính đến hết tháng 10, tại một số huyện ở Trị - Thiên (chủ yếu là đồng bằng) các đơn vị vũ trang được củng cố. Riêng các huyện vùng ven thành phố Huế, mỗi huyện có một tiểu đoàn trinh sát, một đại đội trinh sát đặc công. Thành phố Huế đã phát triển lực lượng biệt động lên tới 500 người. Cùng với những kết quả về củng cố lực lượng và xây dựng cơ sở, sự thiếu thốn lương thực, thực phẩm cũng dần được khắc phục. Ngoài việc đáp ứng cho nhu cầu tại chỗ, quân dân Trị - Thiên đã dành được một phần cho nguồn dự trữ chuẩn bị đón các đơn vị chủ lực trở về tiến công địch, khôi phục lại thế trận chiến tranh nhân dân ở ba vùng chiến lược.

Tháng 12-1968, các đơn vị chủ lực sau một thời gian củng cố và bổ sung lực lượng ở hậu phương đã lần lượt quay lại chiến trường hoạt động. Đây là điều kiện rất thuận lợi giúp quân và dân Trị - Thiên tổ chức tiến công địch, giành lại đất giành lại dân, khôi phục lại thế trận chiến trường.

Với sự nỗ lực vượt bậc trên tất cả mọi phương diện, quân và dân miền Nam đã tiến hành đợt 3 Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968. Song, do đợt 1 và 2 cuộc tổng tiến công và nổi dậy diễn ra liên tục, lực lượng ta bị tổn thất nặng, chưa kịp thời bổ sung, thời cơ lại không còn, nên so với hai đợt đầu kết quả giành được trong đợt 3 hạn chế hơn. Trong đợt 3 tổng tiến công và nổi dậy của ta diễn ra rời rạc, chủ yếu là ở khu vực rừng núi và giáp biên giới với Campuchia, đối với các mục tiêu thành phố, thị xã, căn cứ quân sự lớn của Mỹ - ngụy, ta chỉ thực hiện được một số trận tập kích quy mô nhỏ bằng pháo binh, đặc công, biệt động. Đây là đòn đánh bồi vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, tiêu hao, tiêu diệt thêm được một bộ phận quan trọng sinh lực, vũ khí và phương tiện chiến tranh của chúng. Về phương diện quân sự đợt 3 đã góp phần đẩy quân đội Mỹ, quân đội Sài Gòn tiếp tục sa lầy thêm trong thế chiến lược “quét và giữ” bị động. Song qua đợt 3, lực lượng ta tiếp tục bị tổn thất, rất nhiều cơ sở trong nội thành bị vỡ, hầu hết vùng giải phóng ta mở được trong đợt 1 và đợt 2 bị địch líp trở lại; phần lớn lực lượng vũ trang chủ lực của ta bị đẩy lên căn cứ rừng núi và vùng giáp biên. Riêng trên lĩnh vực “bình định”, lợi dụng những khó khăn lớn của ta, Mỹ - ngụy triển khai kế hoạch “bình định cấp tốc” mà trọng điểm là các vùng nông thôn trên toàn miền Nam. Đến cuối năm 1968, chúng đã dồn được khoảng chín triệu dân miền Nam (trên 50%) vào 3.300 ấp chiến lược, lập 4.954 đồn bốt.

Trong khi quân và dân ta ở miền Nam đang tiến hành đợt 3 cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, thì quân và dân miền Bắc - mà trực tiếp là quân dân Khu IV ngày đêm kiên cường chiến đấu đánh trả cuộc chiến tranh phá hoại của không quân và hải quân Mỹ, bảo vệ giao thông thông suốt để tiếp tế cho miền Nam tổng tiến công và nổi dậy.

Ngoài việc tập trung một số lượng bom pháo gấp nhiều lần so với trước đây, thủ đoạn đánh phá của không quân và hải quân Mỹ chủ yếu tập trung vào các trọng điểm trên những khu vực Cầu Cấm, Phương Tích, Rú Nguội, Truông Bồn, các phà Nam Đàn, Bến Thuỷ (Nghệ An); bến Linh Cảm, ngã ba Đồng Lộc, Thượng Gia, Hạ Vàng, Khe Út, Bến Ràng, Còi Sâu (Hà Tĩnh); Bến Ròn, phà sông Gianh, Xuân Sơn, Long Đại, Quán Hàu, Phong Nha (Quảng Bình). Đặc biệt, trên các trục đường số 8, 10, 12, 20... với những cửa khẩu như Đèo Dước, Nam Thôn, Seng Phan, Ta Lê suốt 24 giờ trong ngày tiếng bom pháo của địch không lúc nào dứt. Chỉ tính riêng từ tháng 4 đến cuối năm 1968, tại ngã ba Đồng Lộc và Thượng Gia (Hà Tĩnh), không quân Mỹ đã ném xuống khoảng 37.000 quả bom phá và 5.000 quả bom từ trường. Nhiệm vụ chiến đấu bảo đảm giao thông vận tải ở Khu IV thực sự trở thành mặt trận nóng bỏng - nơi đọ sức, ý chí và quyết tâm của quân và dân miền Bắc xã hội chủ nghĩa với đế quốc Mỹ.

Ngay từ đầu năm 1968, các sư đoàn 367, 368, 377 phòng không, Sư đoàn 351 pháo binh của Bộ được điều động gấp vào Khu IV chiến đấu. Đồng thời, Bộ Tư lệnh Quân khu IV đã thành lập Sư đoàn phòng không 375, với biên chế ba trung đoàn (214, 218, 284) tổ chức đánh địch trên trục đường, bảo vệ các bến bãi, bảo vệ các trận địa pháo binh, các khu vực tập kết lực lượng, bổ sung trang bị vũ khí, lương thực thuốc men chuẩn bị hành quân vào chiến trường đánh Mỹ. Dựa vào cơ sở nòng cốt là các đơn vị phòng không còn lại và lực lượng phòng không các tỉnh, các huyện trên địa bàn, Quân khu IV tổ chức thêm 6 trung đoàn, 11 tiểu đoàn, 9 đại đội phòng không, với nhiệm vụ đánh địch bảo vệ các trọng điểm nút giao thông yết hầu như Nam Đàn, Linh Cảm, ngã ba Đồng Lộc và các trục đường thuộc địa bàn phía bắc quân khu. Ngoài lực lượng phòng không tập trung của quân khu, các tỉnh đã tổ chức được 528 đội dân quân trực chiến, được trang bị súng máy phòng không 12,7 mm, 14,5 mm và pháo phòng không 37 mm, trong đó có 245 đội thoát ly sản xuất với nhiệm vụ bảo vệ các mục tiêu tại chỗ và cơ động chiến đấu bảo vệ các phương tiện vận tải đường thuỷ của ta. Như vậy trên địa bàn tuyến lửa Quân khu IV, lực lượng phòng không 3 thứ quân của ta với lưới lửa nhiều tầng, nhiều lớp, có lực lượng tại chỗ và lực lượng cơ động, phương pháp bố trí lực lượng vừa có diện vừa có điểm. Bên cạnh lực lượng phòng không, Bộ Tư lệnh Phòng không - Không quân quyết định sử dụng máy bay tiêm kích tham gia đánh máy bay Mỹ trên vùng trời hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Đồng thời, lực lượng pháo binh cũng đã luôn luôn ở tư thế sẵn sàng chiến đấu chống tàu chiến địch, bảo vệ vùng biển.
_____________________________________
1. Dẫn theo Quân khu IV - Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), Sđd, tr. 253.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #75 vào lúc: 22 Tháng Tư, 2010, 12:11:30 am »


Mở đầu cho quyết tâm đánh thắng chiến tranh phá hoại của Mỹ trên địa bàn Quân khu IV, trong tháng 5, Trung đoàn tên lửa 238 đã liên tục bắn rơi bảy máy bay địch. Sánh vai với bộ đội tên lửa, ngày 31-5, bộ đội cao xạ đảo Cồn Cỏ đã gan dạ bám trụ trận địa, kiên cường đánh trả không quân Mỹ, bắn rơi bốn máy bay, giữ vững hòn đảo tiền tiêu của Tổ quốc. Với chiến công này “Cồn Cỏ xứng đáng là đảo nhỏ anh hùng”1 và trở thành một tấm gương trong phong trào thi đua “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” của lực lượng vũ trang, cổ vũ quân và dân tuyến lửa Quân khu IV anh dũng chiến đấu bắn rơi nhiều máy bay giặc Mỹ hơn nữa.

Thi đua với bộ đội Cồn Cỏ, chiều 25-6, bằng sự phối hợp chiến đấu kịp thời và chặt chẽ của các loại hoả lực phòng không, quân dân huyện Tuyên Hoá (Quảng Bình) đã bắn rơi tại chỗ chiếc máy bay thứ 3.000 của không quân Mỹ trên miền Bắc. Sau hai tháng chiến đấu chống cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ, quân và dân Quân khu IV được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi: “...Tôi nhiệt liệt khen ngợi quân và dân Quân khu IV rất xứng đáng là tuyến đầu của miền Bắc, anh dũng đập tan mọi thủ đoạn dã man của giặc Mỹ.

Tôi đặc biệt khen ngợi quân và dân Quảng Bình đã đánh giỏi, hạ chiếc máy bay Mỹ thứ 3.000 và gửi tặng đơn vị X. một lá cờ vinh dự. Đó là thành tích chung của quân và dân miền Bắc ta”2. Lời khen ngợi của Bác tiếp thêm nguồn sức mạnh mới thúc đẩy lực lượng phòng không miền Bắc nói chung, lực lượng phòng không trực tiếp chiến đấu trên “tuyến lửa” Khu IV nói riêng ngày đêm hăng say luyện tập và sẵn sàng chiến đấu lập thêm nhiều thành tích mới.

Tháng 8-1968, lực lượng phòng không ba thứ quân trên địa bàn Khu IV lập thêm nhiều chiến công vang dội trong chiến đấu chống máy bay địch và bảo vệ giao thông. Ngày 5-8, quân dân Vĩnh Linh đã bắn rơi một tốp hai chiếc máy bay phản lực F4H của không lực Mỹ (trong đó có chiếc máy bay thứ 200 bị bắn rơi tại địa phương). Tại tỉnh Hà Tĩnh, ngày 28-8, các tay súng tự vệ phòng không Lâm trường Hương Khê bắn rơi một máy bay F111. Đây là chiếc máy bay F111 đầu tiên của không quân Mỹ bị bắn rơi trên miền Bắc. Cũng ngày 28 và 29-8, Tiểu đội nữ dân quân xã Kỳ Phương, huyện Kỳ Anh liên tục đánh trả nhiều trận oanh kích của địch, bắn rơi ba máy bay, giữ vững trận địa. Tấm gương tiêu biểu cho phong trào bắn máy bay Mỹ của lực lượng phòng không nhân dân địa phương Quân khu IV trong tháng 8-1968 là nữ dân quân xóm đạo Thiên chúa xã Quảng Phúc, Quảng Trạch, Quảng Bình Nguyễn Thị Xuân, một mình một súng bám trận địa bắn rơi một máy bay F4H của địch.

Hiệp đồng chặt chẽ với các trận địa phòng không của bộ đội địa phương và dân quân tự vệ, trong tháng 8, các đơn vị pháo cao xạ của Bộ và Quân khu IV đã giành được những thắng lợi lớn: Trung đoàn 230 bắn rơi 15 chiếc, Trung đoàn 233 bắn rơi 6, Trung đoàn 224 bắn rơi 2, Trung đoàn 228 bắn rơi 2, Trung đoàn 232 bắn rơi 3, Trung đoàn 222 bắn rơi 12, Trung đoàn 214 bắn rơi 14 và Tiểu đoàn 17 bắn rơi 7 chiếc máy bay các loại của không quân Mỹ.

Bên cạnh việc tổ chức lực lượng phòng không đánh trả máy bay Mỹ, để bảo đảm giao thông và vận tải thông suốt ở những nút giao thông quan trọng phía tây Quân khu IV, tiếp theo việc thành lập Bộ Tư lệnh bảo đảm giao thông vận tải Quân khu IV, ngày 28-10-1968, Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Bộ Tư lệnh 500 do Thiếu tướng Nguyễn Đôn làm Tư lệnh, Thiếu tướng Lê Quang Đạo làm Chính uỷ. Nhiệm vụ của Bộ Tư lệnh 500 được xác định là: lãnh đạo, chỉ huy xây dựng lực lượng vận tải, bảo đảm giao thông vận chuyển phía tây Quân khu IV, gồm đường sông và các đường bộ số 8, 12, 20.

Để tăng cường sức mạnh cho lực lượng bảo đảm giao thông vận tải, ngoài các đơn vị cầu đường thuộc ngành vận tải trung ương, các trung đoàn công binh 229, 239, 249 của Bộ Quốc phòng, bảy tiểu đoàn công binh công trình của hai quân khu Tả ngạn và Hữu ngạn, Bộ Quốc phòng điều động thêm hai đại đội phá bom mìn của Cục Công trình Bộ Tư lệnh Công binh vào tuyến lửa Khu IV phá bom mìn, mở đường cho các đoàn vận tải chiến lược đưa hàng vào tiền tuyến miền Nam. Sát cánh với các lực lượng của Bộ, Quân khu IV đã huy động 500 đội công binh dân quân thoát ly sản xuất và các đơn vị công binh của quân khu và của các tỉnh không quản ngày đêm, mưa nắng san lấp hố bom, giải phóng mặt đường và tham gia thồ gùi hàng đến các cụm kho, chân hàng Đoàn 559.
_____________________________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 358.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 364.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #76 vào lúc: 22 Tháng Tư, 2010, 12:12:22 am »


Có lực lượng mạnh và được tổ chức chặt chẽ, thống nhất, nên trên hầu khắp địa bàn các tỉnh Khu IV việc bảo đảm giao thông, vận tải thống nhất. Tại Hà Tĩnh, một khu vực lãnh thổ có chiều ngang hẹp, một “yết hầu” quan trọng trên tuyến vận tải chiến lược Bắc - Nam, không quân và hải quân Mỹ đã ném xuống Hà Tĩnh trung bình một mét vuông đất bốn quả bom. Nhưng, với tinh thần tất cả vì miền Nam ruột thịt, tất cả để chiến thắng giặc Mỹ xâm lược, các đơn vị công binh, thanh niên xung phong và dân quân địa phương đã tham gia chiến dịch mở đường vòng tránh, san lấp hố bom, sửa và mở rộng mặt đường, sửa chữa và nâng cấp các bến phà, bến vượt bảo đảm giao thông thông suốt. Đặc biệt, ở những khu vực nút giao thông: Nam Đàn - Linh Cảm - Bến Thuỷ... được các đội công binh dân quân phối hợp, Trung đoàn công binh 239 liên tục rà soát, phá gỡ hàng ngàn quả bom từ trường và bom nổ chậm của Mỹ thả xuống dòng sông Lam, sông La. Tiểu đoàn 27 ghép phà vận chuyển được nhiều tấn hàng dọc theo sông Ngàn Sâu và sông Lam. Ở ngã ba Đồng Lộc, điểm giao hội của quốc lộ 15 và tỉnh lộ số 2, huyết mạch giao thông sống còn của tuyến vận chuyển chiến lược trên đất Hà Tĩnh, nên cuộc đọ sức vô cùng ác liệt giữa ta và địch diễn ra triền miên không kể ngày đêm, thời tiết mưa hay nắng. Chỉ trong tháng 5-1968, không quân Mỹ đã ném 3.000 quả bom phá, 970 quả bom từ trường, cắt đứt quốc lộ số 1; riêng trên trục đường 15 địch đánh 8 trận, thả 2.000 quả bom phá và 126 quả bom từ trường. Để giữ cho được điểm giao thông huyết mạch này, Bộ Tư lệnh bảo đảm giao thông vận tải Quân khu IV tập trung năm đại đội thanh niên xung phong, một đại đội công binh phá bom và một đội cầu thuộc Tổng đội 55 thanh niên xung phong, Đại đội 2 chủ lực của lực lượng giao thông Can Lộc, một đội cơ giới gạt ủi, một đơn vị cảnh sát giao thông... ngày đêm thay phiên nhau đánh máy bay và ứng phó giao thông. Khi cần thiết, Tiểu đoàn 500 công binh trạm 9 sẽ cơ động đến giúp sức.

Những tháng chiến đấu và công tác trên địa bàn Khu IV vô cùng gay go, ác liệt, ranh giới giữa cái sống và cái chết chỉ cách nhau gang tấc, đã có biết bao chiến sĩ và đồng bào ta bất chấp bom đạn dũng cảm, ngoan cường, thông minh, sáng tạo dám đối mặt với tử thần để tìm ra các bí quyết gỡ mìn, phá bom và san lấp mặt đường... giữ thông huyết mạch giao thông cho những chuyến xe chở hàng ngày đêm nối đuôi nhau vào chiến trường. Những tên tuổi thân thuộc như Vương Đình Nhỏ, với các dụng cụ thủ công tự tạo đã phá nổ, tháo gỡ được 189 quả bom các loại và trở thành dũng sĩ phá bom xuất sắc nhất trên quyết chiến điểm Đồng Lộc; chiến sĩ lái máy ủi Uông Xuân Lý đã dũng cảm gạt ủi hàng ngàn mét khối đất đá để san lấp hố bom, đẩy hàng trăm quả bom nổ chậm giải phóng mặt đường cho các đoàn xe vận tải chở hàng vào tiền tuyến; La Thị Tám, với kỷ lục có mặt liên tục 86 ngày trên ngã ba Đồng Lộc, 30 ngày ở Thượng Gia, Cổ Ngựa, đã 23 lần bị bom nổ vùi kín, nhưng sau khi được đồng đội cứu chữa vẫn kiên quyết ở lại trận địa cùng đồng đội theo dõi điểm rơi, cắm cờ đánh dấu được 703 quả bom nổ chậm để cho công binh khắc phục kịp thời. Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trên tuyến lửa ngã ba Đồng Lộc, ngày 22-12-1969, La Thị Tám được Quốc hội, Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Để chặn phá sự chi viện của miền Bắc cho tiền tuyến miền Nam tiếp tục mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy đợt 3, Mỹ tập trung không quân đánh phá ngăn chặn ác liệt ở ngã ba Đồng Lộc. Cuộc chiến đấu bảo đảm giao thông tại đây đã xuất hiện nhiều tấm gương hy sinh quên mình vô cùng cao đẹp. Và cũng “từ mảnh đất thiêng liêng này, lúc 16 giờ ngày 24-7-1968, Tiểu đội nữ thanh niên xung phong: Võ Thị Tần, Hồ Thị Cúc, Nguyễn Thị Nhỏ, Nguyễn Thị Xuân, Trần Thị Hường, Vũ Thị Hà, Võ Thị Hợi, Trần Thị Rạng, Dương Thị Xuân, Hà Thị Xanh đã anh dũng hy sinh, hiến trọn tuổi thanh xuân để nối liền mạch máu giao thông “hậu phương lớn” với “tiền tuyến lớn” góp phần cho Tổ quốc toàn thắng. Tên tuổi 10 cô mãi mãi được nhân dân cả nước và bạn bè thế giới nhắc đến như một kỳ tích anh hùng của dân tộc Việt Nam anh hùng”1. Ghi nhận những cống hiến to lớn của 10 cô gái Đồng Lộc, Quốc hội, Hội đồng Nhà nước đã truy tặng danh hiệu đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho Tiểu đội thanh niên xung phong do Võ Thị Tần chỉ huy.

Tại Nghệ An, bằng kinh nghiệm sử dụng nam châm phá thành công bom từ trường của đồng chí Nguyễn Văn Minh, chiến sĩ công binh Thành đội Vinh, các lực lượng bảo đảm giao thông vận tải trên địa bàn Nghệ An đã vận dụng rộng rãi, đồng thời nghiên cứu cải tiến tận dụng tất cả những lưỡi cuốc, cày, khung dây thép,...kết hợp với máy phóng từ gắn trên xe đã phá nổ các loại bom, mìn từ trường của đế quốc Mỹ. Trong tháng 8, tại Truông Bồn, Đại đội 3 công binh và Tiểu đội nữ thanh niên xung phong huyện Đô Lương đã phá gần 2.000 bom từ trường. Cùng với những tháng ngày khắc phục gian khổ, thường xuyên đối mặt với cái chết, song quân và dân Nghệ An không lúc nào chùn bước. Càng trong thử thách gian nan, càng xuất hiện nhiều dũng sĩ phá bom xuất sắc: Nguyễn Xuân Toán, chiến sĩ lái canô của Tiểu đoàn 27 công binh; Nguyễn Trọng Được ở Hưng Vĩnh, Hưng Nguyên; Nguyễn Thị Tính ở Nam Giang, Nam Đàn; Nguyễn Thị Vợi ở Rú Nguộc, Thanh Chương; Vương Thị Hải ở Trung Sơn, Đô Lương... Để giữ cho mạch máu giao thông không lúc nào ngừng chảy, nhiều thôn, xã, nhiều gia đình đã tự nguyện chuyển nhà ở của mình đi nơi khác để giải phóng mặt bằng cho việc mở các đường vòng tránh ở các trọng điểm đánh phá của không quân Mỹ. Và trong những thời điểm gay cấn nhất, không ít gia đình đã hy sinh căn nhà thân yêu của mình để lấy gạch, ván gỗ lát đường chống lầy cho xe qua. Tháng 8-1968, nhân dân xã Tiến Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh đã tự nguyện dỡ chuyển 130 ngôi nhà để lấy đất mở đường vòng tránh. Xã Võ Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình có 37 ngôi nhà của dân tự nguyện trao cho bộ đội và thanh niên xung phong tháo dỡ lấy vật liệu chống lầy. 30 gia đình thôn Trường Giang tự nguyện dỡ nhà đem chống lầy cho xe ra tiền tuyến. Nhân dân xã Phúc Sơn dỡ nhà lấy cột làm tời để kéo phà qua sông Long Đại... Đó là những tấm gương vì nước, vì giải phóng miền Nam mà tự nguyện hy sinh. Những hình ảnh cao đẹp này mãi mãi đi vào lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc như những chiến công chói lọi, một biểu tượng sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX.
_____________________________________
1. Theo bia mộ của 10 cô gái tại nghĩa trang Đồng Lộc - Can Lộc - Hà Tĩnh, được hoàn thành vào ngày 24-7-1988.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #77 vào lúc: 22 Tháng Tư, 2010, 12:27:11 am »


Tiếp tế cho chiến trường miền Nam tổng tiến công và nổi dậy là nhiệm vụ trọng tâm, hàng đầu của quân dân ta ở miền Bắc, vì vậy Bộ và Quân Khu IV đã động viên các đơn vị vận tải huy động mọi phương tiện tới mức cao nhất vận chuyển hàng hoá vào chiến trường. Chính phủ còn huy động thêm của Thanh Hoá 2.000 xe đạp thồ, 500 thuyền nan, 800 tàu thuyền đánh cá cùng với lực lượng bảo đảm tương ứng vào tăng cường cho các đoàn vận tải đang ngày đêm hoạt động trên địa bàn hai tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình... góp phần vào công tác vận chuyển chi viện cho chiến trường miền Nam tiến công và nổi dậy.

Bằng sự nỗ lực to lớn vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa phá gỡ bom mìn, sửa đường, mở đường... với biết bao vất vả, hy sinh, các lực lượng vũ trang, thanh niên xung phong và nhân dân trên vùng đất lửa Khu IV vẫn giữ vững được các huyết mạch giao thông vận tải, bảo đảm cho các chuyến hàng đều đặn vào các chiến trường tiếp sức cho miền Nam. Chỉ trong bảy tháng (từ tháng 4 đến tháng 10-1968 ) đánh trả cuộc ném bom hạn chế của Mỹ, lực lượng phòng không ba thứ quân trên địa bàn Khu IV đã bắn rơi 425 máy bay, bằm chìm và bắn cháy 32 tàu chiến các loại của địch. Lực lượng công binh, thanh niên xung phong và nhân dân các địa phương tại chỗ đã khôi phục, làm mới được 2.500 km đường vận tải cơ giới, 173 km đường goòng. Xí nghiệp đóng tàu Chiến Thắng và các trạm sửa chữa lưu động của các đơn vị đóng được 21 chiếc phà, 17 bộ cầu phà, 17 phao cầu, sửa chữa 33 phà, 200 thuyền vận tải đủ loại cho các binh trạm. Huy động được sức mạnh tổng hợp to lớn như vậy nên miền Bắc hậu phương lớn đã cơ bản đáp ứng lực lượng, vật chất, kỹ thuật cho miền Nam tiếp tục tổng tiến công và nổi dậy đợt 3.

Bị thất bại nặng nề trên cả hai miền Nam - Bắc, ngày 1-11-1968, Tổng thống Mỹ Giônxơn đã phải tuyên bố chấm dứt ném bom và các hành động quân sự khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà không điều kiện, đồng thời chấp nhận Hội nghị bốn bên ở Pari. Nhân dịp này Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra tuyên bố vạch rõ: “Việc Mỹ chấm dứt không điều kiện ném bom, bắn phá trên toàn bộ lãnh thổ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sau bốn năm chồng chất tội ác tày trời đối với nhân dân miền Bắc Việt Nam và sau năm tháng làm bế tắc cuộc nói chuyện ở Pari, đánh dấu một thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam ở cả hai miền. Đó cũng là một thắng lợi to lớn của phe xã hội chủ nghĩa, của phong trào giải phóng dân tộc và phong trào hoà bình, một thắng lợi của nhân dân toàn thế giới trong đó có cả nhân dân tiến bộ Mỹ”1. Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi cả nước tiên lên đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Lời kêu gọi có đoạn: “Đế quốc Mỹ rất ngoan cố và xảo quyệt. Chúng nói “hoà bình”, “thương lượng” nhưng vẫn chưa từ bỏ dã tâm xâm lược của chúng. Hơn một triệu quân Mỹ, quân ngụy và quân chư hầu còn đang hằng ngày gây ra biết bao tội ác dã man đối với đồng bào miền Nam ta.

Vì vậy nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân ta lúc này là phải nâng cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, quyết tâm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiên tới hoà bình thống nhất Tổ quốc.

Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi”2.

Nhìn lại diễn biến và kết quả của đợt 2 và đợt 3 Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 tuy “chúng ta đã mắc một số khuyết điểm, chủ quan trong việc đánh giá tình hình cho nên ta đã đề ra yêu cầu chưa thật sát với tình hình thực tế lúc đó nhất là sau đợt Tổng tiến công Tết Mậu Thân ta đã không kịp thời kiểm điểm và rút kinh nghiệm ngay, nhằm đánh giá lại tình hình và có chủ trương chuyển hướng kịp thời”3, nên để mất đất, mất dân, lực lượng vũ trang, cơ sở cách mạng và vật chất chiến tranh bị tổn thất nghiêm trọng, gây những khó khăn rất lớn cho phong trào đấu tranh năm 1969; song, thắng lợi trong đợt 2 và 3 tổng tiến công và nổi dậy cũng rất lớn, ta không chỉ tiêu diệt được một lực lượng chiến lược của Mỹ - ngụy, mà điều quan trọng là ta đã đánh bồi liên tiếp, đập tan ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Tổng thống Mỹ Giônxơn phải tuyên bố chấm dứt hoàn toàn cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, chấp nhận đoàn đại biểu của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam là một trong bốn thành viên chính thức tham gia hoà đàm tại Pari. Những thắng lợi này góp phần cho ta thế mạnh chủ động đấu tranh ở Hội nghị Pari.
_____________________________________
1. Tuyên bố của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Báo Quân đội nhân dân, số 2675, ngày 3-11-1968.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr.407.
3. Nghị quyết Trung ương lần thứ 21 (tháng 7-1973).

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #78 vào lúc: 22 Tháng Tư, 2010, 09:08:40 pm »


CHƯƠNG 22
KẾT HỢP GIỮA TIẾN CÔNG QUÂN SỰ VỚI ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO,
TẠO THẾ, TẠO LỰC, TẠO THỜI CƠ CHO TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY MẬU THÂN 1968,
BUỘC MỸ PHẢI ĐẾN HỘI NGHỊ PARI


I- ĐẤU TRANH NGOẠI GIAO CÔ LẬP KẺ THÙ,
TRANH THỦ SỰ ĐỒNG TÌNH VÀ ỦNG HỘ CỦA NHÂN DÂN THẾ GIỚI

“Thêm bạn, bớt thù” là chính sách đối ngoại xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta trong kháng chiến cũng như trong hoà bình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Trong cuộc chiến đấu chính nghĩa của mình, nhân dân Việt Nam được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa, nhân dân các nước Á, Phi, Mỹ Latinh và nhân dân toàn thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ. Dựa vào sức đoàn kết chiến đấu của mình, đồng thời dựa vào sức ủng hộ của nhân dân thế giới, nhân dân Việt Nam kiên quyết chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược và nhất định sẽ thu được thắng lợi hoàn toàn”1.

Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, các hoạt động ngoại giao của ta đã được triển khai tích cực, nhịp nhàng; phối hợp chặt chẽ giữa ngoại giao nhà nước với ngoại giao nhân dân, giữa ngoại giao của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với ngoại giao của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Trong lịch sử cách mạng của các nước, chưa có một tiền lệ nào như thế, cùng một lúc có hai hệ thống hoạt động đối ngoại đều phục vụ cho một mục tiêu: độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Thông qua các phương tiện báo chí, phát thanh, các cơ quan đại diện ngoại giao, các cuộc hội nghị, hội thảo quốc tế, các đoàn cán bộ của Bộ Ngoại giao, của tổ chức công đoàn, nhà báo, thanh niên, phụ nữ, tổ chức hoà bình... được cử đi công tác nước ngoài đều làm tốt nhiệm vụ tuyên truyền tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến, đồng thời vạch mặt kẻ thù xâm lược làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ và cảm thông sâu sắc với cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam, đoàn kết với Việt Nam chống lại kẻ thù bằng mọi hình thức rất phong phú và đa dạng.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta diễn ra trong bối cảnh các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào cộng sản, công nhân quốc tế đang có sự bất đồng về đường lối và chia rẽ sâu sắc. Phải trải qua một quá trình vận động, thuyết phục có lý có tình và nhất là trong đường lối, chính sách của Đảng ta luôn xác định cuộc kháng chiến của ta là cuộc chiến tranh cách mạng vừa để giải phóng dân tộc, vừa cống hiến vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Với đường lối kháng chiến tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính, đồng thời có chủ trương đúng đắn trong việc tăng cường mở rộng và củng cố các quan hệ hợp tác, giúp đỡ quốc tế, nhân dân ta luôn được các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa đồng tình ủng hộ cả về tinh thần và vật chất. Các nước xã hội chủ nghĩa luôn đứng bên cạnh nhân dân Việt Nam, ủng hộ lập trường chính nghĩa, cổ vũ mọi thắng lợi của nhân dân ta, lên án mạnh mẽ đế quốc Mỹ xâm lược. Từ khi Mỹ ồ ạt đem quân viễn chinh vào miền Nam và dùng hải quân và không quân ném bom, bắn phá miền Bắc nước ta thì các nước xã hội chủ nghĩa lại tích cực giúp đỡ nước ta về mọi mặt nhiều hơn, nhất là sự giúp đỡ to lớn, có hiệu quả của Liên Xô, Trung Quốc.

Ngày 22-7-1966, Trung Quốc đã tổ chức một cuộc mít tinh lớn tại quảng trường Thiên An Môn để ủng hộ Việt Nam. Tại cuộc mít tinh, Chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ đã trịnh trọng tuyên bố. “Chính phủ Trung Quốc nhắc lại rằng, đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam tức là xâm lược Trung Quốc. Bảy trăm triệu nhân dân Trung Quốc là hậu phương vững chắc của nhân dân Việt Nam. Đất đai rộng lớn của nhân dân Trung Quốc là hậu phương đáng tin cậy của nhân dân Việt Nam. Nhân dân Trung Quốc hạ quyết tâm, đã sẵn sàng về mọi mặt, sẽ có những hành động bất cứ lúc nào và ở đâu mà nhân dân hai nước Việt - Trung cho là cần thiết để cùng nhau đánh bại xâm lược Mỹ”2. Những năm đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ, Đài phát thanh Bắc Kinh đã dành một thời lượng lớn tuyên truyền cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược của nhân dân ta bằng nhiều thứ tiếng, góp phần làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ về cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta.

Ngày 17-8-1966 tại Liên Xô, 6.000 đại biểu nhân dân Thủ đô Mátxcơva đã họp mít tinh nhiệt liệt hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cuộc mít tinh đã thông qua nghị quyết khẳng định: ý chí của Chính phủ Liên Xô tiếp tục giúp đỡ và ủng hộ tất cả mọi sự cần thiết để giúp nhân dân Việt Nam anh em đẩy lùi sự xâm lược của bọn đế quốc là hoàn toàn phù hợp với tình cảm thiêng liêng nhất của tất cả nhân dân Liên Xô.

Điện của Thủ tướng nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên Kim Nhật Thành gửi Chính phủ ta nêu rõ: nhân dân Triều Tiên đã có mọi biện pháp để tích cực ủng hộ nhân dân Việt Nam hơn nữa dưới mọi hình thức, kể cả việc gửi quân tình nguyện, cho đến khi nhân dân Việt Nam hoàn toàn tiêu diệt được bọn đế quốc xâm lược Mỹ.

Cuba là nước đầu tiên trên thế giới đã tiếp nhận đoàn đại biểu thường trực của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và là nước đầu tiên đã nâng đoàn lên thành một cơ quan đại diện ngoại giao chính thức. Cuba cũng là nước đầu tiên thành lập Uỷ ban đoàn kết với nhân dân Việt Nam. Đầu năm 1966, Thủ tướng Phiđen Caxtơrô đã tuyên bố: “Vì Việt Nam, chúng tôi sẵn sàng hiến dâng đến cả dòng máu của mình”3.

Ngay ở bên cạnh nước ta, nhân dân hai nước Campuchia và Lào hoàn toàn ủng hộ nhân dân Việt Nam chiến đấu. Theo sáng kiến của Việt Nam và Campuchia, Hội nghị nhân dân Đông Dương họp tại Phnôm Pênh từ ngày 1 đến ngày 9-3-19654, nhằm đoàn kết nhân dân ba nước Đông Dương chống đế quốc Mỹ. Hội nghị đã nhấn mạnh “Sự cần thiết phải củng cố tình đoàn kết chân thành và bền vững của các dân tộc Đông Dương”. Từ đó, nhiều lần Quốc trưởng Xihanúc và Chính phủ Campuchia tuyên bố kiên quyết chống đế quốc Mỹ xâm lược, ủng hộ mạnh mẽ nhân dân Việt Nam. Nhân dân Lào và các lực lượng yêu nước Lào mà nòng cốt là Pa thét Lào, đang kiên cường chiến đấu chống lại đế quốc Mỹ và tay sai, không ngừng cổ vũ và giúp đỡ Việt Nam chống Mỹ. Tình đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân ba nước ở Đông Dương ngày càng được củng cố vững chắc, tăng thêm sức mạnh để chống kẻ thù chung là đế quốc Mỹ xâm lược.

Cùng với các cuộc mít tinh, biểu tình ủng hộ nhân dân ta, phong trào ghi tên tình nguyện sang Việt Nam sát cánh chiến đấu cùng quân, dân ta chống đế quốc Mỹ ngày càng mở rộng tại nhiều nước Liên Xô, Trung Quốc, Triều Tiên, Anbani, Cuba, Hunggari, Cộng hoà Dân chủ Đức... Ngoài ra các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, thiếu niên tại các nước anh em đã tổ chức nhiều đợt đi lao động, biểu diễn văn nghệ, hoà nhạc, chiếu phim, quyên tiền để ủng hộ nhân dân Việt Nam. Nhiều cơ quan, đoàn thể đã tổ chức lấy chữ ký và kiến nghị phản đối cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ đang tiến hành ở Việt Nam. Điều đặc biệt cảm động là tại các nước bạn Liên Xô, Trung Quốc, Triều Tiên, Cộng hoà Dân chủ Đức, Hunggari, Cuba... nhiều quân nhân và thanh niên nam, nữ đã tình nguyện hiến máu gửi tặng nhân dân ta.
________________________________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 5-6.
2. Dẫn theo Sự thật về những lần xuất quân của Trung Quốc và quan hệ Việt – Trung, Nxb. Đà Nẵng, 1996, tr.60.
3. Báo Quân đội nhân dân số ra ngày 2-11-1966.
4. Tham gia hội nghị gồm có đoàn đại biểu Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Cộng đồng xã hội bình dân Campuchia, Neo Lào Hắcxạt, lực lượng trung lập yêu nước Lào và các đoàn thể, tổ chức khác thuộc ba nước.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #79 vào lúc: 22 Tháng Tư, 2010, 09:09:52 pm »


Từ ngày 4 đến ngày 6-7-1966, các nước tham gia Hiệp ước Vácxava họp tại Bucarét, Thủ đô Rumani. Dự hội nghị có các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các vị Bộ trưởng Bộ Ngoại giao và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng các nước hội viên: Liên Xô, Bungari, Hunggari, Cộng hoà Dân chủ Đức, Ba Lan, Rumani và Tiệp Khắc. Sau khi nghe thông báo về tình hình Việt Nam, hội nghị đã ra bản tuyên bố quan trọng: căm phẫn lên án tội ác của bè lũ Giônxơn, nhất trí tăng cường ủng hộ và giúp đỡ Việt Nam về mọi mặt, sẵn sàng gửi người tình nguyện sang giúp nhân dân Việt Nam chống Mỹ.

Đi đôi với việc ủng hộ về chính trị, tinh thần, nhân dân ta còn nhận được sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc và các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa về vật chất và cố vấn, chuyên gia kỹ thuật. Liên Xô, nước có nền công nghiệp quốc phòng hùng mạnh đã viện trợ cho Việt Nam ngoài một số vũ khí thông thường còn phần lớn là những vũ khí hiện đại như máy bay, xe tăng, xe bọc thép, tên lửa, pháo phòng không, pháo binh... Trung Quốc viện trợ cho ta chủ yếu là vũ khí bộ binh, quân trang, quân dụng, lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, một phần nhiên liệu, phương tiện vận tải và một số xe quân sự, pháo và đạn pháo... Theo thoả thuận giữa ta và bạn, một số đơn vị công binh và pháo binh của Trung Quốc đã sang giúp Việt Nam nâng cấp, sửa chữa, mở rộng thêm và bảo vệ các tuyến đường giao thông trên bộ thuộc các tỉnh biên giới giáp Trung Quốc. Từ cuối năm 1966 đến đầu năm 1969, một số chi đội phòng không của quân đội Trung Quốc đã luân phiên nhau sang tham gia chiến đấu chống máy bay Mỹ, bảo vệ các tỉnh phía bắc Việt Nam giáp với biên giới Việt - Trung. Khi sự bất hoà trong phong trào cộng sản quốc tế và các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là giữa Liên Xô và Trung Quốc ảnh hưởng đến cuộc kháng chiến của nhân dân ta, Đảng và Chính phủ ta đã cố gắng làm hết sức mình, góp phần hàn gắn những mối bất đồng để bạn cùng nhất trí với ta về những chủ trương quân sự và tiếp tục viện trợ về vật chất, vũ khí, trang bị kỹ thuật cho ta. Trung Quốc đã đồng ý cho quá cảnh một khối lượng lớn hàng quân sự của Liên Xô viện trợ cho ta qua biên giới Xô - Trung và vận chuyển bằng đường sắt qua lãnh thổ Trung Quốc vào Việt Nam. Cuba là nước xã hội chủ nghĩa duy nhất ở Tây bán cầu đã nhiệt tình giúp đỡ ta về thiết bị xây dựng đường sá. Được sự thoả thuận giữa ta và Triều Tiên, năm 1967, một số phi công của Quân giải phóng nhân dân Triều Tiên cũng được cử sang Việt Nam để huấn luyện, học tập kinh nghiệm và tham gia chiến đấu cùng với các phi công Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong một số lần xuất kích, các phi công Triều Tiên đã lập công bắn rơi được máy bay Mỹ. Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên còn cử một số đoàn cán bộ sang Việt Nam, vào chiến trường Tây Nguyên, Khu V nghiên cứu, giúp ta làm công tác binh địch vận đối với quân Nam Triều Tiên.

Tất cả sự giúp đỡ quốc tế to lớn và quý báu trên đã được nhân dân và quân đội ta khai thác và sử dụng hiệu quả, góp phần rất quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược không những để giành lại độc lập cho nhân dân ta mà còn góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc của nhân dân yêu chuộng tự do, hoà bình và công lý trên thế giới. Song không phải nhân dân các nước ngay từ đầu đã nhận thức được đầy đủ vấn đề này. Mặc dù họ cũng chống chủ nghĩa đế quốc, nhưng có nước lại chấp nhận chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ, để cho Mỹ sử dụng nước mình làm căn cứ đánh phá Việt Nam. Có những nước họ cũng nghe nói đến Việt Nam, đến chiến thắng Điện Biên Phủ, nhưng cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam thì họ chưa hiểu bao nhiêu, thậm chí có người còn ngờ vực hỏi nhau: Mỹ giàu thế, đi xâm lược Việt Nam là nước chậm phát triển làm gì? Vì vậy, công tác đối ngoại và đấu tranh ngoại giao của ta không những có nhiệm vụ vạch mặt xâm lược của Mỹ mà còn thuyết phục dư luận thế giới, làm cho nhân dân các nước thấy rõ Mỹ không chỉ là kẻ thù của Việt Nam mà còn là kẻ thù chung của nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới. Cùng với việc tuyên truyền vạch mặt kẻ thù, nêu cao thiện chí hoà bình và hữu nghị, nhân dân ta tin tưởng và khẳng định mình có thể đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược bằng những cuộc tiến công quân sự và đấu tranh chính trị, binh vận, qua đó làm cho nhân dân thế giới, nhất là các nước trong thế giới thứ ba thấy rõ đế quốc Mỹ không có gì ghê gớm, chúng cũng có thể bị đánh bại, mà mạnh dạn đấu tranh.

Những chiến thắng quân sự trên chiến trường của nhân dân Việt Nam qua cuộc đọ sức với đế quốc Mỹ mùa khô 1965-1966, 1966-1967 đã tác động đến tinh thần và lòng tin của nhân dân thế giới, cùng với nó, trên mặt trận đấu tranh ngoại giao chúng ta hoạt động có hiệu quả cho nên đã tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới, và đã tập hợp được các nước Á, Phi, Mỹ Latinh, các nước Tây Âu, Bắc Âu rồi cả sang Bắc Mỹ, ngay trong lòng nước Mỹ vào một mặt trận chống Mỹ, ủng hộ Việt Nam.

Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam là thành viên chính thức của phong trào Không liên kết, của thế giới thứ ba.

Tại các hội nghị đoàn kết Á - Phi rồi đoàn kết Á - Phi - Mỹ Latinh, các nước đều ủng hộ Việt Nam, lên án Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn. Tiếng nói của Đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được hầu hết các nước đồng tình, ủng hộ.

Tháng 6-1965, Uỷ ban Công đoàn quốc tế đoàn kết với lao động và nhân dân miền Nam Việt Nam đấu tranh chống Mỹ xâm lược (được lập ra từ cuối năm 1963) đã tổ chức khoá họp lần thứ hai tại Thủ đô Hà Nội. Dự họp có đại biểu công đoàn 31 nước Á, Phi, Mỹ Latinh, châu Âu và châu Đại Dương. Hội nghị đã quyết định lấy ngày thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam 20-12 làm “Ngày Quốc tế đoàn kết với lao động và nhân dân miền Nam Việt Nam”.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM