Em tìm được một bài về Hà Nội 60 ngày đêm máu lửa được đăng đã khá lâu trên trang báo Công an nhân dân nhân kỷ niệm Ngày toàn quốc kháng chiến 19/12. Em xin được copy về để thêm một chút tư liệu cho chuyên trang của chúng ta.
Hà Nội, những ngày máu lửa
“Sống chết với Thủ đô”, “Hà Nội, Stalingrat của Việt Nam” - những khẩu hiệu do chiến sĩ ta tự tay viết lên vách chiến lũy, vách tường là tinh thần và sức mạnh của người Hà Nội trong 60 ngày đêm chiến đấu giữa lòng Thăng Long văn hiến...
Kẻ gieo gió và người chuẩn bị bãoNgày 2/3/1946, sau Tổng tuyển cử thắng lợi, Quốc hội họp lần thứ nhất và Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Hồ Chủ tịch đứng đầu được thành lập. Ngày 6/3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Hiệp định sơ bộ với Pháp. Ta chủ trương hòa để tiến. Pháp muốn lấy ngoại giao mở đường cho quân sự. Ta kiên trì củng cố lực lượng để đề phòng bất trắc. Pháp triển khai 15.000 quân trên khắp miền Bắc. Ngày 18/3/1946, 1.200 quân Pháp vào Hà Nội, đóng ở những vị trí được phép. Bọn thực dân hy vọng một “màn đảo chính” nhanh chóng diễn ra ở Hà Nội. Từ đó, quân Pháp liên tiếp vi phạm Hiệp định sơ bộ, chiếm đóng thêm nhiều địa điểm, bí mật lập các ổ tác chiến. Kiều dân Pháp được phát vũ khí. Lính Pháp tăng cường khiêu khích xung quanh nơi chiếm đóng.
Đồng chí Nguyễn Trọng Am, tự vệ chiến đấu của ta đang làm nhiệm vụ bị Pháp vô cớ bắn chết vào ngày 24/7/1946. Ngày 3/8, Pháp gây xung đột ở Bắc Ninh. Tối 6/8/1946, nhiều người đi trên hè phố Hà Nội bị Pháp vô cớ bắn chết. Quân Pháp bắn vào vọng gác Vệ quốc đoàn, ném lựu đạn vào lòng đường...
Ngày 14/9/1946, tạm ước giữa ta và Pháp được ký chưa ráo mực, Pháp đã vi phạm. Trước tình hình này ngày 19/10/1946, Trung ương Đảng họp và nhận định: Nhất định không sớm thì muộn Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp. Tháng 11/1946, trong văn kiện “Công việc khẩn cấp bây giờ” Hồ Chủ tịch viết: “... phải hiểu, phải làm cho dân hiểu rằng: Cuộc kháng chiến sẽ rất gay go cực khổ” nhưng: “Cố ráng sức ra khỏi mùa đông lạnh lẽo, ta sẽ gặp mùa xuân”. Văn kiện còn nhấn mạnh, muốn thắng địch phải: “Trường kỳ kháng chiến – kháng chiến và kiến quốc. Một mặt phá hoại, một mặt kiến thiết. Phá hoại để ngăn địch, kiến thiết để đánh địch...”.
Từ Hà Nội, sau Hội nghị Quân sự toàn quốc cuối năm 1946, tháng 11, Chiến khu XI được thành lập (trong 12 chiến khu của cả nước). Đồng chí Nguyễn Văn Trân là Bí thư Khu ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban bảo vệ Khu XI. Đồng chí Vương Thừa Vũ làm Chỉ huy trưởng mặt trận Khu XI... Đồng chí Trần Quốc Hoàn là phái viên Trung ương tại mặt trận Hà Nội. Trung ương giao cho Hà Nội: Nếu địch cố tình gây chiến, phải nhanh chóng đánh trả, chủ động trong tác chiến, kìm giữ thế hung hăng của giặc trong một thời gian, tạo điều kiện cho hậu phương chuẩn bị công cuộc kháng chiến lâu dài.
Với lực lượng 2.500 Vệ quốc quân, 6.000 tự vệ, được đông đảo nhân dân thủ đô ủng hộ, mặc dù vũ khí còn thô sơ so với 6.500 tên thực dân được trang bị hiện đại, Hà Nội đã chuẩn bị cho mình một tư thế hiên ngang trước giờ xuất trận.
Đầu tháng 12/1946, bằng những vụ khiêu khích ngày một nhiều, quân xâm lược Pháp châm ngòi và phát động cuộc chiến cục bộ trong lòng phố phường Hà Nội. Ngày 4/12, Nhà thông tin Bờ Hồ bị đốt. Ngày 10/12, nhiều công sự của tự vệ ta bị Pháp đặt mìn phá hủy. Ngày 16/12, Lực lượng Công an ta đang giữ gìn trật tự trên đường phố bị quân Pháp vô cớ xả súng. Ngày 17/12, tự vệ ta bị tấn công, nhân dân phố Hàng Bún, Yên Ninh bị tàn sát. Đặc biệt nghiêm trọng, ngày 18-12, quân Pháp ra tối hậu thư đòi tự vệ ta nộp vũ khí, đòi chiếm đóng Sở Công an Hà Nội, nắm quyền kiểm soát thành phố về mặt trật tự...
Biết rõ âm mưu độc ác của giặc, với ý chí thà chết không chịu làm nô lệ, nhân dân Hà Nội đã có những hành động kiên quyết. Ngày 16/12/1946, vang lên lời thề quyết tử để bảo vệ thủ đô của Vệ quốc quân trong lễ tuyên thệ. Ngày 18/12/1946, thanh niên tự vệ Hà Nội họp và ra quyết nghị: “Sẵn sàng đợi lệnh, thề sống chết với thủ đô. Lúc này Tổ quốc là trên hết, dân tộc là trên hết”.
Những cuộc chiến đấu trên đường phố
“Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ...!”, và “Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước!”. Ngày 19/12/1946, Bác ra lời kêu gọi cả nước kháng chiến. Quyết định lịch sử này được truyền đạt tới Khu ủy Khu XI. Chiều 19/12, kế hoạch kháng Pháp và giờ nổ súng được bí mật phổ biến.
Ngày 19/12/1946, lúc 20 giờ 3 phút, Nhà máy Điện Yên Phụ ngừng chạy, đèn thành phố đồng loạt vụt tắt. Đây là hiệu lệnh chiến đấu. Từ các pháo đài Láng, Xuân Tảo, Xuân Cang, Đào Xuyên, những đường lửa của pháo binh ta bay xé màn đêm nhằm những nơi giặc Pháp đóng quân trong Thành Hoàng Diệu rót đạn. Các vị trí khác của giặc đóng trên phố bị lính vệ quốc của ta cùng các đơn vị phối thuộc của công an, tự vệ đồng loạt tấn công...
Cầu Long Biên bị nghẽn vì ta đặt bom phá. Nhiều cây to và cột đèn do tự vệ ta đặt mìn phá đổ ngổn ngang. Toa xe điện, xe lửa bị lật nghiêng ở các ngã ba, ngã tư, nhiều gia đình khuân đồ đạc, bàn ghế ra đường làm chướng ngại vật. Nội đô đồng loạt tiến công.
Nhiều vùng ngoại thành trống mõ nổi lên, huy động người tiếp ứng cho thành phố. Tại các khu Lãng Bạc, Đại La, Đống Đa, Mê Linh... lực lượng tự vệ được tập trung thành đại đội, tiểu đoàn khẩn cấp hành quân về phía các cửa ô. Cũng trong đêm này, ở các địa phương xa hơn như Hoài Đức, Đan Phượng, Thanh Trì, thị xã Hà Đông... đã gửi lực lượng tự vệ tham gia đánh Pháp trong lòng phố Hà Nội.
Sau phút choáng váng ban đầu, thực dân Pháp đã phản công một cách điên cuồng. Quân trong thành của chúng được tung ra để ứng cứu các vị trí bị đánh, bị chiếm. Ga Hà Nội, cầu Long Biên, nhà Bưu điện, Bắc Bộ phủ... Tổng chỉ huy và doanh trại Vệ quốc đoàn ở Hàng Bài, Sở chỉ huy tự vệ ở nhà Đấu Xảo... Ở đâu quân xâm lược cũng gặp phải sức chống cự mãnh liệt của quân dân ta.
Đồng chí Lê Gia Định, Chính trị viên đại đội đã hy sinh trong trận quyết tử bảo vệ Bắc Bộ phủ. Các chiến sĩ tự vệ nhà Bưu điện đánh giặc đến người cuối cùng. Tại trụ sở Bộ Quốc phòng, trận chiến quyết liệt kéo dài tới ngày 21/12/1946.
Ngăn chặn quân Pháp nống ra, các vùng quanh Hà Nội làm vườn không nhà trống. Đường giao thông từ Hà Nội đi các tỉnh bị triệt phá. Sân bay Bạch Mai bị dân quân khu phố 3 khống chế. Dân quân đặc khu Ngọc Thụy, Gia Lâm tổ chức các đợt đột kích vào sân bay.
Các đợt phản kích của Pháp bị chặn lại. Không những thế, ta còn tiếp tục tấn công chúng ở Nhà Dầu Sheell, nhà ga, Nhà in IDEO, ô Yên Phụ... khiến mưu đồ muốn làm chủ Hà Nội sau 24 giờ của thực dân Pháp bị phá sản. Chỉ trong đêm 19 rạng ngày 20/12/1946, 300 tên thực dân đã bị tiêu diệt cùng 5 xe tăng, 2 xe zeep, 7 xe vận tải bị phá hủy...
(Còn nữa...)