Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 11:34:29 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Trường Sơn - Đường khát vọng  (Đọc 167530 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #200 vào lúc: 28 Tháng Năm, 2010, 03:24:39 pm »

Vượt núi

Giữa tháng 12/1968 tuyến ống hoàn thành, kho Na Tông (500m3) được xây dựng xong nhưng lúc vận hành thử rửa đường ống bằng nước lại không bơm lên được đỉnh đèo Mụ Giạ cao 700m. Lúc đó các chiến sĩ không có kinh nghiệm nên đặt hai máy bơm cùng một chỗ, đến lúc tách hai máy để bơm nối tiếp thì bơm được lên đỉnh đèo. 

Cuối tháng 12/1969, đường ống đang bơm vào kho Na Tông thì bất ngờ từng loạt bom từ B52 trút xuống đoạn đường vận tải và kho hàng của đoàn 559 tại trọng điểm.

Vệt bom cắt ngang đường ôtô đã làm vỡ đường ống bám dọc bên đường. Những ngày sau B52 tiếp tục đánh phá đêm ngày không dứt. Đơn vị công binh bạt hàng trăm khối đá tạo thành đường hào 10 km để chôn ống nhưng bom đạn vẫn bóc từng lớp núi đá nghiền thành lớp bột dày.

Đại tá Mai Trọng Phước kể: "Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Đinh Đức Thiện gọi tôi ra Hà Nội báo cáo tình hình. Cuối cùng một tuyến đường tránh được làm cách điểm bị đánh chừng 1 km. Nhưng chúng tôi vẫn phải khắc phục như thật trên tuyến bị địch đánh phá để đánh lừa địch. 

Lúc nào bị đánh thì đốt các phuy xăng dầu cho chúng tập trung lại thả bom để tuyến tránh vận hành. Vì vây, xăng đã kịp vào kho Na Tông phục vụ đợt vận tải đột kích của Đoàn 559. Đến đêm giao thừa năm Kỷ Dậu xăng vẫn còn đầy kho để chuẩn bị cho nhiệm vụ tiếp theo. Đợt bom này giúp chúng tôi rút bài học là không được làm đường ống cạnh đường ô tô để khỏi bị đánh lây".

Ngày 3/3/1969, tuyến đường ống đầu tiên vượt Trường Sơn dài 350 km đã nồi thông từ Vinh - Cổng Trời - Na Tông tới kho Ka Vat (Lào). Sáu ngày sau, 4 tiểu đoàn đường ống lần đầu tiên đã vận hành thông suốt dòng xăng từ miền Bắc đến Ka Vat đảm bảo xăng dầu kịp thời cho 5.000 xe của Đoàn 559 tiếp tục đợt vận tải đột kích mùa khô 1968-1969. Từ đây, xe chở xăng dầu của các binh trạm không phải qua trọng điểm để lấy xăng nữa.

“Ở tuyến đường ống đầu tiên, chúng ta có được kinh nghiệm vượt sông, vượt núi. Đây là những kinh nghiệm quí báu để thi công những tuyến sau này thuận lợi hơn", đại tá Phan Tử Quang (nguyên Cục trưởng Cục Xăng dầu đầu tiên của quân đội người nhận trách nhiệm xây dựng tuyến đường ống) nói.

Mồ hôi và máu

Theo đại tá Mai Trọng Phước, phương án làm đường ống xuyên từ phía đông sang tây Trường Sơn theo trục đường ngang thứ năm (đường 18) được tiến hành theo hướng từ Long Đại vào Cẩm Ly (Lệ Thủy, Quảng Bình) rồi vượt các đèo cao 400m, 700m, 900m đến bản Ra Mai gần sông Sê Băng Hiếng (Lào) đi tiếp vào bản Cò (Sa Va Na Khét, Lào) xuống Đường 9.

Tuy nhiên, sau một thời gian vận hành được 200 tấn xăng vào kho Ra Mai cấp phát cho xe vận chuyển và thả phuy theo sông cho binh trạm 9, ngày 6-9-1969 không lực Mỹ dùng B52 rải thảm cắt ngang tuyến ống trên suối Ra Vơ làm lửa bùng cháy cả hai bên suối, rồi đánh ngược theo tuyến ống 3km dọc suối vào kho Ra Mai.

Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #201 vào lúc: 28 Tháng Năm, 2010, 03:24:46 pm »

Cả khu rừng nguyên sinh rộng hàng trăm hecta bi san thành bình địa. Kho bị cháy, phần lớn bể chứa và tuyến đường ống bị tàn phá nặng nề. Một số chiến sĩ của Tiểu đoàn 668 hy sinh, lực lượng của Tiểu đoàn 337 đang nối nhau vác ống cũng bị B52 đánh vào đội hình làm hơn 70 chiến sĩ hy sinh và bị thương.

"Tuyến đi Ra Mai không khắc phục được, tôi bàn với anh Phan Tử Quang là chỉ còn cách làm theo phương án 2 đi từ đỉnh 900m vượt qua 1.001 m để vào bản Cò. Sẽ gặp nhiều khó khăn khi thi công nhưng có rừng rậm, núi cao để gây bất ngờ cho địch" - trung tướng Đồng Sĩ Nguyên nhớ lại.

Thế nhưng thách thức lớn nhất là địa hình quá hiểm trở nên không thể đưa máy bơm (nặng 2,8 tấn) vào chân đỉnh 1.001 m để bơm xăng vượt qua. Để khảo sát được tuyến này, một số chiến sĩ của đội khảo sát đã hy sinh vì bom dội, vì trượt chân xuống vực. "Để vượt từ đỉnh 900m qua đỉnh 1.001m khi không đưa được máy bơm vào chân đèo 1.001 m, ... phải bỏ van điều chỉnh áp suất ở đoạn ống đổ xuống chân đèo 900m. Vì vậy, điểm sâu nhất của đường ống giữa đỉnh 900m và  1001 m đạt áp suất rất cao (khoảng 30-35 kg/cm2) gần với giới hạn cho phép của đường ống. Với áp suất đó, dòng xăng từ đỉnh 900m đổ xuống đã vượt qua được đỉnh 1001 m vị trí có bình độ khoảng 850m".

Đúng ngày 22/12/1969, lễ khánh thành tuyến đường ống xăng dầu từ kho K200 (km 21, đường 18) vào kho K5 (nam Bản Cò) được tiến hành sau gần 10 tháng thi công. Trong thời khắc thiêng liêng này, tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên xúc động nói: "Hôm nay, chúng ta đang chứng kiến một sự kiện có ý nghĩa vô cùng lớn lao. Đoàn 559 đưa vào vận hành đoạn đầu tuyến đường ống dẫn xăng dầu chiến lược nối hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam”.

Sau buổi lễ, mọi người tận mắt chứng kiến một công trình đặc biệt: 4 vòi cùng lúc tiếp xăng cho một tiểu đoàn xe chỉ mất một giờ rưỡi, nếu cấp phát qua phuy hoặc xitéc như trước đây phải mất hơn ba giờ.

Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên nhớ lại thời khắc đó: "Tôi như thấy qua dòng xăng tuôn chảy bóng dáng hàng trăm chiến sĩ đang vượt núi, băng sông gùi cõng những ba lô xăng, can xăng năm nào? Chỉ những người trong cuộc, hoặc chứng kiến những tháng ngày đắng cay, cơ cực, khi mà một giọt xăng vào tới chiến trường được đổi bằng cả bát mồ hôi, thậm chí bằng máu, mới ý thức được tầm thế lớn lao của sự kiện đưa đường ống xăng dầu Trường Sơn vào vận hành".

Để ngụy trang, đường ống, trạm bơm và các kho được chôn ngầm hoặc làm trong hang đá. Khi vượt sông, đường ống đi ngầm nhưng có những đoạn sông, suối nhiều đá ngầm, dòng chảy mạnh phải làm cầu treo ống (sông Sêrêpôc).

Ngoài những hiểm nguy rình rập từ các loại mìn lá, mìn dây, bom bi, khi đi kiểm tra sự cố nhiều chiến sĩ đã bị ngộ độc xăng. "Có lần đi kiểm tra tuyến ống, thấy một nữ chiến sĩ cứ ngồi cười sằng sặc, chỉ huy hỏi gì cũng cười. Thì ra, đường ống bị bom bi đánh thủng, xăng phun thành sương khiến nữ chiến sĩ đó bị ngộ độc xăng. Mãi đến khi các kỹ sư tìm ra phương pháp phát hiện điểm bị sự cố từ xa mới giảm được thương vong, ngộ độc xăng cho bộ đội. Phương pháp này đã hạn chế việc huy động bộ đội chạy theo hàng trăm km trên tuyến tìm chỗ hỏng. Nhiều lúc chạy băng rừng ban đêm mà không được dùng đèn pin, thương lắm!", đại tá Mai Trọng Phước ngậm ngùi.

Còn với thiếu tướng Hồ Sỹ Hậu, đến nay vẫn không nguôi ngoai trước cái chết bi thương của đồng đội: "Khi phát hiện bom đánh đứt tuyến, anh Quy - trạm trưởng trạm bơm ở Ka Tần đã lao ra nối ống. Trong lúc thao tác bất ngờ xăng trong ống phun ra tưới khắp người, ngập đầy vũng bom dưới chân. Cùng lúc ấy một loạt bom dội tiếp, nơi anh đứng trở thành biển lửa. Đồng đội nhìn thấy nhưng không sao cứu được".
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #202 vào lúc: 28 Tháng Năm, 2010, 03:26:40 pm »

VẬN TẢI THỦY - PHƯƠNG THỨC CHI VIỆN HIỆU QUẢ TRONG CHIẾN DỊCH QUẢNG TRỊ
Thiếu tướng Hoàng Anh Tuấn


Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở Đông Dương, mặt trận giao thông vận tải là nơi đã diễn ra cuộc chiến tranh ngăn chặn và chống ngăn chặn rất quyết liệt. Tuyến vận tải chi viện chiến lược Trường Sơn sớm trở thành mục tiêu sinh tử trong mọi học thuyết chiến tranh của các đời tổng thống Mỹ. Để thắng được cuộc chiến tranh ngăn chặn của đế quốc Mỹ, Bộ đội Trường Sơn đã phải vận dụng nhiều phương thức vận tải kết hợp. Trong đó vận tải thủy trên các dòng sông dọc Trường Sơn trở thành một phương thức vận chuyển có hiệu quả góp phần làm nên những chiến công hiển hách của Đoàn 559 - Bộ đội Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh.

Dãy Trường Sơn đoạn từ tây nam Quảng Bình vào Quảng Trị có nguồn nước từ một hang sâu thẳm trào lên sông Tà Rũa, đập vào sườn đá Pha Sang, rồi tách làm hai. Một chảy xuống phía đông thành dòng Chuội Hoi qua A Choạc ra Cửa Việt một chảy lên phía tây thành dòng Sê Bang Hiên trên đất Lào. Binh trạm 27 đã sớm biết lợi dụng dòng chảy này đưa hàng đến đường số 9, góp phần chi viện cho mặt trận B4.

Đầu năm 1972, Bộ Chính trị và Quân ủy chủ trương mở cuộc tiến công xuân hè khắp chiến trường miền Nam. Hướng tiến công chiến lược mở màn là mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị. Mục tiêu chủ yếu phải diệt nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch; thu hút chủ lực quân ngụy ra chiến trường Quảng Trị, tạo điều kiện thuận lợi cho bộ đội khu V, Nam Bộ phát triển tiến công làm thay đổi thế chiến lược.

Tháng 2/1972, bộ đội ta nổ súng tấn công tuyến phòng ngự Cù Mông - Tà Lương (tây nam Trị - Thiên). Địch vội đưa quân chủ lực lên đối phó. Chớp thời cơ kẻ địch bị "đòn lửa", mặt trận B5 mở chiến dịch bắc Quảng Trị. Sư đoàn 308 tập trung đột kích phá vỡ vỏ thép tiền duyên của địch. Đợt II chiến dịch, ta đánh bật quân ngụy khỏi thị xã - Thành Cổ.

Để cứu nguy cho ngụy, đế quốc Mỹ vội huy động máy bay chiến lược, máy bay chiến thuật và pháo hạm đổ lửa thép dọc đường 9 - bắc Quảng Trị. Những trọng điểm như Cồn Tiên, Trung An, Trúc Khê, Thanh Hà,... mỗi ngày hứng chịu hàng vạn trái bom, đạn. Các mũi vận chuyển của ta bị chững lại, ảnh hưởng lớn đối với sức phát triển tiến công của quân ta.

Quân ủy Trung ương, Bộ Tồng Tư lệnh giao nhiệm vụ Bộ Tư lệnh Trường Sơn trực tiếp tổ chức bảo đảm cho chiến dịch Quảng Trị thắng lợi. Thực hiện nhiệm vụ cấp trên giao, Bộ Tư lệnh Trường Sơn lệnh cho Binh trạm 12 lật cánh xuống địa bàn Duyên Hải, làm nhiệm vụ hậu cần chiến dịch.

Ngay từ đầu, Bộ Tư lệnh xác định phải "kết hợp hai phương thức thủy - bộ" mới thắng được âm mưu và các thủ đoạn ngăn chặn của Mỹ ở mặt trận này. Đại đội ca nô trên sông Băng Phai - Na Tông được đưa xuống Vĩnh Linh - Hồ Xá, được bổ sung thêm lực lượng ca nô của Đoàn Hồng Hà tổ chức thành Tiểu đoàn 166 vận tải thủy. Tiếu đoàn được biên chế 3 đại đội xuồng máy, 1 đại đội công binh phá bom, thủy lôi, 2 đại đội dân công xếp dỡ kho và nạo vét sông. Chính ủy và Phó Chính ủy Bộ Tư Lệnh Trường Sơn luân phiên trực tiếp chỉ đạo tổ chức, hoạt động trên hướng này.

Nắm vững đường lối chiến tranh nhân dân và phương châm hoạt động vùng hậu địch, Tiểu đoàn 166 trực tiếp tổ chức thâm nhập địa bàn nằm sâu trong vùng bị tạm chiếm, khảo sát sông suối kể từ sông Bến Hải xuôi xuống phía đông hợp lưu với các dòng Kiến Giang, Rào Thanh trên đất Quảng Bình, cắt quốc lộ 1 chảy ra Cửa Tùng.

Vận tải tuyến sông này nếu trinh sát luồng lạch không kỹ, tổ chức điều khiển cung đoạn không tốt, dễ bị lạc dòng không thấy lối ra, hoặc lạc vào vùng địch.

Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #203 vào lúc: 28 Tháng Năm, 2010, 03:26:55 pm »

Mạng đường biển đơn giản hơn, chỉ chạy dọc ven biển từ Vĩnh Linh vào Gia Đẳng - Mỹ Thủy. Nhưng tuyến ven biển thường có hàng không mẫu hạm Mỹ cắm ngoài khơi trực chiến quan sát dọc biển Quảng Trị và dễ đụng tầu ngụy tuần tiễu dọc ven biển. Xuồng của ta xuất phát từ Vĩnh Thái- Vĩnh Linh phải vòng ra xa Cửa Việt - nơi đây có thủy lôi của ta chống Mỹ đổ bộ. Từ Cửa Việt vào Mỹ Thủy ven biển có nhiều cồn cát ra đến mép nước, không nắm vững dễ bị mắc cạn.

Tiểu đoàn 166 tổ chức hai tuyến vận chuyển: tuyến ven biển và tuyến sông. Đại đội 7 vận chuyển tuyến ven biển đi gọn cung, một đêm một chuyến. Từ kho hàng Vĩnh Thái chạy vào sông Gia Đẳng - Mỹ Thủy giao cho hậu cần B5. Đại đội 8, đại đội 9 vận chuyển đường sông. Tuyến này phải chia hai cung mới đảm bảo đi về gọn một đêm chuyến. cung ngoài nhận hàng ở Hồ Xá - Vĩnh Linh, chạy dọc sông Sa Lung ra sông Bến Hải vào sông Cánh Hòm rồi dọc sông Thạch Hãn tới Mai Xá thì giao nhập kho bãi.

Cung trong tiếp chuyển hàng Mai Xá, phân ra hai cánh vận tải: một cánh ngược dòng Thạch Hãn đến thị xã, Thành Cổ, cánh thứ hai đi theo sông Vĩnh Định đến Phù Liêu, Tài Lương chi viện các sư đoàn bảo vệ mặt đông Quảng Trị và chi viện hậu cần B5.

Đại đội vận tải đường sông có nhiệm vụ nhận thương binh ở khu vực thị xã và thành cổ chuyển về sau. Thương binh nhẹ thì nhập trạm quân y Mai Xá, xuồng cung ngoài vào nhận chuyển về sau Vĩnh Linh. Nếu là thương binh nặng thì chạy thẳng về bệnh viện hậu cứ ở Nông trường Quyết Thắng.

Do cung độ vận tải phức tạp như vậy, Tiểu đoàn 166 phải đặt Sở chỉ huy cơ bản tại Mai Xá, Gio Linh, chỉ huy Sở hậu cứ đặt ở rừng cao su Vĩnh Hòa, Vĩnh Linh. Có thông tin hữu tuyến và vô tuyến tiếp sức bảo đảm liên lạc, điều hành hoạt động toàn đơn vị.

Chuyến đầu tiên xuất phát tại bến phà Châu Thị Chân, cao điểm 18. Bên bờ Vĩnh Lâm, 3 xuồng Trung đội 1 chở đầy hàng bám theo chiếc xuồng gỗ không tải của dân quân Vĩnh Linh dẫn đường xuôi dòng Sa Lung tiến tới cầu Hiền Lương. Máy bay Mỹ bổ nhào phóng bom xuống sông Cam Lộ, Bến Hải. Thủy thủ vẫn bình tĩnh lái xuồng vượt qua gầm cầu Hiền Lương, ngoặt nhanh vào sông Cánh Hòm.

Đi được một quãng, xuồng bỗng khựng lại, rong rêu đóng thành mảng, ghì chặt mũi xuồng. Các thủy thủ phải nhảy xuống sông dùng dao chém, gỡ, rồi chặt tre buộc vào mũi xuồng mở máy chạy mới đẩy được những tảng rêu lâu đời ken đầy giữa lòng sông. Đội xuồng tới Bến Ngự lại bị đoạn sông bồi đúng vào lúc con nước rặc. Trời gần sáng, phải tấp vào bờ, dỡ hàng, ngụy trang, giao tổ du kích trực chiến.

Sau khi nghe báo cáo, trực tiếp kiểm tra, chỉ huy tiểu đoàn quyết định: ban ngày địch đánh không ngớt, chỉ có thể vận chuyển vào ban đêm. Đầu tuần trăng đến giữa tháng, xuồng đủ trọng tải đi suôn sẻ. Cuối tuần trăng trúng nước rặc, thuyền chở nhẹ mới nổi. Dù có nạo vét thì cát theo triều lên lại lấp đầy; ở đoạn sông Bến Ngự có đội dân công hạ thủy bớt những bao hàng đã bọc nilon, nối chúng lại thành dòng, cho xuồng chở nhẹ kéo qua 200m, lại bốc lên xuồng đi tiếp. Tập trung dân công gỡ phá hết rong rêu dọc sông Cánh Hòm và các đoạn sông Cam Lộ, Vĩnh Định ...

Bằng mọi biện pháp khắc phục, chuyến hàng chi viện đầu tiên đến Thành Cổ trót lọt. Phát tín hiệu, bộ đội giải phóng xuống nhận hàng và giao thương bệnh binh chuyển ra. Nắm vững quy luật nước các dòng sông, các đơn vị xuồng giao hai cung. Trong một tháng, đưa được hơn trăm xuồng vào Thành Cổ, chuyển thương binh về hậu cứ an toàn tuyệt đối. Cùng thời gian, tuyến ven biển, đại đội 7 cũng chuyển trót lọt 15 chuyến, giao hàng ở 3 điểm cùng quy ước.

Được chi viện theo yêu cầu, bộ đội chủ lực phối hợp lực lượng địa phương phát triển tiến công xuống phía nam. Kẻ địch vội tăng quân ứng cứu, mỗi ngày chúng huy động 200 máy bay phản lực, hơn 100 lượt máy bay chiến lược B52 đánh phá. Hạm đội 7 Mỹ với hàng chục tầu chiến các loại áp sát vùng biển Quảng Trị. Ngoài các sư đoàn bộ binh, Mỹ - ngụy đưa 4 trung đoàn tăng thiết giáp, 15 tiểu đoàn pháo tầm xa và súng phun lửa đến Quảng Trị để ngăn chặn quân giải phóng.

Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #204 vào lúc: 28 Tháng Năm, 2010, 03:27:02 pm »

Mỹ - ngụy mở chiến dịch Lam Sơn 72 - A tiến công tổng lực tái chiếm Thành Cổ. Trước cục diện chiến trường bất lợi, Quân ủy Trung ương chỉ đạo chuyển sang phòng ngụ trận địa (12-7) Bộ đội Trường Sơn phải bảo đảm cho bộ đội giữ vững thị xã - Thành Cổ.
Thời điểm này, tuyến vận tải đường biển bị tầu tuần tiễu địch săn đuổi khó phát triển, Bộ Tư Lệnh điều Đại đội 7 vào tuyến đường sông, cùng đại đội 8 và 9 chi viện Thành Cổ.

Tiểu đoàn tổ chức lại 2 cung Vĩnh Lâm - Mai Xá và Mai Xá - Thành Cổ cho phù hợp với tình hình chiến sự. Thời gian này ngoài việc phòng không bảo toàn lực lượng phương tiện, còn phải sẵn sàng chiến đấu chống biệt kích, thám báo. Cán bộ tiểu đoàn, đại đội phải trực tiếp chỉ huy đội hình hành tiến.

Cùng với lực lượng vận tải của B5, lực lượng của Quảng Trị lập các đội hỗ trợ, cấp cứu trên đường và ở các trọng điểm. Thủy thủ phải chủ động, tích cực vận dụng mọi biện pháp nghi trang che mắt địch (nilon xanh nước biển phủ lên xuồng, cắm lá điệp với cây ven sông); chuẩn bị sẵn công sự giấu xuồng ven sông...

Việc cải tiến tổ chức thích nghi hoàn cảnh đã nhanh chóng phát huy công suất phương tiện. Gặp lúc địch bị hút vào các trận đột kích của quân ta, các đội xuồng tăng tốc chạy thẳng từ Vĩnh Lâm vào Thành Cổ. Trường hợp địch uy hiếp mạnh khu vực Triệu Phong, Ái Tử thì lập chân hàng ở Mai Xá. Dùng đội hình nhỏ, thiện chiến chạy cung Mai Xá - Thành Cổ... Với cách tổ chức linh hoạt như trên các trung đội đều khép kín gọn cung một đêm chuyến. Bảo đảm duy trì sức chiến đấu cho quân giải phóng. Trong một tuần lễ, tiểu đoàn xuồng đã chở bổ sung cho khu vực hơn 1.000 tay súng, chuyển về sau hơn 300 thương bình.

Tháng 9, lũ Trường Sơn vào thời điểm cực đại, ào ạt đồ xuống dải đất ven biển. Thị xã - Thành Cổ bị cô lập trong biển lũ. Giặc Mỹ lợi dụng thời tiết này huy động pháo hạm, xe tăng lội nước từ năm mũi tiến vào Thành Cổ. Bộ đội ta trong Thành Cổ nhờ được tiếp tế mạnh đã kịp tổ chức thành các tuyến hỏa lực B40, DKZ, B72 diệt hơn 20 xe tăng thiết giáp...

Đội hình địch rối loạn phải lùi ra gọi máy bay lao tới đổ bom như mưa rào. Pháo bầy từ các hạm tầu đổ hàng vạn viên đạn pháo cỡ lớn vào trung tâm Thành Cổ. Hai ngày đêm liên tiếp, địch trút hàng vạn quả bom phá, bom cháy xuống mảnh đất chừng 6 cây số vuông... Máy bay B52 ném bom rải thảm khắp vùng ngoại ô, hòng cắt đứt mọi sự chi viện của ta cho Thành Cổ.

Do bị địch đánh phá ngăn chặn ác liệt, bộ đội ta bị thương vong nặng. Có những thời điểm chốt đã hy sinh đến người cuối cùng. Sau 81 ngày đêm, hai đại đội bộ binh của ta trong Thành Cổ chỉ còn 25 chiến sĩ bị thương. Trước tình hình đó Bộ Tư lệnh mặt trận quyết định rút lực lượng cố thủ trong Thành Cổ ra ngoài. Trung đoàn 48 cùng các trung đoàn 95, 64 lập tuyến ngăn chặn ở bắc sông Thạch Hãn, vây hãm lại địch trong Thành Cổ.

Sau khi quân ta rút khỏi Thành Cổ, Tiểu đoàn 166 vận tải thủy được lệnh chuyển nhiệm vụ tiếp tế cho các tuyến trận địa trải rộng trên nhiều khu vực. Tiểu đoàn nhanh chóng lập các phân đội nhỏ, phối hợp với thuyền của nhân dân và du kích địa phương, len lỏi theo từng lạch sông (Vĩnh Phước, Ái Tử, Vĩnh Đinh, Nhan Biểu, Hói Mới, Sông Nhùng...) chở vũ khí, lương thực, thuốc men đến tìm đơn vị ...

Được chi viện kịp thời, bộ đội ta đánh bật kẻ địch khỏi Nhan Biểu, Ái Tử, chặn địch ở Tích Tường, Như Lệ - Tây Nam thị xã Quảng Trị ... Ta chuyển sang thế bao vây, chia cắt địch, tiêu diệt từng bộ phận sinh lực địch ...

Lúc này, Tiểu đoàn 166 tuy vẫn đảm nhiệm chức trách chi viện chiến dịch nhưng trong hoạt động phải làm cả nhiệm vụ bảo đảm chiến đấu. Đại bộ phận lực lượng vận tải suốt ngày đêm phân tán từng xuồng len lỏi đến từng khu trận địa. Do mục tiêu phục vụ và cách thức hoạt động thay đổi nên việc phòng chống địch cũng phức tạp hơn nhưng đội quân vận tải thủy đã khắc phục, vượt mọi thủ đoạn hiểm độc của địch, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo đảm cho bộ đội ta tiến hành thắng lợi các loại hình tác chiến.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #205 vào lúc: 30 Tháng Năm, 2010, 05:05:30 pm »

TÔI VẪN YÊU ANH NHƯ BUỔI ẤY...
Vũ Cao Phan

“Trường Sơn không chỉ là một dãy núi mà là những cánh quân đông đảo hàng triệu người ra trận. Tôi gắn bó máu thịt với Trươgng Sơn là có thể nói, Trường Sơn đã đẻ ra nhà thơ Phạm Tiến Duật, Trước đây, bây giờ và sau này nếu tôi viết được gì neo lại trong lòng bạn đọc chính là nhờ những năm tháng Trường Sơn" (“Đi đọc cành đổng thơ” Trịnh Thanh Sơn Nxb. Hội Nhà văn)
Nhà thơ Phạm Tiến Duật


Đầu năm 1970, xong khoá huấn luyện, đơn vị tôi lên đường vào Nam. Xe lửa một mạch từ Đáp Cầu đến Vinh rồi chuyển ô tô tải quân sự, đi tiếp. Cứ thế, ngày hành quân, đêm nghỉ. Cuối đất Quảng Bình là cuộc vượt tuyến xuyên rừng bằng đôi chân: ít đạn bom và pháo sáng dọc đường hơn, nhưng nhọc nhằn hơn. Đang lúc chưa biết đích đến là mặt trận nào và tuỳ theo đó có khi biết đến vài tháng không chừng thì chưa đến ngày thứ 10 của cuộc hành quân chúng tôi dừng lại, cả tiểu đoàn tất bật từ quân tới lính được lệnh bổ sung cho một đơn vị mới được thành lập trên sườn Trường Sơn: Binh trạm 27.

- Đây thuộc đường dây 559?

- Phải. 

- Có nhà thơ Phạm Tiến Duật?

- Phải. Mấy ngày trước vừa qua đây. Về Bộ Tư lệnh rồi.

- Bộ Tư lệnh ở đâu?

- Ở đâu? Gọi thử vào cái hữu tuyến này xem...

Vậy rồi cũng phải mất vài hôm, tôi mới liên lạc và làm quen được với con người có cái tên khá trúc trắc ấy qua đường điện thoại. Tôi kể rằng chúng tôi yêu anh đến thế nào, rằng vào cái buổi tối trước ngày lên đường, tôi tập hợp đại đội lại để đọc lên những bài thơ đầy cảm xúc lính của anh thì mới hay, những Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây và Tiểu đội Xe không kính, những Lửa đèn với Gửi em cô thanh niên xung phong ấy đã nằm cả trong hành trình những người lính trẻ của mình rồi; rằng tôi cảm thấy may mắn và tự hào được ở cùng một đơn vị với anh đấy, anh Duật ạ...

Giữa bom đạn chiến trường, cuộc làm quen văn chương hơi vội vàng rối rít ấy dường như lạc lõng? Có thể, nhưng không phải không có nguyên nhân, bạn trẻ ạ. Nếu tôi nói rằng vào cái thời điểm ấy, Phạm Tiến Duật và những chùm thơ Trường Sơn mới xuất hiện của anh trên báo Văn nghệ đang bắt đầu làm nên một hiện tượng độc đáo của thơ thời chống Mỹ, cứu nước thì có lẽ còn chưa nói gì. Tôi phải nói thế này, hãy tin đi: bạn đang lim dim tỉnh thức giữa trưa hè phải không? Thì đột ngột ào xuống cả thác nước. Cảm giác đầu tiên là ngạt thở, cảm giác thứ hai là trời sụp, và thứ ba, rồi mới đến với bạn cái bất ngờ sung sướng được hưởng thụ. Và còn hơn cả một thác nước đột ngột trưa hè ấy chứ: bạn không chỉ một lần duy nhất hưởng thụ mà có quyền gặm nhấm nó hoài hoài... Đấy, thơ Phạm Tiến Duật đã đến với chúng tôi như thế

Vâng, tưởng như cùng đứng lại trong quân khu Trường Sơn (đoàn 559 còn được gọi như vậy), lại đã có phút làm quen qua sóng điện ngay từ buổi đầu ấy, chúng tôi sẽ có rất nhiều cơ hội để mà gặp nhau. Vậy mà phải đến 7, 8 năm sau, khi chiến tranh đã đi qua được gần 2 năm rồi, tôi và Phạm Tiến Duật mới có dịp được tương diện tại thủ đô Hà Nội. Chiến tranh mà, biết làm sao được. Mà Trường Sơn thì dằng dặc ôm cả chiến trường.

Những năm ấy chúng tôi đã có không ít dịp “đuổi" mà chẳng có khi nào kịp "bắt” được nhau. Trong chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, tôi từ đường 16, anh từ đường 128, hẹn sẽ hợp quân ở Sêpôn, rồi cũng không. Sau chiến dịch, miền Bắc gửi vào một đoàn văn công. Duật gọi điện như dao chém đá nhắn đợi anh sẽ tháp tùng đoàn từ Bộ Tư lệnh Quân khu vào chỗ tôi mà cũng trượt nốt. Anh phải vội đi sư đoàn bộ binh 968, không kịp cả một lời nói đỡ.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #206 vào lúc: 30 Tháng Năm, 2010, 05:06:19 pm »

Nhưng đoàn văn công thì vẫn vào, và cô nghệ sĩ múa Cánh chim mặt trời xinh nhất đoàn đang làm tôi lấn bấn lúc ấy: "Có lẽ nào anh lại..." thì đã kịp khoe mấy câu thơ anh ghi tặng nàng trong sổ tay: Em cầm hoa ấy hoa gì?/ Cái cánh thì trắng cái thuỳ thì xanh? Phải gì hoa của riêng anh..." và giải thích: em bị kẹp ngón tay phải cuốn băng, Xanh mê-ti-len (thuốc sát trùng) thấm từ trong ra... Tôi đã xin phép nàng được thêm vào một câu cho trọn bài: thưa rằng hoa ấy đã dành anh P..." và dặn khi trở ra "nhớ đưa cho ông Duật coi". Đến giờ tôi vẫn chưa có dịp hỏi lại...

Không thể không thừa nhận Phạm Tiến Duật có tài gì đó hơi đồng bóng trong tính cách. Anh uyên bác, sắc sảo nhưng cũng hồn nhiên, dễ dãi, ai nói gì cũng tin, hào phóng ban tặng lời khen, thoải mái bình luận cả những lĩnh vực còn thiếu thông tin. Nếu cần tìm ra nhược điểm, theo tôi đây chính là nhược điểm của anh. Nó làm hại anh ít nhiều và thường gây những "sự cố" nho nhỏ. Nhưng anh không nhận ra cũng chính từ sự hồn nhiên ấy. Khoảng mười năm sau Đổi Mới, có lần tôi phê bình cái “chính trị - tư tưởng” của anh bò hơi chậm, đến bây giờ mà vẫn viết "đây là vấn đề ai thắng ai", anh đã cự lại kịch liệt. Nhưng ngay tối đó anh lại gọi cho tôi: "ừ mày đúng...".

Duật luôn chỉn chu, râu tóc nhãn nhụi, ngồi lên xe máy chỉ có một kiểu nét mặt thẳng về phía trước quan sát đảm bảo an toàn giao thông nhưng lại ít chú ý đến mình, ít lo cho bản thân. Hồi anh còn tá túc ở số 9, ngõ Yên Thế - gầm chạn cả nghĩa đen lẫn nghiã bóng, khách văn lại chơi vào cỡ 9 giờ tối thường chứng kiến màn gián lao vù vù như trực thăng đi càn, Duật vẫn thản nhiên gạt những chú gián "hạ cánh" xuống mặt mình để tiếp tục câu chuyện. Đồ đạc có giá duy nhất trong nhà lúc ấy là bộ xa-lông bằng gỗ xà cừ đường năm mà Tào Mạt đem đến.

Biết anh chưa có nhà cửa, ông Lê Đức Thọ thân gửi một lá thư nhờ Hà Nội lưu tâm đến chỗ ở cho gia đình một nhân tài. Duật cũng chẳng nệ vào đó để xin chỗ thuận tiện hơn (dù không khó); anh vui vẻ ngày ngày leo lên tầng 5 - tầng cao nhất của ngôi nhà mới được xây dựng ở Trung Tự là người ta phân cho: "Vậy là quá tốt rồi!".

Nhưng Duật lại thương người, yêu bạn. Cái vụ "Vua lốp" dạo trước, ngang trái quá nhà thơ bỏ đi làm phóng sự, giật lên tiếng chuông về tình cảnh khốn đốn của “vua" cùng những bất cập ngổn ngang một thời kỳ chuyển đổi. Thương các nữ đồng đội Trường Sơn thuở nào giờ đây vào nương cửa Phật, anh đi thăm, vừa đi vừa khóc để viết nên Tiếng bom và tiếng chuông chùa. Còn với bạn văn, Duật luôn sẵn lòng và nhiệt tình với những gì mình có thể.

Hầu như ai nhờ tựa hoặc bạt cho những tập thơ thậm chí tự xuất bản - anh cũng gắng giúp. Cái giỏi (và thiện chí) là Phạm Tiến Duật luôn khều ra được những sở trường lấp ló đặng làm nhẹ đi những sở đoản nhiều khi lại là "trường đằng đẵng" của tác phẩm và tác giả. Chẳng ngại mất danh, ông nói họ đang tập bước ấy mà, đừng làm họ ngã.

Một lần - cái dịp anh đang làm Phó Chủ tịch Hội đồng thơ - một bạn viết có tuổi, tóc phất phơ và đầu bóng loáng, mặt mày đỏ tía vì men rượu đến mắng anh sa sả vì vụ lại để ông ta trượt "cái hội viên". Duật rót nước mời, nhẹ nhàng giảng giải về cái chân của lý nằm ở đâu. Người đi rồi, anh ngồi thừ một lúc rồi bảo, người ta cứ nghĩ cái nọ tức là cái kia. Buồn thật.

Anh cũng chẳng ngại khen truyện ngắn và ba thứ linh tinh mà tôi viết ra khiến nhiều lúc tôi phải bối rối. Nhưng anh cũng trách tôi lười viết, lười làm bạn văn chương với anh vì không chịu... làm đơn xin vào Hội.

25 năm trước tôi và Duật cùng bắt tay viết một kịch bản truyền hình về một nơi máu lửa của một thời máu lửa của hai đứa, tên Đường Trường Sơn, những người lính nhớ lại. Không phải tài liệu không phải phim truyện, không theo chiều dọc thời gian, một thứ hồi tưởng chủ đề, dự kiến 10 tập. Vì một vài lý do, việc lúc ấy không thành khiến chúng tôi ngẩn ngơ.

Rồi dòng thời gian cứ băng băng chảy, chốc đã đứng trước lễ kỷ niệm 50 năm con đường anh hùng. Mới rồi chúng tôi bàn nhau tìm cách khởi động lại dự án. Đang tính tới những khó khăn phải khắc phục thì đứng trước khó khăn lớn nhất: sức khoẻ của anh. Gặp nhau trong bệnh viện, chúng tôi tự nhiên thôi nhắc tới việc này ...
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #207 vào lúc: 30 Tháng Năm, 2010, 05:07:07 pm »

Nếu có một điều gì đáng tiếc ở Phạm Tiến Duật thì có lẽ là đây: anh đã leo qua đỉnh văn chương của mình quá sớm. Không phải đến bây giờ mà từ hơn 20 năm trước tôi đã cảnh báo anh. Duật không nói gì nhưng có vẻ không đồng ý. Rồi 10 năm sau đó khi tôi thất vọng khẳng định thì anh vẫn giữ một thái độ như vậy. Thôi, dù bởi tại "sự cố khách quan" nào hay bởi tại chính anh, ta tiếc nhưng không thể trách Phạm Tiến Duật. Tinh anh đâu có thể hoài hoài phát tiết và Duật ơi, đỉnh của anh đâu vậy?

Đỉnh của anh là Trường Sơn? Từ vời vợi nơi này anh được ngắm nhìn Tổ quốc gấm vóc và tự hào đã góp phần mình cho giang sơn mãi đẹp và bền vững thời chẳng sướng sao!

Mười năm với con đường máu lửa, 10 năm đi khắp Trường Sơn với khẩu súng là ngòi bút - thơ, Phạm Tiến Duật đã để lại tất cả những gì cần để lại. Lính Trường Sơn không chỉ bộ đội vận tải mà cả công binh, bộ binh, pháo binh, giao liên ... đều biết và yêu quý anh. Với họ, Phạm Tiến Duật là một cái tên quen thuộc và ấn tượng như ngã ba Dân Chủ, trong điểm Cha Lì, Bản Đông, Tha Mé, Mường Noọng... Thậm chí, nơi Duật ngồi ngẫu hứng ca lên:

“Lại đi, lại đi, tình đời tha thiết thể
Chết cỏ đường người, trai gái mến thương nhau...”


Rồi cũng được định danh là "đá anh Duật". Năm 1973 từ Trường Sơn tôi có gửi cho báo Văn nghệ một chùm truyện ngắn (rất tiếc, nhờ người đem đến tận 17 Trần Quốc Toản mà sau này toà soạn bảo không nhận được) trong đó có một truyện (tôi rất tâm đắc) về người lính lái xe và thơ Phạm Tiến Duật. Tôi có để tình huống đưa đẩy tới nhận thức ước lệ: nếu trong chiến tranh Vệ quốc của Liên Xô, mỗi bài báo của Lia Erenbua được đánh giá với sức công phá của một sư đoàn bộ binh thì ở đây, mỗi bài thơ của Duật mang năng lượng của một tiểu đoàn xe vận tải chiến lược.

Vâng, giá mà bạn được chứng kiến những gì người lính Trường Sơn nói về anh, háo hức những câu thơ, lời hát mà mỗi lần ngân lên là mỗi lần thêm lửa; giá mà bạn từng nghe người chỉ huy cao nhất căn dặn phải bảo vệ anh như thế nào mỗi khi xuất kích cùng bộ đội vận tải chiến lược ...

Sinh ra từ đồi rừng Phú Thọ, Duật từng viết: "Từ cây ta lại về cây/ Từ rừng lại trở về đây với rừng"; và cũng từng nói: "Trường Sơn không chỉ là một dãy núi mà là những cánh quân đông đảo hàng triệu người ra trận. Tôi gắn bó máu thịt với Trường Sơn và có thể nói, Trường Sơn đã đẻ ra nhà thơ Phạm Tiến Duật. Trước đây bây giờ và sau này nếu tôi viết được gì neo lại trong lòng bạn đọc chính là nhờ những năm tháng Trường Sơn" (Thanh Thanh Sơn: Đi dọc cánh đồng thơ, Nxb Hội Nhà văn).

Nhưng Duật đâu chỉ khu trú ở Trường Sơn. Nói về sự được yêu thích và tính phổ biến thì thơ Phạm Tiến Duật của thời chống Mỹ có thể so sánh với thơ Tố Hữu của thời kháng Pháp, nhưng hiệu ứng tích cực và sức lan toả, công bằng mà nói thì hơn bởi các phương tiện truyền thông báo chí thời này đã khá hơn rất nhiều, chưa nói thơ anh còn được phổ nhạc.

Không thể không nhớ lại những năm khói lửa, thơ của Duật được đọc lên trong các giảng đường, trong những chặng nghỉ hành quân, trong rủ rỉ đôi lứa bên nhau trước giờ người con trai lên đường ra trận. Thơ của anh được hào hứng đón nhận vì nó lạ về thi pháp, nó quá đẹp mà giản dị về ngôn từ, rất giàu cảm xúc và hình tượng một thời chiến tranh giải phóng, nó tuyên truyền đấy mà không có tự thân mục đích tuyên truyền. Vâng, vì nó được sinh ra từ cảm thức quần chúng, cảm thức lính, cảm thức thế hệ.

Chính vì thế, Tư lệnh Bộ đội 559 Đồng Sĩ Nguyên đã nhiều lần được nhắc đến với những lời đánh giá sâu sắc về Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây và coi đó là bản quân ca trữ tình của Bộ đội Trường Sơn. Và cũng chính vì thế, Lửa đèn đã trở thành cổ điển ngay cả khi tác giả vẫn đang còn sáng tác. Nhạc sĩ Huy Loan lấy cảm hứng từ Lửa đèn để viết nên một giao hưởng thơ 3 chương và Dàn nhạc Giao hưởng Quốc gia đã trình diễn ở Nhà hát Lớn. Một nhà làm phim nước ngoài, Evann Ham, có lần nói với tôi anh rất muốn làm một bộ phim dựa theo Lửa đèn. Việc Evann còn đang dự tính thì hãng truyền hình ABC (Aus-tra-lia), trong loạt phim The Vietnam Peace (Hòa bình cho Việt Nam), đã dựng một trường đoạn nhiều cảm xúc nương vào Gửi em cô thanh niên xung phong, Tiểu đội xe không kính, Vòng trắng.

Tại sao không có ai nghĩ ra việc tặng Huân chương cho những nhà thơ chỉ do những dòng thơ cống hiến của họ?

Và với tôi dù có thể các Hội đồng quan phương có cách nhìn của họ, tôi nhìn vào hiệu ứng tích cực của sự vật để giơ tay xin dành cho Phạm Tiến Duật phần thưởng cao quý nhất mà anh xứng đáng được hưởng. Hỡi những người yêu thơ và những bạn cùng thời, các bạn có đồng ý với tôi?

Nhà thơ Phạm Tiến Duật sinh ngày 14 tháng 1 năm 1941. Quê quán: Thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ. Năm 1963, sau khi tốt nghiệp Đại học Sư phạm Văn khoa, nhà thơ Phạm Tiến Duật gia nhập quân đội. Sống và viết trong chiến tranh trên đường mòn Hồ Chí Minh. Từng là Phó Trưởng ban Đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam, Tổng Biên tập tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam (7/2001-6/2006).

Tác phẩm chính: Vầng trăng quầng lửa (Thơ, 1970); Thơ một chặng đường (tập tuyển, 1994); Ở hai đầu núi (Thơ 1981); Vầng trăng và những quầng lửa (Thơ, 1983); Thơ một chặng đường (Tập tuyển, 1994); Nhóm lứa (Thơ, 1996); Tiếng bom và tiếng chuông chùa (Trường ca, 2000); Vừa làm vừa nghĩ (2003).
Nhà thơ được nhận giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật, đợt I, 2001.

Anh mất ngày 04 tháng 12 năm 2007.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #208 vào lúc: 30 Tháng Năm, 2010, 05:08:29 pm »

NƠI BẮT ĐẦU CON ĐƯỜNG LỊCH SỬ ẤY
Nguyễn Khắc Phê


Con đường lịch sử ấy - "Đường mòn Hồ Chí Minh", nay đã thành Đại lộ Hồ Chí Minh.

Đã có biết bao nhiêu sách báo nói đến con đường lịch sử ấy rồi. Nhưng với mỗi thời gian khác nhau, với cách tìm hiểu và lấy tài liệu khác nhau, người ta lại hình dung con đường lịch sử ấy một cách khác nhau.

Những người khai sinh "Đoàn 559" tròn 50 năm trước, đứng đầu là tướng Võ Bẩm thì trong tâm tưởng hẳn là luôn nghĩ về "con đường mòn" theo đúng nghĩa đen của từ này - một lối đi nhỏ len lỏi giữa lau lách và rừng rậm Trường Sơn mà miền Bắc dùng để chi viện cho cuộc chiến đấu ở miền Nam, với cột số "O" ở Bến Tắt, thượng nguồn sông Hiền Lương.

Những ai là lính của Binh đoàn 559 về sau, hoặc từng đi qua Trường Sơn trong kháng chiến chống Mỹ thì lại nghĩ đó là cả một hệ thống đường chiến lược ngang dọc trên dãy Trường Sơn, một mạng lưới đường mỗi ngày một phát triển và biến hóa, với cột km số "O" ở Tân Kỳ, Nghệ An...

Với riêng tôi, đã nhiều năm cứ thầm nghĩ là mình có may mắn được ở nơi bắt đầu con đường lịch sử ấy. Đó là đoạn đường qua Ca Tang, Khe Ve lên đèo Mụ Giạ. Từ hơn một thế kỷ trước, năm 1885, Tôn Thất Thuyết và những người Việt Nam yêu nước không chịu làm tôi tớ cho giặc Pháp là đội quân đã khai sinh ra con đường này. Một tài liệu viết năm 1931 đã thuật lại những trận vua tôi Hàm Nghi đánh Tây quanh vùng Khe Ve:

"...Vua lần ra xóm Khe Ve và sai quân lính đắp lũy đất độ hai thước tây. Bấy giờ các làng đem lương thực đến, vua cấp tiền cho. Cách một tháng, Tây ở Bãi Đức kéo vào. Hai bên đánh nhau ngót một ngày ở cửa khe. Vì đường hiểm, Tây dàn quân không được, bị thua phải kéo về Bát Đức..."

Năm 1953, trong kháng chiến chống Pháp, đây là con đường quân ta tiến lên mở mặt trận Trung Lào phối hợp với chiến dịch Điện Biên. Trong những năm tháng bắt đầu cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, trên hệ thống truyền thông quốc tế, ngày nào cũng có tin không lực Mỹ ném bom vào đoạn đầu mối "đường mòn Hồ Chí Minh" này.

Ngày ấy, những tuyến đường ngang vượt Trường Sơn như đường 20 bên phà Xuân Sơn (còn gọi là đường Quyết thắng"), đường 10 bến phà Long Đại, đường 16 qua Dốc Khỉ mới chỉ những người khảo sát biết đến. Ngày ấy, những đoàn xe, pháo vượt Trường Sơn tiến vào mặt trận chỉ bằng một con đường duy nhất: đường 12A qua đèo Mụ Giạ. Vì thế, đoạn đường hiểm yếu ấy cũng là nơi hội tụ các anh hùng: Nguyễn Viết Xuân, Nguyễn Thị Kim Huế, Tiểu đoàn 2 công binh, Đại đội Thanh niên xung phong 759 ... Chính nhờ cuộc sống ấy mà tôi đã viết được gần một ngàn trang sách (Tập ký sự Vì sự sống con đường - 1968; tiểu thuyết Đường giáp mặt trận - 1976; tiểu thuyết Chỗ đứng người kỹ sư - 1980) ...

Năm 1977, có dịp đi trên đoạn đường mới rải nhựa rộng thênh thang dọc theo triền phía đông Trường Sơn thuộc tỉnh Bình Trị Thiên, tôi lại thấy bên cầu Đakrông (Quảng Trị) cột cây số dáng thanh mảnh, phía trên nở xòe ra như cánh chim, in rõ dòng chữ "Đại lộ Hồ Chí Minh - Km 1".

Còn nhớ, buổi sáng ấy, nhìn hai câu thơ của nhà thơ Tố Hữu nổi bật trên vách đá nâu đầu cầu Đak Rông: "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước - Mà lòng phơi phới dậy tương lai", lòng tôi náo nức nghĩ đến ngày con đường lớn trên triền phía Tây Tổ quốc, con đường mở ra vì tương lai Tổ quốc sẽ thông suốt từ Bắc chí Nam...

Đến hôm nay thì dự án nối dài đường Hồ Chí Minh lên tận Cao Bằng đang được triển khai và một ngày không xa nữa, cột Km số "O" - nơi bắt đầu con đường lịch sử, sẽ được đặt trước cửa hang Pác Bó, địa chỉ Đỏ ghi những bước chân đầu tiên của nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ quốc vào đêm trước Mùa thu Cách mạng...

Thực ra, cuộc "tranh cãi" về nơi bắt đầu, nơi khởi phát "Đường Hồ Chí Minh" trên mặt đất không quan trọng, vì mỗi nơi đều có giá trị lịch sử của nó; lại còn “Đường Hồ Chí Minh" trên biển thiên biến vạn hóa, các cột km biết cắm vào đâu?. Điều có ý nghĩa hơn là tìm về cội nguồn sức mạnh tinh thần - nơi bắt đầu thực sự của những con đường đã làm nên kỳ tích trong lịch sử dân tộc ta.

Nơi bắt đầu ấy chính là tinh thần yêu nước, là ý chí quật cường, "quyết không chịu làm nô lệ cho người mãi thế", như lời Nguyễn Ái Quốc đã viết trong Thư gửi đồng bào năm 1941 tại Pác Bó, sau Hội nghị Trung ương 8 quyết định đường lối giải phóng dân tộc, thành lập Mặt trận Việt Minh. Với Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh, tròn 90 năm trước, tinh thần ấy đã tỏa sáng và được thế giới biết đến. Đó là năm 1919, tại Pa ri, anh thanh niên Nguyễn Tất Thành đã thay mặt nhóm người Việt Nam yêu nước tại Pháp, gửi đến Hội nghị Vécxây Bản yêu sách của nhân dân Việt Nam đòi chính phủ Pháp và các nước Đồng minh phải thừa nhận các quyền tự do dân chủ và quyền bình đẳng của nhân dân Việt Nam.

Tinh thần ấy đã được hun đúc nên từ biết bao anh hùng liệt sĩ trong quá trình dựng nước và giữ nước, trong đó anh hùng dân tộc Quang Trung-Nguyễn Huệ, vào một ngày Xuân 220 năm trước (1789), đã kéo đại quân tiến vào Thăng Long, sau khi quét sạch 20 vạn quân xâm lược nhà Thanh. Chợt nghĩ: Đại lộ Hồ Chí Minh hôm nay có thể được khai phá bởi đoàn voi chiến, ngựa chiến của Nguyễn Huệ hành quân thần tốc theo con đường "thượng đạo" ra Bắc diệt quân xâm lược năm xưa?...

50 năm ... 90 năm ... 220 năm ... và xa hơn nữa, trong trường tồn lịch sử dân tộc, tinh thần yêu nước, ý chí quật cường của người dân Việt đã xây đắp nên CON ĐƯỜNG VIỆT NAM không hề khuất phục trước cường quyền. Hôm qua đã như thế, hôm nay và ngày mai, cho dù "toàn cầu hoá” và thế giới đảo lộn, những con dân nước Việt vẫn nhất quyết đi trọn con đường mà tiền nhân đã đặt những bước khởi đầu vẻ vang.

Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #209 vào lúc: 30 Tháng Năm, 2010, 05:09:52 pm »

GIÓ RỪNG VÀ LỬA BẾP
Chu Lai


Rời khỏi lửa bếp vào rừng chỉ cần ba năm mà chưa ngã xuống là người lính mậc nhiên đánh mất khá nhiều những khái niệm cơ bản của thủ tục đời thường. Trận mạc liên miên. Sáng rừng, trưa rừng, tối rừng, đêm rừng và sáng mai tinh dậy, chao ôi, lại vẫn rừng. Rừng xanh thế mà rờn rợn tâm hồn. Xanh như không thể xanh hơn được nữa. Trong màu xanh có màu đỏ. Trong gió xanh có cả hương vị diêm sinh, xương thịt ngào vào... Gió rừng và lửa bếp.

Thử hỏi có cuộc chiến tranh nào lại dằng dặc kéo dài như trên mảnh đất quá chừng bão giông và nhiều tần tảo này ? Mảnh đất mỏng manh như dễ gãy dễ bẻ, như dáng hình của người mẹ ngàn năm dưới căng thân mình gầy guộc ra đại dương để bền bỉ chở che cho con cháu, gia đình được bình an, yên ả.

Nhưng làm sao yên ả khi hình sông thế núi, con người non nước này cứ như có một sự lựa chọn vô hình và hữu hình nào đó phải luôn luôn đứng ở tuyến đầu chống chọi lại cái ác, cái phi nhân từ khắp bốn phương tràn tới.

Bốn ngàn năm. Lịch sử đa đoan, dân tộc đa đoan, phận số con người cũng quá đỗi đa đoan. Và sức chịu đựng phi thường của con người cũng bật lên, phát lộ từ cái đa đoan không muốn có nhưng lại vẫn có như một nghiệp chướng đó. Thăm thẳm chiều sâu. Ngút ngàn chiều dài. Chịu đựng bền dai, lặng lẽ như cỏ cây như nắng gió, như mùi rơm rạ tro trấu vấn vương chung thuỷ mùa lại mùa trên những cánh đồng im ắng.

Chiếc mũ ca lô đội lệch, chiếc mũ cối bằng bặn, chiếc mũ tai bèo mềm mại, chiếc mũ ke pi kiêu hãnh... Hành trình của người lính và hành trình của hình hài những chiếc mũ. Còn có chiếc mũ nào nữa đang chờ người lính ở muôn chặng đường phía trước? Chiến tranh hay hoà bình, bom đạn hay dựng xây?

Làn gió hội nhập đang lồng lộng thổi vào, réo sôi lên lách khắp các bản làng ngõ phố. Có cả những ngọn gió thơm thảo và có cả những nhánh gió màu đen. Các nhà lãnh đạo quốc gia thâm trầm đi ký những hợp đồng thế kỷ với các nước làm ăn đối tác bạn bè. Nhưng người lính chỉ có một hợp đồng duy nhất đã ký với nhân dân, một hợp đồng máu, vĩnh cửu, bất biến không thay đổi trước mọi thời tiết thiên nhiên, thời tiết lòng người.

Gió rừng và lửa bếp!

Gió rừng là một đời trai thấm nhuộm. Lửa bếp là khát vọng cháy nồng sau mỗi cuộc trường chinh. Sự băng mình vào trận như có hồn phách lịch sử thổi thốc tháo ở đằng sau. Sự quên thân cho nghĩa cả nơi sa trường tưởng như có một thoáng tinh thần hảo hớn trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương ẩn vào.

Phải chăng vì thế mà cảm hứng hiến dâng rất đỗi tự nhiên của các thế hệ mặc quân phục màu cỏ úa mãi là một ẩn số thần thánh mà cho đến tận bây giờ, sau biết bao can qua giặc giã, các bộ óc thông tuệ của đối phương vẫn không thể hiểu nổi. Hay không muốn hiểu.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM