Qua các tài liệu mà tôi chưng ra, tôi xin khẳng định sự thật về Hiệp định Geneva:
1. Tiếng nói của VM chiến thắng ĐBP vẫn chỉ là tiếng nói của một nhược quốc và đòi hỏi của VM chỉ được lắng nghe khi không đi ngược lại quyền lợi chung của năm cường quốc cách chung và nhất là của Tq theo cách riêng
2. Đây là quan hệ của người anh với đàn em. Việt Minh trong Hiệp định Geneva đã được Chu Ân Lai đại diện của Trung quốc dẫn dắt hoàn toàn và không có tiếng nói tại Hiệp định Geneva. Chu Ân Lai thủ vai chính - anh cả - trong cuộc đàm phán về Đông Dương và Việt Nam.
3. Như vậy có thể thấy được việc VNDCCH có sự giúp đỡ từ phía Trung quốc một cách ban ơn tại Hiệp định Geneva như vậy, lý do chính không nằm ngoài việc DCS TQ muốn duy trì ngay sát họ một nước đàn em có chung ý thức hệ để làm thành lũy ngăn chặn tự do ở phía nam Trung quốc. Và việc một VNDCCH suy yếu sẽ tạo nên sự phụ thuộc hoàn toàn vào Trung quốc, trở thanh phiên bang, phên dậu cho Trung quốc. Và nếu có chiến tranh vì tự do ở phía Nam thì Trung quốc sẽ chống tự do tới người Việt Nam cuối cùng.
4. Việt Minh quan ngại không mấy muốn có một hội nghị để nhằm giải quyết vấn đề Việt Nam, vì như vậy mình không còn tự quyết lấy vận nước mà sẽ phải tùy thuộc vào ý muốn của đàn anh Liên Sô và Trung Cộng. Nhưng cưỡng lại được.
5. Rốt cuộc đàn em VM phải chịu vâng theo ý kiến đàn anh Tq.
còn Quốc gia Việt Nam vẫn thể hiện được quyền tự quyết của mình bằng cách từ chối ký kết Hiệp định Geneva.
Tiếc là giờ tôi biết đến thớt này. Bạn nguyentin thì cũng đã bị phạt treo nick. Tôi dùng từ "bạn" để xưng hô bởi trong tranh luận, tính bình đẳng nên đặt lên hàng đầu.
Tài liệu viết về những diễn biến liên quan đến các bên tham dự Hội nghị Giê-ne-vơ có rất nhiều nguồn. Trong đó có The Pentagon Papers.
Mấy điểm kết luận của bạn nguyentin nêu ra tôi sẽ bàn đến theo thứ tự.
Điểm 1, khi tranh luận, ta không dùng từ ngữ miệt thị gây tranh cãi. Bạn dùng từ "nhược quốc" đối với VNDCCH là xảo ngôn. Ví dụ sau chiến tranh Thế giới lần thứ 1 và lần thứ 2, các nước được gọi là cường quốc ngồi với nhau quyết định vận mệnh Thế giới. Đặc biệt sau chiến tranh Thế giới lần thứ 2 cho đến nay, 5 nước được coi là cường quốc có ghế trong Hội đồng bảo an LHQ có quyền phủ quyết. Đó là tư duy trật tự Thế giới tồn tại trong thực tiễn. Không có nghĩa là các nước khác bị đồng nghĩa với nhược quốc.
Tư duy trật tự Thế giới của năm 45 lại tái xuất hiện trong Hội nghị Giơ-ne-vơ. Bản thân Hội nghị được lập ra do các cường quốc. Các đại diện của VN chỉ được mời đến, chứ không phải là những người đưa ra sáng kiến lập ra Hội nghị đàm phán.
Hội nghị với sự tham dự của nhiều bên có quyền lợi liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề, vậy đương nhiên sự thỏa hiệp chỉ có được khi các bên đều đồng ý nhượng bộ và có giải pháp chung chấp nhận được. Trong trường hợp đó điểm 1 bạn nguyentin "tiếng nói của một nhược quốc và đòi hỏi của VM chỉ được lắng nghe khi không đi ngược lại quyền lợi chung của năm cường quốc" trở thành sự chứng minh sai cho cái gọi là nhược quốc. Nếu VM không đồng tình thì Hội nghị về vấn đề VN không đạt được bất cứ giải pháp chính trị nào. Khi đó nguy cơ tham chiến của Mỹ là không nhỏ, so sánh với cơ hội có giải pháp chính trị và cơ hội (tuy những người lãnh đạo VNDCCH có tính đến việc Mỹ không thực hiện Tổng tuyển cử) thống nhất Đất nước bằng Tổng tuyển cử vẫn có thì giải pháp chính trị vẫn có ưu thế hơn. Và đây cũng là vấn đề liên quan đến điểm 2 của bạn nguyentin.
Điểm 2. Quan hệ đàn anh vơi đàn em là cách nói "chính trị quán trà vỉa hè". VNDCCH có quyền phủ quyết không chấp nhận giải pháp chính trị chứ không phải như bạn nguyentin nói "Việt Minh trong Hiệp định Geneva đã được Chu Ân Lai đại diện của Trung quốc dẫn dắt hoàn toàn và không có tiếng nói tại Hiệp định Geneva". Vấn đề ở chỗ bạn nguyentin không biết hoặc cố tình không biết là nếu đem so sánh cái lợi và cái hại khi không chấp nhận giải pháp chính trị thì VNDCCH chọn lựa như thế nào.
Để quyết định, những người lãnh đạo VNDCCH phải tính toán cả đến những nguy cơ, lợi ích của đồng minh, cũng như kẻ đối đầu và so sánh với mục đích của mình.
VNDCCH có lúc cần nhiều sự giúp từ phái TQ hơn, có lúc lại cần nhiều sự giúp đỡ của phía LX hơn. Quan hệ đồng minh cũng thay đổi theo từng giai đoạn, tình hình. Sự độc lập trong chiến lược của VNDCCH như thế nào trước LX và TQ thì tôi khuyên bạn nguyentin đọc "Liên bang Xô Viết và chiến tranh Việt Nam" của Gaiduk thì sẽ có kiến thức hơn.
Còn sự "độc lập" của QGVN: Trong năm 1949, tình hình Trung Quốc biến đổi nhanh, Quốc dân đảng ngày càng thất thế. Sau chiến dịch Bình-Tân từ 29/11/1948 đến 31/1/1949, quân Giải phóng giành được Bắc Bình (Bắc Kinh) và Thiên Tân, Mỹ khuyến cáo Pháp nên đi đến thỏa thuận với Bảo Đại hoặc bất cứ nhóm Quốc gia nào khác. Mùng 8/3/1949 tổng thống Pháp Auriol ký hiệp ước Elysee với Bảo Đại, tái công nhận độc lập của Việt Nam là Quốc gia Liên kết, nằm trong Liên hiệp Pháp và toàn bộ lãnh thổ Việt Nam đặt dưới sự quản lý của Chính phủ Quốc gia Việt Nam. Tuy nhiên người Pháp vẫn nắm quân sự, tài chính và ngoại giao, và lần nữa lại trì hoãn trao lại các quyền tự trị khác.
Chính tài liệu The Pentagon Papers yêu thích của bạn nguyentin phải ghi:
Vào cuối tháng 6/1949, Việt Nam chính thức thống nhất dưới quyền Bảo Đại, nhưng sự chuyển giao quyền lực xảy ra rất chậm, thường chỉ trên danh nghĩa, thực quyền không được chuyển cho người Việt Nam. Quốc gia Việt Nam trở thành ngụy trang để người Pháp tiếp tục thống trị Đông Dương.
Điểm 3. Bạn nguyentin nói chính trị mà không biết trong chính trị, người ta quyết định thì phải dựa trên tính toán chứ không phải bốc đồng. VNDCCH kí Hiệp ước Giơ-ne-vơ thì hơn hay thiệt so với không kí và đứng trước nguy cơ Mỹ tham chiến? Vậy VNDCCH kí là vì tính toán của mình hay vì lợi ích kẻ khác? Trả lời được câu này thì bạn nguyentin không có câu kết luận ngớ ngẩn "Như vậy có thể thấy được việc VNDCCH có sự giúp đỡ từ phía Trung quốc một cách ban ơn tại Hiệp định Geneva như vậy".
Bạn nguyentin cải biên lịch sử vừa vưa thôi. QGVN và VNCH liên quan gì đến tự do? Người dân VN có cơ hội nói lên tiếng nói của mình tại Tổng tuyển cử, kể nào từ chối hả bạn nguyentin.
Cái này gọi là tự do của bạn nguyentin:
Tại đô thành Sài Gòn, Ngô Đình Diệm nhận được hơn 600 ngàn phiếu bầu, trong khi khu vực này chỉ có 450 ngàn cử chi ghi tên.
Ngô Đình Diệm tiến hành chiến dịch công kích cá nhân Bảo Đại, người bị ngăn cấm tiến hành vận động bầu cử. Quân đội và cảnh sát Quốc gia tuần tra bắt tuân theo lệnh cấm các hoạt động ủng hộ Bảo Đại và chống Diệm . Ngày 6 Tháng 10 Thủ tướng Ngô Đình Diệm tuyên bố quyết định mở cuộc trưng cầu dân ý. Các cơ quan truyền thông do Thủ tướng điều khiển cũng bắt đầu vận động dân chúng sửa soạn đi bầu với những bài chỉ trích hành vi của Quốc trưởng Bảo Đại và phổ biến những câu nhắc nhở cử tri như:
"Phiếu đỏ ta bỏ vô bì (phiếu đỏ bầu cho Ngô Đình Diệm)
Phiếu xanh Bảo Đại ta thì vứt đi".
Đối với tự do cá nhân, Tổng thống Diệm phân loại dân chúng ra thành các nhóm chính trị tùy thuộc mối liên hệ của họ với Việt Minh. Vào năm 1956, VNCH lộ ra rằng, khoảng 15-20 ngàn người cộng sản bị giam giữ trong "các trại cải tạo chính trị" của mình, trong khi đó Devillers đánh giá con số 50 ngàn người
(những con số cụ thể có thể chỉ mang tính chủ quan). Chuyên gia người Anh về Việt Nam, P.J. Honey, người được Diệm mời điều tra về các trung tâm cải tạo vào năm 1959 kết luận rằng, sau khi phỏng vấn một số người nông dân Việt Nam, "sự đồng thuận trong ý kiến được bày tỏ của những người đó là phần lớn những người bị giam cầm không phải cộng sản cũng như ủng hộ cộng sản" . Tra tấn và giết hại "những người bị tình nghi cộng sản" là việc xảy ra thường ngày.
Vào cuối 1957, những tòa báo phê phán chế độ bắt đầu bị quấy rối, và vào tháng 3/1958, sau bài xã luận châm biếm, VNCH đóng cửa tòa báo lớn nhất tại Sài Gòn. Vào năm 1958, những nhà chính trị đối lập mạo hiểm bị tống tù cho việc thử lập đảng phái không được Nhu hoặc Cẩn ủy quyền, và trước 1959 tất cả các hoạt động chính trị chống đối bị bắt dừng.
Trước thu 1960, giới trí thức Nam Việt Nam bị câm về chính trị, công đoàn bị bất lực, chống đối ở dạng đảng phái không tồn tại .
Chính quyền Ngô Đình Diệm phân biệt đối xử tôn giáo. Là người theo Công giáo, Ngô Đình Diệm ưu tiên đặc quyền đặc lợi, tin dùng và nâng đỡ những người Công giáo. Vì chính sách bất công đối với những tín đồ theo đạo Phật của chính quyền dẫn đến cuộc khủng hoảng xã hội trầm trọng từ giữa năm 1963 và kết quả là cuộc đảo chính lật đổ gia đình họ Ngô.
Xung đột giữa chính quyền và Phật tử bắt đầu xảy ra ngày 8/5/1963, xuất phát từ việc cấm treo cờ Phật trong ngày lễ Phật đản trong khi trước đó cờ Va-ti-căng được treo nhân dịp ngày lễ của Thiên Chúa giáo, quân lính Ngô Đình Diệm đã nổ súng vào đám đông biểu tình tại Huế, giết chết 9 người.
Ngày 3/6/1963 cảnh sát và quân đội VNCH dội chất hóa học lên đầu những người biểu tình niệm Phật tại Huế, 67 người được đưa vào viện. 11/6/1963 Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại Sài Gòn để phản đối chính sách của chế độ Ngô Đình Diệm. Ngày 21/8/1963 Lực lượng đặc biệt của Đại tá Lê Quang Tung tấn công một loạt các chùa ở Nam Việt Nam, 1400 sư sãi bị bắt. Số người bị giết hoặc mất tích lên đến hàng trăm.
Hay bạn nguyentin "tự do" chọn ông Khánh "râu dê" nắm trọn quyền tại Miền Nam? Hay bạn nguyentin "tự do" bầu chọn Nguyễn Văn Thiệu là ứng cử viên duy nhất ứng cử Tổng thống?
Người dân ở nông thông được "tự do" bắt buộc vào các ấp chiến lược.
Hay cái gọi là Chương trình Phượng Hoàng đem đến tự do? Chương trình Phượng Hoàng từ năm 1968 đến 1975 thường được gọi bằng cái tên "chiến dịch ám sát", bị chỉ trích là một ví dụ tiêu biểu của những hành động tàn bạo xâm phạm nhân quyền mà chính quyền VNCH và CIA đã tiến hành.
Theo thống kê của Mỹ, trong những năm 1968-1972, 81.740 người được coi là Việt Cộng đã bị "vô hiệu hóa": 26.369 người bị giết, 33.358 bị bắt, 22.013 chiêu hồi .
Trong số nêu trên, không ai có thể khẳng định bao nhiêu người là Việt Cộng đích thực, bao nhiêu người là nạn nhân thường dân. Cơ sở để định đoạt một đối tượng có phải là Việt Cộng hay không rất thiếu cụ thể.
Điều tệ hại của chương trình này là có thể giết hại người tình nghi không cần xét sử, và các hình thức tra tấn có hệ thống đối với những người bị tình nghi là Việt cộng.
TQ họ làm gì thì họ cũng phải tính đến quyền lợi của họ. Vấn đề ở chỗ mục tiêu và chiến lược của họ có điểm nào đồng thuận với mục tiêu và chiến lược của ta hay không thôi.
Điểm 4. Bạn nguyentin viết hơi lủng củng "Việt Minh quan ngại không mấy muốn có một hội nghị để nhằm giải quyết vấn đề Việt Nam, vì như vậy mình không còn tự quyết lấy vận nước mà sẽ phải tùy thuộc vào ý muốn của đàn anh Liên Sô và Trung Cộng. Nhưng cưỡng lại được."
Những người lãnh đạo VM không muốn có giải pháp chính trị thì muốn có giải pháp nào để giải quyết vấn đề đuổi Pháp, đuổi Mỹ, thống nhất, độc lâp vào thời điểm đó? Bạn phán câu trên nghe chối quá!
Điểm 5. Bạn phán "Rốt cuộc đàn em VM phải chịu vâng theo ý kiến đàn anh Tq". Cái này là do bạn kém, không biết là trong tình huống không có giải pháp chính trị, chọn lựa, tính toán cái lợi hơn và cái hại hơn thì người ta phải quyết định chọn cái nào.
còn Quốc gia Việt Nam vẫn thể hiện được quyền tự quyết của mình bằng cách từ chối ký kết Hiệp định Geneva. Cái QGVN của bạn nó độc lập như thế nào thì tôi trích trên rồi. Còn QGVN không chịu kí và việc ông TT Mỹ Eisenhower đánh giá là Chủ tịch Hồ Chí Minh có thể nhận được 80% sự ủng hộ trong Tổng tuyển cử chắc cũng liên quan đến nhau bạn nguyentin nhỉ.
Còn bạn có biết về học thuyết Đô-mi-nô không? Chiến lược của Mỹ đối với Đông Dương trong thời gian đó xuất phát vì học thuyết Đô-mi-nô. Vào tháng 4/1954. Tống thống Eisenhower đưa ra lời tiên đoán nổi tiếng rằng nếu Đông Dương sụp đổ, phần còn lại của Đông Nam Á sẽ "sụp đổ rất nhanh" như "những quân bài Domino". Ông còn thêm rằng "những hậu quả có thể xảy ra của mất mát này là không thể tính được đối với thế giới tự do". Như trong hồi ký của mình, McNamara viết: Cuối cùng tôi cũng nhận ra rằng trong những năm ở Thượng viện, John F. Kennedy đã lặp lại những đánh giá của Eisenhower về Đông Nam Á. Trong bài diễn văn được công bố rộng rãi vào năm 1956, ông đã nói: "Việt Nam là hòn đá tảng của Thế giới tự do ở Đông Nam Á. Đó là con đẻ của chúng ta. Chúng ta không thể từ bỏ nó, không thể phớt lờ những nhu cầu của nó".
Bạn có biết về lá thư của Ngoại trưởng Mỹ Dulles gửi ĐS Mỹ tại Pháp không? Trong The Pentagon Papers của bạn cũng có.
Ngày hôm sau, 7/7/1954 Ngoại trưởng Mỹ Dulles gửi điện đến Đại sứ Mỹ tại Paris Dillon có đoạn viết: "Chúng ta nhận thức rõ rằng ngay cả khi Hiệp định đáp ứng cả 7 điểm cũng không thể đảm bảo rằng một ngày nào đó Đông Dương không rơi vào tay cộng sản. 7 điểm với mục đích cung cấp cơ hội tốt nhất để điều đó không xảy ra. Cái đó yêu cầu sự tuân thủ theo tiêu chí không chỉ đơn thuần trên mặt chữ mà trên tinh thần. Vì sự thật không nghi ngờ là Tổng tuyển cử có thể đồng nghĩa với thống nhất Việt Nam dưới sự lãnh đạo Hồ Chí Minh, và bởi vậy Tổng tuyển cử chỉ có thể xảy ra ở thời điểm xa nhất có thể sau hiệp định ngừng bắn và trong điều kiện không bị đe dọa, để dành cho những yếu tố dân chủ ở Miền Nam
(ông ta dùng từ "dân chủ" chỉ mấy vị tự xưng Quốc Gia) cơ hội tốt nhất".