Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 12:09:15 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 5  (Đọc 70886 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #40 vào lúc: 19 Tháng Tư, 2010, 11:29:51 pm »


Trọng điểm 2 của Khu IX là thị xã Vĩnh Long - trung tâm điều hành và là điểm xuất phát hành quân đánh phá chiến trưởng Vĩnh - Sa - Trà (Vĩnh Long - Sa Đéc - Trà Vinh) của Mỹ - ngụy. Xác định vị trí quan trọng của Vĩnh Long trong Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, quân khu đã tăng cường cho tỉnh hai tiểu đoàn 306 và 308. Tỉnh có Tiểu đoàn 857 và Tiểu đoàn 2 (mới thành lập), một đại đội đặc công, một đại đội pháo binh 2001, đội biệt động thị xã. Hướng tiến công chủ yếu là nội đô thị xã với mục tiêu quan trọng nhất là Tiểu khu Vĩnh Long do các tiểu đoàn 306, 308 và lực lượng biệt động của thị xã đảm nhiệm. Còn lại Tiểu đoàn 857 và Tiểu đoàn 2, đại đội đặc công, đại đội pháo binh phụ trách khu vực sân bay với các mục tiêu sân bay Vĩnh Long, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 9 và Thiết đoàn 2.

Đúng 1 giờ 30 phút ngày 30-1-1968, từ hướng nam, Tiểu đoàn 306 do đồng chí Nguyễn Đệ chỉ huy đột nhập vào nội đô đồng loạt nổ súng. Bị đánh bất ngờ, địch chống trả yếu ớt, tiểu đoàn nhanh chóng chiếm được khu truyền tin Hoa Lư, Bệnh viện Nguyễn Trung Trực, bao vây và khống chế Dinh tỉnh trưởng, Ty Cảnh sát, Tiểu đoàn 46 bảo an, hậu cứ Tiểu đoàn 43 biệt động quân.

Hướng bắc, Tiểu đoàn 308 vượt sông gặp khó khăn, chỉ có 50 cán bộ, chiến sĩ đi đầu vào được thị xã, đánh chiếm khu Trường Tống Phước Hiệp. Tại đây, địch phản kích quyết liệt, lực lượng ta không phát triển được, bị địch bao vây, thương vong lớn buộc phải rút ra.

Hướng sân bay, đại đội đặc công bí mật đột nhập sâu vào sân bay dùng lựu đạn, thủ pháo phá huỷ máy bay địch. Sau một giờ chiến đấu ta đã phá huỷ, phá hỏng hàng chục chiếc trực thăng, hai chiếc máy bay trinh sát L19. Trong lúc đó, đại đội pháo binh bắn phá khu chuyên viên kỹ thuật và nhà ở của giặc lái Mỹ, hậu cứ Bộ Tư lệnh Sư đoàn 9 ngụy. Tiểu đoàn 857 đánh vào Sở chỉ huy Thiết đoàn 2; Tiểu đoàn 2 đánh chiếm Dinh Quận Mới, hậu cứ Thiết đoàn 2, phá huỷ 10 xe quân sự, chiếm khu căn cứ cố vấn Mỹ và một phần trận địa pháo binh Sư đoàn 9 ngụy, phá hỏng sáu khẩu pháo 105 mm. Địch ở thị xã tập trung lực lượng kể cả xe bọc thép M113, máy bay và pháo hạm trên sông phản kích quyết liệt. Các đơn vị của ta quyết tâm củng cố trận địa tại các vị trí đã chiếm được đánh lui nhiều đợt phản kích của địch.

Trong hai ngày (31-1 và 1-2-1968 ), ta vẫn làm chủ các khu vực đã chiếm, đồng thời tiếp tục tiến công địch. Tiểu đoàn 306 sau khi diệt Tiểu đoàn 43 biệt động quân, tổ chức đánh lấn từng khu vực, chiếm được Toà hành chính tỉnh, đánh bại hàng chục đợt phản kích của địch, bắn cháy 15 xe M113, bắn rơi 5 trực thăng. Tiểu đoàn 308 lợi dụng sơ hở của hải quân Mỹ, vượt sông Long Hồ chiếm một góc Dinh tỉnh trưởng (đường Gia Long).

Ngày 2-2, địch dùng máy bay trực thăng phun lửa huỷ diệt các khu phố trong nội đô, sau đó tập trung lực lượng bộ binh dưới sự yểm trợ của xe bọc thép M113 tiếp tục phản kích hòng đẩy lực lượng ta ra khỏi thị xã. Tiểu đoàn 306 lúc này được bổ sung thêm 500 quân, phần lớn là bộ đội địa phương và du kích tình nguyện đã cùng nhân dân và lực lượng tại chỗ dập lửa bảo vệ tài sản cho đồng bào và cứu chữa những người bị thương. Đồng thời, cán bộ, chiến sĩ trong tiểu đoàn bám công sự, kiên quyết giữ vững trận địa, đẩy lùi các đợt phản kích của địch. Đến ngày 3-2-1968, ta đã chiếm phần lớn thị xã, chỉ còn lại Dinh tỉnh trưởng.

Hoảng sợ trước sức tiến công của Quân giải phóng và để bảo toàn tính mạng, Tỉnh trưởng Huỳnh Ngọc Điệp xuống tàu chạy trốn.

Trước nguy cơ thị xã Vĩnh Long thất thủ, ngày 4-2-1968, sau khi dùng pháo hạm trên sông bắn phá, máy bay ném bom vào nội đô và vùng ven thị xã, địch dùng trực thăng đổ hai tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn 2 (Sư đoàn 9 bộ binh Mỹ) xuống phía sau lộ Cầu Vồng từ Quận Mới đến căn cứ 80, cùng quân ngụy hình thành hai mũi bao vây quân ta trong thị xã. Trước tình hình địch tăng cường lực lượng phản kích quyết liệt, hòng chiếm lại thị xã, Ban chỉ huy mặt trận nhận định: sau sáu ngày đêm chiến đấu ác liệt, ta thương vong nhiều. Nếu giữ quyết tâm đánh chiếm toàn bộ thị xã và trụ lại như kế hoạch sẽ khó bảo toàn lực lượng. Vì vậy cần hết sức khẩn trương tổ chức lực lượng đánh diệt một bộ phận quân Mỹ, đồng thời rút toàn bộ lực lượng ra vùng ven gài thế đánh viện, bao vây thị xã, giải phóng nông thôn. Thực hiện kế hoạch này, 23 giờ ngày 4-2, Tiểu đoàn 306 tập kích một cụm quân Mỹ ở nam cầu Cá Trê diệt một đại đội, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên, mở đường đưa toàn bộ thương binh và tiểu đoàn cơ động ra Phước Hậu, cách thị xã 5 km về phía nam.

Như vậy, Vĩnh Long đã tiến công và làm chủ thị xã trong sáu ngày đêm. Trong sáu ngày đó, “quân và dân Vĩnh Long đã loại khỏi vòng chiến đấu 9.800 tên, có hàng trăm tên Mỹ, trong đó, số chết 4.529 tên, bị thương 2.776 tên, bị bắt và đầu hàng 421 tên, đào rã ngũ 2.074 tên (có 1.200 phòng vệ dân sự và cảnh sát). Ta tiêu diệt 16 đại đội, đánh thiệt hại nặng 4 tiểu đoàn, bắn chìm và bắn cháy 12 tàu chiến trên sông, phá huỷ và bắn rơi 72 máy bay Mỹ, bắn cháy và phá huỷ 70 xe quân sự, có 38 xe M113 và M118, phá huỷ 15 khẩu pháo 105mm và súng cối... Ta hy sinh 228 đồng chí, bị thương 382 đồng chí, bị bắt 10, mất tích 16 đồng chí”1.

Với việc làm chủ thị xã trong sáu ngày, Vĩnh Long cùng Buôn Ma Thuột (Đắc Lắc) giữ được thị xã lâu vào hàng thứ hai (sau thành phố Huế) trên toàn Miền.
___________________________________
1. Vĩnh Long Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1996, tr. 48.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #41 vào lúc: 19 Tháng Tư, 2010, 11:32:30 pm »


Cùng với các trọng điểm của Khu VIII, Khu IX, ở hầu khắp các thị xã, thị trấn trên chiến trường đồng bằng sông Cửu Long, quân và dân ta cũng đồng loạt tiến công và nổi dậy.

Thị xã Mộc Hoá, trọng điểm tiến công và nổi dậy của tỉnh Kiến Tường. Chuẩn bị cho tổng tiến công và nổi dậy, Tiểu đoàn 504 của tỉnh phải đưa về khu. Tỉnh thành lập tiểu đoàn mới (lấy từ các huyện lên). Do phải hành quân xa và vượt sông Vàm Cỏ Tây về thị xã nên ngày 30-1-1968, các đơn vị ở hướng chủ yếu vẫn chưa tiếp cận được mục tiêu. 4 giờ sáng ngày 31-1, cuộc tiến công vào thị xã mới bắt đầu. Tuy đã được cảnh báo trước, song địch vẫn không chống đỡ nổi với cánh quân ta tiến từ hướng đông. Một số địch tháo chạy về phía cầu Cá Rô, số khác ra hàng. Mặc dầu vậy, cánh Tây, lực lượng ta không đến kịp để phối hợp như kế hoạch. Địch củng cố lại lực lượng và tiến hành phản kích, lực lượng cánh Đông bị đẩy lùi và thiệt hại nặng. Đòn tiến công quân sự thực hiện không trọn vẹn, lực lượng chính trị và binh vận cũng không phát huy được hiệu lực. Cuộc tiến công và nổi dậy ở đây đạt kết quả hạn chế.

Tại thị xã Cao Lãnh (trọng điểm tiến công và nổi dậy của tỉnh Kiến Phong), ngày nổ súng cũng bị chậm do các lực lượng bảo đảm không vận chuyển đạn dược và thuốc nổ đến kịp. Đúng 1 giờ ngày 31-1-1968, các lực lượng ta nổ súng tiến công vào thị xã. Tiểu đoàn 1 trên hướng chủ yếu đánh vào Dinh tỉnh trưởng. Địch đề phòng trước, chúng chiếm các điểm cao và địa hình có lợi, tập trung các loại hoả lực đánh chặn rất quyết liệt. Tiểu đoàn 1 phải phân tán từng phân đội nhỏ, lợi dụng các dãy nhà, góc phố chiến đấu với địch, song cũng không đánh chiếm được mục tiêu và không phát triển sâu được vào trong thị xã. Tiểu đoàn 2 (hướng thứ yếu) tiến công vào cư xá Mỹ, đánh thiệt hại Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 16, Sư đoàn 9 ngụy). Địch dùng đạn hoá học ngăn chặn, ta không dứt điểm được mục tiêu.

Ngày 1-2, lực lượng ta tiếp tục bám đánh địch trong thị xã nhưng không phát triển được.

Từ ngày 2 đến ngày 6-2, lực lượng ta rút ra các xã vùng ven, từng lúc đánh vào nội đô thị xã, hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy diệt ác ôn, phá thế kìm kẹp.

Tính chung trong bảy ngày tiến công và nổi dậy, quân và dân Kiến Phong diệt 500 tên địch, đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 41 biệt động quân và Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 16, Sư đoàn 9), gỡ 20 đồn bốt, giải phóng 3 xã Hoà An, Tân Thuận Đông, Tân Thuận Tây, 16 ấp với 50.000 dân1.

Tại thị xã Châu Đốc, trọng điểm tiến công của tỉnh An Giang, vào lúc 2 giờ ngày 30-1-1968, lực lượng vũ trang của tỉnh (một tiểu đoàn) cùng lực lượng chính trị, binh vận đồng loạt tiến công vào các mục tiêu chủ yếu trong thị xã. Chỉ sau vài giờ chiến đấu, các cánh quân của ta đã đánh chiếm hầu hết các mục tiêu. Đến 6 giờ, địch chỉ còn 10 cụm. Chúng tử thủ ở Dinh tỉnh trưởng, nhà Phủ Vị. Chiều 31-1, địch dùng máy bay ném bom và bắn pháo phá huỷ một số khu vực trong thị xã. Đồng thời chúng đổ một tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 21 ngụy xuống sân bay, một đại đội xuống cánh đồng hướng kênh Lò Heo kết hợp với lực lượng tại chỗ phản kích vào nội đô thị xã. Bộ đội ta chiến đấu quyết liệt, diệt nhiều tên địch, bắn cháy, bắn hỏng một số xe M113. Song nhận thấy tình thế bất lợi, nên đêm 31-1, ta rút toàn bộ lực lượng ra khỏi thị xã, trừ một bộ phận chốt giữ cầu. Sáng 1-2, địch phản kích, bộ phận chốt giữ cầu chiến đấu dũng cảm và hy sinh gần hết để chặn địch, bảo đảm cho lực lượng ta rút quân an toàn.

Tại Trà Vinh, lúc 0 giờ ngày 30-1, tiểu đoàn 501 và 509 của tỉnh cùng các đại đội đặc công, pháo binh và bộ đội địa phương các huyện Châu Thành, Càng Long chia ba cánh tiến công vào thị xã. Cánh 1 từ Vàm Trà Vinh đánh vào Dinh tỉnh trưởng. Ta chiếm được một góc dinh, mở cửa khám giải thoát cho hàng trăm cán bộ, chiến sĩ ta bị chúng giam giữ tại đây. Cánh 2 từ Đa Lộc, Tri Tôn đánh chiếm khu vực Rạp hát Thái Bình, cầu Long Bình làm chủ khu vực này. Cánh 3 đánh sân bay, Sở chỉ huy Trung đoàn 14 (Sư đoàn 9).

Cùng với tiến công quân sự, sáng 30-1, quần chúng trong nội đô nổi dậy, kéo vào các trụ sở ngụy quyền và đồn bốt, kêu gọi chồng, con, em mình quay về với cách mạng. 13 giờ, Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 14, Sư đoàn 9) từ Cầu Ngang về phản kích giải vây Dinh tỉnh trưởng. Ta chuyển sang đánh địch phản kích. Cuộc chiến đấu trong nội đô trở nên gay go, quyết liệt, ta không dứt điểm được thị xã. Tỉnh uỷ Trà Vinh chủ trương rút toàn bộ lực lượng ra khỏi thị xã, về các huyện tranh thủ thời cơ địch đang tập trung đối phó ở thị xã, mở rộng vùng giải phóng. Đến ngày 5-2-1968, quân dân Trà Vinh đã tiêu diệt và làm tan rã khoảng 5.000 tên địch, bức hàng, bức rút 50 đồn bốt, giải phóng thêm 14 xã, 5 ấp với trên 100.000 dân.
___________________________________
1. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1998, tr. 166.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #42 vào lúc: 19 Tháng Tư, 2010, 11:33:06 pm »


Tại Sóc Trăng, ngày 30-1-1968, Tiểu đoàn Phú Lợi (lực lượng vũ trang của tỉnh) đánh vào trung tâm thị xã chiếm toàn bộ khu hậu cần, khu gia binh rồi phát triển đến Dinh tỉnh trưởng. Đại đội 301 (của huyện Vĩnh Châu) đánh vào khu cư xá Mỹ, Đại đội 247 (trực thuộc tỉnh) đánh chiếm khu vực hồ Nước ngọt. Một mũi khác đánh sân bay Sóc Trăng. Sau khi chiếm được một số mục tiêu, các đơn vị trụ lại trong thị xã đánh địch phản kích suốt ba ngày liền nhưng sau đó bị thương vong nhiều, buộc phải rút khỏi thị xã về bám trụ tại vùng ven đánh địch.

Tại Bạc Liêu, lực lượng vũ trang tỉnh chia làm hai mũi tiến công vào thị xã. Mũi chủ yếu có một tiểu đoàn bộ binh và một trung đội biệt động. Do nước lớn, bộ đội không vượt được sông theo đúng thời gian quy định. Sáng 30-1-1968, mũi này mới dùng xuồng vượt kênh xáng Bạc Liêu đánh chiếm phường 5, phường 6 sau đó rút ra cầu Kim Cấu - Vĩnh Trạch. Mũi thứ yếu có bốn trung đội bộ binh, một đại đội hoả lực và một đại đội dân quân tiến công từ Châu Thới, qua Tân Tạo tiến đến đầu sân bay rồi phá khám lớn giải thoát cho cán bộ, chiến sĩ và đồng bào bị địch giam giữ ở đây. Sau đó phát triển chiếm bệnh viện, đánh cứ điểm pháo binh của Sư đoàn 21 đóng ở bốt Hội đồng Điều. Địch phản kích quyết liệt, ta không trụ lại được trong thị xã, cứ đêm đánh vào nội đô, ngày lại rút ra, dai dẳng suốt nhiều ngày không dứt điểm được.

Ở thị xã Cà Mau, lúc 0 giờ ngày 30-1-1968, Tiểu đoàn U Minh 2 nổ súng tiến công đánh chiếm chùa Phật Tổ và đột nhập vào các phường 2, 3, 4 làm chủ một đoạn đường dài 2 km trong thị xã. Tiểu đoàn U Minh 3, tuy nổ súng sau 1 giờ (vì đến chậm) vẫn đánh chiếm được một số mục tiêu quan trọng như Nhà thương mới, tiểu khu... Do thiếu chất nổ, đơn vị không mở được cổng Toà hành chính và Dinh tỉnh trưởng. Sáng 31-1-1968, địch cho máy bay ném bom vào trận địa Tiểu đoàn U Minh 3, đồng thời đưa Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 32 ngụy) đánh phía sau đội hình của đơn vị. Tiểu đoàn đã chiến đấu quyết liệt với địch, diệt một đại đội lính cộng hoà.

Cùng lúc, ở phía nam thị xã, du kích các huyện Cái Nước, Ngọc Hiển và các xã Lợi An, Lương Thế Trân, Thanh Điền hình thành một mũi tiến vào nội đô. Lực lượng này đột nhập phường 8, 9 giải tán tề và phòng vệ dân sự, diệt ác ôn, làm chủ địa bàn.

Phối hợp với thị xã, quân dân huyện Duyên Hải (Ngọc Hiển) bao vây Chi khu Năm Căn suốt 15 ngày buộc địch phải rút chạy về Đồng Cùng. Nhân dân nổi dậy diệt ác ôn, phá kìm kẹp, san bằng chi khu, giải phóng hoàn toàn huyện.

Tại Rạch Giá, 3 giờ sáng 30-1, Tiểu đoàn 207 (của tỉnh) chia làm nhiều mũi đánh vào nội đô. Sau 15 phút chiến đấu, ta làm chủ một góc trung tâm hành quân của tiểu khu, Nhà bưu điện, Trại cảnh sát, Ty Ngân khố, sau đó phát triển đánh sang Dinh tỉnh trưởng, Khám lớn. Đến Cầu Đôi, lực lượng biệt động dẫn đường hy sinh gần hết, bộ đội không thông thuộc địa bàn nên không phát triển tiếp được. Địch bắt đầu phản kích. Các lực lượng ta chiến đấu dũng cảm, song không đánh chiếm được các mục tiêu như phương án đã đề ra lại bị thương vong nhiều. 5 giờ sáng, ta buộc phải rút ra Rạch Giồng chuẩn bị đánh địch phản kích và mở đợt tiến công tiếp.

Phối hợp với đòn đánh vào thị xã, lực lượng vũ trang, bán vũ trang và nhân dân các huyện trong tỉnh bằng ba mũi giáp công nổi dậy bao vây chi khu, bức rút nhiều đồn bốt, giải phóng một số vùng nông thôn.

Như vậy Tết Mậu Thân 1968, gần như trong cùng một lúc (tập trung vào ba ngày 30, 31-1 và 1-2 tức mùng 1, mùng 2 và mùng 3 Tết - theo lịch miền Nam) hầu khắp các thành phố và thị xã, thị trấn trên toàn miền Nam, thực hiện kế hoạch tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt, đánh vào các cơ quan đầu não từ trung ương đến địa phương của địch.

Những ngày đầu, bị đánh bất ngờ, địch bị động đối phó. Có nhiều nơi như Mỹ Tho, Bến Tre... địch phải dùng máy bay ném bom và bắn phá huỷ diệt từng khu phố. Đó là biểu hiện của sự bất lực trước sức tiến công mãnh liệt của Quân giải phóng và sự tàn ác, phi nhân tính của Mỹ và bè lũ tay sai.

Cuộc tổng tiến công vào các thành phố, thị xã giảm dần, trừ mặt trận Đường 9 - Khe Sanh chiến sự đang quyết liệt.

Tại đây, sau khi diệt cứ điểm Làng Vây (7-2-1968 ), Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định vây hãm Tà Cơn, buộc địch phải đưa quân đến giải toả đúng ý đồ chiến lược như đã đặt ra lúc ban đầu. Cuộc vây hãm Tà Cơn bắt đầu từ ngày 10-2-1968. Sư đoàn 325 hoạt động ở hướng bắc và tây bắc Tà Cơn kiềm chế địch ở các điểm cao 845, 832 và Động Tri tìm cách diệt một đến hai cứ điểm phòng ngự của địch, mở đường vào vây hãm chặt hơn nữa.

Ở phía nam, Trung đoàn 9 (Sư đoàn 304) tổ chức các tiểu đoàn luân phiên vào vây lấn. Trung đoàn 24 và 66 sẵn sàng đánh quân tiếp viện.

Do phải đối phó với cuộc Tổng tiến công của ta ở Trị - Thiên - Huế và ta đánh chưa đủ mạnh ở mặt trận Đường 9, nên địch chưa đưa quân giải toả mà chủ yếu dừng hoả lực phi pháo bắn phá vào các trận địa vây lấn của ta, đồng thời sử dụng lực lượng tại chỗ chiếm giữ thêm điểm cao 550 ở phía bắc, 595 và 573 ở phía tây để hoàn chỉnh trận địa cố thủ Tà Cơn.

Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh chiến dịch chuyển phương án từ vây hãm sang vây lấn, tích cực tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, phá huỷ phương tiện chiến tranh, triệt tiếp tế đường không, cắt tiếp tế đường bộ, đưa địch vào thế khốn quẫn hơn nữa, bức chúng phải đưa quân ra ứng cứu giải toả càng sớm càng tốt.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #43 vào lúc: 19 Tháng Tư, 2010, 11:34:10 pm »


Giữa tháng 2-1968, Sư đoàn 325 được điều vào Tây Nguyên, Trung đoàn 66 vào thay thế Sư đoàn 325. Trước đó, thực hiện chủ trương vây hãm, ta chủ yếu dùng hoả lực cối 82 mm, súng máy 12,7 mm kiềm chế địch từ xa. Nay tiến hành vây lấn, Trung đoàn 66 chỉ để một lực lượng nhỏ kiềm chế điểm cao 832 và 845, lực lượng còn lại áp sát hàng rào, dùng mìn định hướng phá vật cản, đào hầm, hào tiến dần vào bên trong cứ điểm, uy hiếp trực tiếp Tà Cơn ở phía tây.

Phía nam Tà Cơn, cuối tháng 2-1968, các mũi vây lấn của Trung đoàn 9 đã cách tiền duyên phòng ngự địch 40-50m. Đêm 28-2 và ngày 1, 2-3 ta đã tổ chức đánh chiếm một số đoạn chiến hào nhưng không thành.

Hướng bắc và đông Tà Cơn, do địa hình quá hiểm trở, ta không có đủ lực lượng để uy hiếp địch.

Cuộc bao vây của ta ngày càng siết chặt, địch trong cứ điểm Tà Cơn gặp nhiều khó khăn trong sinh hoạt. Việc tiếp tế của chúng phải thực hiện chủ yếu vào ban đêm, tinh thần binh lính địch hết sức căng thẳng. Chúng cố phản kích tại chỗ nhằm đẩy lực lượng ta ra xa. Trong hơn một tháng từ cuối tháng 2 đến cuối tháng 3-1968, địch đã bốn lần tổ chức phản kích nhưng đều thất bại. Lần thứ nhất vào ngày 25-2-1968, địch dùng hai đại đội thủy quân lục chiến Mỹ chia thành hai mũi đánh vào chốt của một đơn vị thuộc Trung đoàn 66 chiếm giữ. Trận đánh kéo dài từ 8 giờ sáng đến 14 giờ 45 phút chiều. Kết quả, ta diệt hơn 100 tên, số còn lại bỏ chạy. Ngày 8-3, địch lại dùng một đại đội biệt kích ngụy đánh vào chốt của một phân đội thuộc Trung đoàn 9 chiếm giữ ở đông nam Tà Cơn. Ta có lợi thế ở trên cao, tầm khống chế rộng, nên sớm phát hiện địch và khi chúng lọt vào tầm hoả lực của ta thì tiêu diệt. Lần thứ 3, ngày 28-3, một đại đội Mỹ đánh ra chốt 3 ở phía tây (Châu Lang Chánh) cũng bị ta đẩy lùi. Ngày 30-3, địch đưa hai đại đội Mỹ, hai đại đội ngụy có xe tăng, pháo binh yểm hộ đánh chốt 3 lần thứ hai. Sau nửa ngày chiến đấu, ta diệt 300 tên.

Sau bốn lần phản kích không đẩy được quân ta ra xa trận địa, ngược lại bị tổn thất nặng, địch chuyển sang dùng không quân ném bom kết hợp pháo binh bắn phá ác liệt vào đội hình ta. Bộ đội ta vẫn kiên cường bám trụ. Suốt 50 ngày đêm vây lấn Tà Cơn, ta đã tiêu hao tiêu diệt thêm một bộ phận sinh lực địch (chủ yếu là Mỹ), thu hút phần lớn hoả lực của không quân và pháo binh Mỹ ra Đường 9 - Khe Sanh, tạo thuận lợi cho các chiến trường khác, trực tiếp là thành phố Huế tiếp tục tiến công và nổi dậy.

Trên toàn miền Nam, sau một thời gian củng cố, tổ chức, xốc lại đội hình, từ ngày 17-2-1968, quân và dân ta lại đồng loạt tiến công vào hàng chục thành phố, thị xã, hàng trăm thị trấn, quận lỵ và nhiều căn cứ quân sự của địch.

Tại mặt trận Tây Nguyên, chỉ trong vòng chưa đầy một tháng (từ ngày 17-2 đến ngày 15-3-1968 ), ta đã đánh trên 100 trận, loại khỏi vòng chiến đấu hàng ngàn tên địch, đa số là Mỹ. Nổi bật về thành tích chiến đấu là Trung đoàn 95, đơn vị đặc trách đánh giao thông trên đường 19. Trong tháng 3-1968, trung đoàn đã diệt 145 xe quân sự các loại. Cùng với Trung đoàn 95 có Trung đoàn 18 (diệt 98 xe, bắn rơi 17 máy bay), Trung đoàn 320 (diệt Tiểu đoàn 4 - Trung đoàn 45 ngụy ở bắc Buôn Ma Thuột), Tiểu đoàn 6 - Trung đoàn 24 (diệt 2 đại đội của Lữ đoàn dù 173 Mỹ ở Kon Tum).

Ở cực nam Trung Bộ, ngày 18-2-1968, Tiểu đoàn 840 và Đại đội 482 đặc công đánh vào thị xã Phan Thiết (trọng điểm 1 của Khu VI). Mục tiêu chính của lần tiến công này là Tiểu khu Bình Thuận, Ty Cảnh sát và Nhà lao. Sau bốn ngày chiến đấu, ta chiếm giữ một số mục tiêu, phá được nhà lao, giải thoát cho 780 người bị địch giam giữ. Địch phản kích quyết liệt, chúng dừng máy bay và pháo hạm ném bom, bắn phá bừa bãi vào trung tâm thị xã, ta phải chuyển lực lượng ra vùng ven tiếp tục đánh địch giải toả. Tại trọng điểm 2 (Đà Lạt), Tiểu đoàn 186 cùng Đại đội 810 và Đội biệt động 860 của tỉnh đánh vào Trường chiến tranh chính trị, trận địa pháo, khu ấp Đa Thành, từ đó phát triển tiến công vào trung tâm thành phố. Vào đến tuyến Kim Thạch - Vạn Kiếp, lực lượng ta bị Liên đoàn 2 biệt động quân ngụy ngăn chặn. Sau khi đánh, diệt hàng trăm tên địch, đến 21 giờ ngày 19-2, ta rút khỏi vùng Kim Thạch. Trong lúc đó ở hướng tây nam của thành phố, Tiểu đoàn 145 (thiếu), Đại đội 816, Đội biệt động 820 đánh chiếm các ấp Du Sinh, An Thành, Nam Thiên... pháo kích tiểu khu và Toà hành chính ngụy, song ta cũng bị địch ngăn chặn không phát triển được. Trước tình hình đó, ngày 21-2-1968, Bộ chỉ huy tiền phương quyết định chuyển phần lớn lực lượng của Tiểu đoàn 186 và Tiểu đoàn 145 về hoạt động ở nông thôn (trọng điểm là huyện Đức Trọng) chỉ để lại Đại đội 810 và các đội biệt động tiếp tục đánh nhỏ, kìm giữ địch.

Ở Nam Bộ, cùng với trọng điểm Sài Gòn, đêm 17 rạng ngày 18-2-1968, ta đồng loạt tiến công vào 11 thị xã, 17 thị trấn, 7 sân bay.

Tại Mỹ Tho, sau cao điểm 1, địch đã tăng cường lực lượng phòng thủ thành phố, nên bước vào cao điểm 2, đêm 17-2-1968, chỉ có một bộ phận Tiểu đoàn 514 thọc được vào hướng đông nam thành phố, diệt một xe M113, một lô cốt tại cầu Quay, bắn cháy một tàu trên sông Bảo Định. Còn lại trung đoàn 1 và 2 của quân khu từ ngày 19 đến ngày 29-2-1968 không đánh được vào trong nội đô mà chỉ đánh địch phản kích ở các xã vùng ven như Đạo Thạnh, Mỹ Phong, Thanh Bình, Mỹ Tịnh An...

Thị xã Châu Đốc, lực lượng ta cũng không đánh sâu được vào trong mà chỉ tiến công vào sân bay Mỹ Đức và điểm cao Núi Sam.

Thành phố Cần Thơ, từ vùng ven lộ Vòng Cung (nơi các lực lượng vũ trang ta rút ra trụ lại đánh địch từ ngày 4-2-1968 ), 1 giờ sáng ngày 18-2, một bộ phận đặc công và Tiểu đoàn 307 (của quân khu) tiến công sân bay Lộ Tẻ, phá huỷ 29 máy bay (phần lớn là trực thăng), đốt cháy một kho xăng dầu và một kho đạn rốc két, phá huỷ hai xe vận tải.

8 giờ sáng, ta rút khỏi sân bay. Địch dùng Tiểu đoàn 42 biệt động quân đuổi theo quân ta đến rạch Rau Răm. Tại đây Tiểu đoàn 307 chiến đấu quyết liệt, đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn này.

Cũng trong ngày 18-2, địch đưa Tiểu đoàn 3 (Lữ đoàn 2, Sư đoàn 9) cùng ba tiểu đoàn chủ lực và bảo an ngụy, có một chi đoàn M113 và máy bay yểm trợ mở cuộc hành quân phản kích vào An Bình và Long Tuyền (hai xã thuộc ngoại ô thành phố Cần Thơ). Đây là lần đầu tiên bộ binh Mỹ trực tiếp tham chiến ở miền Tây Nam Bộ. Các lực lượng ta chặn đánh quyết liệt diệt gần 300 tên địch, bắn rơi 2 máy bay.

Sáng 20-2, một tiểu đoàn khác của Lữ đoàn 2 tổ chức đánh vào sau lưng đội hình ta. Lực lượng này bị ta chặn đánh, diệt gọn một đại đội.

Liên tục trong tháng 3-1968, các đơn vị thuộc quân khu, tỉnh và thành phố hoạt động trên địa bàn Cần Thơ tiến công vào lực lượng địch đi giải toả, diệt hàng trăm tên. Nổi bật nhất là trận đánh hai tiểu đoàn bộ binh thuộc Sư đoàn 21 ngụy tại rạch Rau Răm. Nhiều trận pháo kích vào các căn cứ quân sự địch trong thành phố được tiến hành gây cho địch nhiều thiệt hại. Phối hợp với lực lượng vũ trang, dân quân du kích các xã, ấp và nhân dân nổi dậy gỡ hầu hết đồn bốt trong lộ Vòng Cung, mở thông đường hành lang tiếp tế, tải thương. Trải qua 60 ngày đêm, quân và dân Cần Thơ bám trụ kiên cường, liên tục đánh địch phản kích ở vùng ven, lộ Vòng Cung, uy hiếp địch trong thành phố Cần Thơ, diệt 1.540 tên địch, làm bị thương 1.409 tên, bắn rơi và phá huỷ 129 máy bay, bắn cháy 3 xe M113. Tuy không chiếm giữ được thành phố trong thời gian dài như một số thành phố khác, song việc bám trụ kiên cường trong 60 ngày đêm ở vùng ven, đánh địch phản kích của quân và dân Cần Thơ là một thắng lợi lớn, thu hút một lực lượng địch tập trung đối phó ở đây, tạo thuận lợi cho các tỉnh khác ở đồng bằng sông Cửu Long tiến công và nổi dậy.

Tại thị xã Sa Đéc, ngày 20-2-1968, ta đánh vào Trung đoàn 15, Sở chỉ huy Sư đoàn 9 ngụy, làm chủ một phần thị xã trong hai đêm, sau đó rút ra vùng ven đánh địch phản kích.

Cùng thời gian này, tiểu đoàn 306 và 308 kết hợp với đặc công, pháo binh tập kích vào sân bay, trận địa pháo, bao vây thị xã Vĩnh Long, đánh quân viện, diệt 2 đoàn tàu trên sông Măng Thít và Cái Ngang, bắn chìm 22 tàu, đánh thiệt hại 3 tiểu đoàn địch, gỡ trên 150 đồn bốt, làm chủ một đoạn lộ 4 và lộ 7.

Ngày 25-2-1968, bộ đội đặc công kết hợp với pháo binh của Quân giải phóng tiến công vào thị xã Long Xuyên.

Đầu tháng 3-1968, ta còn tiến công địch ở nhiều thị trấn, quận lỵ và một số thị xã, song nhìn chung, từ đây áp lực của ta quanh các đô thị giảm dần. Trên thực tế cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã kết thúc...
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #44 vào lúc: 19 Tháng Tư, 2010, 11:46:44 pm »


*
*   *

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã giành được thắng lợi to lớn. Cùng một lúc, lực lượng vũ trang và nhân dân ta ở miền Nam đã tiến công vào 5 trên 6 thành phố, 37 trên 44 thị xã, thành phố khác, 64 trên 242 thị trấn, quận lỵ. Hầu hết các cơ quan đầu não của Mỹ - ngụy từ trung ương đến địa phương đều bị ta tiến công. Quân ta đã đánh trúng 4 bộ tư lệnh quân đoàn, 8 trên 11 bộ tư lệnh sư đoàn quân đội Sài Gòn, 2 bộ tư lệnh biệt khu, 2 bộ tư lệnh dã chiến Mỹ, 30 sân bay trong đó có 11 trên 14 sân bay lớn nhất của Mỹ ở miền Nam. Đây là cuộc tiến công chiến lược quy mô rộng lớn nhất, cường độ mãnh liệt nhất, đều khắp nhất từ trước đến nay. Các mục tiêu quan trọng nhất như Bộ Tổng tham mưu ngụy, Biệt khu Thủ đô, Dinh Tổng thống, Toà đại sứ Mỹ, Đài phát thanh, Tổng nha cảnh sát... đều bị tiến công ác liệt. Đặc biệt cuộc chiến đấu anh dũng liên tục suốt 25 ngày đêm của quân và dân thành phố Huế góp phần rất vẻ vang vào thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của miền Nam anh hùng. Sài Gòn với việc làm chủ Tòa đại sứ Mỹ trong sáu tiếng đồng hồ làm cho cả nước Mỹ và thế giới kinh ngạc. Hãng thông tấn Pháp AFP ngày 3-2-1968 đã bình luận: “Đây chắc chắn là chiến trường rộng lớn nhất trong các cuộc chiến tranh. Toàn bộ nước Việt Nam đều bốc lửa từ Khe Sanh đến Cà Mau”. Chính tướng Oétmolen, Tổng chỉ huy lực lượng quân sự Mỹ ở miền Nam lúc đó phải thừa nhận: “Việt cộng đã đưa chiến tranh đến các thành phố, các đô thị, đã gây thương vong, thiệt hại và nền kinh tế bị phá hoại... các trung tâm huấn luyện bị đóng cửa. Nói theo quan điểm thực tế thì chúng ta (Mỹ) phải công nhận đối phương (cộng sản) đã giáng cho Chính phủ Nam Việt Nam một cú đấm nặng nề”1.

Với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, lần đầu tiên trong nhiều năm tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, toàn bộ hệ thống phòng thủ đô thị của Mỹ - ngụy bị quân và dân miền Nam tiến công. Hậu phương, hậu cứ chiến tranh của địch trong chốc lát bỗng trở thành chiến trường, nơi đọ sức quyết liệt giữa hai bên tham chiến trong nhiều tuần, nhiều tháng.

Trong cuộc đọ sức quyết liệt đó, quân và dân ta bằng lối đánh táo bạo, bất ngờ đã tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, phá huỷ, phá hỏng nhiều vũ khí và phương tiện chiến tranh, làm rối loạn hậu phương, hậu cứ an toàn của địch. Theo báo cáo của Bộ Tổng tham mưu quân lực Việt Nam Cộng hoà thì trong tháng 2 và 3-1968, quân đội Sài Gòn bị tổn thất 20.977 tên, có 4.954 chết. Quân Mỹ và đồng minh tổn thất 24.013, có 4.124 chết2. Con số thực tế chắc còn cao hơn nhiều. Điều quan trọng là Quân giải phóng miền Nam bằng một lực lượng không nhiều đã có thể mở cuộc tiến công rộng khắp, đồng loạt vào hàng chục thành phố, thị xã, hàng trăm thị trấn trên toàn miền Nam. Để tránh thất bại, Mỹ đã phản ứng bằng bất cứ thủ đoạn nào kể cả việc dùng hoả lực phi pháo, máy bay và thiết giáp để san bằng nhiều khu phố vốn là hậu phương chiến tranh của chúng. Tại Huế “hỏa lực Mỹ đã biến 80% thành phố thành gạch vụn”3. Còn ở Mỹ Tho, một nửa thị xã bị san bằng bởi bom, pháo Mỹ. Một sĩ quan Mỹ tuyên bố trong lúc các cộng sự đang tàn phá thị xã Bến Tre: “Cần phải huỷ diệt thành phố này để cứu nó”.

Trong lúc Mỹ - ngụy phải tập trung lực lượng ở các nơi về cứu nguy cho đô thị thì các vùng nông thôn bị bỏ ngỏ. Chớp lấy thời cơ này, lực lượng vũ trang tại chỗ đã hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy giáng một đòn nặng nề vào hệ thống chính quyền cơ sở địch ở nông thôn, giải phóng một số vùng. Trong đợt Tết, phối hợp với đòn tiến công quân sự đánh vào các đô thị, ta đã nổi dậy giải phóng thêm 1.600.000 dân, 100 xã, hơn 600 ấp chiến lược, dinh điền. Chương trình “bình định” của địch tan vỡ từng mảng. Trong báo cáo gửi Tổng thống Giônxơn ngày 27-2-1968, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ, tướng Uylơ (Wheeler) đã thú nhận: “Trên một phạm vi rộng lớn, hiện nay, Việt cộng nắm quyền kiểm soát nông thôn”4. Chương trình bình định nông thôn mà khi ấy Mỹ gọi là “chương trình phát triển cách mạng quốc gia” bị “thụt lùi nghiêm trọng” ở nhiều nơi. “Hiện không rõ lúc nào hoặc thậm chí không biết có thể làm cho chương trình phát triển cách mạng trở lại với hình thức ban đầu của nó không. Chừng nào Việt cộng còn rình mò ở vùng nông thôn thì ở nhiều nơi không thể nói chính xác chương trình này sẽ như thế nào”5. Uylơ không ngần ngại kết luận: “Không còn nghi ngờ gì nữa là chương trình phát triển cách mạng đã bị thụt lùi nghiêm trọng”6. Còn văn phòng hệ thống phân tích tình hình thuộc Lầu Năm Góc thì đánh giá: “Cuộc tiến công (Tết) hình như đã vĩnh viễn giết chết chương trình (bình định)”. Nói về thất bại của chương trình này, Hãng tin Anh Roitơ ngày 14-2 bình luận “Cuộc chiến tranh khác (chương trình bình định) thành một vấn đề dở sống dở chết. Chương trình ưu tiên hành động này bị thiệt hại nhiều nhất trong đợt tiến công Tết của Việt cộng”. Ngày 16-2, hãng này đưa con số cụ thể: “Chương trình bình định thiệt hại nặng ở 13 tỉnh, thiệt hại vừa ở 16 tỉnh”.
__________________________________
1. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Sđd, tr. 437.
2. [i]Cuộc Tổng công kích - tổng khởi nghĩa của Việt cộng Mậu Thân 1968[/i], Sđd, tr. 35.

3. Gabrien Côncô: Giải phẫu một cuộc chiến tranh, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1989, t. 1, tr. 287.
4÷6. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ về chiến tranh Việt Nam, Tlđd, t.2, tr. 267, 249.[/size]
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #45 vào lúc: 19 Tháng Tư, 2010, 11:48:25 pm »


Như vậy trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân ta không chỉ đưa chiến tranh vào tận hang ổ của Mỹ - ngụy ở đô thị mà còn giáng một đòn nặng vào chương trình “bình định” của địch ở nông thôn. Sự kiện Tết Mậu thân 1968 đã làm đảo lộn hoàn toàn thế bố trí chiến lược của Mỹ - ngụy trên toàn miền Nam, đẩy chúng lún sâu vào thế phòng ngự bị động. Thành công của Tết Mậu Thân đã giáng một đòn quyết liệt vào uy thế của quân đội Mỹ trên chiến trường Việt Nam, làm suy giảm vị trí và ảnh hưởng của chính quyền và quân đội Sài Gòn cả ở thành thị lẫn nông thôn, khiến cho giới lãnh đạo cao cấp Oasinhtơn phải bàng hoàng, sửng sốt. Rôbớt Kennơđi - thượng nghị sĩ Mỹ đã phải thốt lên rằng: Tại sao nửa triệu lính Mỹ, có 70 vạn lính Nam Việt Nam cộng tác, có ưu thế hoàn toàn trên không và ngoài biển, được cung cấp quá đầy đủ và được trang bị những vũ khí hiện đại nhất lại không có khả năng bảo vệ được thành phố khỏi bị đối phương tấn công. Điều này cũng có nghĩa là, trên phương diện chỉ đạo chiến tranh và tổ chức chiến đấu, Đảng ta, quân đội ta có những nét sắc sảo, táo bạo và mưu lược. Chính Bộ Quốc phòng Mỹ khi tổng kết chiến tranh Việt Nam đã thừa nhận: “Nhờ nghiên cứu các phương pháp và thói quen có thể dự đoán được của Mỹ mà đối phương đã vạch ra kế hoạch nghi binh và phân tán chiến lược của họ. Trái lại sự hiểu biết của Mỹ về đường lối chiến lược của địch nông cạn và chủ quan hơn”1. “Chiến lược của địch (VC) thể hiện sự thống nhất và gắn bó”2.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân nổ ra đúng vào thời điểm chính trị nóng bỏng ở nước Mỹ - khi cuộc vận động bầu cử Tổng thống Mỹ đang sôi động. Vào thời điểm này, Mỹ đã trải qua ba năm trực tiếp tham chiến ở Việt Nam. Những nỗ lực của Mỹ đã lên gần đến đỉnh điểm. Tính đến tháng 12-1967, Mỹ đã huy động vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam nửa triệu quân với 40% số sư đoàn bộ binh sẵn sàng chiến đấu của nước Mỹ, 30% lực lượng không quân chiến thuật, 1/3 lực lượng hải quân. Lực lượng dự trữ dành cho một cuộc “chiến tranh cục bộ” Mỹ đã dùng hết, thậm chí, Mỹ còn sử dụng cả một phần lực lượng dự trữ dành cho chiến lược toàn cầu, chi phí cho chiến tranh Việt Nam tính đến năm 1968 lên tới trên 70 tỷ đôla (gấp ba lần chiến tranh Triều Tiên). Gánh nặng chiến tranh Việt Nam đã ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế và xã hội nước Mỹ, đến chiến lược toàn cầu và xây dựng quốc phòng của Mỹ. Cuộc chiến tranh Việt Nam đã đi vào từng gia đình người Mỹ, thức tỉnh họ và trở thành sức ép hết sức nặng nề đối với chính quyền Oasinhtơn. Xã hội Mỹ bị cuộc chiến tranh Việt Nam làm rạn nứt trầm trọng, nội bộ giới cầm quyền Mỹ bị chia rẽ sâu sắc. Trong bối cảnh tình hình nước Mỹ đang rối ren như vậy, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là một cú sốc đối với Mỹ, đặt Tổng thống L. Giônxơn trước triển vọng nếu tiếp tục cuộc chiến tranh phải động viên lính trù bị quy mô lớn và “đặt đất nước về mặt kinh tế vào tình thế nửa chiến tranh” mà trong hơn ba năm mở rộng chiến tranh cục bộ, Giônxơn hết sức tránh. Nói như nhà sử học Gabrien Côncô: “Tết là sự đối đầu với thực tế... Tết trở thành điểm ngoặt trong tính toán của chính quyền Mỹ... Tết cho thấy rằng đã đến lúc phải tập trung vào những hạn chế của chế độ. Nếu theo đuổi một quy mô leo thang với mức cao hơn nữa thì sẽ gây thiệt hại không kể xiết cho vị trí kinh tế của Mỹ ở trong nước cũng như ở nước ngoài, cho sức mạnh quân sự của Mỹ ở những nơi khác và cho cả đời sống chính trị của Mỹ nữa. Đó là cái giá mà ít ai nghiêm chỉnh muốn trả”3.

Giới lãnh đạo Mỹ thừa nhận rằng: Tết Mậu Thân 1968 đã đặt họ “trước một bước rẽ trên đường đi” và “các giải pháp để lựa chọn đã phơi bày trong một thực tế tàn nhẫn”4.

Theo báo cáo mà Uylơ gửi cho Giônxơn sau chuyến khảo sát Sài Gòn cuối tháng 2-1968, “để ngăn chặn và đánh bại mối đe doạ mới của địch (CS), Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ đã yêu cầu cho thêm lực lượng vượt qua con số khống chế là 525.000 người đã ấn định trong chương trình năm. Tổng quân số xin thêm là 206.756 người, như vậy đề nghị mức quân số khống chế mới là 731.756 người, tức là toàn bộ lực lượng được triển khai ở Việt Nam tính đến cuối 1968”5.

Với yêu cầu này, Clípphớt (Clifford) - người được Giônxơn chỉ định thay Mắc Namara làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, sau cuộc họp đầu tiên với nhóm cố vấn cao cấp (29-2-1968 ) đã đệ trình lên Tổng thống một bị vong lục, xác định: “Cho dù có thêm 200.000 quân, chúng ta cũng không thể đẩy được địch ra khỏi Nam Việt Nam hoặc tiêu diệt được lực lượng của họ”. Clípphớt còn cảnh báo với Tổng thống rằng: “Nếu leo thang thêm nữa sẽ gây ra những nguy cơ lớn là làm nổ ra một cuộc khủng hoảng trong nước với quy mô chưa từng có”6.

Hậu quả Tết Mậu Thân đối với Mỹ thật nặng nề. Nó không chỉ thể hiện ở sự chia rẽ gay gắt trong nội bộ giới lãnh đạo Mỹ, ở sự khủng hoảng về chiến lược của Mỹ tại Nam Việt Nam mà cả sự phẫn nộ của công chúng Mỹ với Chính phủ. Phong trào phản đối chiến tranh, đòi rút hết quân Mỹ về nước dưới tác động của Tết Mậu Thân bùng lên mạnh mẽ ngay chính tại nước Mỹ.

Với sức ép của Tết Mậu Thân, cùng với việc thay Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng thống Mỹ Giônxơn còn cách chức Oétmolen, Tổng chỉ huy quân Mỹ ở Việt Nam, đưa Abram lên thay (9-3-l968 ). Đồng thời, Giônxơn tuyên bố không ra tranh cử tổng thống nhiệm kỳ tiếp theo.

Về chiến lược quân sự, Nhà Trắng và Lầu Năm Góc quyết định chuyển từ “tìm diệt” sang “quét và giữ”, không chấp nhận tăng quân như Oétmolen đã yêu cầu mà tăng cường củng cố, nâng cao hiệu lực chiến đấu cho quân ngụy Sài Gòn nhằm cải thiện thế phòng ngự, không để thua hơn, làm hậu thuẫn cho đàm phán, từng bước “phi Mỹ hoá chiến tranh”, dần dần chấm dứt sự dính líu trên bộ của quân Mỹ ở Nam Việt Nam.

Ngày 31-3-1968, Mỹ chính thức tuyên bố ngừng mọi hoạt động bằng không quân và hải quân chống Việt Nam Dân chủ Cộng hoà từ vĩ tuyến 20 trở ra và đồng ý bước vào đàm phán với Chính phủ ta.

Với quyết định này, Chính quyền Mỹ đã mặc nhiên thừa nhận sự thất bại quân sự, chính trị trên chiến trường Việt Nam và sự phá sản hoàn toàn của chiến lược chiến tranh cục bộ.

Đây là một thắng lợi hết sức to lớn và toàn diện mà Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 mang lại.
__________________________________
1, 2. Tóm tắt Tổng kết chiến tranh Việt Nam của Bộ Quốc phòng Mỹ, Thư viện Trung ương quân đội dịch, Hà Nội, 1982, tr. 6, 7.
3. Gabrien Côncô: Giải phẫu một cuộc chiến tranh, Sđd, t.1, tr. 311, 312.
4÷6. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ về chiến tranh Việt Nam, Tlđd, t.2, tr. 47, 50, 243.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #46 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2010, 11:34:53 pm »


CHƯƠNG 21
CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY
HÈ - THU 1968


I- TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY HÈ 1968

Thắng lợi to lớn toàn diện của quân dân ta trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 làm rung chuyển toàn bộ chiến trường miền Nam, Đông Dương và cả nước Mỹ. Đế quốc Mỹ buộc phải huỷ bỏ chiến lược “tìm diệt” thay vào đó chiến lược “quét và giữ”. Thế bố trí chiến lược của địch bị đảo lộn.

Chiến lược phòng ngự “quét và giữ” được Nhà Trắng và Lầu Năm Góc giao cho A.Bram, Tư lệnh lực lượng đồng minh Mỹ ở Nam Việt Nam tổ chức thực hiện. Để thực hiện chiến lược “quét và giữ” có hiệu quả, giữa tháng 4-1968, Clípphớt, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ chỉ thị cho Bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở Nam Việt Nam thực thi ba biện pháp cấp bách: một là, ra sức xây dựng tuyến phòng thủ vững chắc ở trong và xung quanh các thành phố, các căn cứ, các tiểu khu, chi khu quân sự các điểm chốt trên các trục đường giao thông. Hai là, lập những vành đai đủ sức ngăn chặn các cuộc tiến công mới của ta. Đẩy chiến tranh ra xa các thành phố, thị xã quan trọng có ý nghĩa chiến lược. Ba là, mở các cuộc hành quân càn quét (kể cả các cuộc hành quân cảnh sát) để giải toả các thành thị, căn cứ, đường giao thông, ngăn chặn triệt để Quân giải phóng tiến công.

Để thực hiện kế hoạch chiến lược trên, Bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở Sài Gòn đã dồn quân từ các nơi về giữ các thành thị, nhất là các thành phố lớn, các mục tiêu chiến lược quan trọng. Các đơn vị viễn chinh Mỹ: Sư đoàn 1 bộ binh (Anh cả đỏ) từ mặt trận biên giới Bình Long, Phước Long đã kéo về Lai Khê, Bến Cát, chốt giữ trục đường 13, bảo vệ phía bắc Sài Gòn. Sư đoàn 25 bộ binh (Tia chớp nhiệt đới) chuyên hoạt động các khu vực Dầu Tiếng, Cà Tum, Thiện Ngôn (Tây Ninh), kéo về Đồng Dù, Trảng Bàng ngăn chặn các cuộc tiến công của Quân giải phóng từ hướng tây - tây bắc. Sư đoàn dù 101 (Thiên thần mũ đỏ) đang tác chiến ở Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, Xuân Lộc (Biên Hoà) tập trung về bảo vệ phía đông Sài Gòn. Sư đoàn 9 bộ binh đang càn quét các khu vực tây sông Tiền, sông Hậu vội vã kéo về “đại bản doanh” Mỹ Tho, rải quân bảo vệ đường số 4 đi các tỉnh Tây Nam Bộ. Ở Khu V, Sư đoàn lính thuỷ đánh bộ số 1 đang hoạt động ở khu vực An Lão, Trà Bồng, Ba Tơ (Quảng Ngãi), Quế Sơn, Đại Lộc (Quảng Nam) đã kéo về chốt giữ các vùng trọng yếu trên đường số 1 và các căn cứ quân sự xung quanh thành phố Đà Nẵng. Sư đoàn “kỵ binh bay” số 1 được tăng cường cho mặt trận Quảng Trị phải tập trung 2/3 lực lượng bảo vệ thành phố Huế. Sư đoàn bộ binh số 4 hoạt động ở tây bắc Đắc Tô (Kon Tum) và khu vực Đức Cơ, Chư Nghé (tây Gia Lai) kéo về bảo vệ thị xã Kon Tum và Plâycu. Các sư đoàn chủ lực ngụy được đẩy ra phía trước cùng với quân Mỹ mở các cuộc hành quân giải toả hòng đẩy chủ lực ta ra xa các đô thị, căn cứ quân sự, bảo đảm an ninh cho chính quyền Sài Gòn.

Thực tế diễn biến trên chiến trường cho ta thấy: ở tuyến phòng thủ Sài Gòn - Gia Định, Mỹ - ngụy bố trí ngót 100 tiểu đoàn, nhưng lực lượng này không chỉ bố trí ở khu vực Sài Gòn - Gia Định, mà chúng phải dùng 2/3 quân số rải khắp 11 tỉnh vùng Đông Nam Bộ. Ở tuyến phòng thủ năm tỉnh Vùng I chiến thuật - nơi có chiến trường Trị - Thiên nóng bỏng, Mỹ phải tung ra 1/3 lính chiến đấu Mỹ có mặt tại miền Nam để cứu nguy. Chúng không thể nào làm khác, vì muốn giữ Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, thì phải tập trung một lực lượng lớn rải ra giữ cả những vùng nông thôn xung quanh, giữ những căn cứ trên các đường tiến về Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng. Bị mắc kẹt trong thế trận đó, chúng buộc phải rải quân ra khắp các tiểu khu, chi khu, dọc các tuyến đường giao thông lớn án ngữ từng cửa ngõ dẫn vào các thành phố Sài Gòn, Huế và Đà Nẵng. Lực lượng còn lại bị phân tán để phòng giữ các “vành đai chống rốc két”, “vành đai chống thâm nhập”, các “ổ đề kháng” trong các quận, các khu phố ở nội thành và giữ các cơ quan dân sự, kinh tế, kho tàng...

Thế bố trí và sử dụng lực lượng trên khắp chiến trường cũng như từng trọng điểm của địch luôn luôn bị phân tán, chúng không sao xoay chuyển được tình thế bất lợi. Mâu thuẫn giữa cơ động và chiếm đóng, giữa “quét và giữ” phát sinh và sẽ ngày càng phát triển làm cho chúng không thể nào khắc phục được.

Kế hoạch chiến lược “quét và giữ” nhìn chung là bế tắc, thụ động và là một bước lùi về chiến lược của Mỹ. Tuy nhiên với những thủ đoạn mới về chiến thuật đóng chốt cứ điểm, cụm cứ điểm, tổ chức các tuyến phòng thủ kiểu trận địa để giữ căn cứ, thành thị và trục giao thông, đi đôi với sử dụng hoả lực mạnh của không quân, pháo binh yểm trợ cho các cuộc hành quân càn quét để phá trước các cuộc chuẩn bị tiến công và ngăn chặn các hoạt động tiến công của ta đã làm cho quân và dân ta bước đầu gặp nhiều khó khăn.

Trung tuần tháng 3-1968, Mỹ - ngụy mở cuộc hành quân “Quyết thắng” đánh phá quyết liệt các vùng “cài răng lược” ven thành phố, thị tứ trên địa bàn Sài Gòn - Gia Định, Long An, Hậu Nghĩa, Thủ Dầu Một, Biên Hoà. Tiếp theo đó (8-4), quân địch ở Vùng III chiến thuật và ba sư đoàn Mỹ (Sư đoàn 1, Sư đoàn 25, Sư đoàn 9) mở cuộc hành quân “Toàn thắng” nhằm đẩy bằng được lực lượng vũ trang ta ra xa các vùng dân cư, đánh phá các vùng bàn đạp, hậu cứ, ngăn chặn các đợt tiến công tiếp theo của ta vào Sài Gòn.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #47 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2010, 11:35:29 pm »


Ở các tỉnh phía bắc, mặc dù bị thất bại nặng nề trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, nhưng chúng vẫn tiếp tục đưa thêm quân vào Trị - Thiên. Giữa tháng 4-1968, số quân Mỹ - ngụy ở đây đã lên tới 140.000 tên (trong đó có 98.000 tên Mỹ). Với lực lượng lớn được tăng cường, chúng mở nhiều cuộc hành quân càn quét vào các vùng đồng bằng đông dân ở Phú Vang, Phú Lộc (nam Thừa Thiên) bằng các hình thức “quét trong, giữ ngoài”. Chỉ tính riêng ở huyện Hương Thuỷ, trong vòng nửa tháng hành quân càn quét, định đã đốt phá, cày xới hơn 1.000 ngôi nhà. Thôn Thủy Chánh (xã Thuỷ Thanh) có 56 gia đình bị chúng đốt phá, cày ủi thành bình địa. Tại tỉnh Quảng Trị, chúng triệt để dồn dân vào các khu tập trung Cửa Việt, Quán Ngang, Vĩnh Đại, Tân Tường, Hoàn Cát... quyết lập các vùng trắng rộng hơn, dài hơn ở bắc Gio Linh, tây bắc Cam Lộ để phi pháo các loại tự do bắn phá nhằm giữ tuyến phòng thủ Đường 9 - bắc Quảng Trị.

Ở các tỉnh Khu V, trong hai tháng 3 và 4-1968, Mỹ - ngụy liên tiếp mở các cuộc hành quân càn quét vùng ven đô thành phố Đà Nẵng, đông bắc thị xã Quảng Ngãi, tây thành phố Quy Nhơn, nam thị xã Tuy Hoà... Tại những nơi hiểm yếu về quân sự, chính trị, hậu cần, chúng tăng quân, xây dựng hệ thống phòng thủ bằng hầm hào, dây thép gai và vô số mìn các loại. Ở vòng ngoài (chủ yếu nông thôn đồng bằng), chúng mở hàng loạt cuộc hành quân “phòng ngự dự phòng”, dùng phi pháo tạo “hành lang lửa” dọc vùng giáp ranh, tung biệt kích, thám báo lùng sục sâu vào căn cứ, đường hành lang vận chuyển nhằm đánh phá các bước chuẩn bị tiến công của ta.

Trong thế thua, đế quốc Mỹ và bọn tay sai càng bộc lộ tính chất tàn bạo, khát máu của một tên đế quốc ngoan cố. Lính Mỹ và tay sai càn quét tới đâu là bắn giết, đốt phá, cày ủi nhà cửa, ruộng vườn tới đó. Chỉ trong hai tháng (3 và 4-1968 ), lính Mỹ và lính Nam Triều Tiên đã giết hại 1.235 đồng bào ta ở ba tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định. Dã man tàn bạo nhất là vụ thảm sát đẫm máu ở Sơn Mỹ của lính Mỹ thuộc Lữ đoàn 11 (Sư đoàn Amêricơn) do tên Đại tá Henđơxơn chỉ huy. Từ 6 giờ đến 12 giờ ngày 16-3-1968, gần 200 tên lính Mỹ mặt người dạ thú được phi pháo yểm trợ đã đổ quân xuống xã Sơn Mỹ (huyện Sơn Tịnh, Quảng Ngãi) bắn giết 501 người, trong đó có 182 phụ nữ (17 chị đang có thai), 173 trẻ em (56 sơ sinh dưới 5 tháng), 60 người già trên 60 tuổi. Đặc biệt thôn Thuận Yên có 24 gia đình bị quân Mỹ giết không sót một người. Hành động giết người man rợ trên, khắc sâu thêm mối thù không đội trời chung của dân tộc ta với bọn xâm lược Mỹ...

Song song với hành động man rợ trên, Tổng thống Mỹ L. Giônxơn, Đại sứ Bâncơ, tướng Oétmolen ra sức tuyên truyền biện minh cho sự thất bại về quân sự, chính trị của Mỹ trên chiến trường và hành động dã man của quân đội Mỹ để lừa bịp dư luận Mỹ và thế giới đang lên án mạnh mẽ chúng. Các phương tiện thông tin đại chúng Mỹ và Sài Gòn ra rả suốt ngày đêm phát đi những tuyên bố của những nhà lãnh đạo Mỹ và bọn tay sai Thiệu, Kỳ, những bản tin xuyên tạc sự thật rằng: “Việt cộng” và quân Bắc Việt Nam đã bị Mỹ và đồng minh truy kích; quân Mỹ và quân đội Sài Gòn đã  nắm quyền chủ động chiến trường; “Việt cộng” đã đuối sức, hết hơi, v.v… để xoa dịu làn sóng đấu tranh của nhân dân Mỹ và những chất vấn của Quốc hội Hoa Kỳ, đồng thời hòng trấn an tinh thần cho quân đội, chính quyền Sài Gòn.

Trên mặt trận ngoại giao, Mỹ tiếp tục “tìm kiếm hoà bình” trên thế mạnh rất xảo quyệt bằng cách hối hả vận động các nước lớn trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa gây sức ép với ta và tìm cách tiếp xúc với Chính phủ Việt Nam Cộng hoà, làm như Mỹ là kẻ có “thiện chí hoà bình” muốn chấm dứt chiến tranh thật sự! Nhưng thực chất là để che đậy thất bại và làm hạn chế các cuộc tiến công của ta.

Trước tình hình trên, ngày 24-4-1968, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương họp phân tích, đánh giá tình hình và kết quả cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, quyết định tổng tiến công và nổi dậy đợt 2.

Về tình hình địch, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương nhận định: sau Tết Mậu Thân 1968, Mỹ - ngụy đang ra sức tập trung lực lượng về các vùng trọng điểm, tạo sức mạnh ngăn chặn các cuộc tiến công của ta, quyết đẩy chiến tranh ra xa các thành thị. Nhưng chiến trường miền Nam rộng lớn, các mục tiêu thành thị, căn cứ quân sự, hậu cần, đường giao thông, vùng nông thôn đông dân mà Mỹ - ngụy cần giữ rất nhiều, nằm ở khắp nơi từ bắc Quảng Trị đến Cà Mau, từ đồng bằng đến rừng núi. Ngay ở những vùng trọng yếu Mỹ - ngụy tập trung nhiều quân, việc bố trí và sử dụng lực lượng của chúng vẫn bị phân tán. Do đó, muốn ngăn chặn các đường tiến quân, đối phó với các cuộc tiến công “thiên biến vạn hoá” của ta, Mỹ - ngụy cùng một lúc phải tập trung vào hai nhiệm vụ. Thứ nhất, chúng phải bố trí lực lượng giữ căn cứ, cơ quan chỉ huy, kho tàng, tích cực tuần tra kiểm soát đối phó với thế vây hãm nhiều tầng của ta. Thứ hai, chúng phải điều động binh lực mở các cuộc hành quân giải toả cho các đô thị, căn cứ quan trọng, đẩy lực lượng ta ra xa các thành phố, thị xã.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #48 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2010, 11:36:31 pm »


Sau đợt 1 mặc dù bị tổn thất, quân và dân ta vẫn quyết tâm tiếp tục cuộc tiến công và nổi dậy để giành thắng lợi lớn hơn nữa. Ý chí và nguyện vọng chiến đấu đó chẳng những được biểu hiện ở hầu khắp các tỉnh thành miền Nam, mà còn được quân và dân Sài Gòn - Gia Định đồng tâm hưởng ứng. Cuối tháng 3-1968, sau khi sơ bộ kiểm điểm đợt 1 tiến công vào Sài Gòn - Gia Định, Trung ương Cục và Quân uỷ Miền cử đại diện ra Hà Nội báo cáo về đề nghị cho chiến trường miền Đông Nam Bộ tiếp tục mở đợt 2 đánh vào Sài Gòn với lý do “yếu tố bất ngờ vẫn còn, mặc dù địch đã co về phòng giữ nội thành và vùng ven, nhưng chúng còn nhiều sơ hở, đợt 1 ta mới sử dụng bộ phận đặc công, một số đội biệt động, du kích mật và quần chúng. Các tiểu đoàn mũi nhọn, các trung đoàn khu vực, các sư đoàn chủ lực cơ động vẫn còn sung sức, quyết tâm lập công cao... Nếu ta khắc phục được khuyết điểm trong đợt 1 thì sức đột kích trong đợt 2 sẽ mạnh hơn nhiều và sẽ là một bất ngờ mới đối với địch”1.

Từ những xem xét đánh giá toàn diện thế địch, thế ta trên chiến trường toàn Miền sau cuộc tổng tiến công và nổi dậy đợt 1, tuy thời cơ không còn nữa, nhưng ta sẽ tạo ra thời cơ mới, Bộ Chính trị quyết định mở tiếp đợt 2 với phương hướng nỗ lực mới: “Động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân phát huy khí thế chiến thắng, tiếp tục phát triển tiến công toàn diện, giành thắng lợi ngày càng to lớn hơn nữa, nhanh chóng mở rộng lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị cách mạng, càng đánh càng mạnh, đẩy địch vào thế thất bại liên tiếp ngày càng suy yếu, tan rã, không gượng dậy được”2.

Nghị quyết đề ra các yêu cầu cụ thể như sau:

- Liên tục đánh vào đô thị, siết chặt vòng vây, tạo ra một tình hình khủng hoảng thường xuyên, phát động quần chúng mạnh mẽ giành quyền làm chủ.

- Giải phóng đại bộ phận nông thôn tiến tới giành toàn bộ nông thôn.

- Tiếp tục tiến công toàn diện vào ngụy quân, ngụy quyền làm cho chúng bị tiêu diệt và tan rã về tổ chức, suy sụp về tinh thần không cứu vãn được.

- Tiếp tục tiến công vào quân Mỹ, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực của chúng.

- Đánh phá liên tục các cơ sở hậu cần, căn cứ quân sự, đường giao thông trọng yếu.

- Nhanh chóng phát triển lực lượng quân sự và chính trị cả về chất và lượng.

- Củng cố vùng giải phóng một cách toàn diện, cả về quân sự, chính trị, kinh tế, xã hội.

- Miền Bắc ra sức xây dựng và củng cố quốc phòng, ra sức đẩy mạnh sản xuất, kiên quyết đánh bại mọi bước leo thang mới của địch, bảo đảm giao thông vận tải, tích cực chi viện cho miền Nam.

Ý đồ chiến lược của ta trong đợt 2 là vây hãm Khe Sanh, kìm giữ và diệt địch ở chiến trường Đường 9, Trị - Thiên, Tây Nguyên. Trọng điểm tổng tiến công và nổi dậy là Sài Gòn - Gia Định. Điểm tiến công quan trọng là Huế, Đà Nẵng. Thời gian hành động thống nhất toàn miền Nam từ ngày 4-5 đến hết tháng 6-1968.

Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, Bộ Tổng tư lệnh chỉ đạo Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Hậu cần và bộ tư lệnh các mặt trận khẩn trương vận chuyển vật chất, xây dựng lực lượng vũ trang và bố trí thế trận cho phù hợp với cuộc chiến đấu mới.

Đầu tháng 4-1968, trên “tuyến lửa” Khu IV và tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn, mặc dù địch tập trung đánh phá quyết liệt các vùng “cổ họng”: Phương Tích - Bến Thuỷ - Linh Cảm - ngã ba Đồng Lộc; Truông Bát - Đèo Ngang - sông Gianh - Minh Cầm - Đá Đẽo - Xuân Sơn - Khe Tang - Khe Úc - La Trọng, Long Đại... tạo ra những “túi lửa” bom đạn, gây ách tắc dài ngày nghiêm trọng trên tuyến vận chuyển vào các chân hàng của Đoàn 559, nhưng quân dân ta trên mặt trận nóng bỏng này đã bất chấp mọi ác liệt hy sinh tìm mọi cách vận chuyển vật chất vào chiến trường. Ngày 20-4-1968, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Đinh Đức Thiện, sau khi kiểm tra thực địa bị máy bay địch đánh phá ở Khu IV, đã quyết định thành lập công trường 18 đảm nhiệm thi công đường ống dẫn dầu đầu tiên vượt qua khu “tam giác lửa” Vinh - Nam Đàn - Linh Cảm dài 42 km để đưa xăng, dầu ra phía trước. 18 giờ ngày 22-6-1968, tại bến đò Vạn Rú trên dòng sông Lam, cán bộ, chiến sĩ công trường 18 khởi công xây dựng tuyến ống dẫn dầu vượt sông Lam. Được nhân dân xã Nam Đông, huyện Nam Đàn giúp đỡ tận tình, đến 5 giờ ngày 23-6, tuyến ống dẫn dầu vượt sông Lam đã lắp đặt xong. Và, sau 45 ngày lao động cật lực dưới những trận bom ác liệt của máy bay Mỹ (ngày 10-8-1968 ) tuyến đường ống mới lắp đặt xong, dòng xăng đầu tiên chảy từ trạm Nam Thanh (Nam Đàn, Nghệ An) vượt sông Lam đến Nga Lộc (Can Lộc, Hà Tĩnh) cung cấp cho tuyến chi viện chiến lược 559 và các đơn vị chiến đấu, khắc phục được một phần khó khăn của nhiệm vụ chi viện tiền tuyến và tình trạng thiếu thốn xăng dầu ở phía nam.
_____________________________________
1. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Sđd, tr. 117, 118.
2. Trích Nghị quyết Bộ Chính trị, ngày 24-4-1968.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #49 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2010, 11:37:10 pm »


Song song với việc lắp đặt đường ống xăng dầu vượt sông Lam, một bộ tư lệnh bảo đảm giao thông Quân khu IV được thành lập đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng và Thường vụ Hội đồng Chính phủ thay cho Ban chỉ đạo bảo đảm giao thông trước đây. Bộ Tư lệnh bảo đảm giao thông Quân khu IV do Thiếu tướng Phan Trọng Tuệ, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải làm Tư lệnh; Thiếu tướng Lê Quang Hoà làm Chính uỷ; Đại tá Hoàng Văn Thái, Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng; các đồng chí Nguyễn Tường Lân - Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải, Đại tá Lê Văn Trị - Phó Tư lệnh Phòng không - Không quân, Chu Mạnh - Chủ tịch Uỷ ban hành chính Nghệ An, Nguyễn Tiến Chương - Chủ tịch Uỷ ban hành chính Hà Tĩnh, Cổ Kim Thành - Chủ tịch Uỷ ban hành chính Quảng Bình làm Phó Tư lệnh.

Sau khi thành lập, Bộ Tư lệnh bảo đảm giao thông đã triển khai toàn bộ lực lượng phòng không của Bộ tăng cường và lực lượng phòng không Quân khu IV để bảo vệ các trọng điểm, các “nút” giao thông; đồng thời huy động toàn bộ lực lượng, phương tiện vận tải có thể huy động được của các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình làm nhiệm vụ vận tải hàng hoá chi viện cho chiến trường miền Nam.

Các trung đoàn cầu, thuyền vượt sông, các tiểu đoàn, đại đội công binh tỉnh Nghệ An, công binh dân quân, các đơn vị giao thông vận tải của Nhà nước, các đoàn viên thanh niên xung phong, dân công, bộ đội cao xạ chủ lực, địa phương và dân quân du kích, nhanh chóng triển khai sửa đường, làm đường vòng tránh, v.v… bảo đảm giao thông thông suốt trên địa bàn các tỉnh phía nam Quân khu IV. Đoàn công binh hỗn hợp 152 của Quân khu IV cùng với Tiểu đoàn công binh 28 bảo đảm giao thông từ phà Đại Lợi đến ngã ba Khe Ve, Xuân Sơn. Đoàn công binh 129 phụ trách vượt sông ở các bến Bến Thuỷ, Nam Đàn, Linh Cảm đến ngã ba Lạc Thiện. Đoàn công binh 249 của Bộ tăng cường cho Khu IV từ tháng 10-1967, đã triển khai 30 đầu máy và canô bảo đảm vượt các bến Quán Hầu, Lý Hoà, Cầu Dài, Xuân Sơn, sông Gianh. Cán bộ, chiến sĩ của đoàn đêm ngày cần mẫn lao động làm 145 lượt cầu qua các sông, bảo đảm cho 40.000 lượt ôtô vận tải chở hàng qua lại và bốc dỡ 350.000 tấn hàng hoá ra khỏi vùng địch đánh phá. Đoàn công binh 239 của Bộ tăng cường cho Quân khu IV từ tháng 3-1968 có nhiệm vụ ứng cứu giao thông ở hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh và tổ chức vượt sông theo tuyến dọc. Đoàn có sáng kiến vận chuyển đi dọc sông La dài 100 km để tránh địch đánh phá. Các đội xe Páp (xe bánh hơi lội nước do Liên Xô sản xuất) của đoàn xông xáo khắp các luồng lạch. Đoàn 239 còn mở đường vận tải qua rú Trót đi Linh Cảm, rà phá 760 quả bom chờ nổ các loại, bảo đảm an toàn cho sáu vạn lượt xe vượt các trọng điểm. Cán bộ, chiến sĩ Đội trinh sát 93 độc lập, rà phá và tháo kíp nổ tất cả các loại bom, mìn có cấu trúc tinh vi của địch thả xuống quốc lộ 1, đường 15 và 34 ở Nghệ An, Hà Tĩnh. Ngã ba Đồng Lộc năm 1968 trở thành “điểm nóng” đánh phá quyết liệt của địch.

Địch đánh phá ngăn chặn ngày càng ác liệt. Ta bố trí một lực lượng ứng cứu giao thông thường xuyên gồm 1.200 thanh niên xung phong, một tiểu đoàn công binh chủ lực, 57 cán bộ, chiến sĩ công binh xung kích phá bom, một tổ xe ủi đất và một trung đoàn cao xạ. Bộ Tư lệnh bảo đảm giao thông Quân khu IV và Thường vụ Tỉnh uỷ Nghệ An họp liên tịch quyết định huy động thêm 2.000 thanh niên trong tỉnh ra mặt đường cùng ứng cứu giao thông và động viên toàn bộ số thuyền nan của các hợp tác xã trong huyện Quỳnh Lưu vào cửa sông Gianh chuyển gạo. Tỉnh Thanh Hoá động viên toàn bộ thuyền nan của các hợp tác xã và tư nhân trong tỉnh, biên chế thành từng đội vận chuyển hàng vào phía nam. Đêm đêm dưới ánh đèn dù, pháo sáng của máy bay địch, từng đoàn thuyền nan chở hàng, ngụy trang từ Thanh Hoá lặng lẽ đi theo sông đào nhà Lê qua Quỳnh Lưu, Nghi Lộc vào Hà Tĩnh tiếp tế cho tiền tuyến. Nghệ An, ngoài các đội thuyền nan của huyện Quỳnh Lưu, tỉnh tổ chức đội xe đạp thồ 7.000 chiếc, đội xe ba gác 8.500 chiếc, đội cút kít 11.000 chiếc và đội xe trâu 6.500 cỗ chở nặng hàng hoá, hằng ngày khi mặt trời tắt nắng là các đội khởi hành cắt ngang quốc lộ 1 đi theo bờ sông nhà Lê rồi toả ra vượt qua Truông Bến, Cầu Cay về Nam Yên, Nam Xuân đổ vào các cụm kho chân hàng để Đoàn 559 chuyển tiếp vào Đường 9, Trị - Thiên, Khu V, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ...

Về điều động, xây dựng lực lượng: mặt trận Đường 9 - bắc Quảng Trị và chiến trường Trị - Thiên ngoài việc được Bộ tăng cường Sư đoàn 308 (thiếu một trung đoàn), Trung đoàn 46 bộ binh, sáu đại đội hỗn hợp của các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình (chủ yếu cho mặt trận Đường 9 - bắc Quảng Trị), Quân khu Trị - Thiên còn điều Trung đoàn 2 (Sư đoàn 324 cũ) từ chiến khu Ba Lòng vào hoạt động ở Quảng Điền đánh cắt giao thông trên đường số 1. Song song với việc củng cố xây dựng năng lực chiến đấu cho các trung đoàn 6, 9 bộ binh, hai tiểu đoàn 7, 10 đặc công, hai tiểu đoàn pháo binh, công binh..., quân khu tiếp tục chỉ đạo 10 đội vũ trang công tác luồn sâu vào ven nội thành và các khu vực Hương Trà, Hương Thuỷ, Phú Bài xây dựng, củng cố cơ sở cách mạng, vận động quần chúng hỗ trợ bộ đội tổng tiến công và nổi dậy đợt 2.

Chiến trường Khu V và mặt trận Quảng Đà sau khi tiếp nhận hai trung đoàn 36 (Sư đoàn 308 ), 141 (Sư đoàn 312), Tiểu đoàn đặc công 471 của Tỉnh đội Thanh Hoá chuẩn bị địa bàn hoạt động ở Quảng Nam - Đà Nẵng, Khu uỷ Khu V tiếp nhận hàng ngàn tân binh từ hậu phương lớn vào bổ sung cho Sư đoàn 2 và Sư đoàn 3 đang hoạt động ở Quảng Ngãi, Bình Định. Hai trung đoàn 10 và 20 ở Phú Yên và Khánh Hoà được bổ sung quân số và trang bị khẩn trương huấn luyện nâng cao chất lượng chiến đấu. Binh đoàn vận tải chiến lược 559 gấp rút mở thông đường cơ giới vận chuyển vũ khí, trang bị cho các tỉnh đồng bằng Khu V.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM