Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 02:22:16 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Giáp mặt với Phượng Hoàng  (Đọc 62888 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #40 vào lúc: 08 Tháng Năm, 2008, 11:04:28 pm »


Nhu rất khâm phục cách cộng sản kiểm soát đất nước bằng cách bố trí những cán bộ trung thành nhất vào những vị trí then chốt. Ông nghĩ rằng ông có thể thắng được ảnh hưởng của tầng lớp người Việt ưu tú do Pháp đào tạo bằng cách đưa những cán bộ trung thành của đảng Cần Lao của ông vào chính phủ Sài Gòn và ông cũng làm việc đó một cách kín đáo như cộng sản vậy. Bằng một cách hết sức kín đáo, Colby để cho Nhu biết rằng một cơ cấu kiểm soát như vậy không hay ho gì cả.

“Tôi tìm cách nói cho họ biết rằng họ cần phải làm cho chế độ chính trị của họ cởi mở hơn nữa”, Colby nói. “Và chỗ để cho nó phát triển chính là cộng đồng ở nông thôn. Ông phải tính đến một lớp lãnh đạo mới từ nông thôn mà ra, chính họ mới mang lại tính đích thực cho đất nước”.

Colby lái Nhu đi một cách khôn khéo. Thường thì ông gợi ý khéo léo bằng những câu hỏi đưa ra vào cuối cuộc nói chuyện mà thực ra chỉ là cuộc độc thoại của Nhu nói một cách chi tiết về nỗi hoảng sợ của ông ta trước những mưu toan của Pháp nhằm lật đổ Diệm. Colby báo cáo lại những chuyến đi nông thôn của ông và đề nghị Nhu cho ý kiến. Ông tin rằng ông cũng có được một ít ảnh hưởng nào đó với người em của Diệm.

“Phải, tôi tin chắc là đã tác động tới ông ta”, Colby nói. “Tôi đâu có bảo ông ta phải làm gì. Tôi chỉ giúp ông ta suy nghĩ về những vấn đề đặt ra mà thôi”.

Colby bắt đầu thí nghiệm nhiều phương án khác nhau chống lại cộng sản. Lúc đầu ông nghiêng về việc vũ trang cho nông dân trong một làng cho họ tự bảo vệ chống lại những chiến thuật rất có hiệu quả của cộng sản trong việc tuyển quân, tuyên truyền và thu thuế, mà không cần phải huy động một đơn vị lớn mà chỉ cần có ba bốn du kích mang súng. Dù cho kế hoạch của Colby có hợp lý tới đâu ông cũng không dễ dàng gì thuyết phục được Diệm. Diệm không thấy được giá trị của kế hoạch ấy, ông chỉ thấy rằng khi được vũ trang rồi người nông dân đó có thể quay súng lại chống ông. Ông ta thấy yên tâm hơn với sự ủng hộ của người công giáo miền Bắc di cư, và Colby đã lập được một vài nhóm tự vệ ở Sài Gòn. Theo sự thỏa thuận, người phụ trách CIA ở đây làm việc với Nhu còn Đại sứ làm việc với Diệm, và Colby đã mất rất nhiều thời giờ để động viên Nhu liếc mắt qua mấy cái làng đã khởi đầu chương trình tổ chức tự vệ.

“Từ những thử nghiệm này, Nhu sẽ suy nghĩ một cách rộng rãi hơn về chính trị chứ không phải chỉ có tổ chức để tự vệ”, Colby nói. “Ông ta bắt đầu thấy rằng đó là những cộng đồng cơ sở cho một hình thức hệ thống chính trị mới”.

Lực lượng Đặc biệt của Hoa Kỳ đã được thành lập mấy năm trước khi Colby tới Sài Gòn. Mục đích của họ là lập ra những tổ chức kháng chiến của người châu Á để chống lại một cuộc tràn ngập của Trung Quốc hay Liên Xô vào vùng này. Lực lượng Đặc biệt là cái mà Lầu Năm Góc học được của OSS, nhưng loại trừ hoạt động chính trị, vì đã có CIA chịu trách nhiệm rồi. Với sứ mạng tổ chức những nhóm kháng chiến chống cộng người châu Á, các đội huấn luyện của Lực lượng Đặc biệt đã được phái tới Đài Loan, Thái Lan và Nam Việt Nam. Tuy vậy khi đến nơi vai trò của họ đã sớm được mở rộng. Ở Lào, Lực lượng Đặc biệt nấp dưới cái tên Lượng định tình hình, đã giành lấy quyền huấn luyện quân đội Lào từ tay người Pháp. Ở Nam Việt Nam họ được vào Phái bộ cố vấn quân sự, dưới danh nghĩa là những thành viên của - tên nghi trang nghe cũng lạ là Nhóm Nghiên cứu Hỗn hợp (Combined Studies Group) đặt dưới sự lãnh đạo của một sĩ quan CIA, một đại tá, chịu trách nhiệm báo cáo lại với Colby. Theo chương trình mà Colby bắt đầu triển khai khi ông vừa nhận chức ở Sài Gòn, Lực lượng Đặc biệt trong Nhóm Nghiên cứu Hỗn hợp đã huấn luyện biệt kích Việt Nam, cho chúng thâm. nhập vào Lào tổ chức phá hoại và quấy rối Bắc Việt Nam.

Trong khi Colby đang tìm phương kế để tổ chức phòng vệ ở các làng thì sĩ quan CIA đang chỉ huy Lực lượng Đặc biệt chợt thấy có một người phục vụ tình nguyện (International Voluntary Services ), một người trẻ tuổi tên là Pop Buell, đang dạy những kỹ thuật nông nghiệp cho các bộ lạc miền núi trên Cao nguyên Việt Nam. Họ được gọi là Montagnard - tiếng của Pháp có nghĩa là “người miền núi” - họ được chia thành nhiều bộ lạc, có phần giống nhưng thường là nguyên thủy hơn người Mèo của Vang Pao ở Lào. Người trẻ tuổi hoạt động cho đội hòa bình tư nhân này, về sau Colby đã thu nhận vào CIA, nói được tiếng của các bộ lạc này và đã có những quan hệ tốt với nhân dân miền núi. Thông qua ông ta, Colby có thể khởi sự một chương trình tự vệ đầy hứa hẹn trong những làng miền núi, sử dụng một toán Lực lượng Đặc biệt để huấn luyện và trang bị cho dân làng. Muốn làm rõ ràng đây là một chương trình phòng vệ chứ không liên quan gì với quân đội Sài Gòn, Colby đã đặt cho các đơn vị miền núi này cái tên Nhóm Công dân Phòng vệ không chính quy (Citizens Irregular Defense Group, gọi tắt là CIDG).

Colby nghĩ rằng mình đang đi đúng hướng. “CIA và Lực lượng Đặc biệt hợp tác với nhau rất tốt”, ông nói. “Nó kết hợp trình độ thành thạo trong hoạt động bán quân sự của Lực lượng Đặc biệt với tính nhạy cảm chính trị của CIA”. Nhưng không lâu sau đó, trước tác động của thất bại thảm hại ở Vịnh Con Heo ở Cuba, tất cả hoạt động bán quân sự, trừ hoạt động ở Lao, đều bị rút khỏi CIA mà chuyển về cho Lầu Năm Góc kiểm soát, kể cả Lực lượng Đặc biệt ở Việt Nam. Không có cái đầu chính trị của CIA thì cái thân quân sự của Lực lượng Đặc biệt lại phạm phải mọi sai lầm của Pháp ở Đông Dương với hệ thống phòng thủ tĩnh tại của họ.

Cái đó đã bắt đầu với một mưu toan cải tiến ý định ban đầu của Colby. Lực lượng Đặc biệt quyết định sử dụng các đơn vị CIDG mà CIA đang thành lập để bảo vệ một trại họ định dùng để huấn luyện cho các đơn vị tự vệ ở các làng lân cận. Đây là cái trại đầu tiên của Lực lượng Đặc biệt nhưng từ cái trại đầu tiên này, họ lại nảy ra ý định lập thêm nhiều trại khác và sử dụng các đơn vị CIDG làm lính đánh thuê trong các cuộc hành quân đánh cộng sản ở dọc biên giới Việt Nam với Campuchia và Lào. Colby hy vọng rằng cái kế hoạch lập các đơn vị tự vệ nông thôn của CIA sẽ là một kế hoạch hoạt động chính trị ở cơ sở, nay đã tan thành mây khói, bởi vì Lầu Năm Góc đã sử dụng những đơn vị đó vào việc bảo vệ biên giới, nghĩa là một nhiệm vụ thuần túy quân sự. Theo lời của Lầu Năm Góc, các đơn vị Lực lượng Đặc biệt đang “chắn ngang và kiềm soát” những con đường thâm nhập của Bắc Việt Nam vào Nam Việt Nam. Trên thực tế những cái trại bọc dây thép gai không hề kiểm soát được gì cách chu vi của họ vài mét và tự mình biến thành những con vịt nằm chờ cho cộng sản đánh, mà họ đánh rất dễ vì chung quanh trại không người, và tạo điều kiện cho họ giành được nhiều lợi thế tuyên truyền trong cuộc chiến tranh trường kỳ của họ. Cứ một cái tin đưa Mỹ, cho biết thêm một trại của Lực lượng Đặc biệt của Hoa Kỳ bị tấn công, dù chỉ bằng vài trái moọc-chê, lại làm tăng thêm nỗi thất vọng của công chúng cho rằng Hoa Kỳ đã sa lầy một cách tuyệt vọng rồi.

Nhưng tất cả những cái đó còn ở phía trước và trong những ngày sớm sủa này, Colby và CIA đã phát hiện ra một đôi điều gì đó có ý nghĩa. Từ những kinh nghiệm khác nhau trong việc thành lập tự vệ, đã nảy sinh ra chương trình ấp chiến lược. Người Pháp đã làm thử và đã thất bại nhưng người Mỹ thì vẫn lạc quan. Cái khía cạnh tranh cãi nhất trong chương trình ấp chiến lược là quan điểm cho rằng nếu không thể mang an ninh đến cho các làng thì phải mang các làng đến chỗ an ninh. Điều đó có nghĩa là phải bứng người nông dân khỏi mảnh đất tổ tiên và cưỡng bức họ vào những ấp mới thành lập và nhiều an ninh hơn. Cũng như mọi khi, ở Sài Gòn đã có bất đồng gay gắt với nhau về hiệu quả của chương trình này. Và, cũng lại như mọi khi, cách tốt nhất để biết một chương trình có hiệu quả hay không phải xem cộng sản phản ứng với nó như thế nào, và cộng sản đã xem đây là một mối đe dọa nghiêm trọng và đang tìm cách phá hoại nó.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #41 vào lúc: 08 Tháng Năm, 2008, 11:06:36 pm »


*
*   *


Khi bắt đầu xúc tiến chương trình ấp chiến lược thì rõ ràng là phía người Mỹ cũng có tình trạng lộn xộn như phía những người Nam Việt Nam được chỉ định để quản lý chương trình này. Washington nhìn quanh xem có ai để sắp xếp mọi việc cho có trật tự và người ta thấy rằng Rufe Phillips có thể là người thích hợp với trách nhiệm đó. Phillips đã rời khỏi CIA để về làm chung với cha ông tại một công ty lo về sân bay, đây là môn ông học thêm khi đang học sử tại trường đại học Yale. Ông không còn là nhà tình báo năng động xông xáo của Lansdale nữa mà là một người ổn định, nhà cửa đàng hoàng, vợ con tử tế. Ông đã cưới một cô gái Chile xinh đẹp và đã có với nàng hai đứa con. Hơn nữa, cha ông bị ung thư và cần ông giúp đỡ để quản trị công việc kinh doanh của gia đình. Tuy nhiên, ông vẫn là một môn đệ của Lansdale về hoạt động công dân vụ và ông chấp nhận trở lại Sài Gòn vào cuối năm 1962 trên một căn bản tạm thời, để nghiên cứu xem chương trình viện trợ nên được tổ chức lại như thế nào.

“Nhu bắt đầu quan tâm đến chương trình ấp chiến lược từ một góc cạnh chính trị”, Rufe Phillips nói. “Ông ta có một số ý kiến lố bịch đến buồn cười, đôi ý kiến thật đáng sợ, mà cũng có ý kiến hay. Chẳng hạn như ông đã nghĩ sai khi cho rằng cần phải lập ấp chiến lược để dời một số dân đi. Nhưng quan điểm cơ bản thì đồng nghĩa là cần phải tổ chức sao cho dân tự đảm nhiệm việc tự vệ chống Cộng sản. Khi nghiên cứu chương trình viện trợ thì tôi đề nghị nên phân cấp quản lý quỹ viện trợ và giao về cho các tỉnh. Bây giờ cái gì cũng tập trung ở Sài Gòn, về phía Mỹ thì không nhiều như phía người Việt Nam. Một ông tỉnh trưởng đã nói với tôi. “Tôi không thể mua được ba cái lưới đánh cá mà không phải xin chi phí ở Sài Gòn. Tới khi chi phí được duyệt thì giá cả đã tăng lên, hết mua”. Ông ta cũng không có quỹ nào để giúp nông dân khi gặp phải thiên tai địch họa. Thế là tôi nói “Được rồi, chúng ta sẽ tìm cách tháo gỡ cái kẹt này”.

Rufe Phillips nhớ rằng có một tổ chức Trung Hoa - Mỹ đã được lập ra ở Đài Loan để theo dõi việc sử dụng quỹ viện trợ ở cấp địa phương. Ông gợi ý người Mỹ làm như vậy ở Việt Nam. Họ sẽ bố trí một quan chức viện trợ ở mỗi tỉnh với tư cách là một chân trong ủy ban gồm có ông ta, ông cố vấn quân sự Mỹ và ông tỉnh trưởng Việt Nam. Hai người Mỹ này phải bảo đảm rằng tiền viện trợ, lúc nào cũng sẵn cho người Việt Nam dùng, phải được dùng vào những mục đích chính đáng. Ông trở thành người cha của bộ máy thư lại thay tên đổi họ nhiều lần và cuối cùng được gọi là Viện trợ hoạt động Công dân vụ và Phát triển Cách mạng - (CORDS: Civil Operations and Revolutionary Development Support) - một cái tên cho thấy nó đã trở thành quy mô như thể nào.

Phillips đã được Diệm duyệt cho dạng thức này của chương trình bình định và đã báo cáo việc đó tại cuộc họp chiến lược về Việt Nam tại Honolulu do Bộ trưởng quốc phòng McNamara triệu tập. Khi trở lại Sài Gòn ông bắt đầu vạch ra kế hoạch giúp đỡ cho từng tỉnh trưởng một. Áp dụng phương pháp của Lansdale là giúp cho người Nam Việt Nam tự giúp mình, ông mời từng ông tỉnh trưởng đến thảo luận về những vấn đề và yêu cầu của họ.

“Có một ông tỉnh trưởng”, Phillips nói, “một con người tuyệt diệu với những ý kiến lỗi lạc - Trần Ngọc Châu. Ông ta đến Sài Gòn tìm chúng tôi và nói . “Tôi không cần sự giúp đỡ nào cả. Tôi đang làm có kết quả. Tôi không muốn người Mỹ các người xuống Kiến Hòa rồi làm hỏng chương trình của tôi”.

Tôi nói: “Thư thả, thư thả. Chúng tôi không làm đảo lộn kế hoạch của ông. Chúng tôi chỉ muốn biết ông đang làm gì. Chúng tôi sẽ điều chỉnh kế hoạch của chúng tôi để ủng hộ ông thôi”.

Càng nhớ lại những cuộc nói chuyện thì Phillips càng thấy thích Châu. “Tôi chưa thấy ai hăng hái như vậy. Nếu anh muốn tìm một người biết cách làm nhân dân trong tỉnh ủng hộ mình, thì đó chính là con người này, Châu. Ông ta tạo cho tôi một ấn tượng rất tốt vì ông là một người rất tự hào, rất thông minh, có ý thức rõ ràng về việc mình đang làm”. Với tư cách là người đứng đầu chương trình viện trợ nông thôn nên ông quan tâm đến những việc như cung cấp phân bón cho nông dân, đào giếng, chăm sóc sức khỏe. Một số dự án của Châu có tính chất chính trị, ngoài khuôn khổ viện trợ của Phillips.

“Một hôm tôi đến gặp Stuart Methven mà tôi đã quen ở bên Lào”, Phillips nói, “và tôi nói với Stu về Châu. Tôi nói rằng ông ta có nhiều sáng kiến rất hay, nhưng có một số nằm ngoài chương trình do tôi phụ trách”.

Stu Methven rất quan tâm nghe nói về Trung tá Châu. Ông đang có dự định mới trong đầu. Cho đến nay, nhiệm kỳ của ông ở Việt Nam diễn ra không đúng như mong đợi. Sau khi đi khỏi Lào, ông đã làm việc vài tháng ở tổng hành dinh của CIA ở Langley và trở lại Sài Gòn vào giữa năm 1962. Một khi đã làm việc với người Mèo ở Lào thì tự nhiên là ông muốn làm một cái gì tương tự như vậy với các bộ lạc miền núi, những người Montagnards, ở Việt Nam. Ông cùng với một số sĩ quan CIA đã từng hoạt động bên Lào đã lập ra một chương trình trinh sát miền núi, trong đó ông đã tổ chức những tiều đội người thượng hoạt động dọc biên giới Nam Việt Nam. Các đội trinh sát miền núi này không giống với mấy đội CIDG của Colby. Nhưng sau khi Hoa Kỳ đã thất bại thảm hại ở Vịnh Con Heo, Cuba, thì mọi hoạt động bán quân sự quy mô lớn CIA không được phép làm nữa, điều đó có nghĩa là Stu Methven đang phải bỏ dở kế hoạch trinh sát miền núi của ông.

Methven giận dữ khi được biết phải bỏ kế hoạch miền núi của ông. Lúc đó, Jojn Richardson từ Philippin tới thay thế cho William Colby được đề bạt về bộ chỉ huy ở Virginia. John Richardson với Methven mới bàn với nhau xem ông phải làm gì đây. Methven không nói với Richardson nhưng ông muốn tránh dính líu với bất cứ chương trình nào sau này phải giao lại cho quân đội, và đó là lý do khiến ông xin Richardson cho ông theo Rufe Phillips mà hợp tác với Trần Ngọc Châu.

Vào lúc Methven tìm gặp Châu, chương trình bình định có hai khía cạnh riêng rẽ khác nhau. Một phần của chương trình, do những nhân viên dân sự của Cơ quan Phát triển Quốc tế (Agency for International Development) phụ trách chủ yếu nhằm giúp nông dân phát triển kinh tế. Phần khác, do CIA chỉ đạo, nhằm đem lại an ninh ở địa phương thông qua hoạt động bán quân sự và tuyên truyền. Chương trình của Châu lại khác và nhiều hứa hẹn hơn vì nó đã kết hợp hai mặt riêng rẽ đó lại làm một thể hữu cơ. Châu có cái mà người Mỹ không có, với những kế hoạch rời rạc của họ: một kế hoạch tổng thể. Châu học tập ở những người cộng sản cách làm thế nào cho mỗi công dân đều gắn với một cơ sở sản xuất, gắn liền họ với nhau trong việc ủng hộ chính quyền địa phương và chính quyền toàn quốc - dù họ là nông dân, buôn bán hay nội trợ. Tìm hiểu xem người công dân trung bình nghĩ gì về chính phủ, Châu đã lập ra một chương trình điều tra dân nguyện, đưa những người giúp việc của mình đi nói chuyện với dân làng và viết đơn thỉnh nguyện giùm cho họ, để cho ông giải quyết.

Châu cũng nghĩ như Lansdale và Rufe Phillips rằng có thể tạo lập nền dân chủ ở nông thôn và chính sách tốt nhất là tranh thủ người cộng sản về với chính phủ, chứ không phải giết họ. Chính vì vậy mà ông đã lập ra một chương trình ân xá, tạo thuận lợi cho họ trở về với bên này. Châu tin rằng mối đe dọa thực sự của Việt Cộng nằm ở tổ chức chính trị và hành chính của họ, gồm có những người rất quyết tâm hy sinh, thường được gọi là cán bộ, cộng sản cũng gọi họ như vậy, lúc đầu là một chữ của Pháp (cadres) có nghĩa là “khung” (frame) hay “sườn” (framework), nhưng về sau được dùng để chỉ những người ra lệnh (order-givers) và những người ra quyết định (decision-makers) trong một tổ chức. Ở đâu cũng vậy, Châu đối phó với mối đe dọa của cộng sản một cách rất khôn khéo. Ông không phái một đơn vị quân đội đuổi theo các cán bộ cộng sản vì làm như vậy quân đội sẽ phá hủy làng mạc và giết người vô tội trong lúc lùng sục. Ông phái những đội chống khủng bố gồm có ba người đến bắt cóc hoặc giết những quan chức cộng sản nòng cốt.

Stu Methven đã sóm nhận ra rằng Châu có thể là một chuyên gia bình định với những quan điểm nhìn xa trông rộng nhất ở trong nước, và ông đem lại cho Châu sự giúp đỡ của CIA. Châu lên Sài Gòn gặp Diệm. Châu nói với Diệm rằng có một người Mỹ hình như là của CIA - Châu không dám chắc mà Methven cũng không nói - đề nghị chi tiền cho hoạt động của ông ở Kiến Hòa và ông muốn biết rằng Diệm có đồng ý hay không. Diệm điện thoại cho Nhu biết đề nghị của Methven. Nhu nói rằng chương trình này nghe được đấy và cho biết rằng CIA đã có một chương trình tương tự ở một tỉnh khác, có lẽ Nhu muốn nói tới chương trình công dân vụ mà Lou Conein đã thành lập khi ông trở lại Việt Nam. Diệm không biết gì về chương trình của Lou Conein cả và đã nổi giận vì sao ông không được báo cáo. Diệm nói với Châu rằng ông tin Châu và Châu cứ nhận sự giúp đỡ của CIA, nhưng Châu phải nắm quyền kiểm soát việc thực hiện chương trình đó.

Stu Methven có ý định phát triển chương trình của Châu sang các tỉnh lân cận, ông đang tìm chỗ để huấn luyện cán bộ. Methven phụ trách sáu tỉnh cho CIA. Chi cục CIA ở Sài Gòn còn tương đối nhỏ, chỉ có chừng ba mươi tới bốn mươi người, và ông được giao cho nhiều quyền tự do hoạt động. Trong hoạt động này, ông cũng có nhiều sáng kiến theo kiểu những sáng kiến ở Lào đã làm cho ông được cấp trên chú ý. Trong lúc đi đây đi đó, ông có nghe nói tới một đội quân riêng của một nhà kinh doanh thân cận với Diệm, được Diệm ngầm cho phép, để bảo vệ và phát triển những nguồn tài chính của ông ta. Ông này rất tích cực trong việc bảo vệ con đường từ Sài Gòn đi Vũng Tàu lúc nào cũng thông suốt, bởi vì ông ta độc quyền cung cấp tôm cho thành phố - lính của ông ta được gọi là Lính Tôm (Shrimp Soldiers) - cho nên cần phải giữ sao cho con đường này không bị cộng sản ngăn chặn, một việc mà hình như quân đội Sài Gòn không làm được. Thế là nhà kinh doanh này mở một trại huấn luyện gần Vũng Tàu để huấn luyện cho người của ông ta không những về các chiến thuật quân sự mà cả các hoạt động công dân vụ, bởi vì ông cho rằng một cộng đồng cư dân không cộng sản và hạnh phúc rất có lợi cho kinh doanh.

Methven quyết định cung cấp một số viện trợ tài chính của CIA cho nhà kinh doanh này. Ông nghĩ rằng cái trại ở Vũng Tàu là một địa điểm tốt để huấn luyện những người thực hiện chương trình của Châu. Nhà kinh doanh này cũng đã có sẵn một bộ máy huấn luyện đang hoạt động. Như vậy đã có mầm mống cho một cách tiếp cận mới về bình định. Tuy nhiên, việc làm của Châu có hứa hẹn điều gì cũng còn tùy ở năng lực, quyết tâm và lòng trung thực của chính bản thân Châu, và khó mà tìm được một người Việt Nam khác có thể so sánh được với ông ta. Trên thực tế, trong chương trình của Châu, cái phần mà CIA dễ triển khai nhất là ý kiến về những đội chống khủng bố, để đánh cộng sản bằng chính những phương pháp của họ. Chiến thuật này đã hấp dẫn Stu Methven; vốn là một chuyên viên về hoạt động bán quân sự, và từ những buổi đầu thô sơ, chiến thuật này đã phát triển thành cái mỏ và cái móng chết người của chương trình Phượng Hoàng.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #42 vào lúc: 08 Tháng Năm, 2008, 11:10:51 pm »



*
*   *


Trong những năm sau này, William Colby và Edward Lansdale nói rằng đã có những tiến bộ thực sự về bình định trong những năm đầu tiên ấy. Nhiều người đã đồng ý với nhận định này trong đó có cả Việt Cộng, họ đã thừa nhận với phóng viên cảm tình với họ là Wilfred Burchett, một nhà báo cộng sản Úc, rằng năm 1962 là năm của chính phủ Sài Gòn. Colby và Lansdale cũng còn thừa nhận, với ít nhiều cay đắng, rằng những tiến bộ trong bình định đã bị chặn đứng do Mỹ đã ngốc nghếch đi lật đổ Diệm.

Ngô Đình Diệm đã phạm một số sai lầm từ khi ông ta lên cầm quyền, nhưng về lâu về dài, không có sai lầm nào ông ta phải trả giá đắt bằng việc bắt giam bác sĩ Phan Quang Đán. Năm 1954, khi Washington đang tìm người để đưa về nắm chính quyền ở Sài Gòn thì Đán đang học tại Harvard Medical School. Cũng có một số người ở Cục Tình báo Trung ương thích Đán hơn Diệm, nhưng vì bác sĩ ít được biết hơn Diệm nên đã không được chọn. Những năm tiếp theo, trong khi Lansdale đang giúp Diệm lên cầm quyền thì Đán trở về nước và trở thành lãnh tụ phe đối lập. Có phần quá đáng nếu nói rằng Đán đã bị Mỹ hóa, nhưng ông có lòng tin vào những nguyên tắc dân chủ và dứt khoát là một giải pháp thay thế cho những phần tử thân Pháp đang nắm hầu hết các vị trí đối lập ở Sài Gòn. Ông là một khuôn mặt hấp dẫn đối với các quan chức trong chính phủ cũng như đối với các nhà báo Mỹ. Có thể vì Đán hấp dẫn đối với người Mỹ mà Diệm và Nhu coi ông là mối đe dọa lớn nhất đối với họ. Đán bị bắt trước khi tổ chức bầu cử quốc hội lần đầu tiên và buộc phải rút khỏi chức giáo sư Trường đại học Y khoa Sài Gòn. Sau khi ông được bầu với số phiếu lớn hơn bất cứ ứng cử viên nào khác trong cuộc bầu cử quốc hội năm 1959, ông lại bị bắt lần nữa và bị một tòa án do Diệm kiểm soát không cho ông nhận ghế nghị sĩ quốc hội.

Cho đến việc này thì những hành động đàn áp chính trị của Diệm còn có thể tha thứ, đặc biệt là đối với những ai quan tâm đến cái gọi là những quyền lợi chiến lược rộng lớn hơn của Hoa Kỳ. coi đó là những hành động không hay nhưng cần thiết để củng cố quyền lực của Hoa Kỳ ở quốc gia mới thành lập còn bị chia cắt này. Nhưng cách Diệm đối xử với chính trị gia thân Mỹ và trung thực như Đán thì thực là khó tiêu hóa nổi đối với một số người trong chính phủ Mỹ, và họ bắt đầu thấy ghê tởm với gia đình họ Ngô và công khai bày tỏ sự ghê tởm ấy. Ngay ông Wolfe Ladejinsky, người của CIA thay thế Lansdale làm cố vấn cho Diệm và sống ngay trong dinh của Diệm, cùng với Đại sứ Eugene Durbrow đã yêu cầu để Đán nhận ghế nghị sĩ của ông trong quốc hội. Diệm từ chối.

Việc Diệm đàn áp một người được Mỹ ưa chuộng, một sai lầm rõ ràng với tất cả mọi người, đã làm cho phe đối lập mạnh dạn lên. Vài tháng sau, tháng Tư 1960, mười sáu khuôn mặt chính trị đã lập Khối Tự do và Tiến bộ ra tuyên bố đòi phải có thêm nhiều tự do hơn nữa. Nhóm này họp tại khách sạn Caravelle ngay giữa trung tâm Sài Gòn, một kiến trúc hiện đại, có máy điều hòa không khí. Diệm và Nhu bác bỏ kiến nghị của họ và cố tình bêu xấu họ là “Nhóm Caravelle” có ý nói rằng đó là những người thân Pháp. Diệm tiếp tục bắt giam những người đối lập.

Đúng vào lúc này, cộng sản bắt đầu giành được những thắng lợi đầu tiên của họ trên chiến trường. Đầu năm 1960, họ tấn công vào ban chỉ huy một trung đoàn của quân đội Sài Gòn. Đường mòn Hồ Chí Minh được mở ra và một số trong chín mươi ngàn cộng sản Nam Việt Nam tập kết ra Bắc bắt đầu thâm nhập trở lại miền Nam Việt Nam. Một tháng sau khi Nhóm Caravelle đưa ra công khai tình trạng chia rẽ chính trị ở Sài Gòn, ủy ban Trung ương ở Hà Nội cho rằng đã đến lúc thanh toán Diệm và nắm chính quyền trong cả nước. Cuối năm đó, ngày 19 tháng Mười Hai 19601, Mặt trận Dân tộc Giải phóng được thành lập cũng như Mặt trận Việt Minh, gồm một phần những phần tử quốc gia, nhưng do Công sản lãnh đạo.

Sự hội tụ của hai nhân tố - đàn áp chính trị của Diệm và thắng lợi của cộng sản ở nông thôn - làm cho bộ máy thư lại của người Mỹ ở Sài Gòn cãi nhau ầm ĩ. Một số quan chức dân sự nói rằng cần phải có sự thay đổi chiến thuật, còn phái bộ cố vấn quân sự thì một mực nói rằng mọi việc đều tết đẹp cả và phản đối các nhà dân sự can thiệp vào công việc chuyên môn của họ.


Đại sứ Eugene Durbrow cho rằng nếu Diệm không thay đổi đường lối chính trị của ông ta, thì ông ta phải được thay thế. Ông xin phép có một đường lối cứng rắn với Diệm và Bộ ngoại giao đã đồng ý. Durbrow đến gặp Diệm, đòi ông ta phải cải cách chính trị, và yêu cầu ông đưa Nhu và người tay sai thân cận ông đi nhận chức vụ ngoại giao ở nước ngoài. Diệm phản ứng lạnh nhạt với những gợi ý cải cách chính trị của Durbrow và không chấp nhận việc tách rời ông em là Nhu ra.

Giới quân sự Sài Gòn im thin thít sau khi Lansdale bóp chết mưu toan đảo chính của Hinh. Không ông tướng nào dám mạo hiểm nếu không có sự ủng hộ của Mỹ. Nhưng đã rõ ràng là có một số người Mỹ bất mãn với Diệm và các chính khách ở Sài Gòn đã chống lại ông ta, một trong các sĩ quan hăng hái nhất của Nam Việt Nam đã quyết định ra tay nắm lấy cơ hội này. Đại tá nhảy dù Nguyễn Chánh Thi đã làm cai trong quân đội Pháp nhưng không được coi là một người thân Pháp. Ông là con một gia đình nông dân nghèo, can đảm và dễ coi. Thi đích thực là một người Việt Nam. Vấn đề của Thi là ông ta có lòng mà không có đầu óc.

Hồi 3 giờ 30 sáng, ngày 11 tháng Mười Một, 1960, đại tá Thi bắt đầu tấn công vào dinh Tổng thống. Diệm đêm đó ngủ không được, dậy đi uống nước trong tủ lạnh trong phòng ngủ của ông thì súng nổ, ông suýt chết vì đạn súng máy đã ghim vào giường ông, bắn vào tường. Nhà của William Colby, cách đó một khối nhà, cũng bị trúng đạn lạc. Colby đưa vợ con chui xuống gầm cầu thang là nơi an toàn nhất trong nhà và chờ đến khi mặt trời mọc mới đi cách đó một dặm tới tòa Đại sứ.

Chủ trương của Lansdale tổ chức một đội phòng vệ Phủ tổng thống đã mang lại kết qủa . Đội cận vệ chỉ gồm có sáu mươi người đã chặn đứng được một tiểu đoàn lính dù. Khi cuộc chiến lắng dịu, Diệm đã dùng điện thoại mà cầu cứu các tư lệnh quân đội đóng ngoài Sài Gòn. Colby đưa hai người của mình vào các lực lượng nổi loạn, George Carver, một nhân viên tình báo ba mươi tuổi không thích Diệm với Russ Miller, một cựu lính dù trong Chiến tranh thế giới lần thứ II, Carver làm việc với ban lãnh đạo nổi loạn còn Miller thì nắm phần còn lại.
_____________________________________
1. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam thành lập ngày 20 tháng 12 năm 1960 (B.T.)
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #43 vào lúc: 08 Tháng Năm, 2008, 11:12:33 pm »



Một số người đứng đầu các Chi cục CIA ở các nước đã tìm cách qua mặt Đại sứ của mình, nhưng Colby thì không. “Lập trường của Đại sứ Durbrow là không bày tỏ sự ủng hộ đối với Diệm”, Colby nói. “Tôi nghĩ rằng ông sai lầm, nhưng ông là đại sứ”. Trong khi cuộc đảo chính đang tiếp diễn thì Đại sứ Durbrow nói với Diệm qua điện thoại rằng Hoa Kỳ không đứng về phe nào và khuyến khích hai bên thương lượng với nhau. Garver và Miller, thuyết phục phe nổi loạn hãy thương lượng. George Carver chỉ muốn cho Diệm bị lật đổ đã cãi lại Colby, nhưng Colby lại nói: “George, tôi biết lập trường của anh. Tôi không đồng ý với anh và bây giờ chúng ta không có thì giờ để thảo luận”. Miller làm theo mệnh lệnh mà không nói gì.

Cuộc đảo chính bị sa lầy. Thấy rằng Mỹ không ủng hộ, quân đảo chính của đại tá Thi chấp nhận thương lượng. Diệm giả bộ thương lượng với họ một giải pháp để tranh thủ thời gian chờ những quân đội trung thành trở về Sài Gòn. Durbrow thấy rõ mánh khóe của Diệm. Ông điện thoại và nhấn mạnh rằng Diệm phải giữ lời hứa và thực hiện đúng những điều thỏa thuận. Diệm hứa là ông sẽ xem xem ông có thể làm được gì. Nhưng quân đội trung thành đã sớm trở về và giải tán quân nổi loạn. Đại tá Thi và các bạn lãnh đạo chính của ông đã bay sang Campuchia và sống lưu vong ở đấy.

Cuộc đảo chính hụt đã diễn ra vài tuần sau khi Đại sứ Durbrow trách mắng Diệm và đòi ông ta phải tống khứ ông em của ông đi. Như sau này Durbrow đã nói lại, “Tôi tỏ ra rất cứng rắn với ông ta. Ông ta không thích một chút nào những điều tôi nói”. Diệm và Nhu kết luận rằng người Mỹ đã khuyến khích cuộc đảo chính, đứng về quan điểm của họ mà xét thì kết luận như vậy không phải là không có lý. Nếu cần có thể thêm bằng chứng thì ngoài thái độ lãnh đạm của Đại sứ Durbrow suốt trong lúc đánh nhau, còn có sự hiện diện của George Carver và Russ Miller bên cạnh ban lãnh đạo cuộc nổi loạn. Nhưng sự lệ thuộc của Diệm và Nhu đối với Hoa Kỳ quá lớn nên họ không thể làm gì hơn là bày tỏ một sự bất mãn tượng trưng và để làm việc đó, họ đã chọn George Carver làm bung xung. Khi William Colby gặp Nhu sau cuộc đảo chính thì Nhu nói rằng ông ta biết Carver đã cổ vũ quân nổi loạn, và ông nói bóng gió rằng quan hệ giữa hai nước sẽ được cải thiện nếu Carver rời khỏi Việt Nam.

Carver làm việc dưới danh nghĩa một nhân viên viện trợ và Colby nói rằng Carver không có liên quan gì với CIA cả, biết rằng Nhu không tin lời ông nói. Dù sao đi nữa, Colby nói thêm, Carver thu nhập tin tức để báo cáo cho sứ quán chứ không phải xúi giục đảo chính. Mấy hôm sau, Carver nhận được một lời đe dọa, ngụ ý là của những người đảo chính thất bại, tố cáo ông đã phản bội họ. Colby tin rằng lời đe dọa này là tác phẩm của Nhu và tìm thấy trong đó một cách để phá vỡ bế tắc. Ông mang bức thư đó đến gặp Nhu và nói, “Một trong những sĩ quan của chúng tôi đã nhận được lời đe dọa khủng khiếp này từ những người tham gia nổi loạn. Chúng tôi quyết định đưa ông ta và gia đình rời khỏi xứ này”. George Carver, sau này trở thành một chuyên gia về Việt Nam tại tổng hành dinh của CIA, rời Sài Gòn. Colby nói, “Làm như vậy, không ai mất thể diện cả”.

Diệm và Nhu lại trút cơn thịnh nộ lên đầu các chính khách Sài Gòn đã ủng hộ phe đảo chính. Con người không may là bác sĩ Phan Quang Đán, đã bị lôi cuốn vào đó, một lần nữa lại vào tù, cũng như những thành viên của Nhóm Caravelle đang vận động để thay thế Diệm.

Khi những sự kiện này xảy ra, dân chúng Hoa Kỳ cũng ít quan tâm vì họ đang chú ý tới việc bầu cử John F. Kennedy, Ed Lansdale quyết định đưa mình vào cuộc. Bây giờ là Thiếu tướng, Lansdale đang làm tại Cục Đặc vụ (Offlce of Special Operations) của Lầu Năm Góc, liên lạc với mọi hoạt động bí mật, kể cả hoạt động của Cục Tình báo Trung ương. Lansdale có hai sĩ quan CIA trong văn phòng, làm nhiệm vụ liên lạc giữa hai cơ quan. Lansdale quan tâm tới việc nắm giữ tình hình mới nhất ở Việt Nam. Ông cũng băn khoăn muốn tách mình khỏi Washington và bất cứ liên hệ với chiến dịch mà CIA đang chuẩn bị chống của của Fidel Castro. Lansdale, chuyên gia trong các lĩnh vực hoạt động chính trị, tin rằng cuộc xâm lăng vào Vịnh Con Lợn thế nào cũng thất bại thảm hại và ông không muốn để lại dấu tay của mình trong bản kế hoạch dẫn tới thất bại đó. Hơn nữa, một sự thay đổi chính quyền ở Mỹ bao giờ cũng mở ra nhiều cơ hội cho con người tham vọng, và Lansdale vẫn còn muốn tác động đến chính sách của Mỹ ở Việt Nam. Ông dự trù sẽ đi Việt Nam trong hai tuần đầu của năm 1961.

Khi nghe tin Lansdale lên đường sang Việt Nam, một số sĩ quan CIA cho rằng ông tìm cách chia bớt một phần hoạt động tình báo lớn hơn cho Lầu Năm Góc. Tuy vậy, Colby đã dành cho Lansdale một buổi báo cáo tình hình rất chi tiết, không giấu gì cả. Colby nghĩ rằng buổi báo cáo không có kết quả và đã viết trong hồi ký của ông rằng Lansdale “rõ ràng là nghĩ rằng mình đang mắc vào một kiểu chơi bài tây nào đó và không nói một tiếng nào trong suốt buổi chiều”. Colby nghĩ sai. Theo lời Lansdale, được Joe Redick xác nhận, ông này từ Lào qua để nghe báo cáo tình hình, thì Lansdale có ấn tượng rất tốt với Colby và Chi cục CIA ở đây. “Theo tôi nghĩ”, Lansdale nói, “Colby là con người giỏi nhất mà CIA có được”.

Trên thực tế, sau khi nói chuyện với Diệm, Lansdale đã phóng lao để bắt một con cá lớn hơn cả Chi cục của Colby nữa. Lansdale muốn cách chức Durbrow. Lansdale tin rằng hành động của Durbrow trong thời gian đảo chính đã làm cho ông không còn tác dụng gì với Diệm nữa. Lansdale cho rằng có một nhu cầu khẩn thiết là phải giao công việc Đại sứ này cho một người biết cách làm việc với người Việt Nam như ông chẳng hạn. Lansdale trở về Washington và viết một bản ghi nhớ theo kiểu trời sắp sập đến nơi, nói rằng Việt Nam đang cần được “điều trị khẩn cấp”.

Bản ghi nhớ của Lansdale đã tới bàn giấy của vị Tổng thống mới và được ông này đọc một cách chăm chú. Một trong những cuộc họp quan trọng đầu tiên sau lễ đăng quang, John Kennedy trù tính thảo luận liên tiếp hai vấn đề Cuba và Việt Nam và yêu cầu Lansdale tham dự. McGeorge Bundy, cố vấn về an ninh quốc gia của Kennedy, gửi một bản ghi nhớ cho Bộ trưởng ngoại giao Dean Rusk, Bộ trưởng quốc phòng McNamara, và Giám đốc CIA Allen Dulles, nói rằng, “Mối quan tâm của tổng thống đối với Cuba không cần phải giải thích nhiều. Mối quan tâm của tổng thống về Việt Nam là kết quả của mối quan tâm đặc biệt đối với bản báo cáo của tướng Lansdale và sự hiểu biết của ông về tầm quan trọng của đất nước này”. Tại cuộc họp, ngày 28 tháng Giêng, 1961, Kennedy và các cố vấn của ông thảo luận về một kế hoạch chống nổi loạn mới ở Việt Nam. Kennedy hai hôm sau đã thông qua kế hoạch này, và viết thêm bên lề “Ít thế thôi à?”

Trong cuộc họp, Kennedy quay sang hỏi Lansdale, “Dean có nói với ông rằng tôi muốn ông sang Việt Nam làm Đại sứ không?”

“Không, ông ấy không nói”, Lansdale đáp.

Lansđale không biết Kennedy có nói nghiêm chỉnh về sự phân công này không. Nhưng ông chẳng bao giờ có thời giờ để tìm biết được cả. Bộ máy quan liêu đã nghe lời nói của Kennedy và đã động viên để thủ tiêu sự bổ nhiệm đó. Ông thứ trưởng ngoại giao phụ trách về Việt Nam đã đến gặp Rusk đề bày tỏ sự phản đối, nói rằng hình ảnh của nước Mỹ sẽ bị thương tổn như thế nào nếu một nhân viên tình báo nổi tiếng ngồi vào một chức vụ nối bật như vậy. Thêm một kẻ thù của Lansdale ở Lầu Năm Góc và các cơ quan khác đã nổi lên chống lại ông. Không nghe nói gì về việc đi Sài Gòn nữa. Tuy nhiên, Kennedy đã nghe lời khuyên của ông về việc thay thế Durbrow và hai tháng sau Frederik Nolting, một nhà ngoại giao chuyên nghiệp khác, được bổ nhiệm làm Đại sứ.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #44 vào lúc: 08 Tháng Năm, 2008, 11:14:46 pm »


Ed Lansdale trở thành trợ lý của McNamara về những hoạt động đặc biệt. Công việc này tạo cho ông điều kiện thuận lợi tác động đến chính sách đối với Việt Nam, nhưng đến lúc này sự chán ghét của ông đối với bộ máy quan lại đã thành một ám ảnh, nên ông tiếp tục tạo thêm nhiều kẻ thù khắp nơi. Ông đã khai mạc cuộc họp của nhóm đặc nhiệm về Việt Nam, ông đã khai mạc cuộc họp bằng cách tuyên bố với các quan chức Bộ ngoại giao: “Chúng ta hãy để ra mười phút để cho các ngài nói xem tôi là một thằng tồi như thế nào”. Lansdale cũng không thể tạo dựng mối quan hệ công tác tốt đẹp với xếp của ông là Robert McNamara. Từ Việt Nam về ông đến ngay văn phòng của McNamara để báo cáo về chuyến đi, mang theo cả một số vũ khí của Việt Cộng ông đã thu nhập để làm một viện bảo tàng về chiến tranh du kích ở căn cứ Fort Bragg.

“Ông nói với tôi trong điện thoại rằng tôi có năm phút đế báo cáo với ông về tình hình Việt Nam”. Lansdale nói. “Tôi bước vào thấy ông đang ngồi ở bàn làm việc, và tôi để các thứ vũ khỉ bần thỉu này xuống - trông rất thô sơ, kể cả mấy cái đinh lớn còn dính máu khô và bùn. Tôi để tất cả lên bàn làm việc ấy - Tôi cứ bỏ xuống đó vậy thôi. Kẻ thù của chúng ta ở Việt Nam sử dụng vũ khí này đây và chúng vừa dùng trước khi tôi tóm được chúng. Kẻ thù đi chân đất hoặc mang dép. Họ mặc áo bà ba đen thường là rách rưới hoặc có lủng lỗ. Tôi không nghĩ là ông sẽ thừa nhận họ là binh sĩ, nhưng họ nghĩ như vậy... Lúc nào cũng phải nhớ rằng ở Việt Nam, cuộc đấu tranh vượt ra ngoài những thứ vật chất này. Không thể lấy vũ khí, quân phục, hay quân lương mà thắng được. Phải sử dụng một thứ gì khác đó là tư tưởng và lý tưởng, và kẻ thù của chúng ta đang sử dụng thứ khác đó. Ít ra, chúng ta hãy học bài học đó. Không biết sao, tôi thấy rất khó nói với ông ta. Nhìn gương mặt ông ta lúc tôi nói, tôi có cảm tưởng là ông ta không hiểu tôi nói gì”.

Tướng Maxwell Taylor thì tin rằng ông hiểu Lansdale rất rõ. Taylor là người đại diện cho cá nhân tổng thống Kennedy, cũng như J.Lawton Collins là người đại diện cá nhân tổng thống Eisenhower trong nhiệm kỳ đâu tiên của Lansdale ở Việt Nam. Và Collins giống Lansdale như thế nào thì Taylor cũng giống như Lansdale như vậy. Taylor đã về hưu thì bị gọi ra ba ngày sau thất bại ở Vịnh Con Lợn để điều tra và báo cáo với tổng thống về thất bại thảm hại này. Taylor là tư lệnh sư đoàn dù 101 trong Chiến tranh thế giới lần thứ II, nổi tiếng là một quân nhân biết nhảy dù và nói nhiều thứ tiếng, và theo quan điểm của Kennedy, giả thiết là thích hợp để giao điều tra những thất bại của các sĩ quan CIA cùng một kiểu với ông. Kennedy chịu ảnh hưởng cuốn sách của Maxwell Taylor Tiếng kèn ngập ngừng (Uncertain Trumpet) xuất bản vào năm ông đắc cử tổng thống, đả kích chính sách quốc phòng của Eisenhower dựa trên chiến lược phản ứng hạt nhân ồ ạt, và đưa ra một chiến lược mới gọi là chiến lược phản ứng linh hoạt. Cuốn sách của Taylor không có liên quan gì rõ ràng với Việt Nam, và trong suốt thời gian làm việc, ông cũng không làm được gì hơn tướng Collins. Nhưng ông chia xẻ với tướng Collins sự ghê tởm và chán ghét đối với Lansdale.

“Lansdale là con người có nhiều ý kiến”, Maxwell Taylor nói, “và ông ta thay đổi ý kiến còn nhanh hơn là chúng ta nhặt chúng từ dưới đất lên. Tôi chẳng bao giờ tin rằng những ý kiến đó có thể thực hiện được”.

Nhưng dù sao thì Taylor vẫn phải đối phó với Lansdale. Bởi vì nếu sau thất bại của Vịnh Con Lợn, uy tín của Taylor với anh em Kennedy có tăng lên thì Lansdale cũng vậy. John Kennedy và em ông là Robert Kennedy rất cảm kích mà thấy rằng ngay từ đầu Lansdale đã chống lại cuộc hành quân này, và tách mình ra ngoài đến nỗi bây giờ ông không vướng trong vòng điều tra của tướng Taylor nữa, một cuộc điều tra đã làm cho Giám đốc CIA Allen Dulles và nhiều người khác bị mất chức. Cho nên khi Kennedy phái Mexwell Taylor sang Sài Gòn với một sứ mạng quan trọng, ngày 15 tháng Mười, 1961, thì Lansdale cũng được đi theo. Taylor quyết tâm loại Lansdale ra ngoài nên khi vừa đến nơi thì Taylor đã nói với Lansdale rằng ông ta sẽ không được phép có mặt khi đoàn đến thăm Diệm.

“Được, tôi là người bạn cũ của Diệm”, Lansdale nói, “Tôi không thể đến Việt Nam mà không ghé thăm Diệm. Có thể là tôi gặp riêng ông ta. Ông muốn nhắn ông ta gì không?”

Max Taylor, cũng hệt như Lightning Joe Collins, cáu tiết trước những lời nói châm chọc của Lansdale, không nói thêm gì nữa. Bí thư của Diệm đã ra sân bay đón phái đoàn và đã mời Lansdale dự cơm tối. Trong khi Taylor bận nói chuyện với phóng viên thì Lansdale nói với người trợ lý Nhà Trắng là Walt Rostow về lời mời này rồi bỏ đi luôn. Lansdale rất ngạc nhiên khi thấy Nhu tỏ ra quyết đoán hơn nhiều so với lần gặp nhau trước đây. Ông ta cứ trả lời thay cho anh mình, làm cho Lansdale phải buột miệng hỏi Diệm, “Chúng ta có thể nói chuyện chung với nhau được không? Em ông có thể tham dự nhưng tôi không biết ông ấy hay ông là người lãnh đạo đây?” Câu hỏi này hiển nhiên là không thể trả lời rõ ràng.

Ngày hôm sau, Maxwell Taylor và Walt Rostow gặp Diệm, ông này chỉ nói một cách mơ hồ chung quanh việc đưa quân Mỹ vào, làm cho Taylor có cảm tưởng rằng Diệm muốn có một hiệp ước phòng thủ và chuẩn bị cho việc đưa các lực lượng chiến đấu của Hoa Kỳ vào. Bản thân Taylor cũng cho rằng cần phải đưa thêm lính Mỹ vào ông cho rằng điều đó có thể làm được, không mạo hiểm mấy về chính trị, với cái mánh là đưa một lực lượng đặc nhiệm chống lụt gồm có các đơn vị hậu cần và kỹ thuật. cũng như các đơn vị chiến đấu. Taylor cũng thừa nhận đề nghị này có nhiều chỗ bất lợi, nhưng lại kết luận rằng “Nguy cơ lâm vào một cuộc chiến tranh trên bộ ở Việt Nam là có thật nhưng không lớn lắm. Bắc Việt Nam quá yếu để chịu đựng một cuộc ném bom theo lối chính quy, đó là một nhược điểm mà chúng ta có thể khai thác theo con đường ngoại giao để thuyết phục Hà Nội rút khỏi Nam Việt Nam”.

Tổng thống Kennedy không mặn mà với ý kiến của Maxwell Taylor đòi đưa quân Mỹ sang. Ông thích ý kiến của Lansdale về những hoạt động chính trị hơn - nhưng không phải ở Việt Nam. Kennedy, với nỗi ám ảnh về Cuba ngày một tăng, quan tâm tới việc Lansdale có thể sử dụng những kỹ thuật của mình để tống khứ Fidel Castro, một việc mà Lansdale tiên đoán là không thể thực hiện đơn thuần bằng biện pháp quân sự. Sau buổi họp để cho Taylor báo cáo tình hình Việt Nam, Kennedy đẩy Lansdale sang một bên và nói “Vứt hết mọi thứ đi. Tôi muốn ông lo cho vấn đề Cuba” - thuyên chuyển ra khỏi khu vực hoạch định chính sách con người đấu tranh không sợ hãi chống lại việc đưa quân đội chính quy vào Việt Nam, và đồng thời cùng thuyên chuyền con người duy nhất có khả năng lái Diệm khỏi những chính sách tai họa, trong lúc Diệm đang bị tấn công ngày càng mạnh bởi một nhóm nhỏ các ký giả Mỹ trẻ tuổi.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #45 vào lúc: 08 Tháng Năm, 2008, 11:25:30 pm »



CHƯƠNG XII
SAIGON  1963

Dù khuyết điểm như thế nào David Halberstam chưa bao giờ bị cho là quá khôn khéo cả. Cái đêm anh đến Sài Gòn 1962, anh đã dự bữa tiệc tiễn François Sully, phóng viên của báo Newsweek, người Pháp, bị tống ra khỏi Việt Nam vì đã xúc phạm bà Nhu. “Cái nổi bật nhất trong buổi họp mặt hôm ấy”, Halberstam nhắc lại, “là bầu không khí làm tôi nhớ lại rất rõ những ngày tôi làm phóng viên ở Mississipi: Tất cả chúng tôi đều như người ngoài cuộc. Ở đó không có ai ở sứ quán hay của phái bộ quân sự Mỹ cả - cũng giống như những cuộc họp mặt của các phóng viên ở Mississipi không bao giờ có mặt những người lãnh đạo của phòng thương mại, ông thị trưởng hoặc ông chánh án”. Halberstam đã nhanh chóng cảm thấy rằng đây lại là một trường hợp mà các phóng viên chống lại lũ người thô lỗ (redneck). Điều đó hình như đã được chứng minh khi anh nói chuyện với các quan chức tòa đại sứ và phát hiện ra, sau này anh đã tả lại trong cuốn Tạo ra bãi lầy, rằng “họ không chút nào buồn phiền về chuyện François phải ra đi cả. Như một quan chức cao cấp nhất tại tòa đại sứ thời bấy giờ nói với tôi, anh ta chẳng qua chỉ là một thằng chân đen (pied noir), một từ xúc phạm gần giống như nói anh ta là một đứa con lai vậy”.

Thực ra, chữ pied noir không hẳn có nghĩa như vậy. Quan chức Mỹ thực ra nói ngụ ý François Sully là một người thô lỗ và những người của sứ quán là những người tử tế. Sự hiểu lầm của Halberstam về cái bản thân nó cũng là một sự hiểu lầm của các quan chức, tượng trưng cho tình hình quan hệ giữa báo chí với phái bộ quân sự, cả hai bên đều coi bên kia là thô lỗ, và không bên nào hiểu thật rõ rằng chữ đó có nghĩa gì.

Chữ pied noir (chân đen) chỉ một người Pháp sinh ra ở Algéria - chân anh ta ở Algéria, chắc người ta muốn nói vậy - một người có thể vừa pied noir vừa thô lỗ (redneck), nhưng cũng có người vừa pied noir vừa được giải thưởng Nobel văn chương, Albert Camus chẳng hạn.

Trong trường hợp này, giới báo chí, tính theo tầm ảnh hưởng của họ ở Hoa Kỳ, gồm có David Halberstam của tờ New York Times, Malcolm Browne của Associated Press (AP) và Neil Sheehan của United Press International (UPI). Họ còn tương đối trẻ - Halberstam và Sheehan khoảng hai mươi lăm tuổi, Browne lớn hơn một chút - nói chung là chưa được thử thách. Vì sao ba phóng viên còn trẻ mà đã đóng vai trò to lớn như vậy trong tiến trình chiến tranh Việt Nam, người ta có thể quy cho một đặc điểm trong nghề nghiệp của họ. Trong thế giới kinh doanh đầy những bất trắc tài chính, cần có những quyết định thận trọng thì công việc phần lớn do những người lớn tuổi dày dạn kinh nghiệm đảm trách. Nhưng trong nghề làm báo thì điều ngược lại mới đúng. Phản ánh một câu chuyện đột xuất là một việc đòi hỏi cá nhân phải chịu đựng gian khổ, thoát ly gia đình, đòi hỏi phải có nghị lực và tinh thần dám nghĩ dám làm mà một nhà báo trên bốn mươi tuổi ít khi có được.

Dù sao đi nữa thì cũng ít có phóng viên trẻ nào có sức tác động đến tình hình như Halberstam, Browne, và Sheehan. Trước khi họ đến, chiến tranh ở đây được phản ánh bởi những nhà báo đã ngoài bốn mươi: từ những văn phòng của họ ở Hongkong hay những địa điểm cố định khác, hoặc do những người địa phương như François Sully, đã sống ở Việt Nam mười bảy năm và đã bắt đầu với một chân nghiệp dư. Những tay ký giả kỳ cựu ở châu Á bay đến Sài Gòn, phỏng vấn những người quen biết của họ ở sứ quán Mỹ hoặc trong đám chính khách Việt Nam và trở về nhà của họ mà viết bài trong khung cảnh yên lành. Các nhà báo đi đi về về như vậy không có khả năng trực tiếp dính líu cá nhân với câu chuyện họ phản ánh và thường là họ phản ánh quan điểm của các quan chức sứ quán Mỹ là những đầu mối quan hệ của họ, và trên thực tế, là chỗ làm ăn của họ. Nhưng sau cuộc đảo chính thất bại của Nguyễn Chánh Thi năm 1960, tiếp theo là thảm họa ở Vịnh Con Lợn của Cuba năm tháng sau đó, mối quan tâm đến Việt Nam đã khiến cho các cơ quan báo chí mở văn phòng với các phóng viên thường trú ở Sài Gòn.

Halberstam, Browne và Sheehan là ba người còn trẻ mà học cao, điều không bình thường đối với ba phóng viên đến một nơi được coi là chưa có chuyện gì xảy ra. Halberstam tốt nghiệp trường đại học Harvard, làm chủ nhiệm tờ Crimson của trường, Sheehan cũng tốt nghiệp Harvard, và Browne đã tốt nghiệp trường Swarthmore. Nói theo nghĩa nào đó thì họ là những người giỏi nhất và thông minh nhất1 trong các phóng viên trẻ ở Sài Gòn, họ rất tin tưởng ở những việc đang làm, đó là những con người xông xáo nhất, lúc nào cũng nhiệt thành - và tất cả đều hiểu rằng họ sẽ bị thay thế, sự nghiệp của họ sẽ tiêu ma, nếu họ không bắt được mạch đập của thời cuộc.

Vì hãng Associated Press cung cấp tin cho hầu hết các báo hàng ngày ở Mỹ nên có thể nói rằng Malcolm Browne là người có ảnh hưởng tới tình hình nhiều nhất. Sau đó là người của hãng tin kia, Neil Sheehan, người Ái Nhĩ Lan có phong cách hòa nhã, lúc nào cũng như lơ đãng đâu đâu vậy. Tuy nhiên, chính David Halberstam mới là con người nổi bật trong nhóm ba người.

David Halberstam đến Sài Gòn vào thời điểm hội tụ của lịch sử chiến tranh và của tờ New York Times. Lúc đó John F. Kennedy đã bác bỏ yêu cầu của tướng Maxwell Taylor xin đưa quân Mỹ vào Nam Việt Nam nhưng chấp nhận từng bước tăng cường viện trợ quân sự cho Nam Việt Nam, cung cấp cho họ khoảng ba mươi trực thăng Chuối Bay CH-21 cùng với phi công để đưa quân đội của họ đi chiến đấu cùng với mấy cái máy bay ném bom phóng pháo cũ kỹ để yểm trợ trên không. Để điều khiển việc này, một tổ chức quân sự mới được thành lập - Bộ chỉ huy viện trợ quân sự, Việt Nam (MACV) - do tướng Paul Harkins cầm đầu, vài tháng trước khi Halberstam tới.

Cũng trong thời gian này, tờ New York Times đang lên tới đỉnh cao ảnh hưởng của nó, tràn ngập các hệ thống vô tuyến truyền hình, bằng hàng loạt tin tức và bài vở mới của họ. Vài năm trước đây thì tình hình ngược hẳn, không phải là hiếm hoi khi thấy các phóng viên báo Times phải ngồi trước máy vô tuyến mà ghi tin tức. Nhưng từ khi Halbestam tới Sài Gòn thì chính tờ đã giúp đỡ rất nhiều cho các hệ thống truyền hình lên chương trình tin tức của họ, và như vậy là cho cả nước Mỹ. Những người nắm đòn bẩy các phương tiện truyền thông ở Mỹ đã dành cho tờ Times sự kính trọng cao nhất, tờ báo quán quân của đất nước.

Với Halberstam, tờ Times đã có được một phóng viên không sợ phải đặt một chương trình nghị sự cho riêng mình. Cao một thước tám mươi, vai ngang làm cho anh trông càng lớn con, càng có vẻ được việc và cương quyết. Trong khi các nhà báo nói chung chưa bao giờ nổi bật về tính dễ bảo thì Halberstam lại được thúc đẩy bởi cái tôi sáng như ánh chớp của anh. Anh đã từng viết về cuộc chiến ở Congo và từ đó mà đến Việt Nam, không dễ gì để cho ai bắt nạt. Anh có ý định sẽ viết về Việt Nam trong tinh thần hoàn toàn độc lập.
________________________________________
1. Tác giả ám chỉ cuốn sách nổi tiếng của Halberstam “Những người giỏi nhất và thông minh nhất” (The Best and the Brightest) – N.D
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #46 vào lúc: 08 Tháng Năm, 2008, 11:30:08 pm »


Thái độ công kích mãnh liệt trong các bài phóng sự của Halberstam, cũng như của Browne và Sheehan, không phải là thái độ chống chiến tranh dưới bất cứ ý nghĩa nào. Về căn bản, điều các anh nói là cuộc chiến đã diễn ra tồi quá. Trên thực tế, họ đang thực thi chức năng phê phán của báo chí hiện đại, với sự hiểu ngầm là nếu mọi việc đều tốt đẹp cả thì chẳng cần phải viết nhiều làm gì. Việc đó đã dẫn họ đến một cuộc xung đột tư tưởng với những con người như William Colby và Stuart Methven, những con người cũng học hành đàng hoàng như họ, cũng hiểu biết Việt Nam chẳng kém gì các nhà báo, và tin rằng, với tất cả mọi vấn đề phức tạp, cuộc chiến đấu chống cộng vẫn đang tiến triển, và cho rằng phê phán nhiều quá có thể phản tác dụng. Nói rút lại, vào lúc bấy giờ chiến tranh tiến triển tốt hay không chỉ là vấn đề cách hiểu, cách giải thích mà thôi, bởi vì người ta có đầy đủ sự kiện để chứng minh cho bất cứ quan điểm nào. Nhưng quan điểm được chú ý rộng rãi nhất vẫn là quan điểm của các nhà báo, như mọi người, trừ những người ngây thơ nhất, đã biết.

Chính trong không khí đó, các quan chức chính phủ đã tung ra một chiến dịch làm mất uy tín những bài viết của Halberstam, Browne và Sheehan. Lời tố cáo dễ nhất đối với họ là nói rằng họ còn trẻ và chưa có kinh nghiệm và “muốn tạo cho mình một tên tuổi”, mà thực ra cũng có như vậy thật. Đâu có ai hỏi một nhà kinh doanh trẻ vì sao ông ta lại kiếm tiền, việc tạo ra cho mình một tên tuổi đối với nhà báo cũng vậy thôi, và không phải vì vậy mà các phóng viên lại đánh mất tính trung thực của họ như các quan chức chính phủ muốn ám chỉ đâu.

Nhưng chọc giận các nhà báo hơn cả là cái chiến dịch đặt vấn đề về lòng can đảm của họ. Học đòi theo Ngô Đình Diệm là người chế giễu phe đối lập của mình là “Nhóm Caravelle” các quan chức của tòa đại sứ và phái bộ quân sự nói rằng các phóng viên lấy tài liệu để viết bài ở quán rượu trên tầng chín của khách sạn Caravelle, từ những người Việt Nam thân Pháp cứ la cà ở đấy, chứ ít khi dám mạo hiểm đi về miền quê nơi dễ gặp chuyện nguy hiểm. Chủ đề này được nêu lên bởi các nhà báo lớn tuổi đến thăm xứ này như Joe Alsop và nói lại với các nhà báo ở nhà.

Làm phóng viên trong một cuộc chiến tranh mà lại bị giới quân sự chê là chết nhát thì chẳng khác nào chơi đàn pianô trong một nhà thổ và bị bọn con gái chê là bất lực, với tất cả những cái nháy mắt và cười điệu kèm theo. Một số phóng viên vì sợ bị đánh giá là hèn nhát đã lao vào những hành động mạo hiểm đã kết thúc trong túi đựng xác, vì vậy mà làm cho nhiều người phân vân; và một số ít nhà báo không quan tâm đến việc bảo đảm an toàn bản thân, coi nhẹ vấn đề lòng can đảm. Vấn đề đã lên tới cực điểm khi tạp chí Times, do một người chủ nhiệm rất diều hâu là Otto Fuenbringer lãnh đạo, cho đăng một bài tố cáo các nhà báo ở khách sạn Caravelle, khiến cho phóng viên của báo đó ở Sài Gòn là Charles Mohr, cùng với một người bạn khác của Halberstam, từ chức để phản đối. Mohr không phản đối chiến tranh; trái lại, anh vẫn tin rằng ý nghĩa cuộc chiến này là đúng đắn, mãi về sau này, khi một số đồng nghiệp của anh đã thay đổi quan điểm, anh vẫn tin như vậy. Như sự từ chức của anh ở báo Times đã chứng minh, cuộc đấu tranh giữa báo chí và phái bộ quân sự Hoa Kỳ đã vượt qua đường ranh ý thức hệ.

Trong trường hợp riêng của Halberstam, còn có dư luận rằng anh đã bật khóc hu hu khi trông thấy một đống xác chết trong một cuộc hành quân ở nông thôn, đây là sự nhục mạ lớn nhất theo quan điểm của một quân nhân. Halberstam, một người Do Thái thị dân, đã từng viết về hai sự kiện đầy xác chết - cuộc đấu tranh đòi bình đẳng của người da đen ở miền Nam nước Mỹ và cuộc chiến tranh ở Congo - thì đáng lẽ không phải chịu những lời phỉ báng như vậy - mà thật ra anh đâu có làm như vậy. Nhưng cứ mỗi lần bị đả kích thì bài viết của anh càng phê phán kịch liệt hơn, và anh đã tỏ ra rất tự hào khi chính John F. Kennedy đã yêu cầu ông chủ nhiệm báo New York Times đưa anh đi khỏi Sài Gòn, nhưng bị ông này từ chối.

“Tất cả chúng tôi đều là hiện thân của cuộc đấu tranh”, Neil Sheehan nhớ lại. “Nhưng Halberstam là người hiện thân nhiều hơn cả”.

Nhưng cũng đúng khi người ta tố cáo rằng các phóng viên ở Sài Gòn nhiều hơn là ở nông thôn, nơi chiến tranh đang diễn ra. Cái đó một phần do tính chất cuộc chiến tranh. Trong Thế Chiến II và trong Chiến tranh Triều Tiên các phóng viên được cử đến nằm tại các đơn vị lớn của Mỹ và ở đó luôn. Họ bị buộc phải đi theo đơn vị đó mà viết bài, đưa tin. Nhưng viết về một cuộc chiến tranh du kích với những cuộc chạm súng không chừng không đỗi thì làm thế nào? Đó là một vấn đề các phóng viên đã đặt ra khá lâu, cả khi Halberstam đã đi rồi. Hơn nữa, các phóng viên viết bài về chiến tranh trong những ngày đầu không có máy bay và trực thăng chở các phóng viên đi khắp mặt trận như sau cuộc đổ bộ lớn năm 1965, mà họ tự tìm lấy phương tiện vận chuyển. Nhạy cảm với những lời tố cáo rằng họ không dám đi khỏi Sài Gòn, mà các quan chức chính phủ coi là biểu hiện của sự hèn nhát, và bị bắt buộc phải tự tìm lấy phương tiện đi lại trên một nước giao thông còn kém phát triển, nhiều phóng viên ở Sài Gòn đã phải tự xoay sở bằng nhiều thủ đoạn.

“Trong những ngày đầu của nhiệm kỳ của tôi ở Việt Nam, tôi cố gắng tìm cách đánh giá cuộc chiến tranh rắc rối khó hiểu này”, David Halberstam nhắc lại trong cuốn Tạo ra bãi lầy. “Làm thế nào để anh nói về khoảng ba mươi cuộc đụng độ nhỏ mỗi ngày, phần lớn xảy ra ở những nơi anh chưa hề đặt chân tới, và không có thông tin gì rõ ràng để thấy rõ ý nghĩa của tình hình đó cả? Tôi cũng nhanh chóng thấy rõ rằng không thể ở Sài Gòn, dự những buổi báo cáo tình hình mà viết về cuộc chiến tranh này mặc dầu trên bản đồ tham mưu người ta vẽ đầy những mũi tên xanh đỏ đủ màu. Sư đoàn 7 của Nam Việt Nam đã làm cho tôi chú ý bởi vì đây có thể là chỗ trắc nghiệm cuộc chiến tranh, mọi vấn đề đều tập trung ở đây, phía chính phủ có nhiều cơ hội, và nếu tình hình ở đây đã xấu thì không chắc chỗ khác lại tốt được, hay ngược lại. Hơn nữa: Mỹ Tho là nơi đóng quân của Bộ chỉ huy sư đoàn chỉ cách Sài Gòn có bốn mươi dặm về phía Nam trên đoạn đường tốt, phóng viên chúng tôi có thể xuống đó, nói chuyện với bạn bè và tham gia những cuộc hành quân”.

Cố vấn Mỹ của Sư đoàn 7 là Trung tá John Paul Vann. Thế là do sự trùng hợp ngẫu nhiên, do những khó khăn kỹ thuật trong việc đi viết về chiến tranh và do nhu cầu, cá nhân cũng như nghề nghiệp, phải đi khỏi Sài Gòn mà các phóng viên trẻ, đặc biệt là Halberstam và Sheehan, rơi vào vòng ảnh hưởng của Vann, một trong những người dũng cảm và tinh ranh nhất đã phục vụ trong chiến tranh. Vann gần gũi với mẫu người của Lansdale nhưng do quân đội mà ra và ông cũng giống Lansdale ở chỗ là không sợ bày tỏ quan điểm riêng của mình. Nhưng có chỗ khác là Lansdale thì tương đối kín miệng với báo chí còn Vann thì sử dụng các nhà báo như một vũ khí để chống lại bộ máy thư lại trong quân đội.

Và cái mà Vann nói ra đã thành một câu chuyện rất hấp dẫn với báo chí. Gần như đơn độc trong số những quân nhân chuyên nghiệp, Vann cho rằng cuộc chiến đã được tiến hành quá tồi và do đó thế nào cũng thua. Cũng như Lansdale, ông hoàn toàn tin tưởng ở chính nghĩa của cuộc chiến này. Ông có thể là còn bảo thủ hơn cả Lansdale và chắc chắn là kém linh hoạt hơn. Vann chỉ đơn giản muốn thay đổi chiến thuật và chính sách cho phù hợp với ý kiến của ông - mà ý kiến của ông là đúng - để giành được thắng lợi trong chiến tranh. Các phóng viên đã làm cho quan điểm của ông được phổ biến đi khắp nơi, đẩy tướng Paul Harkins, Tư lệnh của MACV với cái chủ nghĩa lạc quan của ông ta vào chân tường. Trong lĩnh vực báo chí, lúc nào cũng vậy, do tính chất của công việc, người ta thường chú ý tới những cái nổi bật chứ không phải những cái tinh vi tế nhị, cho nên những điểm chính trong tư tưởng của Vann do các nhà báo phản ánh là mọi việc đang xấu đi, chứ không phải mọi việc cần phải thay đổi.

Sáu tháng sau khi đến Việt Nam, David Halberstam là một trong số ít các nhà báo đã họp để ăn trưa với thượng nghị sĩ Mike Mansfield, ông này đến Việt Nam để tìm hiểu tình hình, để báo cáo một cách không chính thức cho ông biết họ đánh giá tình hình như thế nào. “Mike bắt đầu đã có nhiều nghi ngờ”, Halberstam nhớ lại, “và dĩ nhiên là từ đó trở đi, tất cả chúng tôi đều rất, rất chán nản và bi quan và chúng tôi đã trở thành kẻ thù của phái bộ quân sự Mỹ và của chế độ Sài Gòn..”.

Mấy tuần lễ sau đó, ngày 2 tháng Giêng, 1963, một trận đánh mà các phóng viên có đủ mọi điều kiện theo dõi thuận lợi đã nổ ra. Trận đánh này có liên quan đến John Paul Vann và Sư đoàn do ông làm cố vấn. Trận đánh lúc đầu định là tấn công vào một trạm truyền tin của cộng sản và một đại đội đang bảo vệ nó. Nhưng ngay từ lúc những chiếc trực thăng đầu tiên bắt đầu cất cánh thì mọi việc cũng bắt đầu hỏng cả. Hình như cộng sản đã được báo trước và đang chờ đợi với lực lượng một tiểu đoàn với súng máy hạng nặng và mooc-chê. John Paul Vann vẫn tỏ ra can đảm như mọi khi, nhưng trận Ấp Bắc đã thất bại và năm trực thăng bị bắn rơi, ba người Mỹ chết, chủ yếu là do sự bất tài và hèn nhát của các chỉ huy Nam Việt Nam chỉ huy cuộc hành quân này.

Trung tướng Charles Timmes đến tận chiến trường cùng với xếp của ông, tướng Paul Harkins, cùng một lúc với các nhà báo từ Sài Gòn xuống. Timmes, một con người lịch sự, đã nhảy dù xuống Normandy cùng với Sư đoàn 82, cũng như John Vann, người mà ông cho rằng “nhiều khi can đảm quá mức cần thiết, nhưng hết sức đắc lực”. Harkins đã bị tổn thương vì những lời phê phán trên báo chí từ Vann mà ra.

“Cái khó ở Ấp Bắc”, Charles Timmes kể lại, “đã bắt đầu khi Vann la hét với Harkins khi vừa thấy ông ta, “Mấy thằng khốn nạn này đánh không bằng - “Ông rất gay gắt cho rằng quân Nam Việt Nam hèn nhát. Một số nhà báo đứng quanh đấy và nghe rõ những lời Vann nói. Harkins theo tôi nhớ, tìm cách vỗ về ông ta. Harkins tìm cánh để tống Vann về Hoa Kỳ. Tôi nói “Ông không nên làm thế. Ông sẽ gặp rắc rối với đám nhà báo. Hãy để việc đó tôi lo” Tôi cử Vann làm trợ lý cho tôi và cử ông đi khắp nơi trong nước. Không lâu sau đó, Vann về nước và ra khỏi quân đội”.

Trận Ấp Bắc, nếu xét một cách cô lập, có ý nghĩa về mặt quân sự, nó đã chỉ ra những vấn đề nghiêm trọng mà quân đội Sài Gòn đang vấp phải, Việt Cộng bây giờ không bỏ chạy mà đứng lại và đánh trả họ với quy mô tiểu đoàn. Nhưng đó không nhất thiết đã báo hiệu ngày tận thế. Tuy nhiên, báo chí đã mô tả trận Ấp Bắc như một trận động đất thực sự, một phần lớn cũng vì có dính líu với John Vann, ông này đã nói với các phóng viên như Halberstam và Sheehan mọi điều về trận Ấp Bắc và họ đã coi ông như một người anh hùng. Các nhà báo tin rằng họ đã có bằng chứng về sự bất lực của quân đội Diệm, và do đó, của chính bản thân Diệm nữa. Trong một cuốn sách viết về John Vann nhiều năm sau, Neil Sheehan gần như đã chấp nhận như vậy. “Ấp Bắc là một cuốn phim lớn đã bác bỏ cuốn phim lớn mà Harkins và Nolting đang cho chiếu”, Sheehan viết. “Chúng tôi khai thác trận đánh này càng nhiều càng tốt vì lẽ đó, và khi Vann đã nguôi giận và chia sẻ mối quan tâm của chúng tôi, đã ngấm ngầm liên minh với chúng tôi thì chúng tôi hăng hái lao vào đấy”.

Các nhà báo càng quyết tâm giới thiệu quan điểm của họ sau cuộc họp báo của Tướng Paul Harkins, và Đô đốc Harry Felt, cấp trên của Harkins từ Honolulu tới. Harkins nhìn thẳng vào mắt các nhà báo mà nói rằng Ấp Bắc là một chiến thắng của quân đội Sài Gòn. Nhưng những lời nói ngu ngốc của Harkins chỉ là miếng vải đỏ để nhử con bò tót. Đô đốc Harry Felt mới là người đấu bò. Ông yêu cầu các nhà báo, đặc biệt là Malcolm Browne, hãy “cùng nhau hợp tác”. Lời hô hào này, tiếp tục vang dội trong các nhà báo nhiều năm sau, càng làm cho họ tức giận, điều đó chắc hẳn phải làm cho Đô đốc Harry Felt bối rối bởi vì nói như vậy ông chỉ đơn giản kêu gọi họ trở lại với cách thức quan hệ trước đây mà thôi.

Sau trận Ấp Bắc thì các nhà báo tập trung viết về tình hình chính trị, về cuộc khủng hoảng Phật giáo, chỉ trích gay gắt chính sách của Diệm, khoét sâu thêm cừu hận giữa phóng viên với phái bộ quân sự Mỹ, nay đã trở thành cay cú cá nhân. Cuộc khủng hoảng Phật giáo đã hạ bệ Diệm và Neil Sheehan đã có những lời nói bộc trực về vai trò của báo chí trong đó. “Halberstam và tôi và nhiều phóng viên khác đã tóm lấy cuộc khủng hoảng Phật giáo cũng như trước đây chúng tôi đã tóm lấy trận Ấp Bắc vậy”, anh viết. “Chúng tôi trưng nó ra như một bằng chứng cho thấy chế độ Diệm đã phá sản về chính trị cũng như nó đã sụp đổ về quân sự”.

Barry Zorthian, một quan chức chính phủ được các nhà báo ưa thích và kính trọng, sau này đã đem lại một quan hệ êm thấm hơn giữa báo chí và giới quân sự, cho rằng trong việc phản ánh tình hình, các nhà báo đi gần với sự thật hơn là giới quân sự và tòa đại sứ. Nhưng đồng thời Zorthian cũng cho rằng trong việc phá hoại chế độ Diệm, Halberstam, Browne và Sheehan đã làm quá vai trò của báo chí của mình - hầu hết các quan chức trong chính phủ Hoa Kỳ, bất kể trước đây họ nghĩ gì về Diệm: đều cho rằng việc lật đổ Diệm là một sai lầm nghiêm trọng trong chiến tranh.

“Các nhà báo này đã trở thành những nhân vật trong câu chuyện”, Zorthian nói. “Họ đã dính líu quá nhiều, và quá nồng nhiệt nên đã trở thành những diễn viên trong tấn kịch này. Tôi không muốn nói họ có ác ý. Họ hầu như đã bị lôi cuốn, bị đẩy vào đấy”
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #47 vào lúc: 08 Tháng Năm, 2008, 11:36:10 pm »


*
*   *

Mike Dunn là người đã đi học bằng tiền của quân đội nhiều hơn bất cứ sĩ quan nào khác trong Lầu Năm Góc. Dunn đã tốt nghiệp Harvard, đã học trường Yale, MIT, và Cornell và đã lấy bằng tiến sĩ về khoa học chính trị tại trường Princeton. Khi ra trường Princeton, ông là trung tá, được phái đến cơ quan tham mưu của lục quân. Một trong công việc của ông là báo cáo tình hình với Henry Cabot Lodge, Trung tướng quân trừ bị, đến Lầu Năm Góc mỗi mùa hè để, theo lời Dunn, “bổ túc kỹ năng và truyền đạt kiến thức cho các bộ phận của bộ tổng tham mưu”. Lodge từng là thượng nghị sĩ của Hoa Kỳ, đại diện tại Liên hiệp quốc và ứng cử viên của Đảng Cộng hòa năm 1960.

Mike Dunn và Henry Cabot Lodge cùng ở một tiểu bang, Massachusett, nhưng hai người thuộc hai môi trường xã hội hoàn toàn khác nhau. Dunn đẹp trai một cách ảm đạm, với tầm cao trung bình, ăn nói toạc móng heo và nhạy cảm với câu nói tế nhị dí dỏm, nhiễm cái lề thói của một tên bợm nhậu Ái Nhĩ Lan, giọng nói thì còn lâu mới thành quý tộc nhưng anh đã quyết không bao giờ quên nguồn gốc xuất thân cho dù sau này có thành đạt thế nào trong cuộc đời; tất cả những cái đó, hòa với trí thông minh có học thức và tài ăn nói khôn khéo, đã biến ông thành một người đáng chú ý và tất yếu hấp dẫn được Henry Cabot Lodge. Lodge rất ghét bị quấy rầy, và Dunn có thể bị chê trách về nhiều điều khác, nhưng ông là người ít khi quấy rầy ai. Cho nên khi Lodge trở thành đại sứ thay thế cho nhà ngoại giao chuyên nghiệp Fredenck Nolting, ông đã yêu cầu Dunn cùng đi với ông. Lodge nói nếu Dunn đồng ý ông sẽ thu xếp cho Dunn được chuyền sang ngành ngoại giao và hưởng lương ngang với cấp chuẩn tướng.

Dunn tin rằng Henry Cabot Lodge, trước đây đã chứng tỏ cho Tổng thống Kennedy thấy khả năng có thể sử dụng của mình, nay được bổ nhiệm, ít ra một phần cũng nhờ báo New York Times. “Halberstam, Sheehan và Browne không phản ánh đúng những gì đang xảy ra ở đó”, Dunn nói. “Họ tác động đến tình hình. Và họ tác động đến việc bổ nhiệm ông Lodge”. Dunn cho rằng Kennedy và trợ lý của ông tin rằng họ có thể lái những lời phê phán do báo chí tác động đang tăng lên ở Quốc hội bằng sự bổ nhiệm Cabot Lodge, một sự bổ nhiệm có tính chất chính trị bởi vì Lodge là một khuôn mặt sáng giá của đảng Cộng hòa, làm đại sứ ở Nam Việt Nam biến cuộc chiến tranh thành vấn đề của cả hai đảng.

Những sự kiện dồn dập đưa Cabot Lodge tới Sài Gòn tháng Tám 1963 đã bắt đầu với việc Phật tử Việt Nam tham gia hàng ngũ những người bất mãn với chế độ và tung ra những cuộc biểu tình chống chính phủ. Cuộc xung đột đã nổ ra ở Huế, quê hương của Diệm, chung quanh việc Phật tử có được treo cờ Phật giáo trong ngày lễ Phật đản hay không. Diệm nói không. Hành động của Phật tử đã làm cho mọi người bất ngờ. Trong lịch sử hiện đại của nước này chưa bao giờ các nhà sư có một vai trò chính trị cả. Theo cách nhìn của Washinbton, cuộc khủng hoảng này sẽ dẫn tới những hệ quả kinh người. Kennedy vừa phải đấu tranh với một vấn đề tôn giáo trong nước để giành được chức tổng thống, nay hình như những người đồng đạo Thiên chúa của ông ở Sài Gòn đã tự biến thành kẻ thù của mọi tôn giáo khác ở đất nước này. Bởi vì Việt Nam là một nước Phật giáo, phải vậy không nào? Nếu đúng vậy thì Diệm cũng giống như một người theo đạo Thiên chúa ở Mỹ bị chống đối bởi mọi người theo các tôn giáo khác, từ Baptist, Méthodist, Presbyterian, Episcopalian, Lutheran, Mormon, Do Thái, và Hồi giáo. Diệm, mặt khác, lại coi Phật giáo như các giáo phái ly khai khác như Cao Đài, Hòa Hảo mà ông ta có thể thẳng tay đàn áp.

Cả Washington và Diệm đều không nắm được tình hình - mà hóa ra các nhà báo cũng vậy. Phật tử là một cộng đồng tôn giáo có những nguyện vọng chính đáng không thể từ chối được, nhưng họ cũng không phải là một lực lượng đoàn kết thống nhất như người ta đã tưởng và báo chí đã tả. Diệm biết đất nước của ông và chắc chắn là hiểu được điều đó. Điều ông ta không ngờ là các nhà sư lại có khả năng động viên và hướng dẫn sự bất mãn chung của một nước bần cùng hóa trong chiến tranh và làm cho nó mang hình thức một cuộc nổi dậy của tôn giáo. Nhìn lại chuyện đã qua, các “Phật tử” lúc đầu chỉ là mấy nhà sư đưa ra những lời thỉnh nguyện chính đáng, rồi biến nó thành một mưu toan nắm lấy quyền bính, không có bất kỳ chương trình nào rõ ràng. Tiêu biểu trong đám họ là một trong các nhà sư lãnh đạo, hòa thượng Trí Quang, người chủ mưu những cuộc biểu tình đầu tiên chống Diệm, nhiều năm được báo chí và quan chức sứ quán Hoa Kỳ coi trọng mà ngoài việc cho thấy mình là một người xách động chính trị có ảo tưởng to lớn, thực ra, chẳng có ý nghĩa gì đáng kể cả- Trí Quang thành công vì người Mỹ dốt nát về văn hóa: ông ta đã che dấu những quan điểm rời rạc về chính trị của mình, dựa một cách chung chung trên nguyên tắc trung lập và lực lượng thứ ba, dưới cái lớp văn cầu kỳ huyền ảo của Phật giáo - làm cho nó trở nên giá trị, theo ý nghĩ của người Mỹ, đáng được kính trọng và nghiên cứu cẩn thận. Và điều đó lại làm tăng giá trị của ông ta dưới mắt người Việt Nam, những người lấy làm nghiêm chỉnh tất cả những gì người Mỹ lấy làm nghiêm chỉnh.

Trong thời gian đó, chỉ có một việc rõ ràng, đó là việc Diệm đối phó với tình hình quá dở. Tòa đại sứ dựa vào ông ta để thương lượng với các hòa thượng, và cũng đã đạt được vài tiến bộ cho đến lúc bà Nhu, con người không bao giờ chịu giữ mồm giữ miệng, đã ra một bản tuyên bố tố cáo rằng các nhà sư đã bị cộng sản lợi dụng. Bốn hôm sau, ngày 11 tháng Sáu năm 1963, các Phật tử đang tung ra một trong những trò biểu diễn bi thảm nhất trong lịch sử, cho thấy họ láu cá hơn Diệm nhiều. Sau khi gọi điện thoại báo cho các nhà báo Mỹ biết rằng sắp có một sự kiện quan trọng xảy ra ở một ngã tư đông xe ở Sài Gòn, hai nhà sư đã đổ xăng vào nhà sư thứ ba, hòa thượng Quảng Đức, bảy mươi ba tuổi, ông ngồi với tư thế hoa sen và đánh diêm châm lửa. Để cho mọi người đều chú ý, một nhà sư đã nói to bằng tiếng Anh “Một hòa thượng Phật giáo tự thiêu tới chết. Một hòa thượng đã hy sinh vì đạo”. Malcolm Browne của hãng Associated Press có mặt tại đó, đã chụp được bức ảnh được đăng trên khắp thế giới. Bà Nhu gọi đó là “thịt quay”. Washington phản ứng bằng cách ra lệnh cho sứ quán hăm dọa Diệm rằng nếu Diệm không chịu đáp ứng yêu cầu của Phật giáo thì Hoa Kỳ sẽ công khai tuyên bố không đồng tình với chánh sách Phật giáo của Diệm. Diệm biết rằng một lời tuyên bố công khai như vậy có giá trị như một lời mời những kẻ thù của ông hãy tổ chức một cuộc đảo chính nên ông đã ký kết một bản thỏa hiệp với Phật giáo.

Nhưng cuộc khủng hoảng đã đi quá xa. Những nhà sư trẻ và cấp tiến ngày càng nắm quyền lãnh đạo phong trào Phật giáo và thật đáng ngờ là các tay hoạt động bí mật của cộng sản lại không quan tâm đến phong trào này. Phật tử tiếp tục đấu tranh và Diệm, dưới ảnh hưởng của em trai và em dâu, lại càng tỏ ra ngoan cố. Ngày 21 tháng Tám, 1963, trên đường qua Sài Gòn, Henry Cabot Lodge đã ghé qua Honolulu để gặp đại sứ vừa mãn nhiệm là Frederick Noting với trợ lý ngoại trưởng Roger Hilsman, họ được tin là Diệm đã ra lệnh tấn công các chùa Phật giáo. Lúc đầu người ta tưởng cuộc lùng sục này là do quân đội tiến hành. Sau người ta được biết là do các đơn vị cảnh sát và Lực lượng Đặc biệt do Nhu kiểm soát.

Những cuộc tấn công vào chùa Phật giáo được xếp đặt diễn ra lúc không có đại sứ Mỹ nào tại Sài Gòn, đã gây bất bình cho hầu hết các quan chức chính phủ ở Washington, nhưng bất bình nhiều nhất thì không ai khác hơn là trợ lý của ngoại trưởng phụ trách các vấn đề Viễn Đông Roger Hilsman. Ông là một người tri thức hay gây gổ,đã tham gia các đội du kích của Mỹ đánh nhau với quân Nhật ở Miến Điện, tự cho mình là một chuyên gia về chiến tranh du kích, trong các cuộc họp hay kể dài dòng chán ngắt về những kinh nghiệm chiến đấu của ông. Hilsman đã bắt đầu thấy ghét sự lãnh đạo của Diệm và tin rằng nếu Diệm còn tại vị thì người em của ông ta nhất thiết phải ra đi. Hilsman có một người đồng minh đáng gờm là thứ trưởng ngoại giao Averell Harriman, ông này không những là đồng tình với nhận định của Hilsman mà còn đi xa hơn, nuôi một thù hận cá nhân đối với Diệm, bởi vì Diệm đã phạm một khuyết điểm là đã tỏ ra hống hách với Harriman, bản thân ông này cũng có hống hách chút đỉnh, trong dịp Harriman tới Sài Gòn tìm cách thuyết phục đám người Việt Nam bướng bỉnh này ký Hiệp định Genève về Lào.

Dù sao đi nữa, hai ngày sau khi Henry Cabot Lodge tới Sài Gòn, Rober Hilsman và Averell Harriman đã gửi cho ông một bức điện báo hiệu sự cáo chung của chế độ Diệm. Có một số lắt léo né tránh nào đó chung quanh bức điện ngày 24 tháng Tám này, ai đã thảo ra và nó đã được thông qua như thế nào, bởi vì nó gần như việc bật đèn xanh cho một cuộc đảo chính dẫn tới việc giết Diệm. Bức điện chủ yếu nhằm vào Nhu. “Chính phủ Hoa Kỳ không chấp nhận tình hình mọi quyền bính đều nằm trong tay Nhu”, bức điện viết. “Diệm phải tách khỏi Nhu và cái nhóm của ông ta và thay thế vào đó những nhân vật quân sự và chính trị có giá trị hơn”. Và sau cùng là cú sút ghi bàn: “Nếu, bất chấp mọi cố gắng của ông, Diệm vẫn không lay chuyền và từ khước, lúc đó chúng ta phải tính đến khả năng không giữ Diệm nữa”.

Bức điện đã khiến cho William Colby ngừng ngay mọi việc đang làm, bay về Mỹ báo cáo với Giám đốc CIA John McCone. Ông và John McCone đều chống lại mọi cố gắng để thay thế Diệm. Robert McNamara ở Bộ quốc phòng, và Tướng Harkins ở Sài Gòn cũng vậy. Nhưng ở những cấp thấp hơn thì người ta không thống nhất với nhau, bên phía các quan chức Việt Nam cũng vậy. Ngay Nguyễn Đình Thuần, Đổng lý văn phòng của Diệm cũng nói riêng với Rufe Phillips rằng cần phải tống Nhu đi.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #48 vào lúc: 08 Tháng Năm, 2008, 11:37:52 pm »



Như William Colby đã thấy, người do dự nhất trong vấn đề này là John Kennedy. “Có những phần tử thân Diệm và những phần tử chống Diệm ngay trong chính phủ, và nói ra thật không hay, nhưng Tổng thống cứ nghiêng ngửa giữa hay phái”, Colby nói. “Tổng thống không dứt khoát chúng ta phải theo đường lối nào, phải làm cái này hay làm cái kia. Điều ông muốn làm là phái ai đó sang Việt Nam, xem xét tình hình, và mang về cho ông một sự đánh giá mới. Đó là một cách tránh né một quyết định. “Chúng ta hãy đánh giá lại tình hình cái đã”. Ông đã không làm cách nào khác được thì chúng ta phải đương đầu với nó vậy. Kể ra thì đầu óc không thể không bị ít nhiều căng thẳng khi mà báo chí cứ nã đại bác vào chính sách của ông ở Việt Nam”.

Hai tuần sau bức điện của Harriman-Hilsman gửi Đại sứ Lodge, Tổng thống Kennedy quyết định đánh giá lại tình hình một lần nữa. Ông cử hai người đi, một người thân Diệm và một người chống Diệm. Tướng thủy quân lục chiến Victor Krulak, do McNamara đề cử, không lấy gì làm lạ là ông tin rằng có thể cùng với Diệm mà thắng cuộc chiến tranh này. Joseph Mendenhall, do Harriman-Hilsman chọn, trước đã làm việc tại Sài Gòn dưới thời Đại sứ Durbrow, đã công khai phản đối việc Diệm không cho bác sĩ Phan Quang Đán nhận ghế đại biểu quốc hội. Krulak và Mendenhall cũng không ưa gì nhau nên trên đường đi họ chẳng nói với nhau câu nào ngoài những điều cần thiết, chuyến đi chỉ kéo dài có chín mươi sáu giờ, kể cả bốn mươi sáu giờ bay từ Washington qua Sài Gòn và bay về.

Ngày 10 tháng Chín, 1963, họ báo cáo kết quả lên Tổng thống Kennedy và các cố vấn. Krulak nói rằng tình hình quân sự đang tiến triển rất tốt. Mendenhall nói rằng tình hình chính trị đang tiến triển rất xấu. Báo cáo mâu thuẫn của họ đã cho Kennedy một cơ hội nói một câu châm biếm làm cho cuộc họp nổi tiếng về sau: “Hai ngài cùng đến một nước đấy chứ?”

Krulak và Mendenhall nói xong thì Rufe Phillips nói. Ông đã bay về nước cùng với hai người kia nhưng không có ý định báo cáo với Tổng thống. Ông về Mỹ vì cha ông bị ung thư ngày càng nặng, ông muốn rời Sài Gòn và thôi làm cho chính phủ để về ở với cha và chăm sóc công việc kinh doanh của gia đình. Ông ghé thăm Mike Forrestal, một trợ lý của Kennedy và người được Harriman che chở, và Mike Forrestal đã yêu cầu ông đến báo cáo cho Tổng thống nghe.

Báo cáo của Phillips hóa ra bi quan, làm cho phái Harriman-Hilsman cứ tưởng là ông ủng hộ quan điểm của họ. Phillips cho rằng cần phải tách Nhu khỏi Diệm. Trên thực tế, chính ông đã tác động đến bức điện của Harriman-Hilsman gửi Cabot Lodge bởi vì trước đó một hôm ông đã gửi về một bức điện với nội dung rất tiêu cực về Nhu. Nhưng Phillips có ý lợi dụng buổi báo cáo này để vận động Tổng thống Kennedy cho Lansdale trở lại Sài Gòn. Diệm cảm thấy đã bị người Mỹ hiểu lầm và cô lập, đã nhờ Phillips xem có thể thu xếp cho Lansdale trở lại làm cố vấn cho ông ta không. Phillips đem báo cáo lại với Đại sứ Nolting, nói với ông này rằng Diệm không có ý coi thường ông, mà chỉ đơn giản nghĩ rằng Lansdale có thể giúp ông ta giao dịch với Mỹ tốt hơn mà thôi. Khi Lodge tới nhậm chức, Phillips cũng nói với Lodge như vậy và nghĩ rằng Lodge đã đồng ý cho Lansdale trở lại.

Trong báo cáo của mình với Tổng thống, Phillips nói rằng ông không đồng ý với cả Krulak lẫn Mendenhall. Tình hình quân sự còn tồi tệ hơn Krulak nói nhiều, bởi vì quân đội Sài Gòn đã rút về bảo vệ cho Diệm khỏi một cuộc đảo chính và Việt cộng đã tràn vào lấp chỗ trống đó. Vấn đề Phật giáo là nghiêm trọng và đang làm cho chính phủ bị xói mòn nhưng đó không phải là vấn đề duy nhất và có thể hạn chế nó trong phạm vi nhất định. Vấn đề lớn, theo ông, là Nhu và Phillips kết luận bằng cách nói với Kennedy: “Tôi nghĩ là chúng ta nên làm tất cả mọi việc để cứu Diệm. Nếu chúng ta đưa Nhu ra khỏi Việt Nam, chúng ta có thể đạt đến một kiểu thỏa thuận nào đó với Phật giáo. Và chỉ có một người tôi tin có thể làm được việc đó. Đó là Tướng Lansdale. Tôi đề nghị ngài phái ông ta sang Việt Nam càng sớm càng tốt”.

Kennedy nói, “Cảm ơn ông nhiều. Những điều ông nói rất bổ ích và tôi xin cảm ơn lời đề nghị của ông, đặc biệt là đề nghị liên quan đến Tướng Lansdale”.

Tin Rufe Phillips đề nghị đưa Lansdale trở lại Sài Gòn đã nhanh chóng lan rộng trong các cơ quan chính phủ có liên quan đến Việt Nam. Lansdale cũng được nghe tin đó từ những nguồn riêng của ông không đầy một giờ đồng hồ sau. Những kẻ thù của ông cũng vậy. Một lần nữa, họ lại nổi lên để giết ngay ý kiến này ngay từ trong nôi. Hai tuần sau, Tổng thống Kennedy lại cử một phái đoàn khác sang Việt Nam để đánh giá tình hình tại chỗ. Phái đoàn lần này gồm có Maxwell Taylor và Robert McNamara, cùng với William Colby, Mike Forrestal, và William Sullivan. Chuyến đi sáu ngày không có kết quả. Taylor và McNamara thấy Diệm có vẻ xa cách, và theo họ, bình thản một cách khó hiểu trước cuộc khủng hoảng; và hai quan chức này lên đường về nước ít có cảm tình với Diệm hơn trước khi họ đến. Nhưng chuyến đi này đã phát hiện một điều đó là Henry Cabot Lodge đã nắm lấy quyền hành ở đây và xử sự một cách tự tin như một khuôn mặt chính trị tầm cỡ quốc gia, dựa trên cơ sở quyền lực riêng của mình và không phải ngả mũ trước bất cứ ai, trừ Tổng thống. Và nếu Tổng thống chưa sẵn sàng hành động một cách dứt khoát thì con người bị ông hai lần đánh bại trong cuộc thử thách chính trị là Cabot Lodge lại sẵn sàng hành động.

“Ông ấy đã trở thành một con người hành động khôn ngoan sắc sảo và cứng rắn, một đối thủ thực sự của gia đình họ Ngô”, David Halberstam đã nói về Lodge như vậy. “Ông là người tập trung vào mục đích của mình, làm việc cật lực, làm cả việc nhà, và không hề có ảo tưởng về công việc mà Hoa Kỳ đang phai đương đầu”.

“Lodbe làm đại sứ thì thực là một tai họa”, William Colby nói. “Ông không có ý niệm gì về việc lãnh đạo một sứ quán cả. Ông là một con chó sói đơn độc không muốn lãng phí thời gian trong công việc quản trị. Có một thời gian ông tỏ ra không thích Diệm, ông coi Diệm như một người không cần quan hệ và không phải là một nhân vật chính trị thực thụ nữa. Vì sao? Tôi không biết. Tôi thực sự không biết. Cái đó làm khó khăn cho công việc của tôi”.

“Tôi yêu mến Lodge”, Mike Dunn nói. “Tôi không ngần ngại gì mà không nói như vậy. Trong cuộc đời của tôi, tôi không yêu mến ai nhiều như ông ấy. Tôi rất gần gũi và đã sống chung với ông sáu hay bảy tháng trong một ngôi nhà. Ông là một nhà quý tộc, nhưng nếu một nhà quý tộc xử sự cho đàng hoàng thì cũng tốt thôi, và ông Lodge chính là một người như vậy. Còn khả năng ông tự cười nhạo mình thì tôi chưa được thấy một người thứ hai trong suốt đời tôi. Theo tôi nghĩ, sở dĩ ông gặp rắc rối Việt Nam, và không giành được chức Phó tổng thống Hoa Kỳ là vì ông thiếu kiên nhẫn với những người ông cho là ngớ ngẩn - và ông tự cho mình cái quyền định nghĩa ai là người ngớ ngẩn. Và ông là con người làm việc vội vã chứ không miệt mài. Đó là sự thật. Tôi sẽ là người cuối cùng phủ nhận điều đó. Nhưng những con người làm việc năng nổ như vậy sẽ đem lại rất nhiều lợi ích cho đất nước và cho thế giới tây phương, nếu họ làm việc từ tốn hơn một chút”.

“Tôi cho rằng Lodge không chống Diệm ngay từ đầu”, Dunn nói thêm. “Chắc chắn là không chống Diệm hết mức như sau này chúng ta đã thấy. Ông tự coi mình là một chính khách thực tiễn, không phải nhà ngoại giao, và ông bực mình khi thấy chế độ Diệm không hiểu được rằng họ đang phạm phải những sai lầm tai hại như thế nào”.

Và để giúp sửa chữa những sai lầm tai hại của Diệm, nhà chính trị thực tiễn đã phải nhờ đến tài năng của một nhà tình báo thực tiễn. Họ hợp thành một cặp khá kỳ cục, Cabot Lodge và Lou Conein.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #49 vào lúc: 08 Tháng Năm, 2008, 11:40:14 pm »


*
*   *


Khi chúng tôi trở lại Việt Nam vào năm 1961 thì Sài Gòn nhiều người Mỹ mà ít người Pháp. Nhưng thức ăn vẫn ngon và tất cả các bạn cũ của tôi vẫn còn đây. Sứ quán cho biết là chúng tôi được trợ cấp một số tiền để thuê nhà. Tôi chọn một ngôi biệt thự đẹp, tôi bán cái áo choàng lông lấy tiền trang trí theo sở thích. Lou lúc nào cũng bận việc. Tôi biết rằng nếu tôi chung sống với Lou thì tôi phải lo sao cho trong nhà lúc nào cũng có thức ăn thức uống ngon lành cho các bạn anh và những người giao dịch công tác thường đến luôn. Tôi biến một gian phòng thành chỗ chiêu đãi giải trí, nhờ một người Pháp thiết kế mỹ thuật, màu đỏ và xanh lá cây, với một cái bàn tre ở giữa. Rồi tôi mướn một người bếp và một người phụ bếp. Thời kỳ đảo chính Diện, nhiều tướng Việt Nam đã tới nhà chúng tôi. Trần Văn Đôn đã đến đây, Lê Văn Kim một người bạn rất thân của Lou và một sĩ quan xuất sắc, kể cả Tôn Thất Đính nữa, ông này cứ giận điên lên. Người Việt nói chuyện không hay bằng người Pháp và câu chuyện của họ cứ xoay quanh bà Nhu. Tôi không rõ có phải vì tôi chịu ảnh hưởng của Pháp hay không nhưng tôi thấy người Việt Nam việc nhỏ thích xích ra to.

Lou Conein bắt đầu dính líu vào cuộc đảo chính từ ngày 4 tháng Bảy, 1963. Hôm dó, sau khi dự lễ Quốc khánh Hoa Kỳ tại tòa đại sứ mấy ông tướng Nam Việt Nam quyết định kéo ra khách sạn Caravelle, Trần Văn Đôn rủ Conein đi uống rượu với họ. Đôn đang làm tham mưu trưởng quân đội Nam Việt Nam. Conein đã gặp Đôn lần thứ nhất tại Hà Nội năm 1945 trong lúc Đôn đang là thiếu úy trong quân đội Pháp. Đôn sinh ra ở Pháp và có hộ chiếu Pháp. Còn Lê Văn Kim, anh em bạn rể của Đôn, làm phó cho Đôn. Kim cũng có hộ chiếu Pháp. Kim đã từng làm trợ lý cho đạo diễn phim Marcel Pagnol và rất giống người Pháp tuy vẫn da vàng và mắt trái hạnh. Theo những người Mỹ quen biết, ông là một người lịch sự, nói năng nhã nhặn, được đánh giá là xuất sắc nhất trong các viên tướng, tuy có lúc còn do dự, thiếu dứt khoát. Kim là bạn của Rufe Phillips. Phillips biết Kim năm 1954, khi Kim chỉ đạo cuộc hành quân tái chiếm lĩnh thổ - bình định. Trần Văn Đôn và Lê Văn Kim thì xuất sắc tinh tế hơn nhưng ít được biết hơn, so với viên tướng khác cũng đã từng phục vụ thời Pháp, đó là Dương Văn Minh. Minh trước đây là một đại tá nhưng nổi tiếng và được Lansdale nâng đỡ vì đã tham gia dẹp cuộc nổi loạn của Bình Xuyên, cái thời Diệm củng cố quyền lực chống lại các giáo phái. Minh to con so với người Việt Nam, cao một thước tám, được gọi là Minh lớn.

Là một người nổi tiếng nhất trong các viên tướng Nam Việt Nam, đáng lẽ Minh là người đứng đầu quân đội nhưng Diệm và Nhu sợ ông ta sẽ quay lại chống họ nên họ bổ nhiệm ông vào một chức vụ không nguy hiểm để họ có thể dòm ngó ông. Thay vào đó, họ bổ nhiệm một người trung tín hơn nhưng ông này lại bệnh, do đó sự lựa chọn tốt nhất là Đôn. Đôn, do những bước đi khôn khéo qua bãi lầy chính trị, đã làm cho Diệm và Nhu tin rằng ông chẳng qua chỉ là con người săn đuổi đàn bà và bảo gì làm nấy. Đôn cũng có ít nhiều tai tiếng về đàn bà và theo những lời đồn đại ở Sài Gòn, ông ta còn quyến rũ cả bà Nhu nữa.

Sau khi nổ ra cuộc khủng hoảng Phật giáo mà Diệm không đối phó nổi, Minh Lớn lâu nay ngậm đắng nuốt cay bây giờ mới mạnh dạn nói với các viên tướng rằng đã đến lúc cần phải dứt khoát với hai anh em Diệm, việc này đã tác động đến hai con người vốn thận trọng là Đôn và Kim khiến họ phải suy nghĩ về vấn đề này.

Đôn cho rằng Lou Conein uống rượu nhiều quá, và cả một số người Mỹ khác cũng uống rượu nhiều quá, đặc biệt là so với người Việt Nam uống ít hơn và thường là pha Coca-cola với Scotch, nhưng Đôn cho rằng có thể tin tưởng ở sự trung thực của Conein. Ngoài ra, Đôn biết Conein lâu hơn bất cứ người Mỹ nào ở Việt Nam, và Đôn, vốn là một người đa mưu túc kế, hiểu rằng Conein cũng chẳng thích gì Diệm và Nhu. Thế là sau buổi chiêu đãi Quốc khánh Hoa Kỳ, Đôn đã nói với Conein trong lúc uống rượu về sự bất bình của các tướng, đặc biệt là đối với Nhu và muốn biết Hoa Kỳ nghĩ gì về một cuộc đảo chính. Các tướng lo cho vận mạng quốc gia nhưng cũng e ngại vì họ biết rằng Nhu có thể tiêu diệt bất cứ ai trong bọn họ trong một cơn ngẫu hứng nào đó. Cho nên có bất mãn và lo ngại tới đâu họ cũng không động móng tay nếu họ nghĩ rằng Washington sẽ bỏ rơi họ.

Lou Conein nghe những lời Đôn nói, báo cáo lại cho trưởng Chi cục CIA ở đây là John Richardson, ông này lại báo cáo về Washington. Cái đêm Conein uống rượu với các tướng, John Kennedy cũng họp với các cố vấn, cũng cái đêm Quốc khánh 4 tháng Bảy ấy, để xem phải làm gì với Diệm. Cũng như mọi khi, cuộc họp không đi đến quyết định nào cả. Lời nói của Trần Văn Đôn về một cuộc đảo chính không được khuyến khích. Tình trạng căng thẳng tiếp tục tăng lên giữa Diệm và giới Phật giáo. Vụ tự thiêu đầu tiên đã gây được nhiều chú ý nên tới ngày 5 tháng Tám lại có một nhà sư khác tự thiêu, và mười một ngày sau tới vụ tự thiêu thứ ba. Rồi tới việc Diệm và Nhu tấn công các chùa Phật giáo.

Hai ngày sau vụ tấn công các chùa, Đôn lại liên lạc với Conein để thảo luận về khả năng một cuộc đảo chính. Cùng một lúc Đôn nói với Conein, Kim đi gặp Rufe Phillips. Các ông tướng nổi giận vì Nhu tìm cách đổ vấy trách nhiệm đánh phá chùa chiền cho quân đội. Kim nói rằng Nhu và bà vợ ông ta phải ra đi, và nếu Hoa Kỳ công khai chống lại Nhu thì ông và các bạn đồng nghiệp của ông sẽ thay thế họ. Nguyễn Đình Thuần, Đổng lý văn phòng của Diệm, cũng gặp Phillips và phụ họa vào việc chống Nhu.

Rufe Phillips báo cáo về Washington buổi nói chuyện của ông với Kim và Thuần, đẩy mạnh thái độ chống đối vốn đã mạnh mẽ của các thế lực Harriman-Hilsman với Diệm và Nhu, và một hôm sau - hai ngày sau khi Lodge tới Sài gòn - Harriman-Hilsman đã gửi cho Đại sứ mới đề nghị Diệm phải ra đi nếu ông ta không chịu cho ông em của ông ra đi. Về sau này, Lodge nói rằng ông hơi ngạc nhiên khi nhận được bức điện đó nhưng khi tỉnh táo trở lại. Ông đã đánh bức điện trả lời nói rằng ông đồng ý với chánh sách đó.

Sau này William Colby đã nói “Tôi cho rằng vụ đảo chính lật Diệm là sai lầm then chốt của cuộc chiến tranh. Với sự lật đổ Diệm là sự sụp đổ của Nam Việt Nam, chỉ có thể cứu vãn bằng việt Tổng thống Johnson đưa quân Mỹ sang Việt Nam”. Do đó, William Colby không muốn cho bất cứ ai trong cấp đề ra chính sách dính líu vào cuộc đảo chính, nhất là với Cabot Lodge. Nhưng ông thừa nhận tác động bức điện ngày 24 tháng Tám của Harriman-Hilsman. “Cái gay go trong bức điện này là Lodge lại coi đó là một chỉ thị tìm cách tổ chức đảo chính - và ông giao cho chi cục CIA làm việc đó”.

Chi cục CIA hỏi Colby và xếp ông là John McCone xin chỉ thị. “Câu trả lời của tôi là”, Colby nói, “các ông ở gần ngài đại sứ. Các ông phải làm đúng như lời ngài đại sứ yêu cầu. Chúng tôi không muốn CIA tự mình đứng ra ngoài. Cho dù tôi có không đồng tình với việc mà ngài đại sứ đang làm thì chi cục vẫn nằm trong bộ máy của ngài đại sứ”.

CIA triển khai chỉ thị này bằng cách bảo Lou Conein và một sĩ quan khác thúc đẩy công việc bằng cách tiếp xúc với các tướng khác ngoài Trần Văn Đôn và Lê Văn Kim. Hai tướng Trần Thiện Khiêm và Nguyễn Khánh đã từng cứu Diệm trong cuộc đảo chính năm 1960 nhưng sau đó đã ngày càng bất mãn với Diệm. Nhưng nói vậy chứ vẫn chưa có ai sẵn sàng hành động cả và Cabot Lodge chân ướt chân ráo tới Việt Nam và sẵn sàng hành động một cách quyết liệt thì lại đụng phải đặc tính của các sĩ quan Việt Nam mà những người khác đã biết từ lâu. Do dự và không dứt khoát trong việc đánh nhau với Việt Cộng, họ cũng do dự và không dứt khoát trong việc đảo chính chống Diệm. Trước khi việc này kết thúc, Cabot Lodge và Lou Conein có thừa thời giờ để tìm hiểu lẫn nhau.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM