Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 10:37:03 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Giáp mặt với Phượng Hoàng  (Đọc 62878 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #50 vào lúc: 08 Tháng Năm, 2008, 11:44:18 pm »



*
*   *


Sau khi nhóm công tác của Lansdale giải thể, năm 1956, Conein trở về Hoa Kỳ và yêu cầu được trả về quân đội. Lầu Năm Góc cho ông biết rằng vì ông đi làm nhiệm vụ đặc biệt quá lâu cho nên không thể đề bạt ông lên chức trung tá được, trừ phi ông trở hẳn về quân đội và bắt đầu lại từ một người lính. Nhiệm vụ mới của ông là hoạt động trong Lực lượng Đặc biệt mới thành lập, một đơn vị vẫn để ông bên ngoài quân đội chính quy và ông vẫn còn thắc mắc về tiền đồ của mình. Vận hội cuối cùng cũng đến và ông đến làm việc tương đối hài lòng tại Fort Bragg. “Tôi chơi cái trò cao bồi đánh nhau với Da đỏ và cái trò nhảy dù từ trên máy bay xuống”, Conein nói. “Ông được chọn để triển khai chương trình huấn luyện nhảy dù rơi tự do cho lính Mũ Nồi Xanh, và từ những kinh nghiệm của ông, người ta đã thành lập những đội nhảy dù chính xác Golden Knights của quân đội. Đơn vị Lực lượng Đặc biệt do ông chỉ huy được phái sang Lào năm 1959. Bởi vì đội Mũ Nồi Xanh hoạt động dưới cái lốt dân sự nên Lou Conein không cùng đi với họ sang Lào bởi vì ở Đông Dương ông đã được mọi người biết là một chiến sĩ tình báo rồi. Thay vào đó ông được bổ nhiệm trở lại với cơ quan tình báo quân đội và được phái sang Teheran, nơi không ai biết ông là ai. “Tôi ở Teheran từ 1959 tới 1961”, Conein nói, “sau đó rút lui và trở lại với CIA”. Ông đã ở trong quân đội hai mươi năm và biết rằng mình không có hy vọng gì hơn chức trung tá. “Trong lúc đó, những đơn vị Lực lượng Đặc biệt lúc đầu của tôi nay được chuyển từ Lào sang Việt Nam. Và họ đang huấn luyện cho bọn Montagnard (dân miền núi). Thế là tôi lại được phái đi làm người của CIA liên lạc với Lực lượng Đặc biệt”. Nhưng có cái lạ là Conein không nói với bất cứ ai về việc ông không còn trong quân đội, kể cả với bạn ông là Rufe Phillips . Ông thích đeo súng lục có nạm ngọc trai mặc quân phục, và khi mọi người biết rõ vai trò của ông trong việc lật đổ Diệm thì ông thích mọi người nhắc đến với cái tên là Trung tá Conein.

Khi được phân công đến làm nhân viên cho Lodge để tổ chức cuộc đảo chính thì Conein cảm thấy không được thoải mái. “Trước hết là tôi không dám nói chuyện với ông đại sứ”, Conein nói. “Tôi sợ ông ấy. Người ta nói rằng không ai được phép hút thuốc trước mặt đại sứ và nhiều chuyện khác đại loại như vậy. Nhưng khi biết rồi thì tôi thấy đại sứ không đến nỗi tệ như vậy. Tôi thấy ông rất thích vị trí của mình và ông đang phê phán gay gắt toàn bộ đội ngũ người Mỹ tại đây, thậm chí còn đòi sa thải hết mọi người nữa”.

Mọi việc hóa ra lại tốt đẹp vì Lodge và Conein phải trao đổi ý kiến trực tiếp với nhau, đó là vì Conein viết lách không nhanh nhẹn. Một hôm, sau khi Conein đã báo cáo với ông, John Richardson qua chỗ Conein và Stu Methven, và nói với Conein: “Lou, tôi nghĩ điều cần nhất với anh là một cô thư ký”.

Conein quay lại hỏi: “Amanda who?”1

Một phần của vấn đề là Conein không đánh máy được, hai ngón tay phải của ông bị cụt một phần do một tai nạn. Cho nên thường là Conein ghi chép rồi đọc cho xếp của mình nghe.

Conein gặp Lodge lần đầu tiên sau khi ông đi gặp Minh Lớn. Lodge đến văn phòng của CIA để nghe Lou báo cáo miệng cho Richardson. Conein trao những điều ghi chú của mình cho Richardson hay Lodge, viết chữ thường chứ không phải tốc ký, hai ông này mới soạn thành báo cáo gửi cho Kennedy và các cố vấn của Tổng thống. Sau một thời gian Conein cảm thấy thư thái bên cạnh Lodge và bắt đầu thấy mến ông.

Hình như tình cảm này đã được đáp ứng. “Bí quyết để thành công với Lodge”, Mike Dunn nói, “là phải vui tính, theo kiểu người Pháp. Một việc chúng tôi hay làm là cung cấp cho ông một lô sự kiện, mà trong lĩnh vực cung cấp sự kiện thì Conein là một ngôi sao. Đại sứ rất vui tính. Ngoài ra, nếu anh không trực tiếp nói chuyện với Conein thì anh đừng hòng hiểu được ông ta đang nói gì. Thật khó mà hiểu được một số thủ đoạn đang được tiến hành nếu không thấy anh chàng này bằng da bằng thịt. Tôi nghĩ là Conein muốn hướng dẫn người nghe của mình theo một hướng nào đó. Tôi muốn nói là ở đây mọi người đều chơi trò chơi của mình cả. Lodge không hề mơ hồ về cái gọi là sự trung thành trong tổ chức và cách thức mọi sự đang diễn ra.

“Ở đấy, Lou là con người đáng giá bằng vàng”, Stu Methven nói. “Tôi cho rằng ông là một sĩ quan giỏi. Vai trò của ông rất quyết định trong cuộc đảo chính. Không có ông ta, tôi không tin là người khác có thể thành công được. Cho dù có được thì cũng rất vất vả.

Nhưng, mặc dù có những cố gắng của Lou Conein, sứ quán cũng không làm sao thúc đẩy được các tướng đứng lên chống Diệm. Đến cuối tháng Tám, Đại sứ Lodge nhận thấy tình hình trở nên khó khăn và kéo dài, ông bắt đầu tìm những phương kế khác để gây áp lực với Diệm. Các nhà hoạch định chính sách ở Washington không mong đợi ở một cuộc đảo chính nữa cũng tìm những phương kế khác để bắt Diệm phải theo. Vấn đề tập trung vào chỗ đẩy Nhu đi. Lansdale có một ý kiến riêng về việc này và trong một bữa ăn sáng ông đã nói ý kiến đó với Averell Harriman và John Kenneth Galbraith, đại sứ ở Ấn Độ và bạn của Kenneđy. Lansdale nghĩ rằng Harriman và Galbraith nên tiếp xúc với bạn của họ ở đại học đường Harvard và lập ra một nhóm có tên thật kêu là nhóm nghiên cứu chính sách và mời Nhu làm một thành viên. “Đá ông ta lên trên”, Lansdale nói. “Nói với ông ta rằng ông ta là một người trí thức. Nghe ông ta nói rồi cho ông ta một chỗ làm ở đấy. Ông ta sẽ đến và Diệm sẽ để ông ta đi”. Lansdale giải thích rằng Diệm đã hứa với cha ông lúc sắp chết là sẽ chăm sóc cho người em. “Thế mà người Mỹ chúng ta lại đến bảo thẳng với ông ta là hãy tống cổ thằng em của ông đi”, Lansdale nói. “Nhất định là ông ta coi trọng nguyện vọng của cha ông hơn. Ông ta là một người tôn trọng gia đình”.

Thay vì bắt ông ta phải đuổi Nhu thì chúng ta sẽ nói: “Chúng tôi có một chỗ làm rất tốt cho Nhu và chúng tôi muốn ông giúp thuyết phục Nhu nhận, ông ta sẽ thuyết phục Nhu. Ông ta sẽ nghĩ rằng việc này tốt cho ông em, mà tốt thật”. Không ai quan tâm đến ý kiến của Lansdale cả. Các nhà vạch chính sách ở Washington đang có hứng muốn dùng đến bắp thịt chứ không thích chơi trò thuyết phục tế nhị, mặc dù nhóm của Harriman-Hilsman có vạch ra một kế hoạch lâu dài và phức tạp, gợi ý rằng Lansdale sẽ cầm đầu một nỗ lực hòa giải với Diệm, nếu giải pháp này được chấp nhận. Nhưng giải pháp này bị bác.
____________________________________
1. Cô thư ký mà Richardson nói, tiếng Anh gọi là amanuensis, Lou Conein nghe không được mới hỏi “Amanda who?” (Amanda nào vậy?) – N.D
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #51 vào lúc: 08 Tháng Năm, 2008, 11:47:39 pm »


Ngày 5 tháng Mười, Tổng thống Kennedy quyết định một số biện pháp đặc biệt để gây sức ép với Diệm. Cùng ngày hôm đó, Lou Conein gặp Minh Lớn, theo yêu cầu của ông này. Minh Lớn nói rằng cuối cùng các tướng đã thỏa thuận được một kế hoạch đảo chính. Cách dễ nhất là giết Nhu và giữ Diệm làm bù nhìn. Conein báo cáo lại với Lodge. Chi cục CIA đề nghị đại sứ không nên chống lại cuộc ám sát, bởi vì hai giải pháp khác mà Minh đề nghị sẽ dẫn đến đổ máu kéo dài. Nhưng giám đốc CIA John McCone đã lập tức điện cho chi cục rút lui ngay đề nghị của họ với Lodge, bức điện nói rằng Cục tình báo “không ở trong cương vị có thể khuyến khích chấp nhận hay ủng hộ cuộc ám sát, nhưng mặt khác, chúng ta cũng không có trách nhiệm ngăn chặn những sự đe dọa như vậy mặc dầu có thể là chúng ta có biết một phần. Chắc chắn là chúng ta không khuyến khích giết Diệm... Do đó, cách hay nhất là đừng nhúng tay vào. Nhưng dĩ nhiên là chúng ta quan tâm tới tin tức về bất cứ phương diện nào”.

Đó là những dấu hiệu cho thấy John McCone và William Colby đang cáu tiết với Cabot Lodge. Nếu cần phải có một cuộc đảo chính thì đó sẽ là cuộc đảo chính của Lodge, không phải của CIA. Họ giận nhất là việc Lodge đã sa thải John Richardson và tống ông này về Hoa Kỳ, theo gợi ý của Mike Dunn. Việc gọi Richardson về, ngày 5 tháng Mười, 1963, là nhằm gây áp lực với Nhu, vì Nhu là người tiếp xúc với Richardson. Chiến thuật này có hiệu quả hay không thì không biết, chỉ biết rằng Lodge và Dunn có thêm nhiều kẻ thù. Cũng trong thời gian này, Dunn tìm cách để được làm đổng lý văn phòng của Lodge, với một người cạnh tranh duy nhất, đó là một sĩ quan CIA, bạn của con của Lodge, đã đến Sài Gòn trong nhóm của Lodge. Nhưng việc Dunn tha thiết muốn làm tay chân thân tín của Lodge không ảnh hưởng gì tới công việc của ông cả.

Sau đó, CIA đã theo tán tỉnh Dunn, bảo Conein mời Dunn về nhà uống rượu, khéo lái cho Dunn phát biểu vài nhận xét về Lodge rồi bí mật ghi âm, và gửi băng ghi âm đó cho Lodge. “Chính McCone đã làm việc này”, Dunn nói. “Tôi hiểu là họ đang đánh những canh bạc lớn ở đây. Những con bạc đầu đàn. Họ muốn tống tôi đi khỏi đây vì họ nghĩ rằng tôi là chướng ngại cho chi cục của họ. Nhưng tôi rất thống nhất ý kiến với Lodge nên cái đó cũng không ăn thua gì. Tôi vẫn giữ ý kiến tôi nói. Nếu họ cắt xén thêm bớt gì đó một chút thì có lẽ có lợi cho họ hơn”. Và Dunn cũng không để bụng thù hận gì Conein, ông hiểu rằng đó chỉ là công việc.

Những việc bày mưu lập kế của Lodge đã đưa ông tới chỗ làm mất lòng Tướng Harkins, vốn là người bạn của gia đình khi hai người trước đây đã cùng phục vụ tại Folt Bliss trong những năm một chín hai mươi. Lodge không cho Harkins biết những bức điện liên lạc của ông với Washington chung quanh cuộc đảo chính. Ông liên lạc thẳng với Washington mà không thông báo cho Harkins. Nhưng sau đó, Bộ ngoại giao yêu cầu Lodge cho Harkins biết nội dung các bức điện đó nhưng khi Harkins biết được chuyện gì đang xảy ra thì ông kịch liệt phản đối mưu toan đảo chính lật đổ Diệm.

Harkins nói “Trong những người tôi tiếp xúc ở đây, không ai có tính cách mạnh mẽ như Diệm, ít ra là về việc chiến đấu chống cộng sản. Rõ ràng là không có ông tướng nào có đủ tư cách để bác bỏ ý kiến của tôi cả”.

Nhưng không có ai đánh giá cao hiểu biết của Tướng Paul Harkins trong việc đánh đấm như thế nào trong một cuộc chiến tranh có tính chất chính trị - quân sự cả. Nhưng ông là một sĩ quan chuyên nghiệp và ông chỉ có quan hệ chặt chẽ với mấy ông tướng Việt Nam mà thôi. Washington coi thường đánh giá của ông về những người có khả năng thay thế Diệm - còn William Colby lại coi điều đó là khó hiểu.

“Có một điểm làm cho tôi khó hiểu là tôi không thấy có một cuộc thảo luận nghiêm chỉnh nào ở cấp làm chính sách xem ai là người có thể thay thế Diệm”, Colby nói. “Lúc nào cũng nói các viên tướng. Anh không thể cai trị một nước với các viên tướng như vậy được. Anh phải tìm ra một ai đó. Không ai tin rằng Dương Văn Minh làm được cả. Không có hy vọng gì ở ông ta. Tôi biết Dương Văn Minh, đó chỉ là một người huênh hoang khoác lác, đầu óc rỗng tuếch”.

Lodge lấy tin tức ở đâu thì không rõ lắm. Có thể có một số từ các nhân viên ngoại giao trong tòa đại sứ nay đã quay ra chống Diệm. Cũng có thể có sự rạn nứt bên chi cục của CIA. Nhưng có một số tin tức, theo Mike Dunn, là từ các nhà báo đang hoạt động như là tai mắt của Lodge vậy.

Mike Dunn cho biết “Tôi không quan tâm đến điều họ nói. Nhưng họ thường hay vào văn phòng của tôi trong đại sứ quán và cho tôi biết mọi việc đang xảy ra. Họ không ngồi đấy như những nhà quan sát trung lập đâu. Họ là những người tham gia cuộc chơi. Tôi nghĩ rằng không có gì quá khi nói rằng Đại sứ Lodge dựa rất nhiều vào nguồn tin của họ, không phải qua những gì họ điện về nước để đăng báo, mà qua những gì họ nói riêng cho ông biết”.

Dunn nói rằng điều đó không có nghĩa là Lodge nhất quyết phải lật đổ Diệm. “Các ông biết đấy, đây là điều mà mọi người đều hiểu sai về Lodge. Ông ta xem có vẻ xảo quyệt và láu cá chỉ đơn giản là vì ông ấy rất cởi mở. Ông ấy không sợ cái gì mà cũng chẳng sợ ai. Ông chỉ tôn trọng có Tổng thống phủ. Nhưng theo ông thì không có ai lên hay xuống chức được cả. Ông chỉ làm theo ý ông mà thôi. Đó là điều mạo hiểm lớn cho một tổng thống, khi ông bổ nhiệm một người vì lý do chính trị. Ông đã trải qua ngày cuối tuần trước cuộc đảo chính với Diệm và nói chuyện dài dòng với ông ta về việc đưa thêm nhiều phần tử khác vào trong nội các. Trong cuộc gặp gỡ này chỉ có ba người Mỹ - Đại sứ, vợ ông và tôi. Tôi lúc nào cũng đi với ông và tôi biết là ông không có khả năng đánh lừa tôi. Do đó tôi nghĩ rằng ông thành thật tin rằng tới giờ phút muộn màng này vẫn còn có thể làm cho chế độ Diệm hoạt động được. Và chắc chắn là ông không đánh giá cao bộ ba đang chờ chực ở cánh gà”.

Những bức điện của Lodge gửi về Washington lúc này cho thấy là ông định áp dụng chiến lược của Pontius Pilate1 trong cuộc đảo chính. Đã lên dây cót cho các tướng xông lên rồi bây giờ ông lại đề nghị John F. Kennedy rằng Hoa Kỳ không xúi giục mà cũng không ngăn cản ai làm đảo chính cả. “Thứ nhất”, Lodge nói “không ai dám chắc rằng cái chính phủ sau này có không làm hỏng việc hoặc vấp ngã như chính phủ hiện nay hay không. Thứ hai, thật là không khôn ngoan về lâu về dài nếu chúng ta lại dội gáo nước lạnh vào mưu toan đảo chính, nhất là khi nó mới bắt đầu. Chúng ta cần phải nhớ rằng đây là cách duy nhất cho nhân dân Việt Nam giành được sự thay đổi trong chính phủ. Nếu chúng ta tìm cách ngăn cản đảo chính, như chúng ta đã làm trong qúa khứ, chúng ta sẽ gánh lấy sự oán giận lâu dài, chúng ta đảm nhận một trách nhiệm quá sức mình là giữ cho những người có chức vụ ở lại cầm quyền, và nói chung chúng ta tự đặt mình vào chỗ nhận sự phán xét về vấn đề Việt Nam”.

Thủ đoạn của Lodge nhằm rửa tay không chịu trách nhiệm về cuộc đảo chính có tác dụng là thúc đẩy tòa Nhà Trắng vốn do dự nay phải lao vào, mặc dầu họ làm như vậy chỉ vì muốn tránh cho mọi việc rơi vào hỗn loạn. Những phần tử chống Diệm trong Bộ ngoại giao tất nhiên là hiểu Lodge muốn gì, họ gửi cho ông một bức điện bật đèn xanh, cho phép ông tuyên bố với các tướng Nam Việt Nam rằng Hoa Kỳ không chống lại một cuộc đảo chính, theo lời William Colby, có giá trị như một “sự tán thành dứt khoát” việc thay thế Diệm. Nhưng hai ngày sau, 29 tháng Mười, 1963, thay mặt Kennedy, nói với Lodge “Chúng ta đòi có bằng chứng cho thấy rằng nhóm đảo chính có khả năng giành thắng lợi nhanh chóng, nếu không, chúng ta cần phải can ngăn họ đừng tính sai mà làm hại tới vị trí của Hoa Kỳ ở Đông Nam Á”.

Nhà Trắng rất bực dọc với thái độ không chịu trách nhiệm của Lodge, nên Kennedy đã gửi cho ông những chỉ thị chi tiết về cuộc đảo chính lần đầu tiên, ngày 30 tháng Mười, có thể đây là bức điện cuối cùng mà Lodge nhận được về vấn đề này trước khi Diệm bị lật đổ hai ngày sau đó. Sự lo ngại của Kennedy và ban tham mưu của ông về một ông đại sứ “làm theo ý mình” đã được thể hiện rõ ràng trong điểm một của bức điện, nói rõ một lần nữa rằng “Chúng ta không chấp nhận việc Hoa Kỳ không có quyền lực đình hoãn hoặc can ngăn một cuộc đảo chính” . Nói vậy rồi, Nhà Trắng đưa ra đường lối cho cuộc đảo chính. Hoa Kỳ không trực tiếp can thiệp vào bên nào, không cho lực lượng quân sự của mình dính líu vào đó, và sẽ nhận cho những người liên quan được tị nạn trong trường hợp cuộc đảo chính thất bại. “Nhưng một khi cuộc đảo chính dưới sự lãnh đạo của những người có trách nhiệm đã nổ ra, và trong khuôn khổ những hạn chế trên, Hoa Kỳ mong muốn nó sẽ thắng lợi”.

Dù cho ông có định làm như vậy hay không thì rõ ràng là Lodge, đóng vai Pilate, đã buộc vị tổng thống đang đóng vai Hamlet, phải hành động.
___________________________________
1. Pontius Pilate, toàn quyền xứ Judéa hồi đầu công nguyên đã xử Chúa Jésus, nhưng lại rửa tay nói mình không chịu trách nhiệm - N.D.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #52 vào lúc: 08 Tháng Năm, 2008, 11:51:03 pm »



*
*   *


Một tuần trước cuộc đảo chính, Nhà Trắng bỗng nhiên sợ bóng sợ gió về vai trò của Conein. Các cố vấn của ông Kennedy sực nhớ ra rằng thực tế toàn bộ những gì họ biết về cuộc đảo chính đều từ một nhân viên tình báo mà tiếng tăm còn phải bàn cãi. Nhà Trắng càng lo sợ khi Tướng Harkins, muốn ngăn cản một cuộc đảo chính, nói rằng Conein là một thằng nói láo và đầu mối của Conein, Trần Văn Đôn đang chơi trò thò lò hai mặt. Sau khi Lodge đưa Richardson về nước, để lại Dave Smith, anh chàng phó chi cục có tính phớt lạnh làm quyền chi cục trưởng thì Conein trở nên, trong lúc này, người tình báo quan trọng nhất trên thế giới. Lodge bảo vệ nhân viên của mình, nói với Nhà Trắng rằng Conein “thực hiện lệnh của tôi trong mọi trường hợp một cách dứt khoát”.

Nghe Conein nói, các viên tướng cũng chưa định ngày cụ thể cho cuộc đảo chính nhưng có thể là trước ngày 2 tháng Mười Một, 1963. Điều đó cho thấy một cách rõ ràng, trong một phạm vi nào đó, các tướng chưa thỏa thuận được với nhau một kế hoạch. Họ nghi ngờ và không tin cậy lẫn nhau. Nhưng chuyển cho Conein những dự định về ngày giờ chưa dứt khoát, các tướng cũng muốn tìm hiểu lập trường rõ ràng của Nhà Trắng. Phải chăng chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên khi các tướng quyết định hành động chỉ hai ngày sau khi Kennedy trực tiếp dính líu qua bức điện chỉ thị cụ thể về cuộc đảo chính? Hay là việc Conein ra dấu cho Trần Văn Đôn bằng một cái nháy mắt và một cái gật đầu cho biết là Washington đã đồng ý?

Đã có nhiều cuộc đảo chính bị đập tan ở Sài Gòn trước đây rồi. Chính Nhu cũng phao tin rằng ông ta đang vạch kế hoạch cho một cuộc đảo chính phủ đầu để quét sạch những người âm mưu đảo chính. Conein nói “Tôi cho rằng dù các tướng có chia rẽ và ganh tị với nhau, ít ra họ cũng nắm được quân đội. Và nếu một cuộc đảo chính có nổ ra thì họ sẽ tham gia”.

Sáng 1 tháng Mười Một, buổi sáng ngày đảo chính, Đại sứ Lodge tháp tùng Đô đốc Harry Felt từ Honolulu đến thăm nước này theo lời mời của Tổng thống Diệm. Felt biết rằng một cuộc đảo chính đang được chuẩn bị ông hỏi Lodge xem nó sẽ tiến hành như thế nào. Lodge không cho Felt biết gì cả. Ông nói với Felt “Không có viên tướng Việt Nam nào dám làm việc đó cả”. Sau khi Felt và Lodge gặp Diệm thì Diệm yêu cầu Lodge nán lại một chút để nói chuyện riêng.

Diệm nói rằng “Tôi biết sắp có đảo chính nhưng tôi không biết ai làm việc đó”. Diệm than phiền rằng có nhân viên Mỹ mưu đồ chống lại ông. Ông nói với Lodge rằng ông sẽ cho sứ quán tên những người Mỹ đó.

Sau này, Lodge nhắc lại “Tôi nói rằng tôi muốn có tên những người đó và nếu có người Mỹ nào dính dáng với những việc làm không thích đáng thì tôi sẽ đưa họ ra khỏi Việt Nam”. Cái trò hai mặt hiếm thấy này làm cho bất kỳ ai cũng phải huýt sáo.

Lodge dự định trở về Washington để tham khảo ý kiến. Diệm nói rằng Lodge cần phải nói chuyện với William Colby và cựu đại sứ Nolting về em của Diệm. Diệm nói rằng sẽ cho Lodge biết là Diệm cần sự giúp đỡ và lời khuyên của Nhu như thế nào. Diệm nói rằng vấn đề của Nhu đã bắt đầu khi Colby còn làm chi cục trưởng CIA ở đây năm 1960. Colby đến gặp Diệm và nói với ông rằng Nhu không nên sống trong tháp ngà mà phải đi ra ngoài, về nông thôn. Nolting đồng ý với Colby và chính là “do sức ép của họ” mà Nhu đã nhận một vai trò tích cực hơn trong chính phủ. Diệm nói rằng sau đó dân chúng lại tố cáo Nhu chuyên quyền, Nhu bị mất lòng dân.

Khi Lodge đứng dậy ra về, Diệm nói “Xin ông hãy nói với Tổng thống Keunedy rằng tôi là một đồng minh tốt và thành thật, thà là tôi nói thẳng và đặt vấn đề ngay bây giờ còn hơn là sau này mới nói lúc đó thì chẳng còn gì nữa. Xin nói với Tổng thống Kennedy rằng tôi rất coi trọng những gợi ý của Tổng thống và tôi sẽ thực hiện, chỉ còn vấn đề thời gian mà thôi”.

Cha của Rufe Phillips đã chết mấy tuần trước đó và sau đám tang ông phải trở lại đây để thu xếp đưa vợ con trở về Hoa Kỳ. Ông có kế hoạch rời Sài Gòn trong vài hôm nữa, sau khi giúp cho người giám đốc mới của chương trình phát triển nông thôn làm quen với công việc.

“Buổi sáng hôm đảo chính, trước khi nó bắt đầu, tôi nhận được một cú điện thoại của Lou”, Phillips nói. “Anh ấy nói “Anh có ở lại chơi với Elyette với mấy đứa nhỏ không? Tôi nghĩ là hôm nay thì qủa bóng bay đấy”.

Một người trợ lý của Trần Văn Đôn nói Conein tới bộ chỉ huy quân đội Việt Nam ở sân bay Tân Sơn Nhất. Mặc dầu ông đã rời khỏi quân đội, nhưng Conein không muốn mạo hiểm bị bắt trong bộ quần áo dân sự, có thể bị bắn chết như một gián điệp nên ông đã mặc bộ quân phục Trung tá và đội cái mũ của Lực lượng Đặc biệt. Ông bỏ số tiền Việt Nam tương đương với bốn mươi hai ngàn đô-la vào cái cặp nhỏ để đem cho các viên tướng. Số tiền này được dùng để mua thức ăn cho quân đội tham gia đảo chính và để bồi thường thiệt hại cho gia đình những người chết trong đảo chính. Số tiền đó có được sử dụng đúng như dự định không thì cũng do các viên tướng thanh toán mà thôi. Conein mang lên xe gíp một số lựu đạn và một cây tiểu liên rồi phóng ra phi trường trước khi Trần Văn Đôn đi tiễn Đô đốc Felt trở về.

Minh Lớn ngạc nhiên khi thấy Conein tới, nhưng Conein nói rằng do Đôn yêu cầu ông đến trình diện mấy ông tướng. Minh chỉ cho ông ngồi trên một cái bàn có điện thoại tại một văn phòng rộng. Các ông tướng ngồi bên gian phòng bên cạnh và thỉnh thoảng lại sang cho ông hay tình hình đang diễn ra. Cuộc đảo chính bắt đầu vào một giờ ba mươi chiều, khởi sự bằng một trận chạm súng ngắn gần cổng của bộ chỉ huy với Lực lượng Đặc biệt Việt Nam trung thành với Diệm. Viên tư lệnh Lực lượng Đặc biệt và người em ông ta đã bị bắt và sau đó đã bị quân đảo chính bắn chết trong ngày.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #53 vào lúc: 09 Tháng Năm, 2008, 09:55:20 pm »


“Tôi có một cái máy điện đàm”, Conein nói. “99 là mật mã đã thỏa thuận trước để cho biết là cuộc đảo chính đã nổ ra. Thế là tôi liên lạc với sứ quán và cho họ số điện thoại của tôi để khi cần họ có thể tiếp xúc với tôi. Minh Lớn bước đến và nói với tôi “Conein, nếu chúng tôi thất bại thì ông đi với chúng tôi”. Họ tính là nếu đảo chính thất bại họ sẽ chạy sang Campuchia. Chúng tôi có chín xe bọc thép. Chúng ta sẽ mở đường mà đi”.

Diệm đã phản ứng như ông đã phản ứng năm 1960, ông nhấc máy điện thoại và tìm người trung thành với mình trong các tư lệnh quân đội. Nhưng tình thế bây giờ đã khác. Những tướng lĩnh đã cứu ông lần trước lần này đã tham gia đảo chính. Ba giờ sau cuộc đảo chính bắt đầu, Diệm đã điện thoại tới sứ quán xem người Mỹ có giúp gì được cho họ không. Ông ta nói chuyện với Cabot Lodge, ông này ghi âm cuộc nói chuyện và điện báo cáo về Washington.

DIỆM: Một số đơn vị nổi loạn, tôi muốn biết thái độ của Hoa Kỳ như thế nào?

CABOT LODGE: Tôi không nắm được tình hình đầy đủ để cho ông biết. Tôi có nghe tiếng súng nổ nhưng tôi không nắm được mọi sự kiện. Vả lại bây giờ là bốn giờ ba mươi ở Washington và chính phủ Hoa Kỳ không thể có ý kiến được.

DIỆM: Nhưng ông có thể có một khái niệm nào đó. Dù sao tôi cũng là quốc trưởng. Tôi đã cố gắng làm nhiệm vụ của tôi. Bây giờ tôi cố gắng làm những gì mà nhiệm vụ và sự khôn ngoan đòi hỏi. Tôi tin tưởng ở nhiệm vụ trên hết.

CABOT LODGE: Chắc chắn là ông đã làm nhiệm vụ của mình. Như tôi đã nói với ông sáng nay, tôi khâm phục lòng can đảm và cống hiến của ông cho đất nước. Không ai có thể tước bỏ công trạng của ông. Tôi lo cho sự an toàn cá nhân của ông. Tôi nhận được báo cáo là những người làm đảo chính đề nghị ông và em ông được đưa an toàn ra nước ngoài nếu ông chịu từ chức. Ông có nghe cái đó không?

DIỆM: (ngừng một lúc) Ông có số điện thoại của tôi.

CABOT LODGE: Vâng, nếu tôi có thể làm gì cho sự an toàn cá nhân của ông, xin ông gọi tôi.

DIỆM: Tôi đang cố gắng lập lại trật tự.

Phần lớn những bài viết về cuộc đảo chính, mặc dầu có khác nhau về chi tiết, đều đồng ý với nhau về những gì xảy ra sau đó. Diệm và Nhu từ chối đầu hàng. Họ vẫn dùng điện thoại để tập hợp sự ủng hộ. Đêm hôm đó, lợi dụng lúc tối trời, họ trốn khỏi dinh tổng thống bị bao vây đến nhà một nhà buôn người Hoa ở Chợ Lớn. Vào khoảng bảy giờ sáng ngày 2 tháng Mười Một họ chịu đầu hàng tại một nhà thờ đạo Thiên chúa. Các tướng đưa một xe bọc thép đi bắt họ và trên đường về tổng hành dinh quân đảo chính họ đã bị quân cận vệ của tướng Minh Lớn hạ sát.

Vai trò của Henry Cabot Lodge trong việc đầu hàng của Diệm ra sao? Theo tài liệu của Lầu Năm Góc và nhiều tài liệu khác, ông chẳng có làm gì cả. Cuộc nói chuyện của ông với Diệm buổi chiều hôm trước, tài liệu Lầu Năm Góc nói, “là buổi nói chuyện cuối cùng của người Mỹ với Diệm”. Lodge theo thói quen đã đi nghỉ lúc chín giờ ba mươi tối. Những lần tường thuật như vậy nghe không hợp lý nếu người ta nhớ rằng Lodge đã nhấn mạnh với Diệm ông lo ngại cho an toàn của Diệm. “Nếu tôi có thể làm gì cho sự an toàn cá nhân của ông, xin ông cứ gọi tôi”. Thế thì tại sao Diệm sợ bị giết khi lọt vào tay các viên tướng, lại không chịu liên lạc với Lodge?

Diệm đã gọi Lodge một lần vào khoảng bảy giờ sáng sau khi ông đã quyết định đầu hàng.

“Lodge nói chuyện với Diệm hai lần” Mike Dunn nói. “Một lần vào buổi chiều và một lần vào buổi sáng hôm sau. Buổi sáng hôm đó, Diệm hỏi chúng ta có thể làm gì được không. Lodge bỏ máy xuống và đi tìm cái gì đó. Tôi vẫn giữ máy. Tôi là người Mỹ cuối cùng đã nói chuyện với Diệm khi ông ta còn sống, mặc dầu tôi nghĩ rằng Lodge sẽ trở lại máy và nói lời tạm biệt. Lodge đã nói với Diệm rằng sẽ cho Diệm cư trú và sẽ làm việc gì có thể làm được cho Diệm. Tôi muốn tới đó - trên thực tế, tôi đã hỏi Lodge rằng tôi có thể đến đó và mang họ ra không. Tôi nói, “Bởi vì chúng sẽ giết họ mất”. Tôi nói với ông thẳng thừng như thế. Ông nói “Chúng ta không thề làm việc đó. Chúng ta không thể dính líu như vậy được”, và vân vân. Tôi rất là ngạc nhiên thấy rằng chúng ta không làm gì thêm cho họ cả”.

Có thể làm gì đó để cứu Diệm và Nhu không?

“Phải”, Dunn nói, “Tôi nghĩ là chúng ta phải có một quyết định cần thiết ngay tức khắc”.

Diệm và Nhu đã bị giết vào khoảng giữa bảy giờ tới chín giờ sáng ngày 2 tháng Mười Một, 1963. Trần Văn Đôn và Lou Conein kể lại thời gian này có phần khác nhau đáng chú ý. Theo lời kể trong hồi ký của Đôn thì Diệm đã gọi tướng Khiêm hồi sáu giờ bốn mươi lăm, nói rằng ông chịu đầu hàng. Đôn nói như là Diệm muốn được các viên tướng bắt vậy. “Ông nói với Khiêm về tình hình chung quanh nhà thờ ở Chợ Lớn và yêu cầu cho xe tới chở ông đi vì ông cảm thấy ở đấy không an toàn”. Theo Đôn kể lại, Đôn và Khiêm cho Minh Lớn biết chỗ ở của Diệm, Minh Lớn đưa một xe thiết giáp vào Chợ Lớn bắt họ.

Theo lời kể của Conein cho quyển sách này thì sự thật không phải như vậy. Theo Conein, Diệm đã ba lần gọi điện cho các tướng lĩnh trong buổi sáng hôm ấy. Lần thứ nhất, Diệm không chịu nói chuyện với người lãnh đạo cuộc đảo chính là Minh Lớn. Ông nói với một viên tướng khác. Diệm muốn có một sự dàn xếp theo đó ông sẽ từ bỏ quyền hành và đi khỏi đất nước trong danh dự. Ông được trả lời là ông phải nói chuyện với Minh Lớn mới được. Ông ta gọi lại và nói chuyện với Minh Lớn cũng với đề nghị ấy. Minh Lớn bác bỏ đề nghị đó và cuộc nói chuyện đã kết thúc trong giận dữ. Một lúc sau, Diệm gọi lại, chỉ yêu cầu được đưa ra sân bay an toàn và rời khỏi Việt Nam. Lúc đó, theo lời kể của Conein, Minh Lớn hỏi sứ quán có thể cho một cái máy bay cho Diệm và Nhu đi ra khỏi nước không. Conein gọi cho chi cục CIA và được đáp rằng phải mất hai mươi bốn giờ đồng hồ mới thu xếp được một chiếc máy bay có thể đưa hai anh em bay không ngừng tới nước tỵ nạn. Washington đã quyết định từ trước rằng Diệm không được dừng lại chỗ nào để lấy xăng vì như vậy ông ta sẽ có điều kiện để tổ chức một cuộc phản đảo chính chống lại các tướng lĩnh. Conein báo cho Minh Lớn như vậy.

Báo cáo của Conein viết gửi cho bộ chỉ huy của CIA nhiều ngày sau cuộc đảo chính, và năm 1975 đã được trao cho tiểu ban của thượng nghị viện điều tra về việc ám sát các lãnh tụ nước ngoài. Trong một cuộc phỏng vấn để viết cuốn sánh này, Conein có kể thêm nhiều chi tiết về bản báo cáo đó cũng như về việc ông ra điều trần trước quốc hội. Theo Conein thì các viên tướng đã cắt hết điện thoại trong vùng, chỉ chừa mấy chỗ quan trọng như sứ quán Mỹ, dinh tổng thống nhà Conein và một số ban chỉ huy quân sự. Như vậy, mặc dầu có những báo cáo nói ngược lại, Minh Lớn và các tướng khác vẫn tưởng là Diệm còn trong dinh tổng thống và gọi điện thoại tới đó. Họ không biết rằng Diệm đã bí mật tổ chức một đường dây điện thoại tới nhà ông bạn người Hoa, để dùng trong trường hợp khẩn cấp. Trong mưu toan đảo chính năm 1960 những người chủ mưu vẫn để tổng đài trong dinh tổng thống hoạt động. Dinh tổng thống bị ném bom và bao vây nhưng đội bảo vệ của Diệm vẫn giữ vững. Chính là theo một điều kiện của Minh Lớn mà Diệm đã ra lệnh ngừng bắn, vào khoảng bảy giờ sáng.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #54 vào lúc: 09 Tháng Năm, 2008, 10:01:39 pm »


Theo lời Lou Conein, có hai nhóm kéo đến dinh tổng thống vào lúc bảy giờ để bắt Diệm. Một nhóm, gồm cả Minh Lớn đi từ sân bay qua sân đánh gôn ở phía sau dinh. Nhóm có xe bọc thép thì đi vào cổng chính. Conein viết trong bản báo cáo năm 1963 rằng một đội hộ tống đã được phái đến dinh tổng thống vào lúc tám giờ nhưng Diệm đã không còn đó nữa.

Vậy thì làm sao chỉ trong vài phút Minh Lớn lại biết được chỗ ở thực sự của Diệm? Tới chỗ này, Conein dừng lại và trở lại với tuyên bố ban đầu của ông năm 1963. Ông nói rằng có một “người báo tin” đã trông thấy Diệm và Nhu và đã gọi điện cho quân đảo chính. Khi được hỏi kỹ cho cuốn sách này, ông nói “Rất đơn giản. Có người nào đó đã trông thấy họ”. Mặc dầu Conein là một người biết rất nhiều chi tiết và nghe rất nhiều chuyện ngồi lê đôi mách nhưng ông từ chối suy đoán xem “người nào đó” là ai.

Không có tư liệu nào từ những nhà nghiên cứu tài liệu của Lầu Năm Góc hay bất cứ ai khác nói về cú điện thoại của Diệm cho Lodge vào lúc bảy giờ sáng hôm ấy. Mà cũng ít có lý do nghi ngờ lời kể của Mike Dunn. Không những Dunn yêu mến và kính trọng Cabot Lodge, mà ông còn thấy mang ơn Lodge mãi sau khi ông này mất. Mấy tháng sau cuộc đảo chính, phái bộ quân sự Mỹ ở Sài Gòn, cũng như CIA đã tìm cách khử Dunn nhưng Lodge đã cứu ông. Tướng Paul Harkins và Tướng William Westmoreland đồng đứng tên đòi truy tố Dunn ra trước tòa án quân sự về việc làm dối trá, đặc biệt là trong những điều mà Tướng Harkins muốn nói với Lodge không chỉ riêng trong thời gian đảo chính mà thôi. Lodge dọa sẽ đưa việc này ra công khai để ủng hộ người giúp việc của mình, lời tố cáo bị bỏ. Nhờ sự lanh lợi của Dunn, và sự ủng hộ của Lodge, mà Dunn thănh chức làm Trung tướng, và sau đó làm trợ lý cho cả Spiro Agnew và Gerald Ford khi hai người làm phó tổng thống.

Chắc là không có gì khiên cưỡng khi suy luận rằng Diệm gọi điện thoại cho Lodge, sau khi Minh Lớn từ chối đảm bảo an toàn cho ông rời khỏi đất nước, để nói rằng ông muốn đầu hàng người Mỹ thay vì đầu hàng các viên tướng. Cũng chắc không có gì sai lắm nếu nói rằng Diệm đã cho Lodge biết chỗ ở thực sự của mình chứ không phải cho Minh Lớn. Lodge bỏ máy xuống, đi “tìm cái gì đó” theo Dunn kể lại, có thể là để liên lạc với Conein.

Theo lời kể của Conein, ông đã rời tổng hành dinh của quân đảo chính vào lúc bảy giờ mười lăm, vài phút sau khi Minh Lớn tới dinh tổng thống. Ông đã định về nhà vì các tướng lãnh chuẩn bị một cuộc họp báo sau đảo chính và ông không muốn các nhà báo thấy ông ở đây, mặc quân phục và đeo vũ khí. Lou Conein phải mất hai mươi phút mới về tới nhà qua những đường phố vắng teo. Ông ở cách dinh tổng thống vài khối nhà. Nhưng không biết vì sao với hai cái radio mà ông lại mất liên lạc với chi cục CIA khá lâu nên người quyền chỉ huy ở đây yêu cầu Stu Methven tới tổng hành dinh quân đảo chính để tìm Conein. Methven không nói gì về sự vắng mặt của Conein và nhiều năm sau cũng không thảo luận việc đó với Conein.

“Tôi sống ở ngoài rìa Sài Gòn, tại Gia Định và là người ở gần sân bay nhất”, Stu Methven nói. “Do đó họ bảo tôi đi tìm Conein. Họ muốn liên lạc với anh ta mà không được. Tôi cũng không hiểu vì sao họ muốn liên lạc với anh. Nhưng tôi tới tổng hành dinh quân đảo chính lúc người ta mang mấy cái xác vào, và có rất nhiều nhà báo ở đấy. Tôi thấy tốt nhất là chuồn khỏi đấy cho nhanh”.

Nhưng không có cách nào để bác bỏ lời của Conein là ông đã rời sân bay vào bảy giờ mười lăm và về nhà. Nhưng ông cho rằng Diệm và Nhu chết về tay Minh Lớn là do hành động xảo trá cuối cùng của họ là họ nói đầu hàng mà lại không chịu nói mình ở đâu.

“Tôi không có gì làm căn cứ cả”, Conein nói. “nhưng tôi tin rằng Minh Lớn lúc nào cũng nghĩ rằng Diệm đang ở trong dinh, nhưng khi ông ta tới đó mà không thấy thì ông ta hết sức cáu”.

Theo Trần Văn Đôn, chính Conein mới nổi cáu, khi đêm đó họ nhận được tin là có thể Diệm và Nhu không còn trong dinh Gia Long nữa. “Vào khoảng ba giờ sáng thì tôi được tin là Diệm và Nhu không còn trong dinh nữa, tôi liền ra lệnh cho nhân viên an ninh đi tìm họ ngay, mặc dầu không biết tin đó có đúng không nữa”, Đôn viết trong hồi ký như vậy. “Conein xem ra rất bực tức với tin đó và nói là phải tìm cho được Diệm và Nhu bằng bất cứ giá nào”

Nhưng giả thuyết nói rằng Lodge đã trao Diệm cho quân đảo chính sáng hôm đó cũng không phải là hoàn toàn không có cơ sở, nếu xét cách ông ta đối xử với một người em khác của Diệm, trên thực tế là người cai trị miền Trung. Ngô Đình Cẩn xin cư trú tại lãnh sự quán Hoa Kỳ ở Huế ba ngày sau khi hai anh ông bị giết. Cẩn đi khỏi Huế trên một máy bay của Mỹ, hộ tống bởi một vị phó lãnh sự, một chuẩn tướng, và hai quân cảnh - tất cả đều là người Mỹ. Nhưng khi tới Sài Gòn thì Cẩn được giao lại cho Lou Conein và sau đó cho những người lãnh đạo đảo chính, theo lệnh của Lodge. Đôn viết trong hồi ký rằng Lodge đặt điều kiện là Cẩn phải được đối xử theo đúng luật pháp. Ông ta bị giam và bị hành quyết mấy tháng sau đó, khi Lodge vẫn còn làm đại sứ.

“Thế là tôi rời bỏ ban chỉ huy đảo chính mà về nhà sáng hôm ấy”, Lou Conein nói. “Tôi mệt quá. Người tôi hôi như cú. Tôi muốn tắm một cái. Lực lượng Đặc biệt giữ nhà tôi đã uống hết bia. Không lâu sau khi tôi tới nhà, có điện thoại gọi”.

“Hello”
“Lou, ông phải đến sứ quán ngay”.
“Tôi mệt lắm”.
“Phải đến ngay”.
“Được”.

“Tôi tới sứ quán và được đưa cho coi một bức điện của Washington: “Diệm và Nhu đâu?” Tôi nói “Tôi không biết. Các tướng đang đi bắt ông ta tại dinh tổng thống”.

“Ông biết bức điện này của ai gửi tới không?”
“Phải, tôi có thể nói là từ cấp cao nhất. Okay, tôi sẽ đi tìm họ”.

“Tôi trở lại bộ tổng tham mưu và gặp một trợ lý của Minh Lớn. “Tôi muốn nói chuyện với Minh Lớn”. Và tất nhiên ở đó lúc đó thật là lộn xộn, với những thành viên của chính phủ cũ chạy quanh đấy. Tôi đưa cho Minh Lớn mấy bức thư của đại sứ rồi hỏi: “Tổng thống Diệm với Nhu đâu?”, “Họ tự tử rồi”. “Ở đâu?” “Trong nhà thờ đạo Thiên chúa. Một nhà thờ trong Chợ Lớn. Ông muốn trông thấy họ không? Họ đang ở đây”.

Conein nói với Minh Lớn rằng ông nhất quyết không muốn xem xác chết, bởi vì ông không tin một chút nào chuyện họ tự tử và cũng không nghĩ rằng có ai khác tự tử cả. Ông không muốn dính líu vào cuộc đảo chính nhiều hơn nữa. Ông báo cáo cho sứ quán rồi về nhà nhưng khích động quá không ngủ được. Mấy hôm sau Minh Lớn mời Conein và Elyette tới tổng hành dinh tặng ông một huân chương. “Cái này cũng như Bắc Đẩu Bội tinh, nhưng là của Việt Nam”, Elyette nói, thích thú.

Năm tháng đi qua. cuộc đảo chính Diệm không những không lu mờ trong trí não các quan chức Mỹ mà còn hiện ra to lớn hơn, khi họ đánh giá lại cuộc chiến tranh và cho rằng đảo chính là một trong những sai lầm lớn nhất trong chiến tranh. Không ai trách Lou Conein về vai trò của ông trong đó. Chính Henry Cabot Lodge là người chịu phê phán nhiều nhất - và những nhà báo ở Sài Gòn thời đó.

Edward Lansdale nói rằng “Các nhà báo có thành kiến nên họ không thấy được sự thật Tôi cho rằng Halberstam có phần nào chịu trách nhiệm về cái chết của Diệm. Ông ta đã đến phỏng vấn tôi để viết cuốn sách - Những người giỏi nhất và thông minh nhất - tôi đã hỏi ông ta “Sao ông không viết một cuốn sách về những gì ông đã làm ở Việt Nam? Ông cũng là một khuôn mặt lịch sử ở đấy, thật đấy”

Ông ta hỏi “Ông nói vậy là có ý gì?”

Tôi nói với ông ta “Tôi không nói ai đã nói với tôi nhưng sau khi Diệm bị biết, một người Mỹ, bạn của ông, có kể lại với tôi rằng trước đó ông đã nói với ông ta về Diệm: “Tôi cho anh biết là tôi đang tóm cái thằng chó đẻ ấy đấy”. Điều đó có nghĩa là ông đã tác động ghê gớm tới mọi người ở Việt Nam, và ông cần phải thú nhận tất cả những cái đó trong một cuốn sách mới phải”.

Ông ta nổi nóng với tôi. Ông không phủ nhận điều đó. Nhưng ông ta nổi nóng suốt cuộc phỏng vấn. Và sau đó đã thể hiện trong cuốn sách của ông ấy. Tôi là một người tốt một phần và xấu một phần khác. Tôi lo là có ngày nào đó ông ta trở lại và nói “Cái thằng chó đẻ ấy, tôi cũng sẽ tóm nó luôn cho mà coi”.


*
*   *


Việc lật đổ Diệm đem lại những hậu quả tai hại cho công việc bình định của Châu. Không có thể làm gì nếu không có sự ổn định chính trị ở Sài Gòn, và trong những năm sau đó thì hết cuộc đảo chính này tới cuộc đảo chính khác bởi vì các viên tướng đã lật đổ Diệm tranh giành quyền bính với nhau. Tình hình an ninh đã trở nên tồi tệ trong tỉnh của Châu và hầu hết những chương trình của ông đều bị người kế tục ông bỏ hết, ông này cũng củng cố đội chống khủng bố ba người của ông thành ra những đơn vị cỡ trung đội và đại đội, biến chúng thành những tên đánh thuê giết người, cũng như hầu hết trong nước, dùng để củng cố địa vị cho những tỉnh trưởng tham nhũng.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #55 vào lúc: 09 Tháng Năm, 2008, 10:08:45 pm »


TẬP 2
MỘT GIỌT MÁU ĐÀO HƠN AO NƯỚC LÃ





CHUƠNG XIII
WASHINGTON - SAIGON 1970

Tháng Hai 1970, trong lúc Châu đang trốn xuống đồng bằng thì ở Los Angeles, Hoa Kỳ, Dan Ellsberg đang gửi đi bằng máy bay hai gói tài liệu mật về cuộc chiến tranh Việt Nam cho thượng nghị sĩ J. William Fulbright, Dân chủ tiểu bang Arkansas và là Chủ tịch Ủy ban đối ngoại của thượng viện. Những tài liệu này, về sau được gọi là Tài liệu mật của Lầu Năm Góc, không phải gửi cho Fulbright mà cho Norvill Jones, người trợ lý lâu năm của Fulbright và là người phụ trách theo dõi vấn đề Việt Nam. Lo ngại rằng Fulbright có thể bị can hệ chính trị nếu người ta biết rằng ông đang chứa một số lớn tài liệu bí mật bị đánh cắp bất hợp pháp như vậy, Jones không nói với bất cứ ai, kể cả người chánh văn phòng của ủy ban và người xếp trực tiếp của ông là Carl Marcy, rằng Ellsberg đang gửi những tài liệu đánh cắp đến. Sau khi gửi đi, Ellsberg gọi điên thoại cho Jones.

“Tài liệu gửi đi rồi”, Dan Ellsberg nói

“Tuyệt”, Norvill Jones đáp. “Chúng tôi có thể hoàn lại ông phí tổn được không?”

Ellsberg đã bỏ tiền túi ra mà sao chụp những tài liệu mật và ông nói với Jones rằng ông đánh giá cao cử chỉ đó. “Khoảng một ngàn năm trăm đô-la”, Ellsberg nói.

“Ồ không, chúng tôi không có khoản tiền đó”, Jones nói. “Tôi muốn nói cước phí kia”.

“Vậy thì bỏ đi”, Ellsberg nói. “Chẳng bao nhiêu, có bốn mươi lăm đô-la thôi”.

Dan Ellsberg và Norvill Jones hợp tác với nhau rất tốt nhưng sự hiểu lầm về việc hoàn lại tiền kể trên đã cho thấy có một sự hiểu lầm lớn hơn giữa hai người. Như Ellsberg đã nghĩ, ông và Norvill Jones cùng đứng về một phía trong cuộc đấu tranh; cả hai đều tìm cách chấm dứt chiến tranh Fulbright và ủy ban đối ngoại đã trở thành đội tiền phong trong cuộc thánh chiến này ở Washington. Nhưng theo Norvill Jones thì tình hình không đơn giản. Phong trào chống chiến tranh không phải là một tập hợp toàn thế giới của giáo hội; trong đó lại có nhiều giáo phái, lạì có những người cũng tự xưng là hiệp sĩ của cuộc thánh chiến nhưng lại đánh lung tung mọi hướng - mà thường là đánh sai hướng. Ông cho rằng chỉ có lãnh tụ của ông, ngài Fulbright là đúng hướng mà thôi. Ông tin rằng trách nhiệm của ủy ban là vạch ra một lối thoát cho những ai quan tâm sâu sắc tới chiến tranh, và chính ông đang giúp tổ chức những buổi điều trần trước quốc hội cho những người chống chiến tranh. Nhưng có một số người mà Fulbright đã nói riêng là quá lý tưởng nhưng lạc hướng thì Jones và những người khác trong ủy ban tìm cách không cho họ tới gần. Dan Ellsberg dĩ nhiên là không thể bị đánh đống cá mè một lứa với những người phản đối chiến tranh khác, nhưng Jones lại thấy ở Ellsberg cái gì đó tiềm tàng còn nguy hiểm hơn nhiều.

“Tôi thấy ông ta giống như một ngòi pháo sẵn sàng nổ bất cứ lúc nào”, Jones nói. “Vì vậy mà tôi muốn giữ một khoảng cách giữa tôi với ông ta cũng như giữa ủy ban với ông ta”.

Norvill Jones cho rằng lập trường của ủy ban đối ngoại về Việt Nam là khá mỏng manh về chính trị. Mặc dầu con bồ câu hay nói thẳng Frank Chuch là thành viên của ủy ban, nhưng mũi nhọn tấn công của ủy ban là dựa vào sự phản đối chiến tranh của Fulbright, một lập trường đã góp phần làm sụp đổ Lyndon Johnson. Trong lịch sử gần đây, chưa từng có một tổng thống tại vị nào lại bị chống đối mạnh mẽ như vậy bởi ông chủ tịch một ủy ban của thượng viện, hơn nữa lại là thượng nghị sĩ cùng một đảng với tổng thống, và đã có thời là bạn gần gũi và trung thành. Và Jones, xuất thân từ một gia đình nghèo ở Princeton, tiểu bang Arkansas, đã đóng một vai trò có ý nghĩa trong việc đưa tới tình hình ấy. Hoạt động với tư cách là người phụ tá của Fulbright để hướng dẫn nỗ lực của quốc hội trong việc chấm dứt chiến tranh, Jones đã đặt cả tiền đồ sự nghiệp của bản thân mình vào đấy.

Jones đã đi theo Fulbright suốt cuộc đời hoạt động của mình, bắt đầu bằng một chân đưa tin, lúc ông mười bốn tuổi mùa hè 1944, khi Fulbright là hạ nghị sĩ ra tranh cử nhiệm kỳ thượng nghị sĩ đầu tiên. Sau khi Fulbright trúng cử, Jones về Washington theo học tại trường Capitol Page School từ sáu giờ rưỡi cho đến chín giờ rưỡi mỗi buổi sáng rồi làm người gác cổng cho thượng viện. Sau đó, ông được chuyển về văn phòng của Fulbright làm một chân tập sự vào học ban đêm tại đại học George Washington cho tới khi chiến tranh Triều Tiên, ông làm một sĩ quan hải quân lái những chiếc trực thăng từ hàng không mẫu hạm lên. Sau khi trở về Washington, ông học tiếp cho hết khóa đại học rồi vào trường luật, mãn học đúng vào lúc có sự cải tổ trong văn phòng của Fulbright nên ông được làm phụ tá pháp lý cho thượng nghị sĩ Jones đi theo Fulbright suốt cuộc vận động tái cử của ông và chỉ có người trợ lý hành chính là gần gũi với Fulbright như ông suốt bao nhiêu năm tháng mà thôi. Sự tiếp xúc gần gũi thường xuyên như vậy tạo ra sự gắn bó giữa hai người như cha con vậy.

“Sống giữa chúng tôi bao giờ cũng là “thượng nghị sĩ Fulbright”, Jones nói. “Chúng tôi không bao giờ có mối quan hệ cá nhân trực tiếp. Ông là một người theo nghi lễ, một người hào hoa phong nhã theo trường phái cũ, không thích bày tỏ tình cảm riêng tư. Mặc dầu ông thường đòi hỏi chất lượng trong công tác, nhưng ông không phải là nhà quản trị biết cách chỉ đạo nhân viên của mình đạt được điều đó. Ông là một người nóng nảy trong chừng mực nào đó nhưng lại kín đáo và tự kiềm chế, không bao giờ bày tỏ sự bực bội của mình là ngoài. Ông không bao giờ là người vỗ vai người khác, nhưng ông có khả năng làm cho mọi người ở Arkansas và mọi nơi khác kính trọng vì đầu óc của ông. Ông là một kiểu người đoan trang tề chỉnh, ăn nói thẳng thắn. Ông không đi đứng nhỏ nhẹ, ăn nói ngọt ngào như phần lớn các chính khách khác. Tất cả mọi người trong văn phòng đều kính trọng ông, bởi vì, tôi nghĩ, họ thấy ông cao hơn họ nhiều quá, tôi cũng vậy”.

Còn việc Jones trở thành chuyên viên về Việt Nam của ủy ban đối ngoại thì chỉ là dịp may mà thôi. Ông cảm thấy mệt với văn phòng của Fulbright nên khi có một người bạn đi nơi khác thì ông hỏi Fulbright là ông có thể làm công việc của người đó được không. Trước hết, công việc của ông không có gì rõ ràng cả. Ông nói “Tôi không muốn có tiếng là người của Fulbright mà cả ngày cứ nhìn qua vai người khác”, Jones nói. “Tôi muốn được hòa vào không khí tập thể của cơ quan nên khi người theo dõi về châu Á nghỉ việc năm 1964, thì tôi được phân công làm việc đó mà chẳng biết gì về châu Á cả. Jones là một người lịch sự, tự kìm chế, mái tóc bạc trước tuổi càng tăng vẻ đẹp hòa nhã của ông, ông là một con mọt sách, định đọc tất cả những gì có thể tìm được về Việt Nam.

Không có gì khó nếu muốn vượt qua những hiểu biết của Fulbright về Việt Nam. Ông nguyên là một học giả của trường Rhodes nổi tiếng, được nhiều người coi là một trong những bộ óc thông minh nhất trong Thượng viện, nhưng hiểu biết của ông về Việt Nam có khi còn thua một sinh viên năng theo dõi các trận đánh trên báo chí. Nếu Fulbright có đọc cuốn sách nào đó về Việt Nam thì cũng không thấy ông thể hiện trong những cuộc nói chuyện. Đối với ông, Việt Nam không phải là một nước mà chỉ là một nguyên lý trừu tượng trên lĩnh vực đối ngoại. Ông chưa bao giờ đến nước này cả. Chỗ ông đến gần nhất là Thái Lan. Trong cơ quan có lần đã thảo luận xem Fulbright có nên đến vùng chiến sự không, mặc dù đó chỉ là bề ngoài, như các nhà chính trị khác đã làm. Jones, biết ý Fulbright, đã đứng về phía nhũng người phản đối chuyến đi đó.

Fulbright gay gắt bác bỏ ý kiến đi Việt Nam. “Tôi đã được mời tới đó”, ông nói. “Nhưng mấy ông có nhớ kinh nghiệm của George Romney không? Tới đó, anh không có thể làm gì khác hơn là nghe họ báo cáo. Anh không thể biết được điều gì ngoài những điều họ muốn cho anh biết”.
« Sửa lần cuối: 09 Tháng Năm, 2008, 10:51:58 pm gửi bởi chuongxedap » Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #56 vào lúc: 17 Tháng Năm, 2008, 07:22:01 pm »


Nhưng mọi người vẫn nghĩ rằng Fulbright không quan tâm tới việc mục kích tại chỗ. Ông ghét những chi tiết. Ông không chỉ chống lại cuộc chiến tranh Việt Nam mà ông còn chống lại cái cách suy nghĩ đã đưa Hoa Kỳ tới chỗ dính líu ở Việt Nam. Nhưng trước đây ông lại là người đã từng lên tiếng ủng hộ và thường bỏ phiếu tán thành sự can thiệp của nước ngoài vào châu Á. Nhưng thái độ ngoằn ngoèo về chính trị đó chi là thủ đoạn của một chính khách thực tiễn muốn làm vui lòng cử tri đoàn bảo thủ của mình ở Arkansas hơn là do thái độ hai mặt trong chính sách đối ngoại. Trên thực tế, Fulbright chưa hề thay đổi ý kiến của ông từ những năm một chín năm mươi, khi ông bắt đầu cho rằng chính sách của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc là kỳ quặc. Không như nhiều thành viên của Quốc hội - phần lớn các thành viên - ông có một quan niệm vững chắc nhưng khôn ngoan về vai trò của nước Mỹ trên thế giới. Đối với ông thì Việt Nam không phải là một căn bệnh, mà là sự thể hiện của căn bệnh, một kiểu như bệnh ung thư, có thể xuất hiện rồi thuyên giảm để rồi tái phát vài năm sau đó. Vì vậy ông không nói chống chiến tranh một cách hăng say như một giáo sư khoa học nhân văn, hay như một George McGovern, mà cũng không dùng những từ làm như sắp tới ngày tận thế như một người phản đối trong hàng ngũ sinh viên. Ông hình như tách mình một cách lạnh lùng khỏi những tình cảm bị khuấy động vì chiến tranh và những sự kiện hằng ngày ở Việt Nam. Ông là người bác sĩ tin rằng nhiệm vụ của mình là chữa căn nguyên của bệnh, chứ không phải chỉ chữa sự lây nhiễm gần đây trong chính sách đối ngoại của Mỹ, và liều thuốc hay nhất, theo ông, là sự giáo dục, được tiêm một cách từ từ, kiên nhẫn vào mông của Quốc hội rồi từ đó mà lan ra khắp cơ thể chính trị trong nước.

Fulbright đã khôn khéo thúc đẩy ủy ban đối ngoại đi tới chỗ chống lại chiến tranh. Ông đối xử không thật tốt lắm với nhân viên trong bộ máy của ông, không bao giờ giao du cá nhân với họ, chỉ hạn chế quan hệ với hai hay ba người trợ lý, giữ khoảng cách lịch sự với tất cả mọi người; nhưng ông đối xử hết sức tốt với các bạn đồng nghiệp trong ủy ban, bao giờ cũng chiều chuộng thông cảm với những yêu cầu chính trị của họ, hết sức trân trọng họ. Thoạt tiên, ông gặp riêng từng thành viên trong nội các rồi gửi cho Johnson hết bản ghi nhớ này tới bản ghi nhớ khác, nói lên mối quan tâm của ông về Việt Nam. Khi ông thấy rõ rằng làm như vậy không đi tới đâu cả, Fulbright với ban tham mưu của ông mới tìm cách gây áp lực với Johnson. Cách làm là tổ chức những buổi điều trần trước Thượng viện về cuộc chiến tranh, nhưng những cuộc điều trần phải được tiến hành sao cho hợp với pháp luật, có cơ sở pháp lý nào đó, chứ không thể tự dưng tố cáo chính sách của chính quyền được.

Nhân có một dự luật về Đông Nam Á được đệ trình quốc hội vào tháng Giêng 1966, Fulbright quyết định lợi dụng việc này để tổ chức những cuộc điều trần công khai, chất vấn các quan chức chính phủ về chiến tranh, những cuộc điều trần này được mọi người chú ý đến nỗi các hệ thống truyền hình đã truyền hình tại chỗ. Sau mấy ngày bị nã pháo liên tục, Tổng thống Johnson quyết định giành lại sự chú ý của công chúng từ tay ủy ban đối ngoại bằng cách bày đặt ra một cuộc họp mặt với Thủ tướng Nam Việt Nam Nguyễn Cao Kỳ tại Honolulu.

Lyndon Johnson không chấp nhận sự phản đối chính sách của mình một cách quân tử mà lại xoay ra chống Fulbright, người mà khi còn làm lãnh tụ phe đa số tại Thượng viện ông vẫn gọi là “ngoại trưởng của tôi”. Fulbright kể lại “Trong một bữa dạ tiệc lớn của đảng Dân chủ, tôi đang ngồi cách Johnson chừng ba thước khi ông ta nhắc đến tôi nói rằng tôi là một người yêu nước sáng ngời và nhiều từ mỉa mai khác. Trước đó, tôi thường được mời vào Nhà Trắng để gặp riêng ông ta. Nhưng sau đó, tôi chỉ gặp ông ta cùng với những nhà lãnh đạo Thượng viện và Hạ viện mà thôi”. Mối bất hòa này rất khó chịu cho Fulbright. Vợ Fulbribht là bạn thân của vợ Johnson, thỉnh thoảng còn đi mua quà Noel giùm vợ Johnson nữa.

Các nhà quan sát ở Washington cho rằng có một nhân tố ân oán giang hồ nào đó trong sự chống đối của Fulbright đối vớiJohnson. Chính Fulbright là người đã làm cho Quốc hội thông qua Nghị quyết Vịnh Bắc bộ mà Johnson đã lợi dụng biến thành một thứ tuyên bố chiến tranh để tiếp tục đưa quân vào miền Nam và ném bom miền Bắc Việt Nam. Nghị quyết đã được thông qua vào tháng Tám 1964, sau khi chính quyền tố cáo tàu tuần duyên Bắc Việt Nam đã vô cớ tấn công các khu trục hạm của Mỹ hai lần.

Dan Ellsberg muốn lợi dụng sự bực dọc của Fulbright về Nghị quyết Vịnh Bắc bộ để lôi kéo ông tới chỗ công bố những Tài liệu của Lầu Năm Góc trong một cuộc điều trần để, nếu không chấm dứt được chiến tranh, cũng gây thiệt hại nghiêm trọng cho những cố gắng chiến tranh. Trong lần gặp gỡ đầu tiên với Fulbright, ngày 6 tháng Mười Một năm 1969, Dan Ellsberg không mang theo Tài liệu mật mà chỉ mang theo những ghi chú rút ra từ một tài liệu nghiên cứu về chỉ huy và kiểm tra của bộ quốc phòng trong đó cho biết rằng chính quyền nói là Bắc Việt đã hai lần tấn công các khu trục hạm của Hoa Kỳ nhưng thực ra không có cuộc tấn công thứ hai nào cả, đó chẳng qua là Johnson đã nói láo Quốc hội để quốc hội thông qua nghị quyết mà thôi.

Nói tới Dan Ellsberg thì chẳng có chuyện gì đơn giản cả. Tìm hiểu trình tự suy nghĩ của ông thời kỳ đó chẳng khác gì xếp cát trên bãi biển sau một đợt sóng. Hình như lúc đầu ông đã tính công bố những tài liệu mật vào dịp tạm ngừng hoạt động vì Việt Nam (Vietnam Moratorium) ngày 15 tháng Mười 1969, và cuộc biểu tình chống chiến tranh một tháng sau đó, hy vọng là tài liệu này sẽ gây ra cuộc nổi dậy buộc Richard Nixon phải hành động. Nhưng Nixon đã khôn khéo đưa ra một lời hứa là ông đã có một kế hoạch bí mật để chấm dứt chiến tranh trong danh dự, làm cho phong trào phản đối bị mất đà; và chính là lúc đó Ellsberg đã quay lại với Fulbright, trong một cuộc gặp gỡ do Jim Lowenstein thu xếp, Jim là một người điều tra của ủy ban đối ngoại mà Dan đã gặp ở Việt Nam.

Norvill Jones sau đó có ghi lại buổi gặp gỡ đầu tiên ngày 6 tháng Mười Một, 1969, trong một bản ghi nhớ mật cho Fulbright: “Dan Ellsberg nói chung chung về việc quốc hội và nhân dân đã bị lừa gạt về chiến tranh và ông đề nghị cung cấp một số tài liệu mà không nói rõ là tài liệu của Lầu Năm Góc. Ông đã đưa cho chúng tôi một phong bì những ghi chú về chỉ huy và kiểm tra của bộ quốc phòng (chúng tôi đã biết có tài liệu này, do Viện nghiên cứu quốc phòng làm trong thời kỳ xảy ra sự kiện Vịnh Bắc bộ, chúng tôi đã có lúc tìm lấy) và có thể là có thêm một phần Tài liệu của Lầu Năm Góc có liên quan tới sự kiện Vịnh Bắc bộ. Ngài (Fulbright) hãy nói với ông ta làm việc với Jones và Lowenstein”.

“Việc đầu tiên của tôi là mang tài liệu về Vịnh Bắc bộ tới cho Fulbright”, Ellsberg nói. “Tôi muốn đảm bảo rằng những người ở đó sau này đừng quên mà nói rằng Fulbright chưa bao giờ thấy những tài liệu ấy”.

Ellsberg cho rằng tiết lộ những tài liệu của Lầu Năm Góc cho những cuộc điều trần như những cuộc đã được tổ chức năm 1966 thì sẽ có tác động mạnh hơn là tiết lộ cho báo chí. Trong vấn đề này ông cũng có một tính toán cá nhân. Ông thường hay nói rằng ông sẵn sàng vào tù nếu cần nhưng thật ra ông không mong làm thánh tử đạo mà cũng không muốn vào tù và ông thấy rằng tội ông sẽ nhẹ hơn nếu ông đưa tài liệu đó cho quốc hội chứ không đưa cho báo chí. Khi ông hỏi cố vấn pháp luật thì được biết khả năng ngồi tù của ông là 50% nếu quốc hội công bố tài liệu mật, 75% nếu báo chí tiết lộ và 95% nếu không ai chịu đưa ra công khai cả.

Ellsberg định đem những tài liệu liên quan đến sự kiện Vịnh Bắc bộ đề nhử cho Fulbright quan tâm tới việc công bố toàn bộ Tài liệu Lầu Năm Góc nhưng thủ đoạn này đã thất bại. Trước hết là ông hiểu sai bản chất ông Fulbright. “Điều tôi thường quan tâm không phải là họ nói dối như thế nào trong vụ Vịnh Bắc bộ, mà là Johnson nói dối như thế nào về ý đồ của ông ta”, Fulbright nói “Tôi cảm thấy bị đánh lừa về ý đồ của ông ta, về những gì ông ta nghĩ trong đầu” Việc những tài liệu về Vịnh Bắc bộ của Ellsberg phát hiện ra nhiều sự dối trá và mưu mẹo đã không cù được Fulbright. Đối với ông, những lời nói dối chỉ là những chi tiết. Điều quan trọng hơn là toàn bộ hành động của Johnson lợi dụng Nghị quyết Vịnh Bắc bộ để mở rộng chiến tranh, và Johnson, dưới sức ép ghê gớm của công luận, đã quyết định không tái tranh cử tổng thống. Ngoài ra, Fulbright đã tổ chức những buổi điều trần về sự kiện Vịnh Bắc bộ, sau khi một sĩ quan hải quân liên lạc với ông và cho biết rằng Lầu Năm Góc đang nói dối.

Ellsberg cũng hiểu sai con người của Norvill Jones, mà ông cho là “một anh chàng dễ thương, thông minh với những suy nghĩ đúng đắn về Việt Nam”. Quả thật Jones là con người như vậy, nhưng đồng thời ông ta cũng là một sinh vật chính trị từ đầu tới chân, khôn khéo như mèo rừng. Đằng sau giọng nói dịu dàng và nụ cười dễ dãi, đôi mắt lạnh lùng của Jones đang đánh giá con người Ellsberg và không lấy gì làm vui với nhưng điều thấy được. “Trong buổi gặp đầu tiên, ông nói năng mạch lạc rõ ràng nhưng có phần căng thẳng và lo âu”, Jones nói. “Ông nói nhanh và khua chân múa tay. Trông ông ta có vẻ như một người gây rắc rối”.

Theo Jones, việc này có nhiều nguy hiểm quá. Trước hết là liệu có nên để cho Fulbright dính líu vào việc sử dụng những tài liệu đánh cắp không. Tài liệu tiết lộ ra ngoài là chuyện cơm bữa ở Washington nhưng chưa bao giờ có một khối tài liệu lớn như Ellsberg đã có. Rồi còn phải tính đến những thành viên khác trong uỷ ban. Họ sẽ nghĩ sao nếu Fulbright đã nỗ lực rất nhiều để duy trì sự thống nhất trong ủy ban, để cho các thượng nghị sĩ còn ủng hộ chiến tranh chia rẽ nhau gay gắt. Jones cũng biết rằng trong lúc này Fulbright cũng chưa muốn đối đầu với Nixon, vì nhiều lý do. Nixon nói rằng ông ta có một kế hoạch bí mật để chấm dứt chiến tranh và ông ta mới vào Nhà Trắng chưa tới một năm. Fulbright cho rằng phải tin ở lời hứa của tổng thống và cho ông thời gian để thực hiện kế hoạch của ông. Nhưng sự miễn cưỡng của ông còn một lý do ít cao thượng hơn, một lý do thực tiễn hơn. Fulbright đang gặp rắc rối về chính trị trong hạt bầu cử của ông, một phần vì những lời nói công khai chống chiến tranh của ông. Ông đã được tái cử năm 1968, chống lại một tên phân biệt chủng tộc hung dữ và vô ý thức, với một đa số không ngờ là chỉ có 54%, làm cho ban tham mưu của ông phải ớn xương sống, thấy rằng tới kỳ sau năm 1974, có thể còn được ít phiếu hơn nếu ông không có cách gì làm thay đổi tình thế.

Henry Kissinger, cố vấn an ninh quốc gia của Nixon thấy cần phải tán tỉnh Fulbright trong những tháng đầu tiên vào Nhà Trắng, và Fulbright đã tiếp nhận lời tán tỉnh đó không chút e thẹn. Hai người có những điểm tương đồng về mặt trí thức. Cả hai đều có tầm nhìn rộng rãi về thế giới. Kissinger cũng vậy, và chính những năm theo học Oxford đã cho ông những bài học đầu tiên. Một số người trong ban tham mưu của Fulbright không tin Kissinger, nhưng những lời cằn nhằn của họ về mối quan hệ với người của Nixon đã được kìm chế vì họ nhận thấy rằng thủ trưởng của họ, vốn là một nhà chính trị khôn khéo, hẳn phải có lý do để giao du với con người ấy. Trong khi Kissinger tìm cách hạn chế bớt những lời chỉ trích của Fulbright đối với chính sách của Nixon về Việt Nam thì Fuìbright cũng muốn nhờ con diều hâu nổi tiếng Kissinger đến đọc diễn văn cổ động cho ông ở tiểu bang Arkansas, giúp ngăn chặn đà xuống của ông ở đó.

Trong khi Fulbright chơi cái trò có đi có lại ngầm với Kissinger, ông có để cho hai nhà điều tra của ủy ban đối ngoại là Jim Lowenstein và Dick Moose khích động báo chí chống lại vấn đề Việt Nam để tạo cho mình một vai trò công khai trước công chúng, thực ra việc này từ trước đến nay do những người nặc danh thực hiện mà thôi. Ít có ai nghe đến tên của Norvill Jones nhưng Moose và Lowenstein đã làm cho người ta tốn nhiều giấy mực viết về họ bằng những chuyến đi đi về về của họ ở Việt Nam, rồi viết những báo cáo phê phán chiến tranh và khai thác các nhà báo, nhưng mọi người cũng công nhận vai trò nổi bật của họ trong ủy ban đối ngoại. Họ là một nhóm làm việc tốt và bổ sung cho ban đối ngoại. Họ là một nhóm làm việc tốt và bổ sung cho nhau - Lowentein, bảo thủ, thận trọng, một mẫu mực của con nhà ngoại giao; ngược lại, Moose, nhiệt tình, năng nổ. Họ là những người biết tự động công tác và được Fulbright thừa nhận.

Gần như theo bản năng, Jones đã vạch ra một kế hoạch để lợi dụng Ellsberg mà không gây mạo hiểm chính trị cho Fulbright hay ủy ban đối ngoại, đồng thời có vẻ như là một bước tiến logic tới Ellsberg. Thay vì công bố những tài liệu mật có thể làm cho Ellsberg gặp rắc rối, Jones gợi ý cho Fulbright viết thư cho Bộ trưởng quốc phòng Melvin Laird và chính thức yêu cầu Lầu Năm Góc đưa những tài liệu mật đó cho ủy ban đối ngoại. Dù cho Melvin Laird trả lời cách nào thì ủy ban cũng có lợi cả.

Jones kể lại rằng “Suốt trong thời gian ấy, có một trò chơi giống như là bóng bàn đánh qua đánh lại giữa ngành hành pháp và ủy ban đối ngoại. Chúng tôi sử dụng bất cứ vũ khí gì chúng tôi có được để làm cho người ta nghĩ rằng chúng tôi không được thông tin, muốn làm cho mọi người thấy rằng ủy ban bị bưng bít thông tin cần thiết để ra quyết định”.

Nhưng Ellsberg lại không hiểu được ý đồ đó. Như có thể thấy trước, Melvin Laird từ chối đưa tài liệu cho ủy ban đối ngoại mặc dầu đã có bốn bức thư yêu cầu có chữ ký của Fulbright. Ellsberg sốt ruột thấy ngày tháng trôi qua mà chẳng thấy điều trần đâu cả, đã quyết định bỏ rơi ý định lôi Fulbright vào cuộc và gửi hầu hết tài liệu Lầu Năm Góc cho Norvill Jones vào tháng Hai 1970.

Jones nói “Tôi không hiểu tôi đang có cái gì nữa, thật đấy, đó là hằng trăm tài liệu đã phôtô lại. Tôi mang một số về nhà đọc khi đi ngủ”.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #57 vào lúc: 17 Tháng Năm, 2008, 07:28:15 pm »



*
*   *


Trong lúc Dan Ellsberg gửi Tài liệu của Lầu Năm Góc cho ủy ban của Fulbright, Trần Ngọc Châu đang nhắc với Keyes Beech của tờ Los Angeles Times là ông muốn gặp. Ông tin Beech. Ông đã trốn trong nhà Beech, tránh cảnh sát của Thiệu trước khi John Paul Vann và Ev Bumgardner đưa ông từ Sài Gòn đi Cần Thơ và bây giờ Châu muốn hỏi ý kiến của Beech xem ông phải làm gì. Trong đoàn báo chí nước ngoài ở Sài Gòn thì Keys Beech là một cực đối lập với các nhà báo trẻ cứ theo dấu chân của David Halberstam và Neil Sheehan và công kích chiến tranh. Beech, năm mươi bảy tuổi ngăn nắp gọn gàng, đeo kiếng, đầu hói, với một nhúm tóc bạc, là một trong những nhà báo trên bốn mươi tuổi đã viết bài về Việt Nam nhiều năm theo kiểu đi đi về về khi Halberstam và Sheehan, trong lứa tuổi hai mươi của họ đến đây làm hai phóng viên thường trú đầu tiên. Quê ông ở Tennessee, Beech đã làm phóng viên chiến tranh trong thủy quân lục chiến, đã chứng kiến các trận đánh ở Tarawa và Iwo Jima, và sau Chiến tranh thế giới lần thứ II đã được tặng giải Pulitzer, lúc còn làm phóng viên cho báo Chicago Daily News, sau đó chuyển qua làm cho Los Angeles Times.

Keyes Beech nói: “Tôi biết Dave và Neil trong những ngày chiến tranh còn chưa lan rộng. Tôi cứ đi qua đi lại giữa Tokyo và Sài Gòn, mấy anh ấy rất vui tính và có ích cho chúng tôi. Họ để một tập bài viết trong cơ quan cho các phóng viên báo khác tự do sử dụng, không những thế các phóng viên khác còn được khuyến khích đến nơi và sử dụng nữa, họ làm như vậy rất khôn ngoan, bởi vì họ được toàn bộ đoàn báo chí làm việc cho họ. Mal Brown cũng là một phóng viên thường trú khác, nhưng Dave và Halberstam làm việc rất mật thiết với nhau. Cả hai anh đó tin rằng Diệm phải ra đi mới được. Halberstam bao giờ cũng tỏ ra rất dứt khoát trong những chuyện như vậy.

“Tôi nói với các anh ấy. “Được lắm, tôi chỉ muốn nhắc các anh một điều. Tôi đã viết bao nhiêu chuyện bẩn thỉu tồi tệ về Diệm trong khi các anh còn mài đũng quần ở trường Harvard. Mặt khác, nếu có điều gì tôi đã học được sau bao nhiêu năm ở châu Á, đó là anh không thể lật đổ một chánh phủ nếu anh không có sẵn một cái gì đó cũng tốt bằng hoặc tốt hơn chờ sẵn ở cánh gà để thay thế. Đó là lập trường của tôi. Nếu không phải Diệm thì ai? Ông ta là một người quốc gia thực thụ. Người ta mời ông ta về là vì thế”.

“Ở đây không có vấn đề gì, nhưng tôi là một người hết sức bảo thủ”, Beech nói thêm “Nhưng cái tôi khác với nhiều phóng viên khác, nhiều người trong đám họ trẻ đến nỗi có thể làm con của tôi, là ở chỗ này tôi biết cuộc chiến tranh này rất lâu trước khi tôi tới Việt Nam”

Beech là người cứng cỏi và ăn ngay, nói thẳng, nhưng dễ thương và thường hay được đoàn báo chí ngoại quốc ở đây ái mộ. Ông lúc nào trông cũng mạnh khỏe và cũng mạo hiểm như tất cả mọi người. Ông thường ăn uống vui vẻ với họ, mặc dầu có điều không thể tránh khỏi là, một khi chiến tranh đã thành một đề tài tranh luận ở trong nước, các phóng viên vứt bỏ thái độ “khách quan” bề ngoài của họ, có khi ông phải tranh cãi với các phóng viên trẻ.

Ông nói “Ôi, bọn tôi cãi nhau hoài. Tôi chắc rằng nhiều người coi tôi là lão già hủ lậu. Tôi chắc rằng nhiều người coi tôi là lão già hủ lậu. Tôi theo dõi cuộc chiến tranh này lâu hơn họ. Vào một buổi tối một phóng viên rất trẻ của tờ Washington Post, nói “Tôi bất cần cái thế hệ chết tiệt của ông, tôi chỉ cần đưa thế hệ của tôi ra khỏi đây thôi”. Cảm tưởng của tôi là nếu chúng ta có thể kiềm soát được tiến trình cuộc chiến tranh, nắm chắc được nó, có thể có cơ may thay đổi chính phủ Sài Gòn bằng một chính phủ tốt hơn. Nhưng nếu để cho cộng sản thắng thì chẳng còn cơ may nào nữa”.

Thái độ bảo thủ của Beech làm cho ông không được lòng các phóng viên nước ngoài ở Sài Gòn, nhưng lại được lòng phái bộ quân sự Hoa Kỳ và được họ cung cấp tin tức. Ông là một trong số ít nhà báo được phép tới lui với đại sứ và người Chi cục trưởng của CIA. Frank Snepp, nhà phân tích tình hình của CIA, thân cận với Chi cục trưởng Ted Shackley, tin rằng Keyes Beech và một số ít nhà báo khác đã bị sứ quán, đặc biệt là CIA, lợi dụng mà không biết.

“Có ba nhà báo - Bod Shaplen, Keyes Beech và Bud Merick - có mối quan hệ thân mật bên trong sứ quán không thể tưởng được”. Frank Snepp nói. “Tôi không muốn gợi ý rằng họ không phải là những nhà báo tốt. Nhưng sau khi nói chuyện với Shackley, họ lại đến sứ quán khác, sứ quán Anh, chẳng hạn. Họ không biết rằng chúng tôi có tổ chức những buổi báo cáo tình hình cho các sứ quán, cho nên khi đến đó, họ lại nghe những tin tức của chúng tôi. Shackley có cái thiên tài là làm cho nhà báo tin rằng họ đã được ông ta tin cậ”’.

Những lời tố cáo của Frank Snepp, đưa ra sau khi chiến tranh chấm đứt, đã tạo ra bất bình với các nhà báo bị ông chỉ trích “Beech nói, “Snepp với tôi - được, tôi coi anh ta chỉ là một thằng vô đạo đức, một tiếng nói láo chó đẻ. Anh ta biết tôi nghĩ gì về anh ta và tôi cũng biết anh ta nghĩ gì về tôi”.

Quan hệ giữa Keyes Beech với Ted Shackley, mặc dầu là không bình thường trong cuộc chiến tranh Việt Nam, cũng không có gì khác với quan hệ mà nhiều nhà báo lớn tuổi đã có đi có lại không nói ra giữa họ với nhau mà không bên nào biết cả. Những nhà báo lớn tuổi như Beech không phân vân do dự như các bạn trẻ của họ trước sự xung đột có thể có giữa một bên là đòi hỏi của lòng yêu nước và một bên là yêu cầu của nghề nghiệp. Robert Shaplen, của tờ The New Yorker chẳng hạn, phóng viên và tác giả của nhiều cuốn sách có ảnh hưởng lớn về Việt Nam, một người trong thế hệ của Beech, sau chiến tranh đã tiết lộ rằng đã bí mật trực tiếp dính líu vào một mưu toan không thành để giải thoát tù binh chiến tranh của Mỹ năm 1966, theo lời yêu cầu của đại sứ lưu động Averell Harriman.

“Tôi có mối quan hệ nghề nghiệp với Ted Shackley”, Keyes Beech nói. “Ông ta rất hữu ích cho tôi. Tôi nghe một số người chỉ trích ông ta, và một số người khác ghét cái thói ăn uống của ông ta, nhưng tôi chưa hề nghe ai nói là ông ta ngốc nghếch cả. Ông ta là nhà tình báo giỏi nhất mà tôi biết được. Tôi không phải là người có quyền trong lĩnh vực này, nhưng tôi đã biết chín người đứng đầu cơ quan tình báo ở Sài Gòn, bắt đầu từ Bill Colby và kết thúc với Tom Polger. Có ba hay bốn lần tôi biết là Ted Shackley định lợi dụng tôi theo cái nghĩa là muốn tôi viết bài theo kiểu nào đó, theo một quan điểm nào đó. Tôi nói với ông ta. “Tôi không viết cho ông. Tôi đang viết cho báo của tôi”. Đồng thời, tôi cũng không nghi ngờ gì rằng Shackley cho rằng tôi cũng là con người có ích để ông ta làm quen. Nhưng tôi hoàn toàn biết rõ tôi đang làm gì. Rất nhiều khi chúng tôi có những bất đồng lớn với nhau, đặc biệt là về Châu, thường là dẫn tới chỗ chúng tôi không đến với nhau nữa”.

Beech gặp Châu lần đầu tiên khi Châu làm tỉnh trưởng Kiến Hòa. Điều duy nhất mà Beech nhớ được về cuộc gặp gỡ là Châu bất hòa với cố vấn Mỹ của ông ta, một Trung tá. Cố vấn này không đồng ý với chiến thuật của Châu và nói với Beech: “Châu nghĩ rằng muốn thắng cuộc chiến tranh này thì phải lôi kéo dân chúng chứ không phải bắn họ”. Cho mãi tới cuối những năm một chín sáu mươi Beech mới thực sự biết Châu.

“Tôi thích Châu”, Beech nói. “Tôi nghĩ rằng Châu là một trong những bộ óc độc đáo hiếm có thực sự muốn làm cái gì đó cho chiến tranh. Ông ta thực sự là một người khó chơi, người gốc Huế, thuộc tầng lóp trên, nhưng ông ta đáng cho chúng ta chú ý và sử dụng”.

Khi Ev Bumgardner, một quan chức làm việc trong chương trình bình định liên lạc với Beech và hỏi Beech xem có cho Châu lẩn tránh mấy hôm được không thì Beech đồng ý ngay. Có ai nghĩ ra chỗ nào trốn tốt hơn nữa không? Nhà của Beecb ở số 10 đường Alexandre 'de Rhodes, ngay trước mũi Thiệu, chỉ cách dinh độc lập có nửa khối nhà. Ted Shackley là người khác thường đến ăn trưa, nhưng nhà tình báo đa nghi này cũng không hề biết bí mật của Beech.

“Một hôm Shackley đến ăn trưa lúc Châu cũng có ở đấy”, Beech nói, “tôi buồn cười nghĩ rằng mình đang giấu Châu ở buồng bên cạnh và ông ta có thể nghe trộm tất cả câu chuyên của chúng tôi nếu ông muốn”.

Beech bắt đầu đưa vào ý kiến của Châu mà viết bài. “Ông ta kể cho tôi nghe có hai người của CIA đề nghị cung cấp tiền cho Châu lập một chính đảng, với điều kiện chính đảng đó phải ủng hộ Thiệu nhưng ông ta không chịu làm việc đó”, Beech nói. Châu còn tiết lộ nhiều tài liệu về CIA cho Beech, và Beech cho rằng Châu nói sự thật. “CIA có một số ý kiến khá cụ thể về những gì ông ta phải làm nhưng đó là những điều không nhất thiết ông ta muốn làm”.

Beech tới sứ quán nói chuyện riêng với Đại sứ Bunker và Shackley. “Tôi nói với họ rằng đúng là Châu có một người anh là tình báo của Cộng sản. Nhưng việc đó không sao cả. Tôi lập luận rằng nếu một người có anh hay chị hay bố hay mẹ ở phía bên kia đều bị bỏ tù cả thì khắp Nam Việt Nam này sẽ không đủ tù để nhốt họ đâu. Tôi cũng nói rằng chẳng có gì chứng minh rằng Châu là nhân viên của Cộng sản cả, mặc dầu ông ta có thương ông anh thật. Nhưng nói vậy chứ tôi có cảm giác là họ không nghe tôi.

“Một số bài viết của tôi, đặc biệt là bài nói về việc CIA cố gắng lôi kéo Châu lập một chính đảng, đã gây ra nhiều phản ứng ở Washington, và Thượng nghị sĩ Fulbright đã đem ra sử dụng. Việc đó cũng gây ra một số chuyện khó chịu cho CIA và đặc biệt là cho Shackley. Ông ta rất giận tôi. Nhưng giận như vậy không đúng”.

Tuy nhiên, Beech cũng bắt đầu cảm thấy có chuyện nguy hiểm. Các phóng viên khác đã nhận được lời khiển trách của các ban biên tập hỏi họ vì sao họ lại không nắm được những chuyện mà Beech đã biết. Terry Smith của tờ New York Times gọi điện thoại cho Beech nói. “Ông hình như giữ độc quyền ông Châu thì phải. Tôi không biết muốn mượn ông ta ít lâu có được không”. Beech cười đáp “Được nếu ông hứa dùng xong sẽ trả lại”. Nhưng Beech biết rằng nếu đã có nhà báo khác nghĩ rằng ông đang giấu Châu thì không lâu sau đó Thiệu và sứ quán sẽ nghĩ như vậy.

“Tôi bắt đầu hơi quan tâm”, Beech nói. “Không phải lo cho tôi mặc dầu về lý thuyết họ có thể tống cổ tôi về nước. Nhưng tôi đâu có giấu một người đang chạy trốn bởi vì Châu đã bị tố cáo đâu. Tôi lo cho anh bếp của tôi, cho bà vợ và tám đứa con của anh, vợ chồng anh sống sau lưng nhà tôi. Cảnh sát của Thiệu có thể làm nhiều chuyện bậy bạ cho anh ta. Tôi phải gọi cho Ev Bumgardner nói rằng chúng đang tìm cách đến bắt Châu”.

Sau khi Bumgardner và Vann đưa Châu xuống đồng bằng, Châu liên lạc với Beech và yêu cầu Beech bay xuống Cần Thơ. Vann biết Beech đang đi tới. Beech nói rằng “Tôi không phải người ngưỡng mộ Vann, bởi vì Sheehan, Halberstam và Browne đã nhận Vann như một người trong bọn họ và tôi không thích xí phần vào đó”. Tuy nhiên, Beech cũng thừa nhận rằng Vann là một người dũng cảm. Vann đã giấu Châu trong ngôi nhà của Mỹ, chỉ cách văn phòng CIA ở Cần Thơ có hai cánh cửa. Vann báo cáo cho Beech nghe kế hoạch của ông nhằm đưa Châu khỏi Việt Nam.

Vann sẵn sàng giúp Châu trốn đi nhưng ông không biết đó có phải là phương kế tốt nhất hay không, và Châu muốn hỏi Beech xem Beech nghĩ sao. “Châu nói với tôi “Ông Vann không muốn cho tôi bỏ đi”, Beech nói. “Nếu bây giờ tôi bỏ đi”, ông nói. “Tôi bất quá cũng như một người bất mãn lưu vong khác và người ta sẽ mau chóng quên tôi. Nhưng nếu tôi ở lại và chiến đấu thì tôi có thể bị giết hay bỏ tù. Dĩ nhiên, đây là cuộc sống của tôi và sự lựa chọn của tô”.

“Đúng vậy”, tôi đáp. “Đây là sự lựa chọn của ông. Và không ai có thể làm thay ông cả. Thật là đơn giản. Dù cho ông ở hay ông đi cũng vậy”
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #58 vào lúc: 17 Tháng Năm, 2008, 07:38:49 pm »



*
*   *


Khi Châu lựa chọn. Ông nghĩ tới cái ngày của năm 1965 ấy khi nó mới bắt đầu, khi anh Hiền của ông đã xuất hiện tại văn phòng của ông ở Kiến Hòa. Cuộc viếng thăm của Hiền như sấm chớp giữa trời xanh. Châu đã không gặp Hiền từ ngày anh trốn khỏi chiến khu Việt Minh mười sáu năm về trước khi anh rời bỏ phía cộng sản. Hiền là một người trang trọng, không cười. Ông là một người chính trực, hành động không chê vào đâu được, đáng kính trọng. Nhưng là một tín đồ thực sự. Marx và Lenin là Chúa của ông. Châu không biết là Hiền muốn gì nhưng ông cố đặt mình vào địa vị của Hiền và chuẩn bị tư tưởng để xem Hiền nói gì.

Châu nghĩ rằng thời điểm anh Hiền đến thăm không phải là tình cờ. Điều đó đã xảy ra sau khi quân Mỹ đã đổ bộ vào Việt Nam năm 1965, làm nhụt đà tiến của Cộng sản. Việt Cộng không còn trông thấy viễn cảnh nhìn thấy Nam Việt Nam rơi vào tay họ như một trái xoài chín, trong cơn lốc hỗn độn về chính trị và quân sự sau khi Diệm bị lật đổ. Hay là hiền đã quá mệt mỏi với những quả đấm của Mỹ và đã sẵn sàng bỏ về?

Hai anh em gặp nhau rất xúc động. Hiền mặc áo sơmi trắng, đi dép. Trông ông người ta có thề nghĩ đó là một người Việt trung lưu đến thăm ông tỉnh trưởng để bàn một việc gì đó. Châu được mọi người biết là có chính sách mở cửa cho mọi người muốn đến gặp ông. Trà được dọn ra. Châu nói trước. Ông đã chuẩn bị sẵn những gì định nói. Mối quan tâm đầu tiên của ông, ông nói là Hiền gìn giữ danh dự của gia đình. Ông không bao giờ từ bỏ tự hào của mình. Nếu Hiền thấy đã quá mệt mỏi vì chiến tranh thì Châu sẵn sàng giúp đỡ. Ông sẽ lo cho Hiền đi Hoa Kỳ, hay đi Pháp, ở đấy Hiền có thể lấy lại sức khoẻ, nghỉ ngơi và học hành. Nhưng Hiền không phải làm như những Việt Cộng khác về đầu hàng, một số đã hạ mình xuống khúm núm xum xoe và tỏ ra sẵn sàng phản bội những đồng chí cũ của mình. Châu tin rằng cả hai, Hiền và ông đều trung tín với niềm tin của mình. Cả hai đều có lý do để chiến đấu. Hiền không có lý do gì phải nhục nhã cả. Nếu anh thấy mệt, Châu chấm dứt một cách bình tĩnh, em sẽ giúp anh.

Hiền ngồi nghe Châu một cách điềm đạm. Ông lấy ra một bức thư đưa cho Châu. Đó là của người Trưởng ban tổ chức mà Châu đã làm việc khi còn là Việt Minh. Ông ta bây giờ là một cán bộ cao cấp trong Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. MTDTGP tuy gồm phần lớn là người miền Nam, một số người không phải là cộng sản, nhưng do cộng sản kiểm soát và liên hệ với Hà Nội. Mặt trận là một kiểu nghi trang chính trị đã từng được áp dụng trong thời Việt Minh chống Pháp để che đậy bộ mặt thực. Hiền không nói cấp bậc của mình, nhưng Châu đoán đằng anh mình chắc là một đại tá trong Cục quân báo thuộc Bộ Quốc phòng ở Hà Nội biệt phái vào Trung ương Cục miền Nam. Sĩ quan cấp bậc ấy thường hoạt động theo chỉ thị của Bộ Quốc Phòng, nếu không nói là của Bộ Chính trị. Một người em của Hiền và Châu làm thông dịch tiếng Anh cho Bộ Chính trị.

Châu trả thư lại cho Hiền mà không đọc. Châu muốn tiếp Hiền với tư cách là người anh chứ không phải là người đại diện của Mặt trận. Nhưng Châu đã nhận thức ra rằng anh mình đến đây là vì công vụ. Hiền không có ý định bỏ về. Trái lại ông càng tỏ ra quyết tâm hơn bao giờ hết. Hiền bắt đầu nói rằng họ đã theo dõi hoạt động của Châu trong nhiều năm qua. Mặt trận đã tập hợp được một hồ sơ dày về Châu. Họ thấy là Châu không phải như người khác. Hiền muốn tuyển mộ Châu làm việc cho mình, nhưng thay vì rao hàng cho chủ nghĩa cộng sản thi Hiền nói muốn bàn với Châu xem hai anh em có thể làm gì cho quê hương. Không phải cho cộng sản, ông nhấn mạnh, mà cho quê hương. Nếu chú nghĩ rằng chú đang chiến đấu cho chính nghĩa thì chú hãy nhìn quanh mà xem và hỏi có được bao nhiêu người như chú làm tỉnh trưởng? Nếu chú không chú ý tới quyền lợi và địa vị thì chú chống chúng tôi làm gì?

Châu nói rằng ông không chống Hiền vì Hiền là cộng sản. Ông nói rằng, đối với một người Việt Nam, việc ai là cộng sản hay không cộng sản không phải là vấn đề ý thức hệ. Đây cũng không phải là chuyện Hoa Kỳ chống Liên Xô. Đối với họ, thì vấn đề là ai có thể làm lợi nhiều nhất cho Việt Nam. Và đó là lý do ông đang chiến đấu, Châu nói: cho đất nước. Tất nhiên là ông khổ sở với chế độ Sài Gòn, Châu nói, ông khổ sở với đủ thứ chuyện. Nhưng ông hiến thân cho cuộc đấu tranh cho tự do. Tuy nhiên, ông không chống Việt Cộng như là những con người. Họ là những người Việt Nam tốt. Nhưng họ đi nhầm đường.

Châu chán nản là hai anh em lại lao vào cuộc tranh luận chính trị thay vì nói chuyện gia đình với nhau. Châu muốn được biết tin về những người bà con đang sống ngoài Bắc. Hiền là anh trước, cộng sản sau hay là ngược lại? Liệu đồng thiếc làm bằng đồng với thiếc hay ngược lại, làm bằng thiếc với đồng?

Một lý do nữa khiến Hiền xuất hiện bất ngờ là Hiền muốn trực tiếp gặp Đại sứ Cabot Lodge ờ Sài Gòn, mở một đường liên lạc giữa Mặt luận Giải phóng với Mỹ. Ông gọi ý Châu nên thu xếp một cuộc gặp gỡ thông qua John Paul Vann. Không nghi ngờ gì nữa, Châu thấy rõ Hiền đang hoạt động theo những chỉ thị từ Hà Nội, nhưng khi Châu tìm hiểu mục đích cuộc gặp gỡ với Lodge thì Hiền nói rằng ông không được phép tiết lộ điều đó, ngay cả đối với em, tuy ông có thể nói rằng cuộc chiến có thể chấm dứt thông qua đàm phán giữa Mặt trận với Mỹ. Nhưng tại sao lại phải ở Sài Gòn, Châu hỏi? Mấy anh thiếu gì con đường khác. Hiền nói rằng mỗi con đường có nhiệm vụ riêng của nó.

Khi nghiên cứu yêu cầu của Hiền, người ta thấy việc Hà Nội muốn liên lạc với Cabot Lodge là việc làm có ý nghĩa, vì Lodge là người đã chứng tỏ khả năng của mình qua việc lật đổ Diệm. Một người có thể tống khứ một lãnh tụ cỡ như Diệm thì cũng có thể đẩy sang một bên một hoặc hai viên tướng Việt Nam để mở đường cho một chính phủ liên hiệp ở Sài Gòn. Dĩ nhiên là không ai dám chắc là biết được cộng sản đang nghĩ gì trong đầu. Sứ mạng của Hiền có thể là của một người ly gián, gây mâu thuẫn giữa người Mỹ và chính phủ Sài Gòn.

Châu báo cho John Paul Vann yêu cầu của Hiền. Vann nói ông sẽ mang tin này đến Đại sứ Lođge. Châu cũng nói với người sĩ quan CIA quan hệ với ông, Stu Methven. Ông không biết Methven bằng Vann và ông không nói rằng Hiền là anh của ông, chỉ nói là một sĩ quan tình báo Việt Cộng thôi.

Methven kể lại: “Châu nói rằng ông ta có nguồn tin từ phía bên kia và có thể tổ chức những cuộc tiếp xúc như vậy. Tôi khuyến khích ông ta tiếp tục. Tôi nói rằng chúng ta rất sung sướng có quan hệ với những người đó. Tất cả cái đó là sự thật. Nhưng tôi không nhớ rằng có bao giờ ông ta nói đó là anh ông ta không”.

John Paul Vann biết rằng Hiền là anh của Châu và đã cho Lodge biết, đã từ Sài Gòn trở về cho biết là Lodge từ chối không gặp đại diện của Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Nhưng Lodge lại gợi ý Hiền nên gặp một quan chức khác của sứ quán. Ai cũng có thể thấy được lý do khiến Lodge phải thận trọng. Nếu Hiền thật ra chỉ là một phần tử khiêu khích và Hà Nội công bố cuộc gặp gỡ này thì ông sẽ bị rắc rối với chính phủ Sài Gòn là chính phủ mà ông đang muốn làm cho ổn định. Mặt khác, nếu Hoa Kỳ thực sự quan tâm tới một giải pháp thương lượng cho cuộc chiến tranh thì mở những cuộc nói chuyện với Hà Nội thông qua Hiền là một mạo hiểm đáng giá lắm.

Sau đó, có một chỉ dẫn cho thấy sứ mạng của Hiền có thể là có tính chất quan trọng thực chất nào đó, bởi vì ông ta không chịu tiếp xúc với bất cứ ai ngoài Đại sứ Lodge. Nếu cộng sản không thể nói với đại sứ để người này nói lại với tổng thống, thì họ không nói với ai khác cả.

Hiền xuất hiện gặp Châu một lần nữa sau cuộc tấn công Tết Mậu Thân. Sau đó, Châu mất liên lạc với Hiền. Châu cũng không nói với bất cứ ai trong chính phủ Sài Gòn về những buổi gặp đó, sợ rằng chính phủ này đã trải qua bao lần thay đổi đột ngột, quá bấp bênh để có thể giữ kín việc này, làm lộ ra, gây liên lụy cho nhiều người. Và sứ quán cũng như CIA, không ai cho chính phủ Việt Nam biết những tiếp xúc của Châu. Bí mật này nằm trong hồ sơ gần năm năm.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #59 vào lúc: 17 Tháng Năm, 2008, 07:43:31 pm »



CHƯƠNG XIV
SAIGON 1965


Ed Lansdale không biết mưu toan của cộng sản liên lạc với Đại sứ Lodge. Nếu ông biết thì ông đã lấy đó làm một bằng chứng nữa để nói rằng chiến tranh chỉ có thể thắng bằng phương tiện chính trị chứ không phải quân sự. Năm 1965, trong khi Hiền đã sẵn sàng để tới thăm Châu, thì Lansdale đang khăn gói lên đường qua Sài Gòn làm trợ lý đặc biệt cho Lodge về bình định.

Mặc dầu giờ đây Lansdale không giảm bớt chút nào nhiệt tình của ông với Việt Nam nhưng chín năm quan từ khi phái bộ quân sự Sài Gòn bị giải thể và Lansdale trở về Washington, làm việc ở Lầu Năm Góc, là một thời kỳ rất thất vọng của ông. Thất vọng thứ nhất là Kennedy nói rồi đổi ý không bổ nhiệm ông làm đại sứ ở Sài Gòn nữa. Tới cuối năm 1961, Kennedy lại giao trách nhiệm cho ông phải tìm cách tống khứ Fidel Castro đi. Điều anh em nhà Kennedy nghĩ trong đầu khi họ nói “tống khứ Fidel Castro” sau này đã thành đề tài suy luận của báo chí và điều tra của quốc hội; Lansdale đã cùng với các quan chức khác phải công khai đính chính để bảo vệ cho anh em Kennedy (và cho bản thân họ nữa), nhưng trong chỗ riêng tư họ hiểu là anh em Kenneđy muốn họ làm gì và họ cũng đã thành thật ghi nó ra giấy trắng mực đen - việc này đã làm cho Lansdale gặp rắc rối sau khi ông đã cầm đầu những hoạt động bí mật nhằm lật đổ Castro, kế hoạch này có tên được mã hóa là MONGOOSE. Lansdale đã dùng chữ “thanh toán những nhà lãnh đạo” trong một bản ghi nhớ liệt kê những biện pháp có thể dùng để chống Castro, gây ra biết bao điều rắc rối! Một nhân viên CIA trước đây là người của FBI, nói với Lansdale rằng những việc như vậy không bao giờ được viết ra trên giấy trắng mực đen cả! Ông này cũng sẵn sàng giúp một tay để đánh bật Fidel Castro, chừng nào mà không ai có thể bắt được quả tang ông ta làm việc đó.

Nhưng dù cho không có chuyện rắc rối nói trên, Lansdale cũng không thích hợp với công tác ở Cuba. Ông là một chuyên gia thành lập chính phủ chứ không phải chuyên gia lật đổ chính phủ. Ông cũng cố gắng tham gia quá trình hoạt động, gọi là “đánh đấm đùng đoàng” ở Cuba, nhưng đối với những nhân viên bán quân sự của CIA cùng hoạt động thì ông còn hiểu biết quá ít về các hoạt động phá hoại và đổ bộ bờ biển. Hơn nữa, ông lại không được tự do hành động mà phải chịu sự kiểm soát quá chặt chẽ của một cơ cấu kiểm tra do Tướng Maxwell Taylor đứng đầu, mà Lansdale thì lại không phải là người ngưỡng mộ Taylor. Lansdale đã đề ra một kế hoạch gồm sáu giai đoạn để lật đổ Castro, nhưng Taylor chỉ cho phép thực hiện có mỗi một giai đoạn thứ nhất, chủ yếu là thu thập tin tức tình báo. Những hoạt động phá hoại và do thám không thuộc quyền điều khiển của Lansdale thì tiến hành chẳng ra sao cả. Những người phê phán ông cho rằng những ý kiến thường rất dồi dào phong phú của ông toàn là chuyện điên rồ.

Sự có mặt của ông trong hoạt động chống Cuba không ảnh hưởng gì đến thành công hay thất bại của kế hoạch này cả. Sự thật là Castro không bị lật đổ bằng bất cứ hình thức xâm lăng quân sự nào, hoặc bằng ám sát. Khi một cuộc xâm lăng quân sự đã không thành vấn đề thì người ta tính đến thủ đoạn ám sát, coi đó là thủ đoạn có nhiều khả năng thành công nhất, nhưng không ai nghĩ rằng Lansdale là người có khả năng tiến hành một vụ mưu sát. Khi cuộc khủng hoảng tên lửa nổ ra vào tháng Mười 1962 thì Tổng thống Kennedy và em ông, cả hai đều sốt ruột thấy hoạt động chống Castro của Lansdale chẳng có tiến bộ gì, đã quyết định chấm dứt mọi hoạt động của ông ở đó, nhằm tránh cho tình hình thêm căng thẳng, sợ có thể đưa đến một cuộc chiến tranh hạt nhân. Sau khi cuộc khủng hoảng tên lửa chấm dứt, Lansdale được thay thế bởi Desmond' Fitzgerald, người đứng đầu phân ban Viễn Đông của CIA. Công tác của Fitzgerald được giao cho người phó của ông, William Colby. Cái ngày Kennedy bị giết ở Dallas, Fitzgerald đang ở tại một khách sạn ở Paris động viên một nhân viên CIA người Cuba tìm cách giết Castro, sau khi CIA đã thất bại trong mưu toan lôi kéo cả Mafia vào cuộc. Tổng thống mới Lyndon Johnson tin rằng âm mưu chống Castro có dính dáng cách nào đó với việc ám sát Kennedy nên đã ra lịnh bãi bỏ chương trình này.

Sau khi thất bại với những hoạt động chống Cuba, Lansdale ngồi chơi xơi nước. Ông cố tạo cho mình vai trò một chuyên gia về Nam Mỹ, nhưng Bộ ngoại giao rất sợ cái xu hướng tự tung tự tác của Lansdale nên tìm cách hạn chế ảnh hưởng của ông trong việc đề ra chính sách đối với Mỹ La tinh. Ông cũng không làm được gì trong cương vị trợ lý cho Bộ trưởng quốc phòng. Ông đã gặp bế tắc trong sự nghiệp. Lầu Năm Góc lại bần tiện ra lệnh cho ông về hưu ngay tức khắc trong lúc ông đang rời Washington đi công vụ ở Bolivia. Lệnh này đã được hoãn lại năm tháng, khi ông trở về, và người ta đã tìm cách an ủi bằng cách phong ông chức Trung tướng, nhưng Lansdale rất chán nản. Ông ta đang dọn dẹp cài bàn làm việc của mình tại Lầu Năm Góc ngày 1 tháng Mười Một, 1963, thì một người bạn ở hãng tin Associated Press gọi điện báo cho ông biết tin cuộc đảo chính ở Sài Gòn. Một nhân viên quân sự nào khác chắc là đã nhẫn nhục tiếp nhận tin này và đành rút lui mà vui thú điền viên, để cho vấn đề Việt Nam lùi vào quá khứ. Nhưng cuộc đảo chính Diệm đã làm cho Lansdale, lúc đó đã năm mươi lăm tuổi, càng quyết tâm hơn bao giờ hết trong việc tìm cách ảnh hưởng đến chính sách của Hoa Kỳ ở Việt Nam.

Ông đến Tòa nhà Hành pháp làm việc với tư cách một tham vấn cho Chương trình Lương thực vì Hòa bình. Đây là một công việc tình nguyện, một chức vụ làm không ăn lương, phục vụ mà thôi, nhưng với Lansdale thì việc này có một cái lợi trực tiếp là đưa ông tới kề cận với ban lãnh đạo quốc gia. Một khuôn mặt đang lên ở Washington là thượng nghị sĩ bang Minnesota, tên là Hubert Humphrey, động lực thúc đẩy của chương trình Lương thực vì Hòa bình, người cha đỡ đầu mong cho chương trình này được thành công. Humphrey là người đứng đầu của phe đa số trong Thượng viện và là bạn của Lyndon Johnson, một người kịch liệt chống cộng và chia xẻ niềm tin của Lansdale cho rằng mọi vấn đề quốc tế cần được giải quyết bằng phương tiện chính trị. Người ta nói rằng chính là Humphrey đã gợi ý cho Kennedy tổ chức ra Đội hòa bình. Trong bất cứ trường hợp nào thì cặp Humphrey và Lansdale, một nhà chính trị và một nhà tình báo chính trị cũng hợp nhau một cách tự nhiên; và Rufe Phillips liên hệ với William Connell, đứng đầu ban tham mưu của Humphrey, tổ chức một cuộc gặp gỡ. Connell chịu ảnh hưởng của Rufe Phillips và mau chóng tán thành triết lý hành động của Lansdale.

“Rõ ràng là Lansdale muốn lái cuộc chiến tranh vào một vai trò chính trị lớn hơn và rõ ràng là cố gắng này bị ngăn chặn bởi Hội đồng An ninh Quốc gia tại Nhà Trắng và Lầu Năm Góc”, William Connell nói. “Vì vậy, ông quyết định cố gắng một lần cuối cùng, đi thẳng tới Johnson, thông qua Humphrey”.

Hubert Humphrey trở thành người ủng hộ chủ yếu của Lansdale ở Washington và mở đường cho ý kiến của Lansdale đi thẳng tới Johnson. Humphrey đã viết lại trong hồi ký của ông “Quá trình này rất tế nhị, bởi vì trên thực tế, tôi đang thách thức Maxwell Taylor, con người mà cả Johnson lẫn tôi đều kính trọng, sự kính trọng này một phần do sự mật thiết của Taylor với Tổng thống Kennedy”. Nhưng Humphrey tin tưởng ở Lansdale. Ông nói: “Trực giác cho biết là Lansdale đúng - ít ra là đúng hơn Taylor - nhưng kiến thức quân sự của tôi lại hạn chế. Johnson nghe tôi nói nhưng có thể thông cảm là ông không coi tôi như một chuyên gia trong lĩnh vực đó, mặc dầu đã được Lansdale bồi bổ cho ý kiến, những ý kiến của Lansdale xứng đáng được xếp ngang hàng với của Taylor, Bundy, Rusk và McNamara”.

Tổng thống Johnson không hiểu nhiều về các vấn đề đối ngoại, lãnh vực chuyên môn của ông là các vấn đề trong nước, cho nên thường dựa vào ý kiến của những người trong chính quyền Kennedy còn ở lại. Ông cho luân lưu bản ghi nhớ của Humphrey viết về Lansdale trong những người cố vấn đó. Ngày 25 tháng Sáu, 1964, Trung tướng Chester V. Clifton, Jr. phụ tá quân sự của Johnson (và trước đây là của Kennedy) và là một người ủng hộ Taylor, đã tìm cách gạt bỏ đề nghị của Humphrey cử Lansdale và Phillips sang Sài Gòn. Ông viết trong bản ghi nhớ gửi Johnson “… mặc dầu đó là những người giỏi thật nhưng họ nổi tiếng là hay đơn độc như chó sói hơn là những người biết làm việc với một đội ngũ đồng tâm hiệp lực. Tôi không yêu cầu ngài đưa Lansdale - Phillips vào hành động ngay lúc này”.

Humphrey lúc này sắp đứng liên danh với Johnson ra tranh cử cũng không nhấn mạnh tới sự bổ nhiệm Lansdale nữa, nhưng tiếp tục nói công khai rằng ông tán thành những ý kiến của Lansdale. Tháng Chín, 1964, ông viết: “Chúng ta không có ý định tiến hành chiến tranh thay cho người Việt Nam. Cuộc đấu tranh hiện nay là giữa người Việt Nam theo những mềm tin chính trị khác nhau. Không có một giải pháp bền vững nào có thể được áp đặt bằng quân đội nước ngoài. Chúng ta cần nhớ rằng cuộc đấu tranh ở Việt Nam là một cuộc đấu tranh có tính chất chính trị và xã hội cũng nhiều như tính chất quân sự. Điều cần có hiện nay ở Việt Nam là một chính phủ mà nhân dân có thể tin cậy được”.

Johnson không để ý mấy tới việc Humphrey cứ giương cao lá cờ của Lansdale, nhưng rõ ràng là ông có phần băn khoăn cắn rứt vì đã nghe lời Tướng Clifton và những người còn lại của chính quyền Kennedy mà không quan tâm đúng mức tới chiến lược chính trị do Lansdale đề xướng. Sự cắn rứt này cũng bắt nguồn từ thành tích quá nghèo nàn của bản thân con người hùng Maxwell Taylor. Tháng Sáu, 1964, khi Henry Cabot Lodge quyết định trở về Hoa Kỳ tham gia cuộc tranh cử, Johnson đã cử Taylor sang làm đại sứ tại Sài Gòn. Đây là cơ hội cho con người trong nhiều năm qua đã đưa ra bao ý kiến rõ rệt về Việt Nam chứng minh xem ông có thể làm được gì. Thay vì vào ra Sài Gòn như ông đã làm nhiều lần trong mấy năm qua, bây giờ Taylor có cơ hội ngồi tại chỗ, sống ở đấy, hít thở không khí ở đấy, hàng ngày làm việc với người Việt Nam.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM