Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 05:32:11 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Trường Sơn - Đường khát vọng  (Đọc 167507 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #120 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2010, 05:29:01 pm »

Mùa khô 1970-1971 địch đánh phá dữ dội. Các trọng điểm Xiêng Phan trên cửa khẩu đường 12; cua chữ A - Ta Lê - Phu La Nhích; Chà Là trên cửa khẩu đường 20; Chà Lì - Sê Băng Hiếng trên cửa khẩu đường 16; đèo 900 trên cửa khẩu đường 18; Văng Mu, Tha Mé trên đoạn yết hầu vượt đường 9; La Hạp, Bạc, Tăng Cát, Bô Phiên trên đường 128; Động Con Tiên trên đường B45 vào chiến trường Trị - Thiên và bắc Khu 5; dốc Trực trên đường 49A, nối với đường 128 đi về Tây Nguyên và Nam Bộ, bị đánh phá ác liệt nhất. Có trọng điểm bị đánh phá tới 300 quả bom các loại trong một ngày. Một số sở chỉ huy binh trạm và sở chỉ huy Bộ Tư lệnh cũng bị đánh bom.

Trung tuần tháng 1 năm 1971, Tổng Tham mưu trưởng cử đồng chí Phan Hàm vào tuyến 559 truyền đạt dự lệnh cụ thể: Địch sẽ sử dụng lực lượng lớn bộ binh của ngụy miền Nam, quân Hoàng gia Lào và quân Thái Lan được sự yểm trợ của không quân Mỹ mở chiến dịch cắt đứt tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn ở trục đường 9. Địch có thể sử dụng trực thăng để thả quân chốt các điểm cao nam - bắc đường 9 và dùng lực lượng bộ binh cơ giới cùng xe tăng, thiết giáp thọc lên Sê Pôn hợp điểm với cánh quân ngụy Lào, Thái Lan từ Mường Phin sang nhằm chặn đứng tuyến hành lang chiến lược, thực hiện sự kiểm soát lâu dài.

Cùng ngày, Phó Tổng Tham mưu trưởng Lê Trọng Tấn điện cho Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn yêu cầu cử cán bộ đến Trung đoàn 64 bộ binh của Sư đoàn 320 đang trên đường hành quân vào hưởng chiến trường Tây Nguyên, trung đoàn pháo 168 đang trú quân ở bắc Tà Khống để truyền đạt mệnh lệnh của Bộ ở lại tham gia chiến dịch.

Đồng chí Ngô Huy Biên được lệnh đi cùng đồng chí Hà Kỳ Thự - Phó phòng hành quân tìm gặp được Quyền Trung đoàn trưởng trung đoàn 64 Khuất Duy Tiến phổ biến mệnh lệnh của Bộ chuyển hướng sang Bản Đông trực tiếp giúp trung đoàn tiếp nhận thêm vũ khí và bắt liên lạc bằng điện thoại với đồng chí Trịnh Tráng là Tham mưu phó Sư đoàn 308 đang ở Bản Đông.

Nhờ hệ thống thông tin của chiến trường Trường Sơn được xây dựng đồng bộ và tương đối hiện đại, mệnh lệnh của Bộ đã được thực hiện kịp thời. Đồng chí Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng đã đánh giá cao hệ thống thông tin của Bộ Tư lệnh Trường Sơn.

Do được phổ biến sớm về dự kiến của Bộ, từ tháng 10 năm 1970, Bộ Tư lệnh Đoàn 559 đã chủ động điều chỉnh lực lượng, chủ yếu là lực lượng cao xạ và công binh theo hướng phục vụ tác chiến chiến dịch.

Theo chỉ thị của Bộ Tổng tham mưu, Bộ Tư lệnh 559 đã tổ chức cuộc họp với đại diện các quân binh chủng phòng không, không quân, pháo binh, công binh... các sư đoàn 308, 304, 324 tại cơ quan tham mưu Bộ Tư lệnh Đoàn 559 nhằm thống nhất kế hoạch hiệp đồng tác chiến khi địch đánh ra đường 9. Sau khi nhận được mệnh lệnh chính thức của Bộ Tổng tham mưu, Bộ Tư lệnh 559 nhanh chóng triển khai thế trận tác chiến tại chỗ.

Tối ngày 28 tháng 1 năm 1971, Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh họp quyết định:

- Sáp nhập mặt trận X và Z thành mặt trận Y phụ trách toàn bộ địa bàn Hạ Lào, tác chiến trên các hướng Sa Ra Van, Sê Pôn, Bô Lô Ven, Pắc Xoong, A Tô Pơ, kiên quyết chặn đứng địch nống ra vùng giải phóng hòng uy hiếp tuyến vận tải chiến lược. Cử Phó Tư lệnh Hoàng Kiện làm Chỉ huy trưởng kiêm Chính ủy mặt trận. Hoàng Biền Sơn và Phạm Thanh Sơn làm Chỉ huy phó, Nguyễn Ngọc Sơn làm Phó Chính ủy, Trần Soạn làm Tham mưu trưởng, Hồ Sỹ Lộc làm Chủ nhiệm chính trị.

- Kiện toàn mặt trận R, tác chiến trên hướng Pha Lan, Đồng Hến, Keng Chọc ở Trung Lào, kiên quyết giữ vững đường 23 và Mường Phin. Cử các đồng chí Tô Đình Khản nguyên Phó Tư lệnh Đoàn 968 làm Chỉ huy trưởng, Lê Văn Hiếu làm Chỉ huy phó, Hoàng Căn Nguyên làm Chính ủy.

- Thành lập tiền phương Bộ Tư lệnh Trường Sơn phụ trách hướng phối hợp chiến dịch ở phía tây Trung - Hạ Lào theo chỉ thị của Bộ, cử đại tá Phó Tư lệnh Nguyễn Hòa và đại tá Phó Chính ủy Hoàng Thế Thiện trực tiếp chỉ huy các lực lượng trực thuộc và phối thuộc của Đoàn, phối hợp với các đơn vị bạn tiêu diệt, chặn đứng quân ngụy Lào và quân Thái Lan nếu chúng đánh xuống Mường Phin để phối hợp với quân ngụy Sài Gòn chiếm khu vực Tha Mé - Sê Pôn hòng cắt ngang trung tâm tuyến vận tải chiến lược.

- Phân công Phó Tư lệnh Nguyễn Quang Bích chỉ đạo hoàn thiện thế trận phòng không đánh bại chiến thuật "trực thăng vận" của địch. Phó Tư lệnh Nguyễn Lang đặc trách chỉ huy vận chuyển chiến lược và vận chuyển chiến dịch. Phó Chính ủy Nguyễn Lệnh phụ trách khối chuyên gia giúp bạn phát động các đia phương chiến đấu chống thám báo biệt kích và tham gia phục vụ chiến dịch. Phó Chính ủy Lê Xy đặc trách chỉ đạo công tác Đảng, công tác chính trị. Phó Tư lệnh Nguyễn An trực tiếp chỉ đạo đốc chiến các binh trạm phía nam.

- Giao cho Bộ Tư lệnh khu vực 470 đẩy mạnh thu mua tại chỗ; vận chuyển đảm bảo kịp thời cho Nam Bộ và Tây Nguyên; đồng thời sẵn sàng đối phó với địch đánh ra Phi Hà, Xê Sụ (ngã ba biên giới).
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #121 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2010, 05:29:43 pm »

Ngày 29 tháng 1 năm 1970, Bộ Tư lệnh triệu tập gấp cán bộ chủ trì các binh trạm 27, 9, 41, 34, 32, 31, 14, 12 giao nhiệm vụ:

- Duy trì mạnh mẽ vận chuyển chiến lược sẵn sàng tác chiến tại chỗ với mọi vũ khí có trong tay, bằng mọi loại hình chiến đấu, bắn máy bay trực thăng đổ bộ, tập kích, phục kích đánh bộ binh, xe tăng, thiết giáp địch với quy mô thích hợp, từng lúc từng nơi. Sẵn sàng phục vụ chiến dịch theo điều động của Bộ Tư lệnh mặt trận.

Các binh trạm 32, 33 có nhiệm vụ vừa vận chuyển chiến lược, vừa vận chuyển chiến dịch và tác chiến tại chỗ. Các binh trạm cánh đông đường 9 (gồm các binh trạm 9, 27, 41) chuyển hẳn sang vận chuyển phục vụ chiến dịch và là lực lượng tại chỗ đánh địch cả trên không, mặt đất. Ngoài các tiểu đoàn cao xạ trong biên chế, mỗi binh trạm khu vực này phải tổ chức thêm 5 đại đội súng máy 12,7 ly. Bộ binh hóa toàn bộ các lực lượng công binh kho, giao liên. Những lực lượng trên được trang bị đủ súng bộ binh, một số cối 81 và mìn chống tăng. Các binh trạm khác trên toàn tuyến mỗi binh trạm tổ chức một đại đội súng máy 12,7 ly hoặc 14,5 ly tăng cường cho bộ đội cao xạ hướng đường 9.

- Tạm ngừng vận chuyển chiến lược trục Bản Đông đi La Hạp, vì Bản Đông có khả năng bị đánh chiếm.

Bộ Tư lệnh xác định quyết tâm tổ chức tại bắc và nam đường 9 bảy khu vực tác chiến tại chỗ ở đoạn chính diện Bản Đông đến tây Mường Phin dài 100 km, tâm điểm là tam giác Bản Đông - Tha Mé - La Hạp với thế trận phòng không liên hoàn tầng cao, tầng thấp giăng khắp những nơi địch sẽ đến, kết hợp với thế trận phục kích, tập kích ngăn chặn bộ binh địch tiến vào tuyến vận chuyển chiến lược. Nối mạng thông tin của Bộ Tư lệnh Trường Sơn đến Bộ Tư lệnh mặt trận đường 9, Bộ Tư lệnh mặt trận cánh đông (B70) đến một số đơn vị chủ lực của Bộ và đến tất cả các đơn vị cao xạ, tên lửa, công binh, đội điều trị theo thế trận mới.

- Tổ chức mạng cấp cứu, chuyển thương, điều trị tăng cường cho chiến dịch.

Phó Chính ủy Lê Xy, Tham mưu trưởng công binh Phạm Văn Diêu, Tham mưu phó phòng không Trần Trung Tín, Phó Chủ nhiệm hậu cần Nguyễn Tốn, Chủ nhiệm quân y Nguyện Ngọc Thảo, Phó Chủ nhiệm thông tin Hoàng Đình Quý được cử xuống các đơn vị triển khai gấp theo phương án trên. Tham mưu trưởng phòng không Ngô Huy Biên, Phó Chủ nhiệm Cục Chính trị Võ Sở được cử xuống khu vực Bản Đông đốc chiến; Tham mưu phó công binh Phan Quang Tiệp xuống Binh trạm 9 chỉ đạo sửa chữa đường 18 để cơ động các đơn vị xe tăng vào tập kết ở đường 9.

Đến ngày 28 tháng 1 năm 1971, lực lượng phòng không của Bộ đội Trường Sơn được huy động tham gia chiến dịch lên tới 5 trung đoàn.
Các kho vật chất cho hướng chiến dịch đường 9 đã có 3.000 tấn, các kho dự trữ chiến lược trên tuyến có 3 vạn tấn. Như vậy, những yêu cầu Bộ giao chuẩn bị cho chiến dịch đường 9 - Nam Lào, Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã hoàn thành về cơ bản.

Đúng như phán đoán của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, ngày 30 tháng 1 năm 1971, Mỹ - ngụy mở cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh ra khu vực đường 9 - Nam Lào. Hơn 4 vạn quân chủ lực ngụy miền Nam và 6.000 quân Mỹ gồm những đơn vị tinh nhuệ nhất cùng một số lớn binh khí kỹ thuật gồm 580 xe tăng và xe bọc thép, 320 khẩu pháo, 1.000 máy bay được huy động vào cuộc hành quân này.
Phối hợp với quân ngụy miền Nam, quân ngụy Lào huy động 4 tiểu đoàn của GM30, GM33 từ Đồng Hến đánh ra khu vực Mường Pha Lan, phía tây đường số 9

Mục tiêu của chiến dịch trong cuộc hành quân này là cắt đứt hoàn toàn tuyến vận tải chiến lược, phá hủy tối đa các kho chiến lược trên đường Trường Sơn, làm cho các lực lượng chiến đấu của ta ở các chiến trường không còn nguồn chi viện về người và vật chất kỹ thuật để mở các cuộc tiến trong mùa khô 1971 - 1972, tạo điều kiện cho Mỹ tiếp tục rút quân, ngụy mạnh lên.

Địch cho rằng đánh bại bộ đội chủ lực cơ động của quân đội ta sẽ chứng minh cho sự thành công của chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh", tạo thêm thế mạnh trên chiến trường nhằm ép ta nhân nhượng trong cuộc đàm phán ở Pa ri. Đây là cuộc hành quân đầy tham vọng, có quy mô lớn nhất, điển hình nhất trong chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của Mỹ và cũng là đỉnh cao của chiến tranh ngăn chặn nhằm cắt đút hoàn toàn đường chiến lược Hồ Chí Minh.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #122 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2010, 05:30:24 pm »

Để đánh bại cuộc hành quân của địch, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định mở chiến dịch phản công tiêu diệt lớn quân địch ở khu vực đường 9 - Nam Lào, thành lập Bộ Tư lệnh Mặt trận đường 9 (mật danh là Mặt trận 702); cử Thiếu tướng Phó Tổng tham mưu trưởng Lê Trọng Tấn làm Tư lệnh, Thiếu tướng Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Lê Quang Đạo làm Chính ủy Bộ Tư lệnh chiến dịch.

Bộ Chính trị phê chuẩn việc thành lập Bộ Tư lệnh mặt trận cánh đông và cánh bắc chiến dịch (mật danh là Mặt trận B70) gồm 3 sư đoàn bộ binh 304, 308, 320 và các trung đoàn, tiểu đoàn binh chủng do đại tá Cao Văn Khánh làm Tư lệnh, đại tá Hoàng Phương làm Chính ủy. Ở cánh tây chiến địch, giao cho Bộ Tư lệnh Trường Sơn phụ trách gồm: Sư đoàn 968, Sư đoàn 2, Trung đoàn 48, Trung đoàn 29 cùng một số trung đoàn, tiểu đoàn binh chủng. Bộ đội Trường Sơn là lực lượng đánh địch tại chỗ trên toàn địa bàn chiến dịch.

Thượng tướng Văn Tiến Dũng - Tổng Tham mưu trưởng được cử làm đại diện Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng trực tiếp chỉ đạo Mặt trận 702 và các chiến trường phối hợp phản công địch.

Ngày 3 tháng 1 năm 1971, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra lời kêu gọi toàn thể cán bộ và chiến sĩ trên Mặt trận đường 9 - Nam Lào:

“... Trận này là một trận có nghĩa quyết định về chiến lược, không những để giữ vững tuyến vận tải chiến lược mà còn nhằm tiêu diệt nhiều đơn vị dự bị chiến lược của địch, tạo điều kiện đánh bại một bước quan trọng âm mưu "Việt Nam hóa chiến tranh" của đế quốc Mỹ, đẩy cuộc kháng chiến tiến lên mạnh mẽ, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, làm tròn nhiệm vụ quốc tế vẻ vang và rèn luyện bộ đội chủ lực... Quân đội ta nhất định phải đánh thắng trận này”.

Riêng với Bộ đội Trường Sơn, Bộ Tổng tham mưu ra lệnh: bình tĩnh, khéo léo lừa địch, nhử địch vào sâu, cất vó một trận, diệt trực thăng đích đáng để địch biết thế nào là "Đường mòn Hồ Chí Minh".

Lời kêu gọi của Trung ương Đảng, mệnh lệnh của Bộ Tổng tham mưu được cơ quan chính trị cấp tốc phổ biến xuống các đơn vị đã làm dấy lên một cao trào diệt giặc lập công trong toàn thể cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Trường Sơn. Mỗi người không những ý thức được tầm quan trọng của chiến dịch mà còn nhận thấy đây là cơ hội thuận lợi cho bộ đội ta tiêu diệt địch. Cán bộ, chiến sĩ đều phấn khởi sẵn sàng chiến đấu với niềm tin chiến thắng. 

Ngày 8 tháng 2 năm 1971, dưới sự yểm trợ của quân Mỹ, 7 trung đoàn, lữ đoàn bộ binh, dù, thiết giáp ngụy quân Sài Gòn chia thành ba cánh vượt qua biên giới Việt Lào. Cánh quân chủ yếu tiến theo đường 9 qua Lao Bảo, ngày 10 tháng 2 năm 1971 đã tới gần Bản Đông. Hai cánh quân khác chuẩn bị đổ bộ bằng máy bay lên thẳng xuống một số điểm cao: 500, 315, 543, 456 ở bắc đường số 9 và các điểm cao ở khu vực Cu Bốc: 619, 537, 550, 432, 540 ở nam đường 9 để bảo vệ sườn cho cánh quân chủ yếu.

Được sự chi viện hỏa lực mạnh của không quân, pháo binh Mỹ và dựa vào phương tiện cơ động hiện đại, quân ngụy Sài Gòn tiến khá nhanh và bộc lộ khá rõ sự chủ quan, ngông cuồng của chúng.

Bộ Tư lệnh Trường Sơn ra lệnh nhử địch vào sâu hơn nữa, sẵn sàng chủ động tấn công vào các đội hình trực thăng của chúng. Sử dụng mọi vũ khí, phát huy mọi tầm hỏa lực, kiên quyết tiêu diệt địch với khẩu hiệu "Cứ cho nó đến, không cho nó về”.

Do đã chuẩn bị sẵn chiến trường và phán đoán chính xác về hướng tiến quân cũng như các vị trí đổ quân của địch, lực lượng phòng không đã tránh được các đòn oanh tạc dọn đường của máy bay chiến lược B52 và các loại máy bay cường kích, chủ động nổ súng vào các tốp trực thăng.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #123 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2010, 05:31:05 pm »

Bắt đầu từ 8 giờ ngày 8 đến ngày 10 tháng 2 năm 1971, từng đàn trực thăng bay rợp trời được hỏa lực yểm trợ của các tốp máy bay cường kích và máy bay trinh sát OV 10, ồ ạt đổ quân xuống các điểm cao nam - bắc Bản Đông. Các cỡ súng cao xạ, súng máy, súng bộ binh của ta tung lên một lưới lửa dày đặc, bắn rơi hàng loạt máy bay khi chúng chưa kịp đổ quân.

Ở bắc Bản Đông, hai tiểu đoàn cao xạ thuộc Trung đoàn 591 do thiếu tá Trung đoàn trưởng Lê Văn Lẫm và thiếu tá Chính ủy Nguyễn Văn Nam chỉ huy bắn rơi 14 chiếc máy bay chở quân. Mặc dù bị máy bay phản lực cường kích đánh trả quyết liệt vào trận địa, nhiều chiến sĩ bi hy sinh, các tiểu đoàn vẫn ngoan cường chiến đấu bắn rơi thêm 5 chiếc.

Địch tiếp tục đánh trả, các tổ súng máy 12,7 ly của Tiểu đoàn 27 công binh thuộc Binh trạm 41 bắn rơi 13 chiếc (có 7 chiếc H34) ở khu vực Bản Đông và cầu Ka Ky. Tiểu đoàn 18 cao xạ và tiểu đoàn 35 súng máy 14,5 1y thuộc Binh trạm 27 bắn rơi 15 chiếc trực thăng ở cao điểm 500, 300.

Cùng ngày, Tiểu đoàn 75 công binh và đại đội 5 bộ binh thuỷ Binh trạm 41 chốt ở điểm cao Cu Bốc bắn rơi thêm 5 chiếc, bẻ gãy 10 đợt tiến công của đơn vị biệt động ngụy, phá hủy một số xe bọc thép, diệt 100 tên trong đó có tên trung úy đại đội trưởng và 4 tên Mỹ, làm chậm bước tiến của trung đoàn 3 Sư đoàn 1 ngụy đang tiến quân trên đường B70.

21 giờ 30 ngày 10 tháng 2, đài phát thanh BBC của Anh đưa tin: “Quân đội Cộng hòa miền Nam tiến quân lên đường mòn Hồ Chí Minh đã vấp phải lưới lửa phòng không dày đặc chưa từng thấy của Bắc Việt: 50 chiếc máy bay lên thẳng đã bị bắn hạ. Như vậy là trúng kế "điệu hổ ly sơn" của họ ".

Ngày 10 tháng 2 năm 1971, Quân ủy Trung ương đã gửi thư khen:

"Qua mấy ngày chiến đấu các đồng chí đã đánh những trận phủ đầu quân Mỹ - ngụy, diệt một số sinh lực và phương tiện chiến tranh, bắn rơi trên 50 máy bay, phá hủy một số xe tăng, thiết giáp của chúng, giữ vững giao thông vận tải thông suốt... Quân ủy Trung ương biểu dương chiến công đầu của các đồng chí. Mong các đồng chí phát huy thắng lợi, nêu cao quyết tâm, tranh thủ thời cơ, vượt mọi khó khăn đánh cho địch những đòn đau hơn, mạnh hơn nữa tiêu diệt thật nhiều địch, hạ nhiều máy bay, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, bắt sống nhiều tù binh, thu nhiều vũ khí, tạo điều kiện thuận lợi để đập tan cuộc phiêu lưu của chúng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và mục tiêu của chiến dịch, bảo vệ bằng được đường chiến lược Hồ Chí Minh”.

Như vậy, ngay từ những ngày đầu địch đổ quân xuống các điểm cao ở nam và bắc đường 9 nhằm thiết lập căn cứ yểm trợ cho cánh quân theo trục chính vượt Bản Đông tiến về Sê Pôn, đã bị lực lượng phòng không, công binh và pháo binh của Bộ đội Trường Sơn đánh đòn rất đau, bắn rơi 118 máy bay lên thẳng, phá hỏng 16 xe tăng, 4 xe bọc thép. Bị tổn thất nặng nề, đội hình địch rối loạn, tinh thần hoang mang, tốc độ tiến quân chậm lại, tạo điều kiện cho bộ đội chủ lực từ xa kịp cơ động triển khai đội hình, chuẩn bị đánh những trận tập trung lớn.

Tư lệnh Mặt trận B70 Cao Văn Khánh điện cho Binh trạm 27 nhiệt liệt biểu dương chiến công của Binh trạm đã chỉ huy xuất sắc, bảo toàn được lực lượng binh khí kỹ thuật của chiến dịch.

Đến ngày 11 tháng 2 năm 1971, lực lượng tham gia chiến dịch lên đến 6 vạn quân, hàng nghìn xe, pháo, tăng và các loại vũ khí hạng nặng khác. Nhu cầu bảo đảm lương thực, đạn dược, thuốc men... cho chiến dịch tăng vọt với khối lượng lớn và đòi hỏi thời gian cấp bách. Mặc dù bị không quân địch khống chế, đánh phá ngăn chặn dữ dội, Bộ đội Trường Sơn đã vượt qua mọi hy sinh vận chuyển đảm bảo đầy đủ cơ sở vật chất cho các lực lượng tác chiến đánh lớn thắng liên tục.

Theo kế hoạch chiến dịch, bộ đội chủ lực cơ động đã nhanh chóng triển khai lực lượng ngăn chặn, tiêu diệt tìm cánh quân địch, tạo thời cơ đánh đòn quyết định.

Ở sau lưng địch, lực lượng vũ trang Mặt trận B5 liên tục tập kích, pháo kích các căn cứ Mỹ và đường giao thông, diệt hàng trăm tên, đánh chìm 9 tàu vận tải quân sự ở Cửa Việt, làm cho tuyến vận chuyển tiếp tế của địch bị tắc nghẽn một tuần.

Trên hướng chủ yếu, khu vực bắc đường 9, từ ngày 12 tháng 2 đến đầu tháng 3 năm 1971 diễn ra nhiều trận đánh ác liệt của các đơn vị chủ lực cơ động của Bộ với lữ đoàn dù và liên đoàn 1 biệt động ngụy. Từ ngày 20 đến ngày 25 tháng 2 năm 1973, Trung đoàn 64 bộ binh phối hợp với xe tăng được công binh, pháo cao xạ của Bộ đội Trường Sơn yểm trợ vây lấn điểm cao Không Tên tiêu diệt Tiểu đoàn 3 dù, tiểu đoàn pháo binh và Sở chỉ huy Lữ đoàn 3 dù, bắt sống đại tá Nguyễn Văn Thọ, Chỉ huy trưởng lữ đoàn và toàn bộ ban tham mưu của chúng.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #124 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2010, 05:31:43 pm »

Trước đòn phản công mạnh của quân ta, địch vội điều Thiết đoàn 17 với 70 xe tăng và tiểu đoàn 8 dù từ Bản Đông lên phản kích hòng chiếm lại điểm cao Không Tên. Trong sáu ngày liền, Trung đoàn 36 bộ binh thuộc Sư đoàn 308, một bộ phận Trung đoàn 64 có hai đại đội xe tăng phối hợp, được pháo binh mặt trận và hỏa lực phòng không của Bộ đội Trường Sơn chi viện đã đập tan cánh quân phản kích. Tập đoàn chủ yếu của địch ở Bản Đông bị uy hiếp mạnh.

Ở khu vực Trung Lào, ba tiểu đoàn quân ngụy Lào đánh xuống tây Mường Phin, bị các trung đoàn 29, 141, 48 và các tiểu đoàn Pa thét Lào chặn đánh tiêu diệt ở Pha Lan, Phu Dơ Tuy, đập tan âm mưu của chúng phối hợp với quân ngụy Sài Gòn.

Ở khu vực Hạ Lào, các lực lượng Mặt trận Y tiến công giải phóng Nậm Lực, Nậm Tiếng, In Thi; bao vây Pắc Xoong, Không Sê Đôn chặn đứng cánh quân ngụy Lào và quân Thái mưu chiếm Sa Ra Van, uy hiếp tuyến vận tải chiến lược, phối hợp với cuộc hành quân của ngụy Sài Gòn; diệt 226 tên, bắt 18 tù binh, diệt gọn 2 đại đội, đánh tan 4 tiểu đoàn, bắn cháy 10 máy bay, thu nhiều phương tiện chiến tranh.

Ở khu vực nam đường số 9, trong hai ngày 27, 28 tháng 2 và ngày 5 tháng 3 năm 1971, địch đổ quân xuống dãy điểm cao Phu Ta Păng (639, 229), bị Bộ đội Trường Sơn bắn rơi 40 máy bay lên thẳng, diệt gọn 8 đại đội, chặn không cho chúng đổ bộ đánh chiếm. Sư đoàn bộ binh 324 của Trị - Thiên diệt một tiểu đoàn đánh thiệt hại một tiểu đoàn khác thuộc Trung đoàn 3, Sư đoàn 1 ngụy khi chúng nống ra đánh phá kho tàng.

Cả trước mặt, cả sau lưng địch, Bộ đội Trường Sơn đã đánh liên tục, tiêu diệt nhiều sinh lực, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch, chia cắt, kìm hãm chúng, tạo thế cho ta, phá thế địch, tạo điều kiện cho các đơn vị chủ lực cơ động vận động từ xa tiến vào địa bàn chiến dịch, kịp thời tổ chức những đòn tiêu diệt lớn. 

Ngày 28 tháng 2 năm 1971, địch tung thê đội 2 chiến dịch gồm 1 lữ đoàn dù, 2 trung đoàn thiết giáp, 2 lữ đoàn thủy quân lục chiến cùng sư đoàn 1 bộ binh vào tham chiến. Chúng tiếp tục kế hoạch tiến lên Sê Pôn, nhưng bị bộ đội ta chặn đánh kịch liệt, nên buộc phải dừng lại co cụm ở các điểm cao 723, 748, đèo Yên Ngựa và các điểm cao 550, 532.

Thời cơ chuyển từ phản công sang tiến công trên toàn mặt trận đã đến.

Ngày 8 tháng 3 năm 1971, Đảng ủy Mặt trận ra lời kêu gọi cán bộ, chiến sĩ giành toàn thắng cho chiến dịch.

Ngày 9 tháng 3 năm 1971, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Đinh Đức Thiện triệu tập Binh trạm trưởng Binh trạm 9 và Binh trạm trưởng Binh trạm 27 trực tiếp giao nhiệm vụ. Để đảm bảo cho hướng tiến công chủ yếu, đồng chí quyết định bổ sung 50 xe Zil 157 cho Binh trạm 27 cùng 200 áo giáp và mũ sắt.

Ngày 11 tháng 3 năm 1971, Thiếu tướng Tư lệnh chiến dịch Lê Trọng Tấn triệu tập Binh trạm trưởng Binh trạm 27 giao nhiệm vụ: ngày 12 tháng 3 năm 1971, trước  giờ nổ súng 30 phút phải bảo đảm cho hướng tiến công chủ yếu 2.000 quả đạn pháo 130 ly. Tiếp đó, mỗi ngày phải đảm bảo 200 tấn đạn và lương thực.

Dự họp có Chính ủy chiến dịch Lê Quang Đạo, Chủ nhiệm Pháo binh Doãn Tuế, Chủ nhiệm Phòng không Hoàng Văn Khánh, Chủ nhiệm Hậu cần Lương Nhân, Chủ nhiệm Chính trị Ngô Thành Vân, Chủ nhiệm Hậu cần Binh đoàn B70 Ngô Vi Thiện...
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #125 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2010, 05:32:21 pm »

Tư lệnh Lê Trọng Tấn kết luận: quyết tâm tác chiến của đòn tiến công quyết định này đã được xác định nhưng mở màn được hay không là do vận chuyển bảo đảm cơ sở vật chất quyết định. Binh trạm 27 cần phải hoàn thành cho được nhiệm vụ này. Theo đề nghị của Binh trạm trưởng, đồng chí lệnh cho Quân khu 4 chở xe lội nước K61 đến bến vượt khẩu sông Sê Băng Hiêng vào 1 giờ ngày 12 tháng 3 đề phòng khi có gió mùa đông bắc, nước sông dâng cao phải chuyển tải.

Cùng ngày, Đại tướng Tổng Tư lệnh và Thượng tướng Tổng Tham mưu trưởng trực tiếp chỉ thị qua điện thoại cho Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn phải bảo đảm đầy đủ vũ khí, đạn dược, lương thực cho các hướng chiến dịch. Đồng thời, bằng mọi giá giữ cho được tuyến hành lang phía tây, tập trung sức vận chuyển chi viện kịp thời cho chiến trường Tây Nguyên, Nam Bộ, Khu 5 để đánh bại các cuộc hành quân phối hợp của địch.

Chấp hành mệnh lệnh của trên, 2 giờ sáng ngày 12 tháng 3, 150 xe chở đầu đạn của hai tiểu đoàn 62 và 965 (Binh trạm 27) dàn đội hình thành 3 thê đội tiếp cận trọng điểm cách chỉ giới khu vực oanh tạc của máy bay 20 m tại bắc sông Sê Băng Hiêng. Đến 3 giờ sáng, sau các loạt bom B52, đội hình xuất kích theo phương án xác định, nhanh chóng vượt sông tiến vào Mường Trương, Làng Sen.

Phía đường 18, hai tiểu đoàn 878 và 54 của Binh trạm 9 anh dũng vượt trọng điểm 900 tiến về khu vực bắc Tà Khống. Lợi dụng sương mù, quân ta đã vận chuyển cả đêm và ngày đưa hàng tới tận chiến hào và các trận địa pháo.

Máy bay địch thả pháo sáng, đuổi theo đội hình xe rải bom bi và bắn đạn 20 ly liên hồi. Mặc dù hàng chục xe bị cháy, nhiều cán bộ, chiến sĩ lái xe bị hy sinh, song kế hoạch vận chuyển chiến dịch đảm bảo cho đợt tiến công mới do Bộ Tư lệnh chiến dịch giao, Bộ đội Trường Sơn đã hoàn thành trọn vẹn. Tư lệnh mặt trận phía đông Cao Văn Khánh một lần nữa gọi điện, nhiệt liệt biểu dương và cảm ơn Bộ đội Trường Sơn, 4 giờ sáng ngày 12 tháng 3 năm 1971, quân ta chuyển sang tiến công trên toàn mặt trận.

Ở phía tây, các đơn vị Bộ đội Trường Sơn tăng cường bảo vệ khu tam giác Sê Pôn - Tha Mé - La Hợp. Sư đoàn 968 phối hợp với quân dân bạn diệt nhiều sinh lực quân Thái Lan và quân Hoàng gia Lào ở Thác Hài; tập kích các đơn vị BS22 và BS28 ở Nậm Lực, Nậm Tiếng, giải phóng Xê Nậm Noi, Sê Keng, Phu Lăng Kẹo, diệt 282 tên, bắt 10 tên, thu 115 súng; tiếp đó, đánh chiếm Na Ca Chăn, Keng Chọc diệt 100 tên, giải phóng Mường Pha Lan.

Ở phía tây nam, Sư đoàn 2 vây lấn truy kích, tiêu diệt trung đoàn 1 sư đoàn 1 bộ binh địch ở điểm cao 72A, tiếp đó đánh lên điểm cao 660 diệt 905 tên, bắt 365 tên, có 3 sĩ quan cấp tá.

Ở phía nam Binh trạm 41, Bộ đội Trường Sơn phối hợp với Sư đoàn 324 đánh thiệt hại nặng lữ đoàn thủy quân lục chiến ngụy ở các điểm cao 550, 540, 532, địch phải liều mạng cho trực thăng bốc số quân còn lại trên điểm cao 550 gần Sa Đi và điểm cao 400 gần Tha Mé. Bị hỏa lực của các đại đội súng máy thuỷ Binh trạm 32, Binh trạm 33, Binh trạm 41 đánh mạnh, 40 chiếc trực thăng bị cháy và phá hủy. Sĩ quan binh lính địch tranh nhau bám càng máy bay để thoát thân.

Phía đông dọc theo đường số 9 từ Lao Bảo đến Bản Đông, các trung đoàn của Sư đoàn 304 và 308 kiên cường chốt chặn, kết hợp cơ động đánh địch giải tỏa trục lộ 9 diệt hàng trăm tên, phá hủy nhiều xe tăng, xe bọc thép, đẩy địch vào thế bị bao vây chia cắt.

Phía sau, các lực lượng bắc Quảng Trị tập kích các căn cứ địch ở Sa Mưu, Ái Tử, Tà Cơn, phá hủy 40 máy bay lên thẳng, hàng vạn viên đạn lớn, hàng triệu lít xăng, diệt hơn 100 tên, phần lớn là giặc lái và nhân viên kỹ thuật.

Phía đông bắc và đông nam, trung đoàn 64 thuộc Sư đoàn 320, trung đoàn 36 thuộc Sư đoàn 308, trung đoàn 68 thuộc Sư đoàn 304 được các đơn vị tăng, pháo mặt đất, pháo cao xạ phối hợp bao vây tập đoàn cứ điểm Bản Đông do 2 lữ đoàn dù (1 và 2) và 2 trung đoàn thiết giáp ngụy đóng giữ. Bộ đội ta bắn phá mãnh liệt các trận địa pháo, bãi xe, công sự dã chiến, đánh dồn dập khi máy bay địch hạ cánh tiếp tế. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, ngày 18 tháng 3 năm 1971, quân địch bỏ Bản Đông rút chạy tán loạn. Ta truy kích diệt 1.726 tên, bắt 100 tên, thu và phá hủy 113 xe tăng, xe bọc thép, 24 khẩu pháo, bắn rơi 52 máy bay, trong đó có 1 máy bay B52
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #126 vào lúc: 13 Tháng Năm, 2010, 05:33:07 pm »

Ngày 23 tháng 3 năm 1971, chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào kết thúc thắng lợi. Quân ngụy Sài Gòn - lực lượng nòng cốt thực hiện "Học thuyết Níchxơn" ở Đông Dương bị giáng một đòn tiêu diệt nặng. Âm mưu cắt đứt tuyến chi viện chiến lược bằng sức mạnh tổng hợp của chúng bị đập tan. Hơn 2 vạn tên địch bị diệt, bị thương và bị bắt, 6 trung đoàn, lữ đoàn, 13 tiểu đoàn bộ binh, pháo binh bị loại khỏi vòng chiến đấu. Cả 3 sư đoàn dù, thủy quân lục chiến và sư đoàn 1 bộ binh ngụy bị đánh thiệt hại nặng, 1.138 xe tăng, xe bọc thép, xe kéo pháo và 112 pháo lớn bị phá hủy, 556 máy bay trong đó có 505 máy bay lên thẳng bị bắn rơi, 43 tàu, 1 sà lan bị bắn chìm, 1 triệu lít xăng và 1.000 tấn đạn bị đốt cháy và phá hủy.

Quân ta bắt 1.142 tù binh, thu 2 máy bay lên thẳng, 57 khẩu pháo hạng nặng và súng cối, 2.296 súng các loại, 16 xe tăng và xe bọc thép, 6 máy húc, 274 máy vô tuyến điện, trên 100 tấn đạn và đồ dùng quân sự khác.

Vừa trực tiếp phục vụ chiến dịch, Bộ đội Trường Sơn vừa tham gia chiến đấu tiêu diệt 5.695 tên, bắt 614 tên, gọi hàng 64 tên, bắn rơi 346 máy bay (có 310 trực thăng), thu 24 khẩu pháo, 4 máy húc, 6 xe tăng, xe bọc thép và 91 xe các loại.

Ngày 31 tháng 3 năm 1971, Ban Chấp hành Trung ương Đảng gửi thư khen cán bộ, chiến sĩ Mặt trận Đường 9 - Nam Lào “đánh giỏi, thắng giòn giã, lập công xuất sắc”.

Thắng lợi to lớn của chiến dịch Đường 9 - Nam Lào đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của quân đội ta. Nó chứng tỏ quân chủ lực ta có khả năng đánh bại hoàn toàn quân chủ lực ngụy, quân và dân ta có đủ sức mạnh đánh bại về quân sự chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của đế quốc Mỹ.

Thắng lợi của chiến dịch cũng khẳng định chiến lược chiến tranh ngăn chặn tuyến đường chiến lược Hồ Chí Minh của Mỹ - ngụy đã phá sản. Quá trình tham gia và phục vụ chiến dịch, được Quân ủy Trung ương chỉ đạo chặt chẽ, Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã có kế hoạch phối hợp chặt chẽ với bạn Lào và các binh đoàn chủ lực cơ động, thực hiện ý đồ tác chiến chiến dịch của Bộ. Đồng thời chủ động lập phương án đối phó với tình huống địch đánh chiếm khu trung tâm hành lang Sê Pôn - Tha Mé - La Hạp, vẫn tiếp tục nhiệm vụ vận chuyển chiến lược.

Trong khi Mỹ - ngụy mở cuộc hành quân Lam Sơn 719, Bộ đội Trường Sơn đã phát động "Tổng công kích" đợt 1 vào ngày 2 tháng 2 năm 1971, tranh thủ lúc địch tập trung đánh phá dọn đường để đẩy nhanh hàng vào các điểm vượt then chốt, giữ thế chủ động đảm bảo vật chất cho các hướng chiến trường.

Mặc dù lực lượng lớn không quân địch bị hút vào các hướng chiến dịch, chúng vẫn tiếp tục đánh phá ác liệt các cửa khẩu và các trọng điểm trong khu tam giác Bản Đông, Văng Mu, Tha Mé. Các đơn vị pháo cao xạ bố trí đối diện hai bên trục vận chuyển tại các khu vực này đã anh dũng đánh trả, trong 5 ngày đầu "Tổng công kích" bắn rơi 5 máy bay phản lực và một máy bay trinh sát OV 10 tại trọng điểm Chà Văng Mu, Tha Mé, bảo vệ đội hình xe hành tiến.

Trung đoàn 10 và Trung đoàn 98 công binh khai thông đường 36 tránh Tha Mé, đề phòng trường hợp bộ binh địch chiếm được đường 35 Tha Mé đi La Hạp. Hàng vạn cán bộ, chiến sĩ công binh ngày đêm duy tu mặt đường, củng cố cầu ngầm, đảm bảo tốc độ xe đạt 18 đến 20 km giờ. Các binh trạm huy động mọi khả năng và biện pháp nâng hệ số kỹ thuật đảm bảo 80% đầu xe hoạt động, đồng thời kiên quyết tổ chức đội hình vận tải tiểu đoàn tập trung tiến công, với nhiều đội mùi nhọn thực hiện vượt cung tăng chuyến.

Một số tiểu đoàn ô tô thiện chiến như tiểu đoàn 52, tiểu đoàn 101, tiểu đoàn 102, tiểu đoàn 781 đã nâng cao tốc độ, 50% số xe thực hiện một đêm một chuyến trên cung quy định hai đêm một chuyến. Các tiểu đoàn ô tô khác đạt từ 10% đến 30% số xe thực hiện một đêm một chuyến trên cung hai đêm một chuyến.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #127 vào lúc: 15 Tháng Năm, 2010, 06:01:31 pm »

Ngày 10 tháng 2 năm 1971, Quân ủy Trung ương gửi thư khen các lực lượng tại chỗ của Bộ đội Trường Sơn đã bắn rơi nhiều máy bay, diệt nhiều giặc, phá nhiều phương tiện chiến tranh của Mỹ - ngụy. Thư khen được phổ biến trên toàn tuyến làm nức lòng các lực lượng tham gia “tổng công kích" đợt 1 chiến dịch vận chuyển. Mỗi ngày cơ quan chính trị Bộ Tư lệnh ra một thông báo về thành tích của các lực lượng trên toàn tuyến. Bộ Tư lệnh lấy hai Binh trạm 12 và 32 làm điển hình để thúc đẩy toàn tuyến.

Ở tuyến hậu phương, các Binh trạm 25, 26 thuộc Cục Vận tải Tổng cục Hậu cần dốc sức đưa hàng tiếp cận các trọng điểm, tạo điều kiện cho các binh trạm cửa khẩu chủ động đối phó với địch, vượt cung lập chân hàng, đảm bảo sự nhịp nhàng giữa "hút” và "đẩy", trên toàn tuyến.

Ngày 28 tháng 2 năm 1971, một số lữ đoàn, sư đoàn địch tiến lên Sê Pôn. Nhiều trực thăng đổ quân xuống các điểm cao phía đông Tha Mé sát trục vận chuyển chiến lược, Bộ đội Trường Sơn vẫn bình tĩnh đẩy mạnh "Tổng công kích" đợt 1 của chiến dịch vận tải với nhịp độ khẩn trương và kết thúc ngày 30 tháng 2 năm 1971 theo đúng kế hoạch.

Trong đợt này, toàn tuyến đã thực hiện được một khối lượng lớn qua các điểm vượt then chốt, tạo nên thế mới cho đợt vận chuyển tiếp theo. Kết quả trên đảm bảo cho toàn tuyến đủ sức đối phó với mọi tình huống, đáp ứng yêu cầu của các chiến trường. Đảng ủy, Bộ Tư lệnh đánh giá vận chuyển chiến lược trong tình hình diễn biến khẩn trương, xuất hiện nhiều tình huống phức tạp, vừa phải đốt phó với cuộc hành quân Lam Sơn 719 của địch, vừa vận chuyển đáp ứng nhu cầu bức xúc của chiến dịch, vừa tiếp tục vận chuyển chiến lược mà đạt được khối lượng như vậy là rất giỏi.

Khi chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào bước vào giai đoạn quyết liệt, Bộ Tư lệnh Trường Sơn quyết đinh mở "Tổng công kích" đợt 2 từ ngày 6 tháng 3 năm 1971 nhằm hoàn thành cơ bản nhiệm vụ vận tải chiến lược và chiến dịch mùa khô 1970- 1971. Đây là đợt vận chuyển có ý nghiã quyết định, phá tan âm mưu sử dụng sức mạnh tổng lực cắt đứt tuyến vận tải chiến lược của Mỹ - ngụy.

Mặc dù không quân địch phải phân tán trên địa bàn chiến dịch, chúng vẫn bám chặt tuyến vận chuyển hướng chủ yếu. Tuy mức độ có giảm hơn, nhưng chúng lại chuyển sang đánh các trận địa pháo cao xạ bằng máy bay cường kích có khỉ tài điều khiển la de và sử dụng AC 130 cải tiến bắn đạn 40 ly vào đội hình xe gây sát thương lớn. Trong tháng 2 và tháng 3 năm 1971, riêng máy bay AC 130 đã bắn tới 41.485 loạt đạn 40 ly, phá hỏng nhiều xe vận tải của ta.

Với tinh thần kiên quyết tiêu diệt địch bảo vệ đội hình xe vận chuyển, lực lượng cao xạ bố trí dọc tuyến đã đánh 4.160 trận, bắn rơi 70 máy bay các loại, có 23 chiếc bị bắn rơi vào ban đêm. Riêng máy bay AC 130 ta chưa hạ được; vì vậy, các đội hình xe bị uy hiếp mạnh. Các binh trạm đã có những nỗ lực lớn, tìm nhiều biện pháp đối phó nhằm giữ vững nhịp độ tổng công kích.

Ngày 23 tháng 3 năm 1971, chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào kết thúc thắng lợi. Âm mưu cắt đứt tuyến chi viện chiến lược của ta bị thất bại hoàn toàn.

Ngày 30 tháng 3 năm 1971, "Tổng công kích" đợt 2 vận chuyển chiến lược cũng kết thúc. Đợt này, toàn tuyến nhận từ hậu phương và khai thác thu mua tại chỗ đạt 97% kế hoạch, vận chuyển giao các chiến trường đạt 98% kế hoạch. Về bảo đảm hành quân, đạt 91 % kế hoạch, đưa đón hàng vạn quân vào chiến trường và thương, bệnh binh về hậu phương. Ngoài ra còn bảo đảm nội bộ đạt 98% kế hoạch, phục vụ các lực lượng vận chuyển, mở đường tác chiến liên tục.

Sau khi chiến dịch Đường 9 - Nam Lào kết thúc thắng lợi, Bộ Tư lệnh Trường Sơn chỉ đạo các đơn vị khẩn trương thu dọn chiến trường, khắc phục hậu quả phá hoại của địch, khôi phục cầu đường. Bộ Tư lệnh chỉ đạo các đơn vị công binh rà phá bom mìn khắc phục phá hoại, lập lại thế trận cầu đường ở hướng đông.

Theo mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh, bộ đội phòng không đã điều chỉnh lại thế trận, chuyển các lực lượng cao xạ và súng máy phòng không tham gia chiến dịch Đường 9 - Nam Lào sang chiến đấu trên các trục vận chuyển chiến lược, tổ chức các cụm hỏa lực mạnh ở khu vực Chà Lì, Bản Đông, Tha Mé, Văng Viếng, Sa Đi Bồ Ne, Chà Vằn. Mỗi cụm bố trí một trung đoàn hoặc hai tiểu đoàn cao xạ. Trung đoàn cao xạ, tên lửa 275, 238 cơ động áp sát đường số 9.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #128 vào lúc: 15 Tháng Năm, 2010, 06:02:06 pm »

Bộ Tư lệnh quyết định thành lập thêm Binh trạm 46 phụ trách tuyến vận chuyển tuyến đường Khe Tang đi Bản Đông đưa hàng tới Quân khu bạn; củng cố Binh trạm 39 phụ trách vận chuyển đường 23, đưa hàng xuống Hạ Lào; chỉ đạo các Binh trạm 50, 51 kéo dài tuyến vận tải cơ giới đường sông trên các sông Sê Kông, Sê Xan, Mê Kông đến Kra Chim xuống Sun; tổ chức đưa ngoại tệ vào cho hậu cần Nam Bộ và Bộ Tư lệnh khu vực 470; chỉ đạo Bộ Tư lệnh 470 thu mua khoảng 4.000 tấn hàng tại chỗ tạo nguồn dự trữ cho Nam Bộ và Tây Nguyên; chỉ đạo bộ đội đường ống đẩy nhanh tốc độ thi công đoạn từ Mường Noọng xuống nam Bạc.

Việc củng cố vùng mới giải phóng có ý nghiã quan trọng đối với cách mạng Lào cũng như đối với an toàn của tuyến vận tải chiến lược. Vì vậy, Bộ Tư lệnh đã chỉ đạo Đoàn chuyên gia quân sự 565 đẩy mạnh hoạt động giúp bạn xây dựng một số tiểu đoàn chủ lực, trong đó có một số tiểu đoàn hỏa lực, phát triển dân quân du kích, xây dựng hệ thống Đảng và công tác chính trị trong lực lượng vũ trang mở các lớp huấn luyện quân sự, hậu cần, xây dựng trường quân chính, xây dựng trường đào tạo y sĩ, các bệnh xá, giúp bạn 1 đại đội ô tô vận tải, mở đường vào Chăm Bát Xắc, căn cứ của quân khu bạn.

Để bảo vệ sườn tuyến vận tải chiến lược phía tây, đầu tháng 4 năm 1971, Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên cùng Phó Chính ủy Hoàng Thế Thiện trực tiếp chỉ đạo giải phóng Đồng Hến. Sau ba ngày bao vây chia cắt, ta tiêu diệt và làm tan rã ba tiểu đoàn quân ngụy Lào - Thái, đuổi địch lên Sê Nô.

Từ ngày 15 đến ngày 20 tháng 5 năm 1971, Phó Tư lệnh Hoàng Kiện trực tiếp chỉ huy tiến công giải phóng Pắc Xoong, đánh chiếm Huội San, Huội Koòng, thị trấn Tha Teng, đuổi địch tháo chạy co cụm về Ê Tu Gin trên trục quốc lộ 23 từ Pắc Xoong đi Pắc Xế, thu hồi toàn bộ cao nguyên Bô Lô Ven.

Qua 5 ngày chiến đấu, cán bộ, chiến sĩ Mặt trận Y phối hợp cùng quân dân Nam Lào đã diệt 10.274 tên, bắt 214 tên, gọi hàng 621 tên khác, thu gần 1.000 súng các loại, bắn cháy 1 máy bay; phá hủy 6 chiếc khác.

Ngày 10 tháng 6 năm 1971, ta tiến công vào Ê Tu Gin đánh tan lực lượng BV44, hai đại đội của BV701, diệt nhiều tên, mở rộng vùng giải phóng của bạn liên hoàn từ Đồng Hến xuống Hạ Lào. Đường chiến lược vươn xuống tây Sê Kông, tạo ra thế mới vững chắc cho vận chuyển và căn cứ chiến lược của chiến trường ba nước.

Thay mặt Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã gửi điện khen: "... Vượt qua nhiều khó khăn, đoàn kết hiệp đồng với quân dân bạn, các đồng chí đã giành được thắng lợi to lớn: tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, bắt nhiều tù binh, thu và phá hủy nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh của địch, đánh thiệt hại nhiều tiểu đoàn quân ngụy Lào và Thái, thu hồi toàn bộ cao nguyên Bô Lô Ven...".

Ngày 2 tháng 4 năm 1971, Bộ Tư lệnh quyết định tổ chức đợt vận chuyển nước rút nhằm hoàn thành một số chỉ tiêu chưa đạt và tạo thêm lượng dự trữ cho một số hướng chiến trường, nhất là Nam Bộ. Đợt vận chuyển này diễn ra đúng thời điểm chiến dịch Đường 9 - Nam Lào vừa kết thúc nên địch tập trung đánh phá dữ dội tuyến vận tải chiến lược. Khó khăn lớn nhất lúc này là máy bay AC 130.

Từ mùa khô 1970- 1971, địch chuyển từ đánh phá cầu đường là chủ yếu sang đánh tiêu diệt sinh lực, phá hủy các phương tiện vận tải, các kho tàng là chủ yếu. Chúng thay đổi quy luật đánh phá, sử dụng máy bay chiến lược B52 và máy bay cường kích thả bom nổ chậm, bom từ trường và mìn vướng nổ, đánh vào lúc chập choạng chiều tối hoặc tảng sáng, đánh vào các địa bàn xuất kích đội hình xe, các khu vực kho đầu mối giao thông.

Đặc biệt, chúng tăng cường trang bị khí tài điều khiển bằng tia lade cho các loại máy bay cường kích để đánh các trận địa pháo. Trong 3 tháng địch đánh 1.104 trận vào các trận địa, trong đó có 55 lần sử dụng tia lade, pha hủy 81 khẩu pháo, làm 311 pháo thủ hy sinh, 262 bị thương. Đó là tổn thất cao nhất của lực lượng cao xạ từ trước tới nay.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #129 vào lúc: 15 Tháng Năm, 2010, 06:02:58 pm »

Nhưng, nguy hiểm hơn cả là thủ đoạn sử dụng máy bay AC 130 oanh tạc cả ngày lẫn đêm. Không một đoàn xe nào không bị chúng phát hiện và tấn công. Số xe bị đánh cháy tăng vọt. Số lái xe bị thương ngày càng nhiều.

Tình hình đó gây lo ngại cho cán bộ, chiến sĩ. Các đơn vị đã ra sức động viên bộ đội nâng cao ý chí chiến đấu đánh địch mà đi, đồng thời đã tiến hành nhưng biện pháp cấp thiết như: tăng cường các vật che chắn bảo vệ cho xe và lái tổ chức đội hình vừa và nhỏ chạy lấn sáng, lấn chiều sớm hơn; tăng cường ngụy trang nghi binh; tổ chức trinh sát báo động chặt chẽ hơn tạo điều kiện cho bộ đội xe chủ động tránh đòn tấn công của địch; tăng cường thợ sửa chữa đi cùng để phục hồi xe khi bị địch đánh hỏng.

Nhưng tất cả các biện pháp trên vẫn nằm trong thế bị động, chỉ có tác dụng hạn chế một phần rất nhỏ, chưa phải là biện pháp đối phó cơ bản có hiệu quả. Đây là một trong những tháng ngày lao đao, gian khổ nhất của Bộ đội Trường Sơn kể từ ngày thành lập.

Trước sự tổn thất nặng nề do máy bay AC 130 gây ra, trong nội bộ lãnh đạo đã nảy sinh sự nhìn nhận và đánh giá khác nhau về địch và ta. Một số cho rằng máy bay AC 130 nhìn được xe ban đêm và đánh rất trúng mục tiêu. Số khác thì cho rằng AC 130 đánh mò, lái xe sợ đạn 40 ly kéo dài nên bỏ chạy, xe mới bị đánh cháy.

Để có kết luận chính xác, Bộ Tư lệnh chủ trương tổ chức một đợt đi thực tế trên đường để nghiên cứu địch. Sau 2 ngày, Bộ Tư lệnh đã nhận được các báo cáo với ý kiến thống nhất: máy bay AC 130 có khả năng nhìn rõ ô tô đang di động trong đêm. Chúng bay cao trên 3 km, chủ yếu bắn đạn 40 ly kéo dài, gây sát thương trên phạm vi rộng. Các đội hình xe khi gặp máy bay AC 130, dù đã tắt đèn để chạy vẫn bị chúng phát hiện và đánh trúng. Trong số xe bị đánh hỏng có 60 đến 70% do AC 130 gây ra.

Xe bị tiến công thường hỏng két nước, vỡ đầu máy, thủng xăm lốp, thủng thùng xăng. Số lái xe bị thương vong từ 10 đến 20%. Trừ trường hợp AC 130 bay trên đội hình xe đã dừng lâu, máy nguội thì chúng không phát hiện được. Thời gian hoạt động của AC 130 trong đêm khoảng 2 đến 3 lần, mỗi lần kéo dài từ 2 đến 3 giờ. Chúng cố tránh hỏa lực của cao xạ, vì vậy các cụm pháo 37 ly chốt ở trọng điểm không có tác dụng đối với chúng.

Từ ý kiến của những người có thực tế chiến đấu trên đường, Bộ Tư lệnh thống nhất kết luận: Máy bay AC 130 là đối tượng cực kỳ nguy hiểm đối với đội hình vận tải ban đêm, vì vậy toàn tuyến phải có những biện pháp đối phó, sáng tạo, táo bạo, linh hoạt, đa dạng, vững chắc, chủ động, bí mật, bất ngờ.

Trước hết phải nắm bắt được quy luật hoạt động của chúng trên địa bàn từng khu vực, từng binh trạm, kiên quyết thay đổi cách hoạt động của ta: chạy lấn sáng, lấn chiều sớm hơn; thiết kế địa bàn xuất phát của đội hình xe tiến lên phía trước sâu hơn; chia đội hình nhỏ xuất kích nhiều hướng; tổ chức cung ngắn: làm nhiều hầm mang cá cho xe ẩn nấp khi bị địch tấn công; tăng cường vật che chắn cho xe và lái; tăng cường các tổ trinh sát cảnh giới dưới đất, trên xe; sử dụng súng 12,7 ly, hoặc pháo 37 ly bắn báo động; tích cực cơ động pháo để bảo vệ đội hình xe; tích cực nghi binh bằng nổ máy các xe vận tải hoặc máy nổ cũ.

Bộ Tư lệnh quyết định thí điểm chạy ngày ở những đoạn đường kín để rút kinh nghiệm. Hàng loạt biện pháp chỉ đạo của Bộ Tư lệnh được triển khai thực hiện khẩn trương. Cục Tham mưu Phòng không tổ chức hệ thống trinh sát thông báo, báo động từ xa trên toàn tuyến bảo đảm cho các đội hình xe chủ động hành tiến hoặc dừng lại tránh máy bay AC 130.

Ngày 1 tháng 5, Binh trạm 41 tổ chức 12 xe do Đại đội trưởng Nguyễn Đình Chiến và dũng sĩ lái xe Trần Ngọc Thế dẫn đầu chạy ban ngày trên đoạn đường mới mở từ Tam Luông vào La Hạp. Lúc đến ngầm Tà Beng và dốc 28 bị máy bay trinh sát phát hiện, hai máy bay cường kích kéo đến thả bom từ trường và bắn đạn 20 ly. Trần Ngọc Thể đã anh dũng lái xe vượt qua, làm bom kích nổ bên vực, giải phóng cả đoàn xe về tới đích an toàn.

Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM