Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 04:01:31 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5  (Đọc 70872 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #60 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2010, 11:44:40 pm »


Trước thất bại liên tiếp trên chiến trường Đường 9 - Khe Sanh, Bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở Nam Việt Nam phải đưa Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 - lực lượng cơ động mạnh nhất của chúng ra Đường 9 cùng với Lữ đoàn dù 3 ngụy tổ chức hành quân giải toả cho Tà Cơn.

Việc kéo được một sư đoàn Mỹ, một lữ đoàn ngụy và một khối lượng lớn phương tiện chiến tranh ra Đường 9 - bắc Quảng Trị trong thời gian cuối tháng 3 đầu tháng 4-1968, đã tạo điều kiện thuận lợi cho quân và dân toàn Miền tổng tiến công và nổi dậy đợt 2 giành thêm những thắng lợi mới. Tuy nhiên, với lực lượng 2 vạn tên địch cùng một lúc ra Đường 9 - Quảng Trị đã làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch ở khu vực chiến sự nóng bỏng này. Cuối tháng 3-1968, sau khi Sư đoàn 325C được lệnh hành quân vào chiến trường Tây Nguyên, trên chiến trường Đường 9 - Quảng Trị chỉ còn hai sư đoàn bộ binh (304, 320), hai trung đoàn pháo binh mặt đất và cao xạ (45, 241), hai trung đoàn bộ binh (27, 270) và Trung đoàn đặc công 126 cùng một số đơn vị hậu cần, kỹ thuật quân số hao hụt nhiều sau hai tháng liên tục chiến đấu. Lực lượng Mỹ có mặt ở Quảng Trị tương đương ba sư đoàn (chưa kể các đơn vị pháo binh thiết giáp) hơn 60.000 quân, trong đó 2/3 là lính Mỹ.

Bộ Tư lệnh chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh quyết định điều chỉnh lực lượng: rút một nửa quân số đang vây lấn Tà Cơn sang cơ động đánh địch dọc Đường 9 làm chậm bước tiến của địch. Các bộ phận còn lại tổ chức chấn chỉnh đội hình vây lấn giữ vững trận địa, tích cực đánh quân đổ bộ giải toả, triệt để cô lập cứ điểm Tà Cơn.

Sáng ngày 1-4-1968, trong lúc các đơn vị đang khẩn trương hoàn thiện mọi công tác chuẩn bị đánh địch dọc khu vực Đường 9 và vây lấn Tà Cơn, thì Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 Mỹ và Lữ đoàn dù số 3 ngụy, cùng các đơn vị lính thuỷ đánh bộ ở Đường 9 mở cuộc hành quân “Ngựa bay” (“Lam Sơn 207”) hòng cứu nguy cho đồng bọn ở Khe Sanh.

Với lực lượng 30.000 tên chia làm bốn mũi: mũi thứ nhất đổ xuống Làng Cát, Làng Khoai, Húc Thượng, Húc Hạ cách Khe Sanh 18 km về phía đông; mũi thứ hai đổ xuống Cà Lu, Tân Lâm rồi hành quân theo Đường 9 lên Khe Sanh; mũi thứ ba đổ bộ xuống phía bắc Khe Sanh nhằm đánh úp các lực lượng vây lấn của ta; mũi thứ tư do Lữ đoàn dù 3 ngụy đảm nhiệm đổ xuống Ku Bốc và bắc Làng Vây bảo vệ mặt phía bắc và tây bắc cuộc hành quân của quân Mỹ. Tuy làm nhiệm vụ giải vây cho Khe Sanh, nhưng lính kỵ binh bay Mỹ cũng chuẩn bị phòng thủ khá chu đáo, đổ bộ xuống nơi nào chúng đều đưa lô cốt đúc sẵn xuống đó, để phòng ngừa các đợt tấn công của ta. Cùng với việc đổ quân giải toả, địch tập trung hoả lực pháo binh bắn phá hết sức khốc liệt cả vòng trong, vòng ngoài, phía tiền duyên cũng như hậu phương chiến lược. Trong những ngày này, địch dùng máy bay chiến thuật ném bom chỉ cách trung tâm Tà Cơn 400m, còn máy bay B52 thì phong toả vòng ngoài từ 2 đến 3 km. Địch đã gây cho ta nhiều tổn thất về người và phương tiện, phá huỷ nhiều mạng thông tin, làm mất liên lạc ở một số đơn vị trong nhiều giờ, thậm chí trong nhiều ngày.

Bên cạnh việc gia tăng áp lực ở nhiều nơi, quân Mỹ chuyển từ đánh ngày sang đánh đêm, chiếm được một số trận địa chốt của ta, làm hàng chục chiến sĩ thương vong.

Để khắc phục khó khăn, lúng túng ban đầu, cán bộ các cấp từ mặt trận xuống đến tiểu đoàn đã nhanh chóng xốc lại đơn vị ngay trên chiến hào diệt giặc, tổ chức đánh thí điểm lấy lại niềm tin cho cán bộ, chiến sĩ. Ngày 5-4 tại điểm cao 400, Tiểu đoàn 4 (Trung đoàn 24) tập kích bất ngờ một đại đội Mỹ, loại khỏi vòng chiến đấu gần 100 tên. Trưa ngày 7-4, một tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn dù số 3 ngụy đổ quân xuống điểm cao 542 và 567 (tây bắc Làng Vây) bị pháo binh ta bắn trúng đội hình làm mất sức chiến đấu hai đại đội địch. Ngày 10-4, Trung đoàn 24 tiến công Tiểu đoàn 8 (Lữ đoàn dù 3 ngụy) ở điểm cao 400, diệt gần 100 tên trong đó có tên Thiếu tá Tham mưu trưởng lữ đoàn. Ngày 15-4, Tiểu đoàn 8 (Trung đoàn 66) ém quân ở vị trí có lợi, bất ngờ tập kích vào hai đại đội Mỹ ở điểm chốt 622 loại khỏi vòng chiến đấu hơn 100 lính kỵ binh Mỹ.

Cuối tháng 4-1968, mặc dù công việc ứng cứu giải toả cho Khe Sanh chưa thực hiện được, nhưng do bị thiệt hại về sinh lực và phương tiện, nên Mỹ - ngụy buộc phải kết thúc cuộc hành quân “Ngựa bay”. Địch đã đẩy được phần lớn lực lượng vây lấn của ta ra xa, vòng vây Tà Cơn được nới lỏng, chúng thay được quân. Lúc này hình thái phòng ngự Khe Sanh, địch vẫn lấy Tà Cơn làm trung tâm và được tăng cường lực lượng gồm hai trung đoàn lính thuỷ đánh bộ, hai tiểu đoàn kỵ binh không vận, đồng thời chúng chiếm thêm các cao điểm quan trọng như 689, 552, 471, Ku Bốc, Làng Khoai. Tuy nhiên, toàn bộ hướng tây Tà Cơn địch bỏ trống, chúng không chiếm được vị trí khống chế nào.

Đầu tháng 5-1968, để hoàn thành nhiệm vụ được giao trong đợt 2 tổng tiến công và nổi dậy toàn Miền là: “Tiếp tục vây hãm Khe Sanh, kìm giữ và diệt địch ở Đường 9”, Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh chiến dịch họp quyết định: tập trung lực lượng, chủ động mở các trận tiến công nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch, nhanh chóng khôi phục và củng cố lại thế trận vây lấn Tà Cơn, tạo thế uy hiếp mạnh hơn nữa, buộc địch phải đưa lực lượng lên giải toả lần thứ hai hoặc phải rút chạy, tạo điều kiện cho Trị - Thiên - Huế tiến công và nổi dậy.

Thực hiện nhiệm vụ trên, ngày 15-5-1968, sau khi được Bộ tăng cường Sư đoàn bộ binh 308 cho mặt trận, Bộ Tư lệnh chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh giao nhiệm vụ cho các đơn vị ở hướng tây: đẩy mạnh đánh cắt Đường 9 (đoạn từ Ku Bốc đến Rào Quán), đưa Khe Sanh trở lại tình trạng cô lập về đường bộ, buộc địch phải ra giải toả, để ta tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch ngoài công sự, siết chặt vòng vây ở Tà Cơn, buộc chúng phải rút lực lượng ở nơi khác lên giải toả.

Với phương châm đánh địch ngoài công sự là chủ yếu, kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa, tạo điều kiện đánh lớn, ngày 19-5, Tiểu đoàn 7 (Trung đoàn 66) tổ chức phục kích phía tây căn cứ Tà Cơn, tiêu diệt một đại đội lính thuỷ đánh bộ Mỹ, thiêu huỷ ba xe M113 khi chúng hành quân sục sạo lực lượng ta. Địch tập trung hai tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ hành quân ra hướng tây nam Ché Riêng nhằm đẩy lực lượng ta ra xa. Sau ba ngày (19, 20, 21) hành quân đánh phá quyết liệt, quân Mỹ chẳng những không đẩy được lực lượng vây lấn của ta, mà ngược lại chúng còn bị tiêu hao lớn buộc phải co về căn cứ Tà Cơn. Ngày 28-5 Trung đoàn 102 (Sư đoàn 308 ), sử dụng Tiểu đoàn 8 đánh trận mở màn ở Làng Cát (cách Rào Quán 1 km về phía nam), diệt hơn 100 tên địch. Ngày 31-5, Trung đoàn 102 tiếp tục cho Tiểu đoàn 7 tiến công Làng Cát lần thứ hai. Trận đánh diễn ra hết sức quyết liệt. Quân Mỹ dựa vào phi pháo yểm trợ và lô cốt đúc sẵn chống trả các đợt xung phong của ta. Mặc dù bị thương vong cao (có đại đội mất gần 1/3 quân số), nhưng sau hai giờ chiến đấu kiên cường, ta diệt hơn 100 tên địch, buộc hai đại đội Mỹ chốt giữ Làng Cát phải gọi quân tăng viện...
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #61 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2010, 11:45:39 pm »


Trong khi Sư đoàn 304 và 308 đẩy mạnh hoạt động ở Tà Cơn - Khe Sanh - Đường 9, thì ở hướng đông Sư đoàn 320 và các đơn vị phối thuộc vừa chiến đấu diệt địch trên Đường 9 vừa đánh tàu trên sông Cửa Việt. Đầu tháng 5-1968, do sự chuẩn bị tác chiến chu đáo, sử dụng các hình thức chiến thuật linh hoạt, táo bạo, các lực lượng vũ trang hướng đông đã đánh bại liên tiếp các cuộc hành quân phản kích của địch, diệt hàng trăm tên, đánh chìm hàng chục tàu chở đầy hàng hoá. Tiêu biểu nhất trong đợt hoạt động này là trận đánh trên bãi cát Gio Hà (gần Cửa Việt) chiều ngày 2-5 của Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 48 ) và Tiểu đoàn 6 (Trung đoàn 52, Sư đoàn 320) đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 4) lính thuỷ đánh bộ Mỹ.

Bị đánh đau ở Đông Hà, Cửa Việt và bị vây ép mạnh ở Tà Cơn, Cốtxman, Tư lệnh Sư đoàn 3 lính thủy đánh bộ Mỹ quyết định dùng Trung đoàn 4 và Trung đoàn 9 lính thuỷ đánh bộ mở cuộc hành quân “Scốtlen II” giải toả cho Khe Sanh.

Quân ta tiến công tiêu diệt một loạt các vị trí án ngữ phía tây Tà Cơn và dọc Đường 9, cắt đứt đường bộ, khống chế đường không, Tà Cơn hoàn toàn bị cô lập. Mọi cố gắng của quân Mỹ trên chiến trường Đường 9 - bắc Quảng Trị đều vô vọng. Đầu tháng 6, chúng đổ hai tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ xuống Tà Ri, Tà Quan và Pa Trang, Húc Cốt lập bàn đạp chuẩn bị giải toả Tà Cơn, Khe Sanh. Nhưng lính Mỹ chưa kịp chấn chỉnh đội hình đã bị Sư đoàn 308 tiến công. Tại Phu Nhòi, Tông Cháy, qua ba ngày tiến công liên tục, Trung đoàn 88 đã đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 3 lính thuỷ đánh bộ, số còn lại co cụm kêu cứu. Ngày 19-6, Cốtxman vội vã ra lệnh bốc toàn bộ quân Mỹ ra khỏi Ka Long, Pa Trang, điểm cao 835 về Tà Cơn, Đường 9, Đông Hà cố thủ.

Trước sức tiến công mạnh mẽ của ta, địch chấm dứt cuộc hành quân “Scốtlen II” và ngày 26-6-1968, Abram, Tổng chỉ huy quân đội Mỹ ở Nam Việt Nam đã phải ra lệnh rút bỏ tập đoàn cứ điểm Khe Sanh để bảo toàn lực lượng. Nhưng mãi 11 ngày sau khi có lệnh rút lui quân Mỹ sống sót mới rút khỏi Tà Cơn. Ngày 10-7, Đường 9 từ Cà Lu lên biên giới Việt - Lào dài hơn 40 km được hoàn toàn giải phóng. Sau 170 ngày đêm chiến đấu liên tục và vô cùng anh dũng, Quân giải phóng mặt trận Đường 9 - bắc Quảng Trị đã chiến thắng oanh liệt, loại khỏi vòng chiến đấu 11.000 tên địch (có 2/3 là quân Mỹ), bắn rơi 197 máy bay, bắn chìm, bắn cháy 80 tàu vận tải, phá huỷ 78 xe các loại, 46 khẩu pháo. Chiến thắng Khe Sanh làm cho “cả thế giới như vừa chứng kiến một câu chuyện thần kỳ: Quân giải phóng miền Nam vừa vây hãm một lực lượng lớn quân Mỹ ở Khe Sanh ròng rã 170 ngày đêm và cuối cùng thắng chúng. Lá cờ cách mạng cắm giữa Khe Sanh hôm nay báo tin thắng lợi của cả một dân tộc, của ý chí Việt Nam ta. Mặt trận Khe Sanh được ghi vào lịch sử là một mặt trận anh hùng. Cuộc chiến đấu của các chiến sĩ và đồng bào ta ở Khe Sanh là cuộc chiến đấu có một không hai tượng trưng cho thế mạnh, lực lượng của cách mạng miền Nam đang xốc tới. Hai tiếng Khe Sanh ngân cao và vang xa mãi như tiếng kèn chiến thắng hùng tráng của thời kỳ mới trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước”1.

Chiến thắng Khe Sanh là chiến thắng có ý nghĩa chiến lược đạt đến trình độ nghệ thuật điêu luyện, nó không những tạo thêm thời cơ và yếu tố bất ngờ cho cuộc tiến công và nổi dậy toàn miền Nam, mà còn tượng trưng cho thế và lực của cách mạng miền Nam đang thời kỳ thừa thắng xốc tới; đế quốc Mỹ đang thời suy yếu phải chấp nhận thua và từng bước xuống thang chiến tranh. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá “thắng lợi của ta ở Khe Sanh tỏ rõ mưu lược và sức mạnh vô địch của quân, dân và cán bộ ta, nó góp phần xứng đáng vào thắng lợi to lớn của miền Nam từ đầu xuân đến nay. Cùng với những thắng lợi của ta ở các chiến trường khác, nó mở đường cho những thắng lợi to lớn hơn nữa”2.

Cùng với chiến thắng Khe Sanh oanh liệt, cuộc tổng tiến công và nổi dậy đợt 2 đã đánh bồi một đòn nặng vào sinh lực và ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, quân và dân ta đã đẩy địch lún sâu vào thế thua, buộc Tổng thống Mỹ L.Giônxơn ngày 13-5-1968 phải chấp nhận cử đại diện của Mỹ đến Pari, mở đầu cuộc đàm phán hai bên giữa Mỹ với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Sau đợt tổng tiến công tháng 5, Oétmolen thú nhận “Họ (ta) đã đạt được mục tiêu là làm cho phía Mỹ phải đơn phương xuống thang ngừng ném bom, đình chỉ việc tăng quân và làm hỏng một chiến lược đánh mạnh và trong quá trình đó làm cho người Mỹ phải đến bàn hội nghị, trong khi đó nhiều người Mỹ cứ tưởng là Chính phủ Mỹ đã bắt địch đến hội nghị”3.
_____________________________________
1. Xã luận báo Nhân Dân số ra ngày 27-6-1978.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập. Sđd, t. 12, tr. 369.
3. Oétmolen: Một quân nhân tường trình, Sđd, tr. 47.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #62 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2010, 11:46:59 pm »


II- TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY THU 1968

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tháng 5-1968 của ta đã diệt nhiều sinh lực và phá hỏng một số lượng lớn phương tiện chiến tranh của địch, đánh bồi một đòn vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Sự thật này đã bóc trần luận điệu lừa bịp dư luận của chính quyền Hoa Kỳ đối với nhân dân Mỹ cũng như nhân dân thế giới là “Việt cộng” và “Bắc Việt Nam” đã “đuối sức hết hơi”, quân đồng minh đã truy kích ráo riết “Việt cộng và Bắc Việt Nam”.

Song song với việc tìm cách làm “yên lòng” dư luận thế giới và nhân dân Mỹ, tại miền Nam Việt Nam, Mỹ - ngụy tìm mọi cách tăng cường sức mạnh quân sự hòng giành lại thế chủ động trên chiến trường. Một mặt, lợi dụng lúc quân và dân ta tập trung mọi mặt cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy ở các thành phố, thị xã, địch ráo riết thực hiện kế hoạch “bình định cấp tốc” ở nhiều vùng nông thôn rộng lớn, ra sức bắt lính, đôn quân, tiếp tục chiến tranh. Chỉ tính từ ngày 19- 6-1968, khi Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh tổng động viên đến cuối năm 1968, chính quyền Sài Gòn chẳng những bù đắp đủ cho số quân đã mất, mà còn nâng tổng quân số từ 552.000 (11 sư đoàn, 11 trung đoàn) trong năm 1967 lên 555.000 (12 sư đoàn, 9 trung đoàn) vào cuối tháng 12-19681. Cùng với gia tăng quân ngụy, Mỹ đã chuyên chở một khối lượng lớn vũ khí, đạn dược, phương tiện chiến tranh hiện đại vào Nam Việt Nam để bù đắp số mất mát, hư hỏng qua hai đợt tổng tiến công và nổi dậy của ta, đồng thời thay thế một số chủng loại vũ khí cũ bằng vũ khí hiện đại hơn. Về lực lượng, ngoài số quân thay phiên theo định kỳ hằng tháng (khoảng 54.000 tên/tháng), từ nửa cuối năm 1968, Giônxơn đã quyết định tăng thêm một số đơn vị quân chiến đấu Mỹ và quân các nước phụ thuộc vào miền Nam Việt Nam. Đến cuối năm 1968, tại Nam Việt Nam đã có 535.000 lính Mỹ và 65.791 lính thuộc quân đội các nước phụ thuộc Mỹ, được biên chế trong 9 sư đoàn, 5 lữ đoàn quân Mỹ, 2 sư đoàn và 3 trung đoàn quân các nước phụ thuộc. Mặc dù tinh thần của phần lớn sĩ quan, binh sĩ địch vẫn chưa hết hoang mang dao động, ý chí chiến đấu giảm sút do hậu quả của hai đợt tổng tiến công và nổi dậy của ta nửa đầu năm 1968, song về mặt tổ chức ngụy quân, ngụy quyền chưa tan rã, nên Mỹ và Sài Gòn đã huy động mọi lực lượng và phương tiện chiến tranh hiện có lập lại và củng cố hệ thống phòng thủ các thành phố, thị xã thị trấn, các căn cứ quân sự, hậu cần và các tuyến giao thông huyết mạch. Mặt khác, Mỹ - ngụy khẩn trương tổ chức các cuộc hành quân, sử dụng pháo binh, không quân, đặc biệt là máy bay chiến lược B52 đánh phá các căn cứ và ngăn chặn, đẩy lùi các đơn vị Quân giải phóng ra xa các đô thị, phá kế hoạch chuẩn bị tiến công của ta, hòng giành lại thế chủ động, tạo thêm các thắng lợi về quân sự để phối hợp với hoạt động ngoại giao.

Về phía cách mạng miền Nam, qua hai đợt tổng tiến công liên tục Tết và tháng 5 lực lượng và vũ khí, đạn dược của quân và dân ta đã bị tổn thất nặng, chưa kịp bổ sung. Bên cạnh đó, lực lượng bí mật ém trong nội thành và phần lớn cơ sở - nơi cất giấu vũ khí, trang bị, chỗ đứng chân, nơi xuất phát tiến công cho các đợt tiến công tiếp sau đã bị lộ, bị đánh phá mất gần hết. Đây là những khó khăn rất nghiêm trọng mà ta không dễ gì khắc phục được trong thời gian ngắn.
Tại Sài Gòn, mặc dù thời cơ đã mất, nhưng “Không khí tổng công kích - tổng khởi nghĩa vẫn còn, nhưng có kèm theo tâm lý cay cú ở một số đồng chí muốn tấn công vào Sài Gòn như hai đợt trước”2. Ở mặt trận Quảng - Đà (Khu V) và một số mặt trận khác, do còn giữ được thế và lực còn mạnh, nên Bộ Tư lệnh Khu V đã đề nghị Trung ương cho mở tiếp đợt 3 tổng tiến công và nổi dậy3. Ngược lại, cũng có nhiều nơi xin tạm dừng tiến công để xốc lại đội hình, bổ sung, củng cố lực lượng, vũ khí trang bị...

Nhằm thống nhất chủ trương hoạt động trên chiến trường, ngày 24 và 25-7-1968, Thường trực Quân uỷ Trung ương, gồm các đồng chí: Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Song Hào, Trần Quý Hai họp bàn kế hoạch hoạt động trong Đông - Xuân (1968 - 1969). Ngoài ra, Thường trực Quân uỷ Trung ương còn mời thêm các đồng chí Hoàng Anh, Lê Trọng Tấn, Trần Sâm, Đinh Đức Thiện, Nguyễn Đôn... cùng tham dự cuộc họp.

Sau khi nghe đồng chí Văn Tiến Dũng báo cáo khái quát tình hình ta, địch trên toàn chiến trường miền Nam sau đợt 1 và 2 cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, dự kiến quyết tâm và phương án tác chiến chiến lược Đông - Xuân, các đại biểu tham dự cuộc họp tiến hành thảo luận. Theo ý kiến của đồng chí Lê Duẩn: quân và dân ta phải tập trung mọi cố gắng tiến công Sài Gòn, đồng thời đẩy mạnh tiến công ở nông thôn. Đánh được Sài Gòn thì ta có điều kiện mở phong trào ở vùng nông thôn mạnh hơn. Ngay bây giờ phải đẩy mạnh hoạt động quân sự để mở ra và thúc đẩy phong trào đấu tranh chính trị lên, chính trị sẽ quyết định thắng lợi và phải làm gấp ba lần đợt tháng 5. Để tạo ra bước ngoặt cho cách mạng miền Nam trong năm 1968, cần phải cố gắng diệt cho được 70 - 80% lực lượng dự bị chiến lược của Mỹ - ngụy. Đánh mạnh vào Sài Gòn, còn ở Đà Nẵng thì tuỳ theo khả năng mà đánh ở quy mô thích hợp. Song, dù thế nào cũng phải đẩy mạnh hoạt động ở nông thôn để tạo điều kiện cho đánh lâu dài. Đồng thời, đưa lực lượng dự bị chiến lược của ta vào đứng chân ở Tây Nguyên chờ thời cơ. Để tránh bị bất ngờ, đồng chí Võ Nguyên Giáp đề nghị: phải có phương án dự kiến thời cơ đến trước trong kế hoạch hoạt động Đông - Xuân.

Tiếp đó, tháng 8-1968, Bộ Chính trị họp nhận định: mặc dù những khuyết điểm và nhược điểm của đợt Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân chưa được khắc phục trong đợt Tổng tiến công và nổi dậy trong tháng 5, nhưng những mặt nổi dậy, binh vận, hiệu suất tiến công... lại giảm sút đi nhiều so với trước. Về địch, chúng đang bị giằng xé bởi nhiều mâu thuẫn không thể nào khắc phục được. Chỗ yếu cơ bản của chúng là sự sa sút về tinh thần, sự cô lập về chính trị, tư tưởng thất bại trong sĩ quan và binh sĩ Mỹ - ngụy ngày càng phát triển. Trong khi đó về chiến lược, cách mạng miền Nam “đang ở thế thắng, thế mạnh và có lực lượng mạnh để thực hiện quyết tâm đánh thắng Mỹ trong bất cứ tình huống chiến tranh nào”4. Hơn nữa, xuất phát từ nhận thức tổng công kích - tổng khởi nghĩa là một quá trình tấn công thường xuyên liên tục, trong đó nổi lên những đợt sóng ngày càng mạnh, Bộ Chính trị quyết định mở tiếp đợt 3 tổng công kích - tổng khởi nghĩa nhằm vào các thành phố lớn, mặt trận nông thôn là quan trọng. Đánh cho địch thua to trên các mặt, làm cho địch “thất bại ở ngay nước Mỹ”. Mục tiêu của đợt 3 Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 vẫn được Bộ Chính trị xác định: chiến trường Sài Gòn, Gia Định và miền Đông Nam Bộ, Khu V là hướng phối hợp, trọng điểm là Quảng Đà. Thời gian nổ súng được ấn định vào ngày 17-8, kết thúc vào ngày 28-9-1968.
_____________________________________
1. Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam (1976): Thống kê số liệu trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Tài liệu lưu tại Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng (K4).
2. Lịch sử Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định kháng chiến (1945 - 1975), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1994, tr.532.
3. Thượng tướng Lê Ngọc Hiền: Ghi nhớ về xây dựng kế hoạch và triển khai kế hoạch thực hiện đòn tiến công chiến lược Mậu Thân 1968, in trong Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Sđd, tr. 198.
4. Nghị quyết Hội nghị Bộ Chính trị, tháng 8-1968. Tài liệu lưu tại Thư viện Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #63 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2010, 11:52:20 pm »


Để cụ thể hoá chủ trương mở đợt 3 Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 của Bộ Chính trị, Trung ương Cục miền Nam đã họp Hội nghị lần thứ 8 quyết định: động viên sự nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân phát huy thắng lợi to lớn đã giành được, quyết tâm khắc phục mọi khó khăn, ra sức tăng cường lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang của ta, tiếp tục đẩy mạnh tổng công kích - tổng khởi nghĩa, đẩy mạnh thế tiến công toàn diện bằng quân sự, chính trị bằng ba mũi giáp công, kết hợp tiến công ngoại giao, đánh bại chiến lược “quét và giữ” và các âm mưu chính trị phản động của địch, tạo nên một bước nhảy vọt mới, kiên quyết giành thắng lợi quyết định trong thời gian tới... ; cụ thể là: “Đánh bại địch trên các chiến trường: đập tan thế phòng thủ, làm chúng mất thế chiếm đóng nông thôn, mất quyền kiểm soát đô thị, chính quyền bên trên tê liệt đổ vỡ, quân Mỹ - ngụy đều bị tổn thất nặng và mất tinh thần chiến đấu. Đánh bại địch trên chiến trường trọng điểm: tiêu hao nặng những sư đoàn cơ động Mỹ và đánh quỵ những lực lượng trù bị ngụy, đập tan các cơ quan đầu não Mỹ - ngụy, đưa nhân dân lên khí thế đấu tranh và khởi nghĩa rộng lớn, giành quyền làm chủ trong nhiều khu vực thành phố, một số thị xã và nhiều thị trấn”1.

Thực hiện quyết định của Bộ Chính trị và Trung ương Cục miền Nam, mặc dù yếu tố bí mật, bất ngờ không còn, song lực lượng pháo binh, đặc công, biệt động đã khắc phục mọi khó khăn, phối hợp chặt chẽ đồng loạt tiến công địch trên 27 thành phố và thị xã, hơn 100 thị trấn, quận lỵ, chi khu quân sự, 47 sân bay các loại, 3 tổng kho hàng hoá quân sự 6 bộ tư lệnh cấp sư đoàn của Mỹ và Sài Gòn.

Trên địa bàn Sài Gòn, Chợ Lớn và các tỉnh miền Đông Nam Bộ, sau khi chống trả với đợt Tổng tiến công và nổi dậy tháng 5 của ta, địch đã tập trung 38 tiểu đoàn Mỹ, 4 tiểu đoàn quân các nước phụ thuộc Mỹ và 61 tiểu đoàn chủ lực ngụy cùng lực lượng địa phương tại chỗ tổ chức hệ thống phòng thủ bảo vệ Sài Gòn, với chiều sâu khoảng 100 km, chia làm ba tuyến. Tuyến trong gồm toàn bộ khu vực nội và ngoại thành, trọng điểm là các cửa ngõ ra, vào thành phố, với lực lượng bố trí khoảng 20 đến 21 tiểu đoàn (chủ yếu là quân ngụy) có nhiệm vụ tổ chức các cuộc hành quân cảnh sát, bảo đảm an ninh và chốt chặn các cửa ngõ ra vào thành phố. Tuyến giữa - còn gọi là “vành đai nút chặn”, gồm toàn bộ khu vực vành đai cao su Biên Hoà, Thủ Dầu Một, nối với Hậu Nghĩa, Long An (quân Mỹ và quân ngụy bố trí xen kẽ nhau) với lực lượng tập trung từ 64 đến 66 tiểu đoàn, để thường xuyên tổ chức các cuộc hành quân càn quét, xúc tát dân, lập vành đai trắng phục vụ cho kế hoạch “bình định cấp tốc”. Tuyến ngoài cùng trải rộng trên khu vực Tây Ninh, Bình Long, Phước Long, có chỗ tiếp cận với một số căn cứ rừng núi của ta do các đơn vị Mỹ đảm nhiệm chủ yếu. Lực lượng sử dụng trên tuyến này có từ 14 đến 16 tiểu đoàn, với nhiệm vụ đánh phá hành lang, căn cứ kho tàng, chỗ đứng chân của lực lượng vũ trang giải phóng. Do địch tập trung lực lượng ưu thế, tổ chức canh phòng cẩn mật, trong khi quân số và vũ khí phương tiện chiến đấu của ta đã bị tổn thất nặng, cơ sở mất gần hết, cơ quan lãnh đạo kháng chiến bị đẩy ra xa thành phố, nên việc tiến công vào các mục tiêu trong nội thành là rất khó khăn.

Đứng trước tình hình gay cấn này, Trung ương Cục, Quân uỷ Miền đã đề nghị và được Bộ Chính trị chấp nhận: trong đợt 3, trọng tâm tiến công được chuyển ra vòng ngoài, hướng chủ yếu là địa bàn hai tỉnh Tây Ninh và Bình Long, các địa bàn còn lại là hướng phối hợp. Riêng với nội đô Sài Gòn - Gia Định và các thành phố, thị xã khác chủ yếu sử dụng lực lượng pháo binh và biệt động, đặc công bí mật luồn sâu tập kích vào các mục tiêu quan trọng, gây mất ổn định trong các cơ quan chỉ huy đầu não của Mỹ - ngụy; đồng thời, đưa cán bộ thâm nhập vào nội thành củng cố, ráp nối lại các cơ sở cũ, xây dựng thêm các cơ sở mới, từng bước củng cố lại phong trào.

Dựa trên chủ trương của Quân uỷ Miền, Bộ chỉ huy Miền đã nhanh chóng xây dựng phương án tác chiến cho đợt 3 là: tập trung chủ lực Miền và lực lượng các địa phương tại chỗ khẩn trương mở chiến dịch tiến công trên địa bàn Tây Ninh - Bình Long, đánh vào tuyến ngoài của hệ thống phòng thủ bảo vệ Sài Gòn - Gia Định từ xa của Mỹ - ngụy, nhằm mục đích: tiêu diệt, tiêu hao một bộ phận sinh lực cơ động của Mỹ - ngụy trực tiếp bảo vệ Sài Gòn, làm tê liệt thành phần quan trọng trong hệ thống phòng thủ Sài Gòn của chúng gồm có hai sư đoàn Mỹ bảo vệ vòng ngoài, lực lượng tổng trù bị ở vùng ven và làm tan rã một bộ phận quân ngụy, nhất là khối bảo an, dân vệ, thanh niên chiến đấu. Các địa phương đẩy mạnh phong trào diệt ác, phá kìm, giành dân, mở rộng vùng làm chủ, thu hút lực lượng và phi pháo của địch ra phía ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động quân sự, chính trị trong nội đô và xung quanh Sài Gòn. Các đơn vị chủ lực vừa tác chiến vừa xây dựng, càng đánh càng mạnh, chú trọng nâng cao trình độ của các trung đoàn mới vào để nhanh chóng thích ứng với chiến trường mới, đồng thời, qua tác chiến tìm hiểu thêm quy luật đối phó của địch và tạo cơ sở chuẩn bị cho các đợt sau.

Để bảo đảm cho việc mở chiến dịch đúng như dự kiến, Bộ chỉ huy Miền lên kế hoạch phân chia lực lượng và nhiệm vụ cụ thể cho các đơn vị như sau: trên hướng chủ yếu (Tây Ninh): Sư đoàn bộ binh 9 được tăng cường Trung đoàn 174 của Sư đoàn bộ binh 5 và một tiểu đoàn đặc công Miền, được một cụm pháo binh chiến dịch chi viện trực tiếp, có nhiệm vụ tiến công căn cứ Trảng Bàng, tổ chức đánh quân tiếp viện đổ bộ đường không xuống khu vực phía bắc và tây bắc thị xã. Sư đoàn 5 (thiếu một trung đoàn) được tăng cường một đại đội đặc công đánh địch trên các tuyến giao thông số 22, 26 và sẵn sàng tổ chức đánh địch phản kích từ phía sau lên. Ở hướng thứ yếu (Bình Long): Sư đoàn bộ binh 7 có nhiệm vụ tiến công tiêu diệt Chi khu Lộc Ninh, sau đó tổ chức đánh quân tiếp viện từ bên ngoài vào; đồng thời, phối hợp và hỗ trợ cho các lực lượng vũ trang tại chỗ phá các ấp chiến lược, diệt ác phá kìm, phát động quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ, mở rộng vùng giải phóng.

Mặc dầu thời gian chuẩn bị mọi mặt rất gấp, nhưng chiến dịch Tây Ninh - Bình Long - trọng điểm hoạt động của đợt 3 Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 ở chiến trường miền Đông Nam Bộ vẫn nổ ra đúng với kế hoạch đã định.
_____________________________________
1. Nghị quyết Hội nghị Trung ương Cục lần thứ 8. Tài liệu lưu tại Thư viện Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, tr. 7.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #64 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2010, 11:55:13 pm »


Ngày 17-8-1968, chiến dịch chính thức mở màn. Tại hướng chủ yếu, các trận tiến công của ta diễn ra như ý định và phát triển tốt. Điển hình là ngay trong đêm 17, Trung đoàn 3 (thiếu một tiểu đoàn) thuộc Sư đoàn 9 bất ngờ tập kích cụm cứ điểm Trà Phí, loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 400 tên Mỹ, phá huỷ, phá hỏng 31 xe cơ giới các loại và 6 khẩu pháo của địch. Cùng thời gian này, một đơn vị đặc công bí mật tập kích căn cứ núi Bà Đen, diệt một đại đội biệt kích, phá huỷ khu trung tâm truyền tin của địch.

Tại khu vực tác chiến được phân công trên trục đường số 22, Trung đoàn 33 (Sư đoàn 5) tổ chức phục kích đánh ba trận liên tục đạt kết quả tốt; trong đó nổi bật nhất là trận ngày 19-8, Trung đoàn diệt một tiểu đoàn bộ binh cơ giới và phá 57 xe bọc thép Mỹ.

Tiếp đó, đêm 21-8, cùng lúc Trung đoàn 3 (Sư đoàn 9) tập kích căn cứ Mỹ tại Trà Phí lần thứ hai, loại khỏi vòng chiến đấu một tiểu đoàn bộ binh cơ giới, phá huỷ, phá hỏng 96 xe quân sự các loại, 14 khẩu pháo và bắn rơi 4 máy bay lên thẳng của Mỹ; Trung đoàn 5 (Sư đoàn 5) tập kích cụm cứ điểm Chà Là lần thứ nhất, diệt và làm bị thương hàng trăm tên Mỹ, bắn cháy, phá hỏng 140 xe quân sự các loại và 13 khẩu pháo, bắn rơi 1 máy bay.

Trên đà thắng lợi, đêm 22 rạng ngày 23-8, Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 33, Sư đoàn 5) tập kích cụm xe quân sự Mỹ ở suối Ông Hùng, phá huỷ 60 xe quân sự, bắn rơi 4 máy bay, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch. Ngày 2-8, Trung đoàn 88 (thiếu một tiểu đoàn) tổ chức phục kích trên đường 22 (đoạn từ Đá Hàng đến Vên Vên thuộc huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh) đánh thiệt hại nặng một đoàn xe cơ giới 147 chiếc (trong đó có 33 xe tăng và xe bọc thép, 15 xe Jeép), loại khỏi vòng chiến đấu 400 tên địch.

Hoà chung với khí thế chiến thắng của các đơn vị chủ lực ở Trà Phí, Chà Là, núi Bà Đen, suối Ông Hùng, đường 22... các đơn vị bộ đội địa phương tỉnh Tây Ninh cùng các tổ, đội đặc công, biệt động đã đột nhập đánh vào một số mục tiêu phía nam Toà thánh và khu vực Thanh Điền rồi trụ lại đánh lui nhiều đợt phản kích của địch, tiêu hao thêm một bộ phận sinh lực và vũ khí của chúng, tạo thế uy hiếp trực tiếp đối với ngụy quân, ngụy quyền địch ở thị xã Tây Ninh.

Cũng trong khoảng thời gian trên, trên hướng thứ yếu chiến dịch ở tỉnh Bình Long, các đơn vị của Sư đoàn bộ binh 7 đã tiến công Chi khu quân sự Lộc Ninh. Địch đưa Trung đoàn 11 thiết giáp và một bộ phận quân của Sư đoàn 1 bộ binh Mỹ đến ứng cứu, giải toả. Do vậy, Sư đoàn 7 phải cùng lúc vừa tổ chức tiến công chi khu, vừa đánh quân địch đến ứng cứu, giải toả, loại khỏi vòng chiến đấu được một bộ phận sinh lực và phương tiện chiến tranh của chúng, song chưa tiêu diệt được mục tiêu đặt ra là Chi khu quân sự Lộc Ninh.

Sau một thời gian liên tục chiến đấu, đêm 31-8, ta quyết định kết thúc bước 1 chiến dịch trên cả hai hướng. Mỗi trung đoàn chỉ để lại một tiểu đoàn để tổ chức “đợt hoạt động đệm”, đại bộ phận còn lại rút ra phía sau củng cố, chấn chỉnh, bổ sung quân số, trang bị, vũ khí đạn dược, chuẩn bị cho đợt 2 chiến dịch.

Do có chủ trương sát với thực tế tình hình, nên 10 ngày đầu tháng 9-1968, ta đã củng cố, điều chỉnh được đội hình của các trung, sư đoàn chiến dịch và mở “đợt hoạt động đệm” có kết quả tốt. Tất cả các tiểu đoàn được phân công trụ lại địa bàn đã tổ chức tập kích trại biệt kích Bến Sỏi, Thiện Ngôn, Cà Tum và đánh các toán quân địch cơ động trên đường số 22, 26 và tây bắc Lộc Ninh, hỗ trợ cho du kích và nhân dân Hiệp Thanh bẻ gãy các trận càn quét phục vụ cho kế hoạch “bình định cấp tốc” của Mỹ - ngụy. Những kết quả trên đã tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ, chiến sĩ của các sư đoàn 9, 5 và 7 cùng lực lượng địa phương và nhân dân Tây Ninh, Bình Long thêm vững tin bước vào thực hiện đợt 2 chiến dịch.

Để tạo điều kiện cho lực lượng vũ trang và nhân dân các địa phương nổi dậy phá ấp, phá kìm, mở rộng quyền làm chủ, trên hướng chủ yếu Tây Ninh, ta đã chủ động chuyển khu vực tác chiến chủ yếu sang phía đông và đông nam, đồng thời đánh mạnh trên khu vực phía tây và tây nam. Do công tác tổ chức chặt chẽ, bố trí và sử dụng lực lượng hợp lý, nên ngày 10-9, các đơn vị nổ súng mở màn đợt 2 chiến dịch đúng ý định và phát triển tốt.

Ngày 12-9, Trung đoàn 2 (Sư đoàn 9) tập kích cụm quân Mỹ tại Lâm Vồ lần thứ hai, làm thiệt hại nặng một tiểu đoàn bộ binh cơ giới hỗn hợp, phá huỷ, phá hỏng 58 xe quân sự (trong đó có 39 xe bọc thép), 14 khẩu súng cối, bắn rơi 7 máy bay. Cùng ngày, trên mặt trận đường 22, Trung đoàn 88 (Sư đoàn 5) tổ chức phục kích và đánh phản kích, loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 350 tên địch, 46 xe quân sự các loại, bắn rơi 6 máy bay lên thẳng.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #65 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2010, 11:55:45 pm »


Trên mặt trận đường 26, ngày 16-9, Trung đoàn 174 (Sư đoàn 5) phục kích bất ngờ chặn đánh một đơn vị bộ binh cơ giới đang cơ động, diệt và làm bị thương hơn 200 tên, bắn cháy 26 xe quân sự (có 9 xe bọc thép), 5 máy bay trực thăng vũ trang hộ tống của địch. Cùng ngày, Trung đoàn 5 (Sư đoàn 5) thực hành trận tập kích căn cứ Bến Củi (Bến Cát) lần thứ nhất; ngày 17, tổ chức tập kích Bến Củi lần thứ hai, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch, phá huỷ, phá hỏng hàng trăm xe quân sự các loại và nhiều pháo cỡ lớn của địch. Một ngày sau đó, trung đoàn lại mở trận tập kích lần thứ ba đánh bồi tiếp một một đòn nữa vào quân địch ở Bến Củi, loại khỏi vòng chiến đấu gần 400 tên địch, 100 xe quân sự và 9 khẩu pháo thuộc lực lượng của tuyến phòng thủ vòng ngoài bảo vệ Sài Gòn từ xa của Mỹ - ngụy. Phối hợp với Trung đoàn 5, liên tiếp trong các ngày 16, 17, 18-9, Trung đoàn 33 (Sư đoàn 5) tổ chức bốn trận tập kích trên đường 22, đánh thiệt hại nặng bốn tiểu đoàn cơ động của Mỹ, loại khỏi vòng chiến đấu nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của chúng.

Ngày 19-9, sau khi tập kích diệt cụm địch tại Lâm Vồ lần thứ hai, Trung đoàn 2 (Sư đoàn 9) được lệnh chuyển sang đánh Tà Păng - Rô Boong. Đây là cứ điểm phòng ngự có công sự vững chắc do một đơn vị biệt động biên phòng ngụy chốt giữ; phải sau vài lần tập trung lực lượng đột phá, Trung đoàn 2 mới dứt điểm được mục tiêu. Biết Tà Păng - Rô Boong là một cứ điểm án ngữ biên giới rất quan trọng của địch, trước sau chúng cũng sẽ đem quân đến ứng cứu giải toả, nên Trung đoàn 2 quyết định rút ra ngoài chuẩn bị tổ chức đánh phản kích. Do phán đoán đúng ý đồ của địch và chủ động trong công tác bảo đảm mọi mặt, trong hai ngày 20 và 26-9, Trung đoàn 2 đã đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn thuỷ quân lục chiến và Tiểu đoàn 8 dù của quân đội Sài Gòn, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên, phá huỷ, phá hỏng nhiều vũ khí và phương tiện chiến tranh của chúng.

Tại thị xã Tây Ninh, ngay từ đêm 10-9, các đơn vị lực lượng vũ trang tỉnh, các đội biệt động, đặc công, trinh sát Miền và Tiểu đoàn 5 (Trung đoàn 2) đã đồng loạt nổ súng tiến công tiêu diệt một số mục tiêu quan trọng trong nội và ngoại thị, gây sự hoang mang dao động mạnh về tinh thần trong nội bộ ngụy quân và ngụy quyền các cấp ở tỉnh Tây Ninh. Để cứu vãn tình thế này, ngày 11, địch đổ hai tiểu đoàn dù xuống thị xã, đưa tiểu đoàn 4 (Lữ đoàn 23 Mỹ) ra phản kích ở khu vực Thanh Điền, nhưng bị Tiểu đoàn 5 chặn đánh buộc chúng phải co cụm chờ quân cứu viện. Chớp thời cơ thuận lợi khi địch chưa tăng viện, một bộ phận chủ lực Trung đoàn 2 và các đơn vị vũ trang địa phương tại chỗ đã phối hợp tổ chức đột nhập vào Thanh Điền diệt thêm một số.

Cũng như hướng chủ yếu Tây Ninh, trên hướng thứ yếu Bình Long, mở đầu đợt 2 chiến dịch, ngày 12-9, Trung đoàn 320 và hai tiểu đoàn của Trung đoàn 14 (Sư đoàn 7) cùng lực lượng địa phương xuất kích đánh năm trận quy mô cấp tiểu đoàn, bẻ gãy cuộc hành quân giải toả của hai tiểu đoàn bộ binh, hai đại đội biệt kích và một chi đoàn xe thiết giáp của địch trên khu vực phía đông bắc Chi khu quân sự Lộc Ninh, loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 600 tên địch, bắn cháy 16 xe thiết giáp, bắn rơi 6 máy bay và thu 43 súng các loại. Ngày 13, Trung đoàn 14 lại đánh thiệt hại nặng cuộc hành quân của hai tiểu đoàn bộ binh Mỹ nống ra khu vực phía bắc và đông bắc Chi khu Lộc Ninh, diệt và làm bị thương hàng trăm tên địch, bắn rơi 2 trực thăng vũ trang, thu 19 khẩu súng. Được các thắng lợi của bộ đội chủ lực tạo đà, lực lượng du kích, tự vệ và cơ sở mật tại chỗ đã phát động và tổ chức cho nhân dân nổi dậy phá ấp chiến lược, phá thế kìm kẹp, giành quyền làm chủ ở một số địa phương. Cùng ngày, đại đội cao xạ thuộc Trung đoàn 320 tổ chức phục kích bắn rơi chiếc trực thăng chở tên K.Ware - tướng 2 sao, Tư lệnh Sư đoàn bộ binh số 1 (Anh cả đỏ) của quân đội Mỹ tại khu vực tây nam Làng 2.

Sau gần 20 ngày liên tục giữ thế chủ động đánh địch bằng các chiến thuật: phục kích, tập kích, đánh bồi, đánh nhồi vào các cụm quân địch, tiêu hao, tiêu diệt được một bộ phận quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ - ngụy, hoàn thành cơ bản các mục tiêu chiến dịch đặt ra, ngày 28-9-1968, ta đã chủ động kết thúc đợt 2, cũng là kết thúc toàn bộ chiến dịch.

Tổng kết thành quả giành được sau 43 ngày đêm chiến đấu liên tục của chiến dịch Tây Ninh - Bình Long (từ ngày 17-8 đến 28-9-1968 ), các sư đoàn 5, 7, 9 chủ lực Miền và quân, dân Tây Ninh, Bình Long đã đánh 315 trận (có 53 trận cấp tiểu đoàn, 16 trận cấp trung đoàn), loại khỏi vòng chiến đấu 13 tiểu đoàn, 55 đại đội, tiêu hao nặng 7 tiểu đoàn thuộc các sư đoàn 1 và 25 bộ binh cơ giới Mỹ, một số đơn vị thuộc lực lượng tổng trù bị chiến lược ngụy và nhiều đơn vị biệt kích, bảo an tại chỗ; loại khỏi vòng chiến đấu 18.406 tên địch, phá huỷ 1.507 xe quân sự, 112 máy bay, 107 khẩu pháo, thu được 24 máy vô tuyến điện, 282 súng các loại... Qua tác chiến chiến dịch, bộ đội chủ lực Miền đã trưởng thành lên một bước mới về khả năng đánh tiêu diệt cấp tiểu đoàn địch. Bộ đội địa phương Tây Ninh, Bình Long đã làm tốt chức năng vừa chiến đấu tiêu hao, tiêu diệt địch, vừa hỗ trợ cho quần chúng nhân dân nổi dậy diệt ác phá kìm, chống phá có hiệu quả kế hoạch “bình định cấp tốc” của Mỹ - ngụy, giữ vững và mở rộng vùng giải phóng.

Hoà chung với tiếng súng tiến công của chiến dịch Tây Ninh, Bình Long, lực lượng vũ trang và nhân dân ta trên các chiến trường phối thuộc cũng bước vào cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Thu sôi động, linh hoạt và phù hợp với điều kiện thực tế của mình.

Tại thành phố Sài Gòn, Gia Định, theo quyết định của Quân uỷ Miền, tháng 7-1968, Thành uỷ Sài Gòn được tái thành lập do đồng chí Võ Văn Kiệt làm Bí thư. Bộ chỉ huy Miền đã lệnh cho các phân khu bàn giao toàn bộ các quận nội thành về trực thuộc Phân khu 6. Việc điều chỉnh, sắp xếp lại địa bàn lãnh thổ Phân khu 6 về cơ bản đã tạo được những thuận lợi rất quan trọng cho việc chỉ huy, lãnh đạo phong trào; song chính nó lại nảy sinh một điều bất lợi là phân khu phải thường xuyên “mượn” một số địa bàn đứng chân tập kết lực lượng, vũ khí, cơ sở vật chất, “mượn” bàn đạp xuất phát xung phong của các phân khu bạn cho việc chuẩn bị và tổ chức tiến công vào nội đô.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #66 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2010, 11:56:29 pm »


Chấp hành mệnh lệnh tổng tiến công và nổi dậy đợt 3, giữa tháng 8-1968, tại hậu cứ Ba Thu, Thành uỷ Sài Gòn tổ chức Hội nghị cán bộ lần thứ nhất để bàn chủ trương, biện pháp hoạt động cho phong trào trong nội đô. Trên cơ sở phân tích sâu sắc, chỉ ra những chỗ mạnh, yếu cụ thể các mặt của ta và của địch, Hội nghị thống nhất xác định: “Một mặt phải tiếp tục khí thế tiến công, phát huy các hình thức bạo lực, làm nhiệm vụ tổng công kích - tổng khởi nghĩa, mặt khác phải khẩn trương trở về các hoạt động cơ sở, đi sâu vào công tác vận động quần chúng có tính chất lâu dài, vững chắc”1, từ đó nắm và phát động quần chúng, xây dựng lại cơ sở, cùng với củng cố, mở rộng các khu vực làm chủ ta còn giữ được, khôi phục, ráp nối, phát triển các cơ sở bí mật trong các xóm ấp của dân lao động nghèo, các trường học, các nhà máy xí nghiệp, mở rộng Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình miền Nam Việt Nam... để thu hút các tầng lớp trung gian tham gia phong trào đấu tranh. Nhưng do lúc này địch tập trung lực lượng tổ chức càn quét, đánh phá dữ dội, nên Thành uỷ quyết định chỉ để một số cán bộ ở lại hậu cứ, số còn lại được phân công trở lại căn cứ Cai Lậy tổ chức bám địa bàn nắm lại cơ sở và gây dựng phong trào nội thành. Với sự chuyển hướng chỉ đạo kịp thời này, Thành uỷ đã giác ngộ và đưa được nhiều quần chúng tích cực vào các tổ chức bí mật của ta dưới danh nghĩa hợp pháp là những nhà tu hành trong các chùa, các tiểu thương buôn bán trong các chợ của thành phố và cả trong một số đơn vị, trại lính của quân đội Sài Gòn.

Song song với quá trình tổ chức, củng cố lại cơ sở nội thành, thực hiện chủ trương của Thành uỷ, trong suốt thời gian của đợt 3, Phân khu tổ chức chia lực lượng hoả lực, đặc công thành các đơn vị nhỏ, lẻ, thực hiện luồn sâu, đánh hiểm vào nhiều mục tiêu quan trọng trong lòng địch. Điển hình là ngày 21 và 22-8, trong khi một phân đội hoả lực ĐKZ của phân khu 6 tập kích nhiều loạt vào Dinh Độc lập, bồi thêm nỗi kinh hoàng cho giới lãnh đạo chóp bu của cả quân ngụy và quân Mỹ ở Sài Gòn, thì Đoàn 10 đặc công Rừng Sát đánh cháy, đánh chìm năm tàu chở hàng quân sự trọng tải khoảng bảy ngàn tấn của Mỹ trên sông Lòng Tàu và cảng Cát Lái. Trên cảng Nhà Bè, đặc công Rừng Sát đã bí mật đột nhập cài thuốc nổ đánh chìm hai tàu chở dầu (trọng tải 30 triệu lít/tàu) thuộc Hãng Caltex vào ngày 10-10 và ngày 4-12-1968. Bên cạnh đó, lực lượng vũ trang thuộc các tổ chức Thành đoàn, Hoa vận, An ninh, Biệt động... được nhân dân che chở, giúp sức đã phát huy ưu thế của mình, tổ chức đánh một số trận đạt kết quả tốt. Tiêu biểu là trung tuần tháng 11-1968, một tổ vũ trang Hoa vận bí mật cài đặt khối thuốc nổ 105 kg lên một xe lam, đánh Trường Sinh ngữ thuộc Bộ Tư lệnh Không quân ngụy, đóng trên đường Đồng Khánh (thuộc quận 5), diệt và làm bị thương hàng chục sĩ quan Mỹ, Thái Lan, Nam Triều Tiên cùng nhiều sĩ quan, binh sĩ ngụy. Đầu tháng 12, một tổ vũ trang an ninh bí mật phục kích, dùng mìn và lựu đạn chặn đánh đoàn xe chở tướng Kiêm, Tư lệnh Biệt bộ Phủ Tổng thống kiêm phụ trách đặc uỷ tình báo cho Nguyễn Văn Thiệu, làm Kiêm và một số sĩ quan tuỳ tùng bị thương. Tiếp đó, ta còn tổ chức đánh vào một loạt mục tiêu là các tụ điểm bắt lính, đào tạo ác ôn trá hình dưới danh nghĩa trụ sở nhân dân tự vệ của địch ở Cây Thị, quận 4, Gia Định..., gây cho chúng nhiều thiệt hại về người và vật chất. Do các hoạt động có hiệu quả ngay trong lòng địch tạo đà, hỗ trợ, nên phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân nội thành dần dần được phục hồi và phát triển với những hình thức và nội dung phong phú.

Từ phong trào nữ phật tử tổ chức cầu nguyện cho những nạn nhân chiến tranh và vận động quyên góp tiền, vật chất giúp đỡ những gia đình khó khăn hoạn nạn, thu hút được đông đảo quần chúng nhân dân, trong đó có nhiều thân nhân của binh sĩ và nhân viên ngụy quyền tham gia, ta đã bí mật cài các cán bộ phụ vận vào ban lãnh đạo, phát triển phong trào ra toàn thành phố. Bên cạnh việc tổ chức cầu nguyện cho các nạn nhân chiến tranh và quyên góp giúp người hoạn nạn, phong trào nữ phật tử đã phát triển lên cầu nguyện cho hoà bình, đòi chấm dứt chiến tranh. Nổi bật nhất là cuộc hành lễ cầu nguyện và mít tinh của hơn 500 đại biểu đại diện cho 20 đoàn thể, tôn giáo tại chùa Ấn Quang đòi Thiệu - Kỳ - Hương từ chức, đòi chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở miền Nam Việt Nam được tổ chức vào ngày 27-10-1968... Cùng với phong trào đấu tranh hợp pháp của các phật tử, dưới sự lãnh đạo của các tổ chức đảng bí mật, các cuộc mít tinh, biểu tình, bãi công đòi cải thiện đời sống, điều kiện làm việc chống bắt lính, chống đuổi việc, tố cáo các hành động vơ vét bóc lột nhân dân để phục vụ chiến tranh... của công nhân các nhà máy, xí nghiệp... diễn ra liên tiếp, khiến cho chính quyền Thiệu thêm bối rối. Mặt khác, để chống lại sắc lệnh “tổng động viên” của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, dưới sự lãnh đạo của Tổng hội sinh viên, học sinh, sinh viên tất cả các trường đại học ở Sài Gòn, mà tiên phong là Trường đại học Văn khoa đã xuống đường đấu tranh chống chính sách “quân sự hoá học đường”, bắt học sinh, sinh viên tham gia vào lực lượng phòng vệ dân sự, đòi chấm dứt chiến tranh. Phong trào diễn ra sôi nổi nhất là ba tháng cuối năm 1968, dưới hình thức các cuộc hội thảo, mít tinh, gửi kiến nghị, yêu sách đòi Mỹ rút quân về nước, lập lại hoà bình ở miền Nam. Đặc biệt, đúng vào ngày lễ Chúa Giáng sinh năm 1968, hơn 1.000 học sinh, sinh viên của các trường đại học, trung học Sài Gòn tổ chức cuộc rước đuốc hoà bình từ trụ sở Trung tâm Thiên chúa giáo Hiền Vương đến nhà thờ dòng Chúa cứu thế.

Trước sự phát triển mạnh mẽ và rộng khắp của các tổ chức đoàn thể quần chúng nội đô, cảnh sát và quân đội ngụy sử dụng vũ lực thẳng tay đàn áp và dùng mật vụ, chỉ điểm trà trộn điều tra, phát hiện bắt giữ hàng trăm cán bộ lãnh đạo và quần chúng tích cực của phong trào. Mặc dù vậy, phong trào đấu tranh chính trị kết hợp với đòi dân sinh, dân chủ, hoà bình của các tầng lớp nhân dân toàn miền Nam vẫn phát triển ngày càng mạnh, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Thu ở miền Đông Nam Bộ và của toàn miền Nam.
_____________________________________
1. Lịch sử Sài Gòn - Gia Định - Chợ Lớn kháng chiến (1945-1975), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1994, tr. 530.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #67 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2010, 11:56:50 pm »


Cùng với phong trào đấu tranh của nhân dân nội đô Sài Gòn - Gia Định, tại Củ Chi, Trảng Bàng..., bằng cách xây dựng hệ thống địa đạo vững chắc, nhiều tầng, nhiều lớp ngang dọc trong lòng đất, kết hợp với bố trí hệ thống trận địa, công sự chiến đấu hợp lý, liên hoàn trên mặt đất, lực lượng vũ trang và nhân dân các địa phương vẫn duy trì được thế giằng co, đánh phản kích, chống kế hoạch “bình định cấp tốc”, của Mỹ - ngụy có hiệu quả.

Củ Chi là một trong những địa bàn thuộc Phân khu 1. Khi bước vào đợt 3 của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Phân khu 1 quyết định chia đất Củ Chi thành hai huyện Bắc Chi và Nam Chi để tạo thuận lợi cho việc chỉ đạo phong trào đấu tranh chống Mỹ - ngụy càn quét, “bình định cấp tốc”. Hầu hết các xã ở Bắc Chi và Nam Chi đều tiến hành Hội nghị quân sự bàn phương thức hoạt động cho lực lượng vũ trang thoát ly sao cho có hiệu quả cao trong tình hình địch đang tập trung ưu thế lực lượng, vũ khí tổ chức phản kích quyết liệt và lực lượng ta đã bị tiêu hao nhiều qua đợt 1 và 2 chưa kịp bổ sung. Song, dựa vào hệ thống địa đạo ngầm sâu trong lòng đất và những kinh nghiệm tác chiến tích luỹ được từ những năm trước đó, các địa phương, các đơn vị vũ trang đã lấy địa đạo làm nơi chuẩn bị lực lượng, vũ khí trang bị và bàn đạp xuất phát xung phong, mở những trận đánh quy mô vừa và nhỏ, kết hợp với sử dụng những tổ du kích mật đánh vào các mục tiêu trong hang ổ, sào huyệt của kẻ thù.

Ngày 27-10, một tổ du kích mật dưới sự chỉ huy trực tiếp của đồng chí Chín Khảnh, Huyện đội phó phụ trách quân báo, cải trang đột nhập đặt mìn hẹn giờ vào câu lạc bộ sĩ quan ở căn cứ Đồng Dù, diệt và làm bị thương một số sĩ quan, trong đó có tám sĩ quan cấp tá của địch.

Cũng trong tháng 10, du kích xã Phước Thạnh (Nam Chi) tổ chức phục kích đánh hai trận trên đường 22 và đường 7, diệt tám xe tăng, xe bọc thép và toàn bộ số quân đi cùng của chúng. Tháng 11, du kích các xã Thái Mỹ, Phước Hiệp, Trung Lập, Nhuận Đức, An Nhơn Tây, Phú Mỹ Hưng đánh 23 trận, loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 200 tên địch, phá huỷ, phá hỏng 18 xe quân sự, bắn rơi, bắn hỏng 9 máy bay.

Giữa tháng 12-1968, sau khi phát hiện được nơi tập kết của Tiểu đoàn 7 Quân giải phóng tại thôn Vườn Trầu, xã Phước Thạnh, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 25 bộ binh Mỹ sử dụng một trung đoàn có pháo binh và xe tăng yểm trợ, bao vây, tiến công đơn vị bộ đội tập trung của Củ Chi. Dựa vào hệ thống hầm ngầm, địa đạo, trận địa được chuẩn bị sẵn, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 7 đã cơ động tác chiến công, thủ linh hoạt, hạn chế tối đa được thương vong. Trong hơn một ngày chiến đấu ác liệt Tiểu đoàn 7 đã loại khỏi vòng chiến đấu được hai đại đội Mỹ, giữ vững trận địa. Bị ta tiêu hao một bộ phận quan trọng sinh lực cùng vũ khí, đạn dược, nhưng mục đích đặt ra chưa giải quyết được địch điều thêm hai tiểu đoàn bộ binh và một số xe thiết giáp tăng viện cho bọn còn lại tiếp tục tiến công. Thấy tương quan lực lượng quá chênh lệch, để bảo toàn lực lượng cho những trận chiến đấu tiếp sau, Ban chỉ huy Tiểu đoàn 7 quyết định tổ chức mở đường rút quân ra khỏi vòng vây. Đây là trận đánh không chỉ điển hình về cách “công, thủ” linh hoạt để tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, mà còn phản ánh sự nhạy cảm, quyết đoán trong tư duy quân sự của những cán bộ chỉ huy Tiểu đoàn 7 bộ đội địa phương Củ Chi trong việc quyết định rút quân một cách kịp thời để bảo toàn lực lượng khi tình thế đã thay đổi sang hướng bất lợi.

Được các hoạt động vũ trang rộng khắp hỗ trợ, quần chúng nhân dân ở khắp các ấp, xã đã đấu tranh phá rã, phá dứt điểm hàng trăm ấp chiến lược và khu tập trung, mở rộng thêm nhiều vùng giải phóng, làm thất bại kế hoạch “bình định cấp tốc” năm 1968 của Mỹ - ngụy.

Riêng cán Trung đoàn Quyết thắng, trung đoàn 268 và 16, sau khi tham gia đợt 2 tổng tiến công và nổi dậy, đã cơ động ra đứng chân ở các địa bàn ngoại thành, trong những tháng cuối năm 1968, vừa khẩn trương củng cố lực lượng, vừa tác chiến chống địch hành quân phản kích đẩy lực lượng ta ra xa thành phố.

Ở huyện Bến Cát và huyện Dầu Tiếng, Trung đoàn 16 kiên trì bám trụ, linh hoạt tiến công và phản công, thực hiện thắng lợi nhiều trận đánh ở khu vực Đồng Cỏ Đỏ, Đồng Ngỗng, Rạch Bắp, Bưng Còng... tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, hỗ trợ có hiệu quả cho du kích và nhân dân các địa phương tại chỗ đấu tranh chống kế hoạch “bình định cấp tốc” của địch.

Tại địa bàn huyện Trảng Bàng (Tây Ninh), Trung đoàn 268 cũng đã thực hiện xuất sắc các trận đánh tại rừng Cầy, Lộc Khê, Mộc An, Bàu Mây, Trảng Tròn, Mít Nài, Cỏ Ống, Tầm Đinh, Đồng Lớn, An Tịnh, Trà Nguồn, Lộc Châu... loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch, phá huỷ, phá hỏng khoảng 200 xe quân sự, giữ vững vùng trung tuyến trên hướng Trảng Bàng - Củ Chi.

Trên khu vực đường 14 (thuộc phía nam huyện Bến Cát), Trung đoàn Quyết thắng tổ chức phục kích đánh hai trận, diệt và làm bị thương hơn 400 tên địch cùng nhiều xe quân sự các loại.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #68 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2010, 11:57:32 pm »


Không giống như Trảng Bàng, Củ Chi..., tại chiến trường Long An, phong trào đấu tranh trong đợt 3 gặp rất nhiều khó khăn. Từ giữa năm 1968, ngoài việc điều thêm ba tiểu đoàn biệt động quân kết hợp với Sư đoàn 25 bộ binh Mỹ đóng ở phía bắc, địch tăng cường Lữ đoàn 199 bộ binh nhẹ Mỹ cho Lữ đoàn 3 (Sư đoàn 9 Mỹ) chốt giữ ở phía nam Long An; nâng số xe tăng và xe thiết giáp cơ động thường xuyên trên quốc lộ số 4 lên khoảng 500 xe. Bên cạnh đó, địch còn sử dụng nhiều lần chiếc máy bay B52 đánh phá với quy mô huỷ diệt rộng lớn gồm cả một số khu dân cư dọc hai triền sông Vàm Cỏ Đông để làm bàn đạp cho các cuộc hành quân phản kích, hòng tiêu diệt, đẩy lùi lực lượng vũ trang ta ra xa, đồng thời triển khai kế hoạch “bình định cấp tốc”. Trong khi đó, phần lớn các đơn vị vũ trang của ta đứng chân trên địa bàn sau đợt 1 và 2 tổng tiến công và nổi dậy quân số hao hụt chỉ còn khoảng một nửa (đặc biệt có đơn vị như Tiểu đoàn 6 lúc bước vào đợt Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân quân số là 200, đến khi kết thúc đợt 2 chỉ còn lại 50 cán bộ, chiến sĩ). Mặc dù vậy, lực lượng vũ trang đứng chân trên địa bàn Long An vẫn kiên trì bám trụ, chuẩn bị sẵn sàng tạo thời cơ tiến công vào Sài Gòn trong đợt 3. Lãnh đạo, chỉ huy phân khu 2 và 3 thống nhất phương châm chỉ đạo lực lượng vũ trang hai phân khu “vừa tổ chức phòng ngự tích cực, vừa chủ động tiến công, linh hoạt trong việc tập trung hoặc phân tán lực lượng tuỳ theo từng trận đánh để hạn chế thương vong”. Do phải tập trung giữ bàn đạp áp sát Sài Gòn, cả vùng nông thôn rộng lớn ở phía sau bị bỏ trống, nên địch đã nhanh chóng triển khai kế hoạch “bình định cấp tốc” chiếm trở lại. Các đơn vị chiến đấu giữ bàn đạp tuy đã cố gắng bảo toàn lực lượng, song cùng với thời gian quân số vẫn bị hao hụt dần. Nhiều đơn vị đã phải giải thể, sáp nhập lại với nhau để bảo đảm tập trung quân số chiến đấu, hầu hết các tiểu đoàn phải tổ chức xuống cấp thành các đại đội. Khi đợt 3 kết thúc, các đơn vị được lệnh rút quân trở về các căn cứ để củng cố. Đây cũng là tình trạng chung của các phân khu vùng ven còn lại.

Như vậy, thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị và Quân uỷ Miền, Quân khu uỷ và Bộ Tư lệnh miền Đông Nam Bộ đã đưa ra kế hoạch hành động phù hợp với khả năng thực tế sau hai đợt tổng tiến công và nổi dậy, nên đợt 3 quân và dân miền Đông Nam Bộ đã giành thêm được nhiều thắng lợi về quân sự và chính trị quan trọng. Ta đã tiêu diệt, tiêu hao được một lực lượng quan trọng quân Mỹ và quân chủ lực Sài Gòn, từng bước khôi phục, củng cố được phần lớn cơ sở bị địch phá vỡ trong đợt Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, đồng thời phát triển thêm được một số cơ sở mới ở cả nội và ngoại thành, đưa phong trào đấu tranh chính trị của các tầng lớp nhân dân dần dần phục hồi trở lại. Song những thắng lợi trong đợt 3 ở miền Đông cũng không làm thay đổi được tình hình nhiều, vì lực lượng ta bị tổn thất nặng. Lợi dụng cơ hội này, địch “líp” lại phần lớn vùng nông thôn ta mới giải phóng. Cuối năm 1968, sau ba đợt tiến công liên tục quân số, vũ khí đạn dược của ta đã cạn kiệt, những bộ phận còn lại của các đơn vị được lệnh rút lên các căn cứ để củng cố và bổ sung quân số. Nhưng để lên được căn cứ, cán bộ và chiến sĩ ta phải tiếp tục đột phá mở đường qua các tuyến phòng thủ bảo vệ Sài Gòn từ xa của địch với chiều sâu hàng trăm kilômét của quân Mỹ và quân ngụy, nên lực lượng ta lại tiếp tục bị tiêu hao thêm. Đây là khó khăn lớn mà ta không dễ gì khắc phục được trong một thời gian ngắn và nó còn ảnh hưởng lớn đến tác chiến của quân và dân miền Đông trong thời gian tiếp theo.

Nằm kế cận với chiến trường miền Đông Nam Bộ, Quân khu IX nhận được lệnh tổng tiến công và nổi dậy đợt 3 của Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Miền trong lúc lực lượng vũ trang ba thứ quân và cơ sở cách mạng của ta đã bị tổn thất nặng nề, chưa có điều kiện bổ sung, khôi phục; nhiều vùng giải phóng đã bị địch lấn chiếm trở lại. Tình hình đó đã lay động lòng tin và tâm lý của nhiều cán bộ, chiến sĩ và nhân dân, trong đó có cả một số cán bộ chỉ huy, lãnh đạo cấp khu và tỉnh. Song, vấn đề đặt ra khẩn thiết lúc này là nếu không tiếp tục tiến công thì không tồn tại được, nên Khu uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu IX quyết định rút phần lớn chiến sĩ bảo vệ và phục vụ ở các cơ quan dân chính đảng, huấn luyện gấp một số chiến sĩ mới đưa lên bổ sung cho các trung đoàn bộ đội chủ lực đứng chân tác chiến ở khu vực lộ Vòng Cung; đồng thời, vẫn lấy nơi đây làm căn cứ đóng quân của Bộ chỉ huy tiền phương quân khu1. Là một địa bàn quan trọng, nên chiến sự tại lộ Vòng Cung diễn ra vô cùng ác liệt. Mỹ - ngụy tập trung hoả lực của máy bay và pháo binh các loại ngày đêm đánh phá có tính huỷ diệt, sau đó dùng bộ binh và xe tăng càn quét chà xát hết khu vực này đến khu vực khác, gây nhiều thiệt hại về người và tài sản của nhân dân, nặng nề nhất là các xã thuộc triền sông Cần Thơ - nơi trú đóng quân của một số đơn vị chủ lực quân khu. Do quá hoảng sợ trước mật độ bom, pháo ác liệt của địch, hầu hết số quân mới bổ sung cho các đơn vị chủ lực vì chưa được thử thách nên đã bỏ ngũ. Mặc dù khó khăn chồng chất, song quân và dân toàn khu vẫn đồng lòng tập trung mọi lực lượng, kiên quyết tiến hành đợt 3 tổng tiến công và nổi dậy theo mệnh lệnh của cấp trên.

Mở đầu cho đợt 3 tổng tiến công và nổi dậy ở chiến trường Quân khu IX diễn ra sớm hơn so với các chiến trường khác trên toàn miền Nam. Đêm 13-8-1968, tại Cần Thơ, Tiểu đoàn 307 và một phân đội đặc công quân khu bất ngờ tập kích sân bay Lộ Tẻ, sử dụng lựu đạn, bộc phá phá huỷ, phá hỏng gần 60 máy bay các loại. Thắng lợi của trận ra quân mở màn này đã tạo lòng tin và khích động khí thế tiến công không chỉ đối với quân dân thành phố Cần Thơ, mà còn là hiệu lệnh hành động cho toàn khu.

Học tập kinh nghiệm tác chiến của đặc công và Tiểu đoàn 307 trong trận đánh sân bay Lộ Tẻ, đêm 21-8, 39 tay súng của Tiểu đoàn 309 cùng một phân đội đặc công dưới sự chỉ huy thống nhất của đồng chí Dương Tử, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 309, bí mật cơ động lực lượng, tập kích bất ngờ căn cứ pháo binh Bình Thuỷ, loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 170 tên địch, phá huỷ, phá hỏng 18 khẩu pháo, gây thiệt hại nặng về sinh lực và máy móc, cơ sở vật chất - kỹ thuật của quân ngụy ở Vùng IV chiến thuật, sau đó tiểu đoàn rút quân ra ngoài để bảo toàn lực lượng. Khi Tiểu đoàn 309 vừa ra khỏi căn cứ thì bị địch phát hiện, chúng tập trung hoả lực đánh chặn dữ dội, làm một số đồng chí hy sinh, một số bị lạc khỏi đội hình, hai ba ngày sau mới tìm về được đơn vị.
_____________________________________
1. Bộ chỉ huy tiền phương Quân khu IX trong đợt 3 Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 gồm các đồng chí: Đồng Văn Cống - Tư lệnh, Phạm Ngọc Hưng - Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng và Dương Tự Cẩm - Chính uỷ.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #69 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2010, 11:58:05 pm »


Ở Vĩnh Long, một trong những tỉnh còn giữ được nhiều vùng giải phóng sau đợt 1 và đợt 2 tổng tiến công và nổi dậy; do vậy nửa cuối năm 1968, thực hiện kế hoạch “bình định cấp tốc” địch sử dụng máy bay, pháo binh bắn phá yểm trợ cho xe thiết giáp, giang thuyền chở quân liên tục càn quét vùng giải phóng của ta ở vùng lộ 4, lõm chữ V, Tam Tân, nhằm đánh bật lực lượng vũ trang ba thứ quân của ta ra xa, dồn dân vào các ấp chiến lược, tạo vành đai an toàn cho thị xã Vĩnh Long, nhưng mọi âm mưu và hành động của địch đều bị ta đánh bại. Suốt trong thời gian thực hiện đợt 3 tổng tiến công và nổi dậy, Trung đoàn 3 chủ lực quân khu đã trụ bám địa bàn, “một tấc không đi, một ly không rời”, phối hợp chặt chẽ với lực lượng vũ trang và nhân dân tại chỗ liên tiếp đánh địch bằng các hình thức tác chiến thích hợp, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch, đánh chìm, đánh hỏng 10 giang thuyền chiến đấu trên sông Măng Thít, bảo vệ vững chắc vùng giải phóng.

Giữa tháng 11, địch sử dụng Tiểu đoàn 405 ngụy đến chiếm đóng, xây dựng căn cứ hành quân tại ngã tư Nhà Đài, phục vụ cho kế hoạch tiếp tục tiến công xoá vùng giải phóng của Vĩnh Long. Phát huy những kinh nghiệm chiến đấu của các tháng trước đó, Trung đoàn 3 khẩn trương củng cố lại đội hình tiếp tục tiến công ngăn chặn các cuộc hành quân càn quét bình định của địch. Cuối tháng 11, Trung đoàn 3 sử dụng hai tiểu đoàn tập kích căn cứ hành quân Nhà Đài, loại khỏi vòng chiến đấu 350 tên địch, sau đó cơ động về các địa bàn Vĩnh Xuân, Thầy Phó, Hựu Thành, An Trường chuẩn bị đánh càn, giữ vùng giải phóng. Được nhân dân che chở và nuôi dưỡng, lực lượng du kích, tự vệ các ấp xã phối thuộc chiến đấu, nên trong tháng 12-1968, Trung đoàn 3 đã bẻ gãy được hầu hết các trận càn quét, tiêu hao nặng một tiểu đoàn biệt động quân và một tiểu đoàn của trung đoàn 16 chủ lực vùng IV chiến thuật ngụy, diệt và làm bị thương hơn 500 binh sĩ thuộc các sắc lính khác nhau.

Tại tỉnh Sóc Trăng, sau khi mệnh lệnh tổng tiến công và nổi dậy đợt 3 được phổ biến xuống các đơn vị và địa phương trong toàn tỉnh, cuối tháng 8-1968, bộ đội chủ lực tỉnh dùng súng ĐKZ 75, cối 82 bất ngờ tập kích vào sân bay, tiểu khu, Dinh tỉnh trưởng trong thị xã Sóc Trăng; Đại đội 247 tập kích diệt đồn cầu Trà Men; Đại đội 301 bao vây tiêu diệt gọn một trung đội bảo an ngụy ở Vọng Thoàn; Tiểu đoàn Phú Lợi dùng một đại đội tập kích đánh thiệt hại nặng đoàn cán bộ bình định số 8 của địch tại khu vực kinh xáng Xà Lan. Cũng thời gian này, một số tổ biệt động, đặc công tập kích đánh thiệt hại nặng hậu cứ Trung đoàn 33 ngụy, phá huỷ một số lượng lớn cơ sở vật chất và phương tiện dự trữ chiến tranh của địch. Những tháng cuối năm 1968, quân và dân Sóc Trăng tiếp tục tiến công địch giành thêm những thắng lợi quan trọng. Điển hình nhất là ngày 20-11, được bộ đội và du kích huyện Thạnh Trị phối hợp chiến đấu, Tiểu đoàn Phú Lợi tiến công tiêu diệt bảy lô cốt bảo vệ Chi khu quân sự Thạnh Trị, xoá sổ Đại đội bảo an số 127, thu nhiều vũ khí và đồ dùng quân sự. Ngày 5-12, quân và dân các huyện Châu Thành, Hồng Dân, Lịch Hội Thượng tổ chức tiến công một số mục tiêu trong các chi khu, gây cho địch nhiều thiệt hại về người và vật chất. Ngày 18-12, Tiểu đoàn Phú Lợi và bộ đội huyện Châu Thành phối hợp tác chiến bao vây, tiến công làm tan rã hoàn toàn ba trung đội phòng vệ dân sự, thu một số súng đạn, hỗ trợ cho nhân dân trong ấp chiến lược Trà Cú Cạn nổi dậy diệt ác phá kìm, giành quyền làm chủ. Cùng ngày, tổ biệt động thị xã Sóc Trăng tập kích vào bãi đỗ, diệt nhiều xe quân sự của địch; Đại đội 301 bất ngờ tiến công lần thứ hai loại khỏi vòng chiến đấu hoàn toàn đoàn cán bộ bình định số 8 tại kinh xáng Xà Lan. Chỉ riêng những tháng cuối năm 1968, quân và dân Sóc Trăng đã đánh 114 trận vừa và nhỏ, tiêu diệt và làm bị thương gần 500 tên địch, thu hơn 50 súng các cỡ cùng nhiều quân trang, quân dụng.

Không giống như Cần Thơ và Sóc Trăng, sau khi tập trung sức lực cho việt thực hiện liên tiếp đợt 1 và 2 Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, lực lượng vũ trang Rạch Giá đã bị tổn thất nghiêm trọng về người và vũ khí, trong khi nguồn bổ sung tiếp tế mất dần. Lợi dụng tình trạng này, những tháng cuối năm 1968, địch sử dụng hàng chục lần chiếc máy bay chiến lược B52 kết hợp với pháo binh đánh phá nhiều ngày đêm vào khu vực hai bên triền sông Cái Lớn và kinh xáng Chợ Mới (thuộc địa bàn xã Hoà Thuận, huyện Giồng Riềng) yểm trợ cho một trung đoàn của Sư đoàn 21 chủ lực ngụy ở Vùng IV chiến thuật mở cuộc hành quân phản kích đánh vào các vùng giải phóng để tiêu diệt và đẩy lùi lực lượng vũ trang của ta ra xa, từng bước giành quyền làm chủ địa bàn. Quân và dân các lõm giải phóng kiên cường bám trụ, dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân chống trả, đẩy lùi nhiều đợt phản kích của địch. Song, cuộc chiến đấu không cân sức, nên cứ mỗi ngày địch lại đẩy ta vào thế bất lợi hơn, vùng giải phóng bị thu hẹp, lực lượng vũ trang phải lùi dần. Không những vậy, khi các đơn vị ta rút lên bưng biền lại phải đương đầu với các đơn vị cơ động của địch ở khu vực trung tuyến, quân số tiếp tục bị tiêu hao thêm. Đi đôi với việc hành quân phản kích đẩy lực lượng vũ trang của ta, để thực hiện kế hoạch “bình định cấp tốc”, chúng sử dụng cảnh sát kết hợp với địa phương quân và các đội bình định tổ chức các cuộc càn quét, dồn dân lập ấp chiến lược. Do vậy, đến cuối năm 1968, địch đã cơ bản thiết lập lại được hệ thống kìm kẹp ở thị xã và vùng ven cùng một số địa bàn trọng điểm thuộc các huyện Tân Hiệp, Châu Thành B, Giồng Riềng. Thực tế diễn biến tình hình trên đã gây nên những khó khăn lớn cho phong trào cách mạng của Rạch Giá trong năm 1969.

Tại Bến Tre, một địa danh lịch sử nổi bật gắn chặt với phong trào “Đồng khởi” tám năm trước đó, sau hai đợt đầu của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, tuy cũng nằm trong tình trạng chung là lực lượng và cơ sở bị thiệt hại nặng chưa kịp bổ sung, phục hồi, song vẫn khẩn trương triển khai thực hiện kế hoạch tổng tiến công và nổi dậy đợt 3 theo đúng chỉ lệnh của Bộ chỉ huy Miền, Tỉnh uỷ và Tỉnh đội Bến Tre đã chủ động điều động, bố trí lực lượng theo hướng ưu tiên cho các mục tiêu trọng điểm. Các Tiểu đoàn 516, Tiểu đoàn 5 và các đại đội binh chủng của Bến Tre được lệnh tập trung về các xã căn cứ Lương Phú, Long Mỹ, Thuận Điền thuộc huyện Giồng Trôm để củng cố lực lượng, củng cố quyết tâm và phương pháp tác chiến. Bộ đội vừa củng cố xong, thì địch triển khai cuộc càn quét vào căn cứ Giồng Trôm. Được không quân yểm trợ, một đơn vị quân Mỹ dùng tàu cơ động theo sông Giồng Trôm đánh vào ba xã căn cứ Lương Phú, Thuận Điền, Long Mỹ; cùng lúc, máy bay trực thăng đổ Trung đoàn 10 ngụy xuống xã Hiệp Hưng. Để có đủ sức tác chiến với địch, Tỉnh đội Mỹ Tho sử dụng Đại đội ĐKZ 75, ĐK 57 cùng các tổ hoả lực B40, B41 xây dựng các trận địa dã chiến dọc theo bờ sông Giồng Trôm tại khu vực xã Lương Phú chặn đánh tàu địch; đồng thời, lệnh cho Tiểu đoàn 5 và Tiểu đoàn 516 nhanh chóng cơ động về địa phận đồng Gò Tranh xã Hiệp Hưng tổ chức đánh Trung đoàn 10 ngụy đổ bộ đường không.

Khoảng 5 giờ sáng ngày 23-7, sau đợt hoả lực chuẩn bị bằng 5.000 quả pháo các loại bắn cấp tập vào Long Mỹ, Lương Phú, 20 tàu chiến chở Lữ đoàn 3 Mỹ lần lượt tiến vào sông Giồng Trôm. Khi đội hình tàu địch vào đúng trận địa mai phục sẵn của ta, các loại hoả lực được lệnh phát hoả. Sau vài giờ chiến đấu đã có 16 tàu cùng lực lượng đi cùng của địch bị tiêu diệt. Số tàu còn lại tháo chạy về hướng thị xã. Ngày 24, địch sử dụng đội tàu cứu hộ ra trục kéo số tàu bị diệt ngày hôm trước đưa về căn cứ sửa chữa, lại bị ta bắn chìm thêm 12 chiếc nữa.

Hiệp đồng chặt chẽ với lực lượng đánh tàu trên sông Giồng Trôm, Tiểu đoàn 516, Tiểu đoàn 5 và các đơn vị hoả lực sau khi cơ động đến chiếm lĩnh địa bàn tác chiến đã khẩn trương triển khai đội hình đánh quân địch đổ bộ đường không. Khoảng 7 giờ sáng ngày 23, sau khi máy bay B52 ném bom rải thảm dọn bãi, địch huy động 14 máy bay trực thăng chở hai đại đội của Trung đoàn 10 chủ lực ngụy đổ xuống khu vực đồng Gò Tranh. Dự kiến đúng ý đồ, địa điểm đổ quân của địch, ta bố trí lực lượng phục sẵn, nên khi máy bay trực thăng chở quân vừa hạ thấp độ cao, chuẩn bị tiếp đất đã bị lưới lửa của Đại đội súng máy phòng không 12,8 mm của ta bất ngờ quật trúng đội hình làm 7 chiếc rơi tại chỗ. Số còn lại tuy tiếp đất và đổ được quân, nhưng bộ binh chưa kịp triển khai đội hình đã bị Tiểu đoàn 5 và một bộ phận lực lượng Tiểu đoàn 516 xuất kích xung phong tiêu hao thêm một số. Để cứu vãn tình hình, ngày 24, địch tiếp tục đổ một tiểu đoàn của Trung đoàn 10 xuống ứng cứu giải toả cho đồng bọn còn sống sót; song chúng chẳng những không thực hiện được, mà còn mất thêm hàng trăm binh sĩ nữa. Cuối ngày 24-7, địch buộc phải kết thúc cuộc hành quân.

Như vậy, sau hai ngày chiến đấu lực lượng vũ trang Bến Tre đã loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 500 tên địch, bắn cháy, bắn chìm 28 tàu trên sông, bắn rơi, bắn hỏng 12 trực thăng, đánh bại hoàn toàn cuộc hành quân càn quét của địch, giữ vững vùng giải phóng.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM