Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 03:26:53 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Tóm tắt các chiến dịch trong kháng chiến chống Pháp  (Đọc 152387 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
lexuantuong1972
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 1885


TÂT CẢ VÌ ĐỒNG ĐỘI


« Trả lời #100 vào lúc: 21 Tháng Mười, 2012, 08:28:33 pm »


BÍ MẬT VƯỢT SÔNG, ĐÁNH THẮNG TRẬN MỞ MÀN

QĐND - Thứ Bẩy, 20/10/2012, 20:32 (GMT+7)

QĐND - Tháng 9-1952, Trung ương Đảng và Bộ Tổng tư lệnh quyết định mở chiến dịch Tây Bắc và lựa chọn Nghĩa Lộ làm mục tiêu tấn công mở màn chiến dịch.

Thực hiện chủ trương của Đảng, từ tháng 5-1952 quân và dân tỉnh Yên Bái bước vào chuẩn bị mọi mặt để phối hợp và phục vụ chiến dịch. Dân quân, du kích các xã Việt Long, Hưng Khánh, Đại Đồng, Tân Hợp (huyện Trấn Yên), Cát Thịnh, Thượng Bằng La, Minh An, Bình Thuận, Chấn Thịnh (huyện Văn Chấn) cùng các đơn vị bộ đội địa phương dẫn đường đưa quân báo của Đại đoàn 308 vào vùng địch và bảo vệ an toàn các con đường từ vùng tự do vào Nghĩa Lộ như đường 13A, đường từ Mậu A qua đèo Quế, đèo Khâu Vác, nắm tình hình địch ở các đồn Ba Khe, Ca Vịnh, Sài Lương, Thượng Bằng La, Đồng Bồ. Tỉnh còn thành lập Hội đồng cung cấp tiền phương, bố trí cán bộ phụ trách việc huy động và chỉ huy dân công phục vụ chiến dịch.

Bộ đội ta hành quân tiến vào Tây bắc năm 1952. Ảnh tư liệu.

Cuối tháng 9, đầu tháng 10-1952, các đơn vị từ địa điểm tạm đứng chân đã tiến vào vị trí tập kết, song do địa hình hiểm trở, phải vượt sông Hồng, nên việc vận chuyển vũ khí, vật chất hậu cần cho chiến dịch gặp nhiều khó khăn. Bộ đội và dân quân du kích đã dựa vào dân, nghiên cứu địa hình, học tập kinh nghiệm của dân để lập bến, tổ chức vượt sông. Ban chỉ huy vượt sông tại các bến hiệp đồng chặt chẽ, liên hệ và vận động nhân dân các xã ven sông ủng hộ tre, nứa, lá cọ, dựng các lán trại cho các đơn vị tập kết chuẩn bị vượt sông; phối hợp, tạo điều kiện cho bộ đội công binh lắp cầu phao, đóng thuyền, bè, mảng, dẫn đường cho bộ đội chủ lực, vũ khí, đạn dược qua sông an toàn, đúng kế hoạch. Khối lượng vũ khí, vật chất vận chuyển qua sông Hồng lên tới gần 50 nghìn tấn.

Phục vụ chiến dịch, nhân dân ở các xã ở vùng tự do ủng hộ lương thực, thực phẩm cho bộ đội; tham gia dân công vận chuyển vũ khí, vật chất hậu cần, bảo vệ bộ đội. Bộ chỉ huy chiến dịch và các đơn vị bộ đội, dân quân, du kích tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân, thực hiện tốt phòng gian, bảo mật, nên kế hoạch tác chiến, ý định mở chiến dịch giữ được bí mật đến khi mở màn chiến dịch. Chỉ sau 2 ngày chiến đấu, trận đánh Nghĩa Lộ mở màn chiến dịch Tây Bắc đã giành thắng lợi.

Tân Vũ Bảo Yên

http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/301/302/302/211930/Default.aspx
Logged

Ký ức một thời hoa lửa: (P1)(P2)(P3)(P4)
lexuantuong1972
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 1885


TÂT CẢ VÌ ĐỒNG ĐỘI


« Trả lời #101 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2012, 08:46:49 pm »

Chiến dịch Biên giới Thu-Đông 1950

NGHỆ THUẬT LỰA CHỌN KHU VỰC TÁC CHIẾN VÀ ĐỘT PHÁ MỞ MÀN CHIẾN DỊCH

QĐND - Thứ Bẩy, 03/11/2012, 18:54 (GMT+7)

QĐND
- Từ cuối năm 1949 đến đầu năm 1950, tình hình thế giới có nhiều thay đổi, cách mạng Trung Quốc thành công, nhà nước Trung Hoa ra đời (1-10-1949). Để thúc đẩy cuộc kháng chiến phát triển và đánh bại âm mưu của thực dân Pháp, tháng 6-1950, Thường vụ Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch tiến công biên giới (Chiến dịch Lê Hồng Phong II), nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, khai thông biên giới với Trung Quốc và các nước XHCN, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc.

Thực hiện quyết tâm của Trung ương Đảng, sau khi phân tích, nắm tình hình, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định phương châm đánh điểm, diệt viện, lấy tiêu diệt địch ngoài công sự là chính. Trận then chốt mở màn chiến dịch là cứ điểm Đông Khê. Thất thủ Đông Khê, địch sẽ phải ứng cứu và ta bố trí trận địa sẵn đón địch. Sáng 16-9-1950, bộ đội ta nổ súng tiến công cứ điểm Đông Khê; đến 10 giờ ngày 18-9-1950 ta đã làm chủ Đông Khê. Đúng như dự kiến, Đông Khê thất thủ, ngày 1-10-1950, quân Pháp điều động Binh đoàn Lơ-pa-giơ từ Thất Khê lên ứng cứu Đông Khê và ngày 3-10-1950, rút Binh đoàn Sác-tông từ Cao Bằng về nhằm hợp quân với Binh đoàn Lơ-pa-giơ ở Cốc Xá. Từ ngày 3 đến 7-10, bộ đội ta lần lượt tiêu diệt Binh đoàn Lơ-pa-giơ ở Cốc Xá, Binh đoàn Sác-tông ở điểm cao 477 và một số điểm cao khác như 590, 649, 765... hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Ngày 14-10-1950, chiến dịch kết thúc thắng lợi.


Niềm vui của bộ đội ta tham gia Chiến dịch Biên giới Thu-Đông 1950 thắng lợi. Ảnh tư liệu

Bị thất bại, địch hoang mang rút khỏi các cứ điểm Thất Khê, Lộc Bình, Na Sầm, Đồng Đăng, Lạng Sơn, Đình Lập, An Châu. Đường số 4 và một vùng biên giới Việt-Trung được giải phóng. Thắng lợi của chiến dịch, mở ra một bước ngoặt quan trọng của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đánh dấu bước phát triển vượt bậc nghệ thuật quân sự Việt Nam, điển hình là nghệ thuật lựa chọn chính xác khu vực tác chiến chủ yếu và điểm đột phá mở màn chiến dịch.

Trong chiến dịch này, ta chọn Đường số 4 dài 320km, riêng đoạn Cao Bằng - Thất Khê dài 70km được chọn làm khu vực tác chiến chủ yếu. Đó là đoạn đường cách xa Lạng Sơn (trung tâm chỉ huy biên thùy của địch) khoảng100km, là khu vực địch sơ hở. Các vị trí Cao Bằng - Đông Khê - Thất Khê cách xa nhau từ 25km đến 45km, lại là đầu mút của đường số 4, nên khả năng tự vệ của địch ở từng vị trí kém, khả năng ứng cứu và tăng viện tiếp tế từ dưới lên càng khó khăn, tốn kém và nguy hiểm kể cả bằng đường bộ, đường không. Địa hình núi non, hiểm trở thuận tiện cho ta cơ động tác chiến, mà chủ yếu là đi bộ và sử dụng vũ khí mang vác.

Chọn Đường số 4 phù hợp với mục đích chiến dịch là giải phóng Đường số 4, khai thông biên giới Việt-Trung. Khu vực này gần hậu phương kháng chiến của ta, thuận tiện chỉ đạo và huy động lực lượng cùng phương tiện phục vụ tiền tuyến, cũng như toàn bộ công tác bảo đảm chiến dịch. Cao Bằng và Đông Khê nối liền với Trung Quốc bằng 4 trục đường, trong đó Trùng Khánh và Thủy Khẩu đang được dùng cho việc chuẩn bị vật chất cho chiến dịch.

Trong khu vực tác chiến chủ yếu (Cao Bằng-Đông Khê-Thất Khê), Bộ chỉ huy chiến dịch chọn Đông Khê làm điểm đột phá mở màn chiến dịch, bởi vì Đông Khê là mắt xích quan trọng nối Cao Bằng với Thất Khê. Tiến công Đông Khê, toàn bộ tuyến phòng ngự của địch trên Đường số 4 bị chia cắt và Cao Bằng bị cô lập, địch sẽ phải tăng cường đưa quân ứng cứu Đông Khê hoặc rút quân từ Cao Bằng về để giữ Đông Khê. Mặt khác, địch ở Đông Khê yếu hơn so với các vị trí khác, chỉ có 2 đại đội lê dương, 2 trung đội ngụy, một trung đội pháo 105mm, công sự kiên cố. Trong khi đó, địch bố trí ở liên khu biên giới Đông Bắc 11 tiểu đoàn và 9 đại đội bộ binh, gần 30 khẩu pháo lớn, 4 đại đội cơ giới, 4 đại đội công binh, 8 máy bay, có lực lượng dự bị cơ động chiến lược chi viện. Về ta, chọn Đông Khê phù hợp với nguyên tắc bảo đảm chắc thắng trận đầu trong tác chiến chiến dịch, phù hợp với cách đánh điểm diệt viện, lấy tiêu diệt địch ngoài công sự là chính, thuận tiện triển khai binh hỏa lực, phù hợp với khả năng chiến đấu của bộ đội.

Thắng lợi của Chiến dịch Biên giới 1950 còn do chọn phương châm tác chiến đúng; tập trung ưu thế lực lượng đến mức cần thiết để bảo đảm đánh chắc thắng trận then chốt mở màn chiến dịch. Ta bố trí thế trận hiểm, chuyển hóa thế trận kịp thời, bao vây chặt, chia cắt tốt, chỉ đạo vận dụng chiến thuật linh hoạt, sáng tạo, tiến công mạnh, lần lượt tiêu diệt từng mục tiêu. Trong suốt quá trình chuẩn bị và thực hành chiến dịch, ta luôn giữ vững và phát huy quyền chủ động; chuẩn bị mọi điều kiện cơ sở vật chất, tiến hành công tác chính trị sắc bén, xây dựng ý chí quyết tâm chiến đấu anh dũng, chiến đấu liên tục cho bộ đội.

Thắng lợi của Chiến dịch Biên giới Thu-Đông năm 1950 tạo nên sự thay đổi cục diện của cuộc chiến tranh, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân ta sang một giai đoạn mới - giai đoạn ta hoàn toàn nắm quyền chủ động tiến công chiến lược. Thực tế chiến dịch để lại những kinh nghiệm quý về nghệ thuật lựa chọn khu vực tác chiến và điểm đột phá mở màn chiến dịch, là cơ sở khoa học để ta vận dụng sáng tạo vào các chiến dịch tiếp theo, mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta đến thắng lợi hoàn toàn.

Đại tá ĐÀO VĂN ĐỆ

http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/301/302/302/214067/Default.aspx
______
Tôi đang nghi ngờ tấm ảnh minh họa ở bài này bị nhầm lẫn. Hình ảnh mấy chiến sĩ ta đầu đội mũ cối  và ngồi trên xe jeep lùn của những năm chống Mỹ  Angry. Các bác đánh giá hộ.
[/i]
« Sửa lần cuối: 04 Tháng Mười Một, 2012, 11:00:39 am gửi bởi lexuantuong1972 » Logged

Ký ức một thời hoa lửa: (P1)(P2)(P3)(P4)
lexuantuong1972
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 1885


TÂT CẢ VÌ ĐỒNG ĐỘI


« Trả lời #102 vào lúc: 04 Tháng Mười Một, 2012, 10:54:28 am »


Kỷ niệm 60 năm chiến thắng Tây Bắc (1952-2012)


KÝ ỨC NHỮNG NGÀY ĐI CHIẾN DỊCH  


QĐND - Thứ Bẩy, 03/11/2012, 18:54 (GMT+7)

Đánh thắng trận mở màn

QĐND - Sáu mươi năm đã trôi qua, nhưng ấn tượng về trận tiêu diệt Phân khu Nghĩa Lộ còn in đậm trong tâm trí chúng tôi, những cựu chiến binh của Đại đoàn Quân Tiên Phong - 308, đơn vị đảm nhiệm trọng trách tiến công Phân khu Nghĩa Lộ, mở màn chiến dịch Tây Bắc thu đông 1952. Trung đoàn Thủ Đô (e102) tiêu diệt địch ở Pú Chạng, Trung đoàn Tu Vũ (e88) tiêu diệt địch ở Nghĩa Lộ phố, Trung đoàn Bắc Bắc (e36) tiêu diệt địch ở Cửa Nhì.

Phân khu Nghĩa Lộ là một trong bốn phân khu của giặc Pháp cùng với các Phân khu Sông Đà, Phân khu Sơn La, Phân khu Lai Châu hợp thành Khu tự trị Tây Bắc (gọi tắt là ZANO), chiếm đóng miền Tây Bắc của ta.

Chỉ huy Phân khu Nghĩa Lộ là viên quan tư Ti-ri-ông (Tirillon), một tên ác ôn thực dân cáo già từ thời kỳ Pháp thuộc, y nói được tiếng Thái, có mặt ở Tây Bắc từ năm 1940.

Tại thung lũng Nghĩa Lộ, chính giữa là thị trấn, cuối thị trấn về phía tây nam là cứ điểm Nghĩa Lộ (còn gọi là Nghĩa Lộ phố) xây dựng trên vị trí trại lính khố xanh cũ, có khoảng 500 quân đồn trú. Sân bay dã chiến của phân khu trải dài từ cứ điểm Nghĩa Lộ đến gần dãy núi Pú Chạng. Cứ điểm Pú Chạng (còn gọi là Nghĩa Lộ đồi) có 300 quân chiếm đóng ở một địa thế cao. Với hệ thống công sự vững chắc, với địa thế hiểm hóc, lại có vành đai các tiền đồn bảo vệ, khi bị uy hiếp, lại có quân tăng viện bằng nhảy dù, nên viên quan tư Ti-ri-ông cho rằng, Việt Minh không có khả năng đánh Nghĩa Lộ. Y không biết số phận của y sắp được định đoạt.


Một đơn vị tham gia chiến dịch nghiên cứu vị trí chiến đấu trên sa bàn. Ảnh tư liệu  


Đại đoàn trưởng Vương Thừa Vũ nhận nhiệm vụ do Đại tướng Võ Nguyên Giáp giao trong Hội nghị của Bộ Tổng tư lệnh họp từ ngày 6 đến ngày 9-9-1952. Ông nhận rõ trách nhiệm rất nặng nề: Trận đầu phải thắng! Đó là truyền thống của quân đội ta. Ông giao cho Trung đoàn trưởng 36 Hồng Sơn đi trinh sát đồn Cửa Nhì, còn ông dẫn đầu đoàn cán bộ đi vào Nghĩa Lộ. Phương án tác chiến sơ bộ hiện ra trong đầu ông: “Giao cho Trung đoàn 102 đánh Pú Chạng, Trung đoàn 88 đánh Nghĩa Lộ phố”. Trong đoàn cán bộ, ai cũng biết Đại đoàn trưởng Vương Thừa Vũ tuổi cao, mắc bệnh đau dạ dày nặng; Trung đoàn trưởng 102 Vũ Yên đang bị lên một cái nhọt ở bắp đùi, Trung đoàn trưởng 88 Thái Dũng bị cụt bàn tay phải, trèo đèo leo dốc hay bị ngã…

Đại đoàn trưởng Vương Thừa Vũ đến Nậm Mười thì gặp đồng chí Sinh, Phó bí thư Huyện ủy Văn Chấn từ vùng địch ra cung cấp tình hình. Đồng chí Sinh là người mà tên Boa Lô (Boileau), chỉ huy phó Phân khu Nghĩa Lộ đặt giá cái đầu bằng một tạ muối. Được vài ngày, đoàn cán bộ chuẩn bị chiến trường cạn lương thực, đồng chí Phách cán bộ địa phương đã kịp thời vận động nhân dân bản Hẻo tiếp tế cho đoàn. Lúc đoàn rút ra thì đại đội trưởng súng cối Mạnh Trung lên cơn sốt ly bì, một số chiến sĩ trinh sát dầm sương, ngâm nước, nhịn đói, cũng bị ốm nặng. Đồng chí Phách đề nghị với Đại đoàn trưởng để các đồng chí ốm ở lại bản Hẻo...

Đêm 7-10-1952, đại quân vượt sông Thao. Đại đoàn 308 và pháo binh qua bến Âu Lâu, các đơn vị khác qua các bến Mậu A, Cổ Phúc. Chỉ trong một đêm, nhân dân Yên Bái chở hết quân của Đại đoàn 308 và pháo binh sang sông. Thật là một kỳ tích! Người chèo thuyền số đông lớn tuổi, lại có những em gái 15, 16 tuổi, bóng nhỏ vai gầy, cúi rạp xuống dưới sức nặng của mái chèo. Nam nữ thanh niên Yên Bái đi bộ đội, đi dân công hết cả rồi chăng? Một kỳ tích nữa là cả một tập đoàn chiến dịch gần 5 vạn quân vượt sông Thao tiến vào Tây Bắc mà địch không hề hay biết. Cho tới 10 ngày sau đó, khi quân ta nổ súng tiêu diệt Phân khu Nghĩa Lộ, Bộ chỉ huy Pháp ở Hà Nội vẫn đinh ninh là Việt Minh sẽ tấn công hướng đồng bằng Bắc Bộ.

Qua sông, Trung đoàn 102 và Trung đoàn 88 ở mũi tiến công chính theo đường mòn xuyên rừng vượt Khau Vác tiến vào Nghĩa Lộ; Trung đoàn 36 theo đường 13 vượt đèo Bụt tiến vào Cửa Nhì.

Dân công gồng gánh lương thực, đạn dược theo sát bộ đội, đường trơn mưa ướt, có lúc ùn tắc không nhích được nửa bước vẫn cứ gánh gồng trên vai không dám đặt xuống. Đường mòn nhão bùn như vữa, bốc lên mùi tanh của lá mục rừng già, muỗi vắt hàng đàn, bàn chân bị nước ăn trắng bệch, có chỗ rộp phồng. Nhưng không một ai lùi bước.

Ngày 14-10-1952, chiến dịch Tây Bắc mở màn. Để tạo thế cho Đại đoàn 308 vào sâu chiếm lĩnh trận địa bao vây tiêu diệt Sở chỉ huy Phân khu Nghĩa Lộ, các trung đoàn của đơn vị bạn đánh trước một số vị trí: Trung đoàn 174 đánh Ca Vịnh, Trung đoàn 141 đánh Sài Lương, quân địch ở các vị trí này bỏ chạy. Trung đoàn 98 tiêu diệt vị trí Gia Phù.

Ngày 15, Ti-ri-ông chỉ huy trưởng Phân khu Nghĩa Lộ đưa một đại đội Ta-bo (lính Ma-rốc) vừa được tăng cường đi sục sạo ở Khau Vác, bị một đơn vị của Đại đoàn 312 tiêu diệt gọn tại Nậm Mười.

Ngày 16-10, các vị trí địch ở Thượng Bằng La, Ba Khe rút chạy. Bộ chỉ huy Pháp ở Hà Nội thấy tình hình nghiêm trọng vội ném tiểu đoàn dù số 6, do Bi-gia (Bigeard) chỉ huy xuống Tú Lệ để chặn đường tiếp tế của quân ta, giữ Sơn La và giải tỏa cho Nghĩa Lộ. Chúng cũng tăng cường Tiểu đoàn 3 Lê dương lên Nà Sản để bảo vệ Sơn La.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp ra lệnh cho Đại đoàn 308 nhanh chóng tiến vào bao vây chặt quân địch ở Nghĩa Lộ, không cho chúng rút chạy về Sơn La và nhanh chóng tiêu diệt toàn bộ quân địch.

Ngày 17-10, hai Trung đoàn 102 và 88 từ đỉnh cao 1.500m đổ xuống tiến vào chiếm lĩnh trận địa, bao vây Nghĩa Lộ.

Lợi dụng sương mù, Trung đoàn 102 cùng với pháo binh và súng phòng không chiếm lĩnh những điểm cao đối diện với Pú Chạng, đợi lệnh nổ súng; Trung đoàn 88 chờ trời tối sẽ tiến vào Nghĩa Lộ phố. Trong lúc đó, Trung đoàn 36 đã bao vây Cửa Nhì.

14 giờ 30 phút, pháo binh ta bắn phá trận địa pháo 105mm của địch ở Nghĩa Lộ phố, tạo điều kiện cho Trung đoàn 102 từ 3 hướng chia làm nhiều mũi tiến đánh Pú Chạng.

Ba tốp máy bay Hen-cát và một tốp B26 xuất hiện trên bầu trời, ném bom na-pan và bom phá vào đội hình xuất phát xung phong, làm 34 cán bộ, chiến sĩ bị thương, trong đó có Trung đoàn phó Hùng Sinh. Bộ đội phòng không nghênh chiến, bắn rơi 2 chiếc Hen-cát. Đại đội chủ công 267 lọt vào đồn, nhanh chóng thọc sâu chia cắt quân địch. Đến 20 giờ, Trung đoàn 102 tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm Pú Chạng, bắt sống 177 tên địch, trong đó có viên quan tư Ti-ri-ông. Trong lúc quân ta thu dọn chiến trường, máy bay địch lại ném bom xuống trận địa, Tiểu đoàn trưởng Vũ Phương hy sinh ngay dưới chân đồi.

Tôi rất quen biết Vũ Phương, một cán bộ trẻ tuổi, thông minh, dũng cảm đã đánh thắng trận Bình Ca năm 1947. Khi ấy tôi là chính trị viên tiểu đoàn, đã kết nạp Vũ Phương vào Đảng ngay sau chiến thắng. Rồi Vũ Phương đánh thắng trận Non Nước và lần này đánh thắng trận Pú Chạng, nhưng đã anh dũng hy sinh.

Cứ điểm Pú Chạng bị tiêu diệt sớm, Đại đoàn trưởng Vương Thừa Vũ ra lệnh cho Trung đoàn 88 chiếm lĩnh trận địa dưới ánh pháo sáng và đèn dù của máy bay địch, đến 3 giờ sáng ngày 18-10 thì nổ súng. Giai đoạn mở của đột phá diễn ra rất gay go. Bộ đội ta vừa đối phó với máy bay vừa khẩn trương diệt các ổ đề kháng của địch trong cứ điểm. Đến 8 giờ sáng ngày 18, Trung đoàn 88 tiêu diệt hoàn toàn vị trí Nghĩa Lộ phố, bắt 235 tên địch, trong đó có cả tên Đại úy Bác-be, chỉ huy quân tăng viện. Ta thu nhiều vũ khí, quân trang quân dụng, trong đó có 2 khẩu pháo 105mm và hàng nghìn viên đạn pháo.

Tại Cửa Nhì, địch cũng dùng máy bay thả bom na-pan xuống trận địa bao vây của ta. Có người trúng na-pan lăn mình dập lửa rồi tiếp tục vây ép địch. Nắm đúng thời cơ lúc quân địch chuẩn bị rút chạy, Trung đoàn trưởng Hồng Sơn ra lệnh tấn công. Trận đánh diễn ra nhanh, gọn. Trong đêm 18, Trung đoàn 36 diệt đồn Cửa Nhì, bắt sống 80 tên địch, trong đó có 2 tên sĩ quan chỉ huy.

Đại đoàn 308 đã hoàn thành nhiệm vụ. Cả 3 trung đoàn đều lập công xuất sắc.

Tại Cửa Nhì, Tiểu đoàn phó Tường (có biệt hiệu là Tường kính) hy sinh. Đó là một cán bộ trẻ, có cặp mắt tươi cười sau cặp kính trắng, rất có năng lực, đầy triển vọng. Anh vấp phải mìn khi đi trinh sát. Trong khi Đại đoàn 308 tiêu diệt Sở chỉ huy Phân khu Nghĩa Lộ thì trên các hướng khác, Trung đoàn 98 tiêu diệt Sở chỉ huy Tiểu khu Phù Yên; địch ở Vạn Yên rút chạy.

Trên hướng Bắc, dưới áp lực của Đại đoàn 312, quân địch ở Gia Hội rút chạy về Tú Lệ, nhập với tiểu đoàn dù tháo chạy về phía sông Đà. Trung đoàn 165 đuổi địch suốt 5 ngày đêm, diệt và làm tan rã hàng trăm quân địch. Ngày 23-10, Đại đoàn 312 đã có mặt ở bờ sông Đà.

Trung tướng PHẠM HỒNG CƯ

(còn nữa)

http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/10/52/52/214117/Default.aspx
Logged

Ký ức một thời hoa lửa: (P1)(P2)(P3)(P4)
lexuantuong1972
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 1885


TÂT CẢ VÌ ĐỒNG ĐỘI


« Trả lời #103 vào lúc: 04 Tháng Mười Một, 2012, 10:59:48 am »


Kỷ niệm 60 năm chiến thắng Tây Bắc (1952-2012)

KÝ ỨC NHỮNG NGÀY ĐI CHIẾN DỊCH (tiếp theo và hết)

QĐND - Chủ Nhật, 04/11/2012, 9:22 (GMT+7)

QĐND - Phía mũi vu hồi chiến dịch đánh vào sau lưng địch ở Lai Châu, Tiểu đoàn 910 (Trung đoàn 148) từ Lào Cai tiến vào Quỳnh Nhai đánh tan một tiểu đoàn ngụy và một tiểu đoàn Ta-bo tới cứu viện.

Sau 10 ngày đêm chiến đấu (từ 14-10 đến 23-10-1952), ta đã giải phóng một khu vực rộng lớn vùng hữu ngạn sông Thao, tả ngạn sông Đà từ Vạn Yên đến Quỳnh Nhai, làm chủ con đường 13 nối liền Yên Bái với Nghĩa Lộ. Phân khu Nghĩa Lộ và Tiểu khu Phù Yên bị tiêu diệt. Ta diệt 500 tên địch, bắt sống hơn 1000 tên, trong đó có 300 lính Âu Phi, nhiều sĩ quan, chỉ huy các cấp.

Đợt một chiến dịch kết thúc thắng lợi.

Bảo vệ vững chắc hậu phương


Mở màn Chiến dịch Tây Bắc, chỉ trong mười ngày, quân ta đã tiêu diệt Phân khu Nghĩa Lộ, Tiểu khu Phù Yên, giải phóng vùng hữu ngạn sông Thao, tả ngạn sông Đà từ Vạn Yên đến Quỳnh Nhai, áp sát sông Đà, chuẩn bị vượt sông tiến sâu vào Tây Bắc.

Quân Pháp đối phó quyết liệt. Một mặt chúng lập phòng tuyến hữu ngạn sông Đà, tăng quân lập tập đoàn cứ điểm Nà Sản; mặt khác, chúng huy động lực lượng mở cuộc hành binh Lo-ren đánh lên hậu phương chiến dịch ở Phú Thọ nhằm triệt đường tiếp tế, tàn phá làng mạc, kho tàng, hòng kéo lực lượng ta về để giảm nhẹ áp lực ở Tây Bắc.


Bộ đội hành quân luồn rừng đi chiến dịch. Ảnh tư liệu

Trong các chiến dịch quân sự mà quân Pháp đã tiến hành cho tới lúc đó ở Đông Dương, thì Lo-ren là cuộc hành binh lớn nhất. Lực lượng gồm: 4 binh đoàn cơ động, 3 tiểu đoàn dù, 5 đội com-măng-đô, 2 tiểu đoàn thiết giáp, 2 đại đội chiến xa hạng nhẹ và thiết giáp trinh sát, 2 thủy đoàn xung kích, 2 cụm pháo binh cùng các đơn vị công binh, tổng số quân lên đến 30.000 người. Cuộc hành binh Lo-ren do Tư lệnh quân Pháp ở Bắc Bộ, Đờ Li-na-rét lập kế hoạch và trực tiếp chỉ huy.

Ngày 28-10-1952, quân địch từ Trung Hà, Việt Trì theo đường sông và đường số 2 đánh lên thị xã Phú Thọ. Ngày 8-11-1952, chúng cho quân nhảy dù xuống Đoan Hùng.

Sự kiện này xảy ra không ngoài dự kiến của Bộ Tổng tư lệnh. Trong hồi ức của mình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: "Ta đã dự kiến khi mở cCiến dịch Tây Bắc, địch có thể đánh lên Phú Thọ, nên đã bố trí tại đây Trung đoàn 176 một tiểu đoàn của Trung đoàn 146 cùng bộ đội địa phương với nhiệm vụ ngăn chặn quân địch, bảo vệ nhân dân, bảo vệ kho tàng".

Bộ Tổng tư lệnh quyết định giữ vững quyền chủ động tiếp tục thực hiện đợt hai chiến dịch Tây Bắc, vượt sông Đà tiến vào giải phóng Sơn La, chỉ rút khỏi đội hình chiến dịch một trung đoàn, nhanh chóng quay về tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, cùng với bộ đội chủ lực và địa phương phá âm mưu địch đánh vào hậu phương ta. Đơn vị được trao nhiệm vụ là Trung đoàn 36, một trung đoàn giỏi đánh vận động, do tiền phương Bộ Tổng tư lệnh trực tiếp chỉ huy. Thời gian nổ súng đánh địch ở Phú Thọ được quy định chậm nhất là ngày 14-11-1952, trước khi đợt hai chiến dịch bắt đầu.

Tại Phú Thọ, nhân dân và các cơ quan, xí nghiệp, kho tàng đã được lệnh sơ tán vào rừng. Quân và dân Phú Thọ sẵn sàng nghênh chiến. Giặc Pháp bước chân vào huyện Tam Nông đã bị chặn đánh, chết 40 tên. Du kích một xã ở Lâm Thao một ngày ba lần đánh bật địch ra khỏi xã, diệt 20 tên. Du kích thị xã Phú Thọ giật bom tiêu diệt một trung đội địch. Dân quân Thanh Ba diệt 10 tên giặc. Dân quân Phù Ninh bám đường số 2 đánh mìn, diệt một xe... Tuy chỉ một, hai xe cơ giới bị lật đổ, vài tên giặc gục xuống, nhưng hiệu quả lớn hơn nhiều: Binh lính địch gờm sợ, không dám tiến sâu vào hai bên đường, đốt nhà, phá phách. Tuy vậy, chúng cũng phá được 3 kho gạo, 1 kho muối, 1 kho vũ khí hơn 100 tấn ta chưa kịp di chuyển.

Sau nửa tháng hành quân, cuộc hành binh Lo-ren với 3 vạn quân Pháp đánh lên Phú Thọ không mang lại cho chúng kết quả mong đợi. Ở Tây Bắc, quân ta vượt sông Đà, tiếp tục tiến công địch.

Ở đồng bằng Bắc Bộ, nắm thời cơ lúc đại bộ phận quân cơ động bị địch giam chân ở Phú Thọ, hai Đại đoàn 320 và 304 tiến sâu vào vùng hậu địch trống rỗng như trong Chiến dịch Hòa Bình cuối năm 1951. Trong vòng 10 ngày, từ 5 đến 15-11-1952, chỉ riêng bên tả ngạn sông Hồng đã có tới 34 vị trí từ một trung đội đến một đại đội địch bị quân ta tiêu diệt, 16 vị trí rút chạy và 29 vị trí bị bao vây. Sáng 14-11-1952, quân ta đánh vào Phát Diệm, bắn chìm 3 tàu địch và tiêu diệt 3 đại đội đồn trú.

Bộ chỉ huy Pháp ở vào tình thế buộc phải rút quân về cứu nguy cho đồng bằng Bắc Bộ. Cũng có thể chúng đã phát hiện có một bộ phận chủ lực ta ở Tây Bắc đã quay về.

Chiều 14-11-1952, Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương, tướng Sa-lăng ra lệnh rút quân.

Lúc này, Trung đoàn 36 đã kịp về đến đất Phú Thọ sau một cuộc hành quân thần tốc đi liên tục 4 ngày 3 đêm từ Cửa Nhì về Phú Thọ. Bộ đội hành quân thâu đêm suốt sáng, chân bước vội vã như chạy, như bay. Điều gì thôi thúc chiến sĩ như vậy? Đó là các tin tức: "Địch đánh lên Phú Thọ!"... "Chúng chiếm Thái Ninh rồi!"... "Chúng nhảy dù Phú Đoan!".

Theo kế hoạch ban đầu, Trung đoàn trưởng Hồng Sơn đã thống nhất với Chỉ huy trưởng Mặt trận Phú Thọ Vũ Hiển, Trung đoàn 36 sẽ đánh đồn địch ở Vân Mộng. Qua sông Hồng, trung đoàn đi đến khu vực Tăng Mỹ, giấu quân bí mật, không chạm trán với quân địch đi càn quét, tích cực chuẩn bị cho trận đánh đồn Vân Mộng diễn ra vào tối 16-11-1952.

Đúng ngày 16-11-1952, trung đoàn nhận được tin địch rút. Điện của tiền phương Bộ Tổng tư lệnh: "Địch bắt đầu rút. Sơn Đông tìm cách đánh ngay" (Sơn Đông là bí danh của Trung đoàn 36 trong Chiến dịch Tây Bắc). Trinh sát của Trung đoàn 36 phái đi trước quay về báo tin: Từ sáng đến chiều 15-11, có 90 xe địch từ Đoan Hùng về Phú Hộ.

Trung đoàn trưởng Hồng Sơn chỉ huy trung đoàn đã nhiều năm, biết rất rõ năng lực của trung đoàn: Tích cực chủ động, cơ động linh hoạt, đã đánh là thắng, đã đánh là quyết định chiến trường. Đó là truyền thống Quân Tiên Phong. Trung đoàn trưởng chuyển quyết tâm tác chiến từ đánh đồn sang phục kích đánh địch rút lui. Thời gian rất gấp, phải đánh ngay sáng hôm sau (17-11), không để cho địch rút quá xuống dưới, địa hình trống trải khó đánh. Khu vực được chọn để phục kích là đoạn đường số 2 từ Chân Mộng đến Trạm Thản.

Cán bộ quân sự đi trước, vừa đi vừa hình thành kế hoạch tác chiến, vừa đi vừa giao nhiệm vụ; Tiểu đoàn 80 chặn đầu, Tiểu đoàn 89 khóa đuôi, gọi Tiểu đoàn 84 về làm dự bị.

Địch chốt 3 đồn ở Vân Mộng, Châu Mộng, Năng Yên. Đoàn cán bộ quân sự do Trung đoàn trưởng Hồng Sơn, các Tiểu đoàn trưởng Cao Lưu, Mai Xuân Tân dẫn đầu đang tìm đường mòn ra đường số 2 thì từ một bụi cây, một ông già tay cầm rìu xuất hiện, nói khẽ: "Bộ đội đi đâu? Đồn Năng Yên kia! Nói to nó nghe thấy?". Đó là cụ Nguyễn Văn Kính quen gọi là ông già "Lán than", chuyên chặt củi đốt than. Cụ dẫn đoàn cán bộ tránh đồn địch, đi ra đường số 2. Trung đoàn trưởng chỉ khu vực bố trí cho các đơn vị, giao nhiệm vụ tại thực địa. Ông già “Lán than” dắt Tiểu đoàn trưởng Cao Lưu và Tiểu đoàn 89 ra nơi ém quân. Phía tiểu đoàn 80 có đồng chí Bình, dân quân xã dẫn đường. Những người đi sau cùng xóa sạch dấu vết. Trận địa phục kích được hình thành trước 5 giờ sáng. Tiết đông lạnh lẽo, trời đầy mây, gió thổi rào rạt. Các chiến sĩ 36 thu mình dưới tán lá rừng đào công sự, chờ giặc đến. Chỉ có vài tổ cảnh giới bí mật bám đường.

Về phía địch, binh đoàn lính dù do Đơ Cuốc-nô chỉ huy đã rút an toàn về tới Việt Trì chiều 15-11. Lực lượng còn lại tập kết tại Đoan Hùng, sáng 17-11 bắt đầu rút, GM4 đi đầu do Kéc-ga-va-rat chỉ huy. GM1 đi sau do Bát-tia-va-ni chỉ huy. Mỗi đơn vị đều có pháo binh, có xe tăng thiết giáp yểm trợ riêng.

Đoàn cơ giới địch nặng nề rời Chân Mộng đi vào thung lũng. Chúng xua đẩy một số đồng bào ta bị bắt đi đầu làm bia đỡ đạn. Chờ cho số đồng bào và bộ phận đi đầu vượt qua trận địa, Trung đoàn trưởng Hồng Sơn hạ lệnh đánh. Kèn lệnh vang lên, toàn trận địa nổ súng. Địch bị hoàn toàn bất ngờ. Ngay từ loạt đạn đầu, hàng chục xe địch bốc cháy, hàng trăm tên địch trúng đạn. Quân ta từ các cánh rừng hai bên đường số 2 tràn xuống, xông vào đội hình xe và binh lính địch đang hoảng loạn, diệt địch. Đội hình địch bị đánh vào khúc giữa. Số xe đi đầu (40 chiếc) chạy thoát về Phú Hộ. Số đi sau chùn lại ở đồn Chân Mộng. Ta đánh nhanh rút nhanh, bắt tù binh, thu vũ khí. Đốt xe xong, ta lui quân, chỉ để lại một lực lượng nhỏ kiềm chế. Suốt ngày 17-11, địch co lại ở đồn Chân Mộng không dám cựa, đến sẩm tối, chúng bí mật rút chạy, nhưng thật bất ngờ, đúng lúc đó, Tiểu đoàn 84 xuất hiện.

Tiểu đoàn 84 đi đánh địch ở Đồn Vàng, nhưng địch ở đó đã rút. Tiểu đoàn trưởng Sơn Mã cho hành quân cấp tốc theo hướng có tiếng súng nổ. Gặp đoàn xe đi cuối, Sơn Mã ra lệnh đuổi theo trong đêm. Đường số 2 đầy xác lính địch và xe cháy làm cho Tiểu đoàn 84 càng hăng say truy kích. Tiểu đoàn trưởng Sơn Mã dẫn đầu bị trúng đạn hy sinh. Chiến sĩ Trần Văn Thoa căm thù đuổi theo dùng thủ pháo diệt xe. Tiểu đoàn 84 đuổi kịp địch, đánh vào những xe đi cuối ở Trạm Thản. Trận phục kích Chân Mộng-Trạm Thản kết thúc lúc 9 giờ tối 17-11-1952. Kết quả: Ta diệt 400 địch, bắt sống 84 tên, bắn cháy 44 xe cơ giới có 17 thiết giáp, thu 1 xe tăng còn nguyên vẹn.

Lúc ấy, tôi là Phó chính ủy Trung đoàn 36 cùng với Ban Chỉ huy trung đoàn nhanh chóng đưa Trung đoàn từ Tây Bắc quay về Phú Thọ đánh thắng trận Chân Mộng-Trạm Thản, tham gia bảo vệ hậu phương chiến dịch.

Sau đó trung đoàn ở lại Phú Thọ giúp đồng bào khắc phục hậu quả cuộc hành binh Lo-ren của giặc Pháp. Chúng tôi không tham dự đợt hai Chiến dịch Tây Bắc.

Đợt hai Chiến dịch Tây Bắc, đêm 15 và 16-11-1952, đại quân ta vượt sông Đà. Sau gần một tháng chiến đấu, ta đã giải phóng toàn tỉnh Sơn La (trừ Nà Sản) và một phần quan trọng tỉnh Lai Châu.

Ngày 10-12-1952, Chiến dịch Tây Bắc kết thúc, giành thắng lợi to lớn. Chiến thắng Tây Bắc Thu đông 1952 đã mở đường cho chiến thắng Thượng Lào, giải phóng Sầm Nưa tháng 5-1953, chiến thắng giải phóng Lai Châu tháng 12-1953 và chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ tháng 5-1954./.

Trung tướng PHẠM HỒNG CƯ

http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/10/52/52/214071/Default.aspx
Logged

Ký ức một thời hoa lửa: (P1)(P2)(P3)(P4)
lexuantuong1972
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 1885


TÂT CẢ VÌ ĐỒNG ĐỘI


« Trả lời #104 vào lúc: 18 Tháng Mười Một, 2012, 05:06:43 pm »

Kỷ niệm 60 năm Chiến dịch Tây Bắc (1952 - 2012)


BƯỚC PHÁT TRIỂN MỚI VỀ NGHỆ THUẬT CHIẾN DỊCH VIỆT NAM TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP

QĐND - Thứ Bẩy, 17/11/2012, 12:21 (GMT+7)

QĐND - Sau chiến thắng Hòa Bình, Tây Bắc là vùng rừng núi duy nhất địch còn kiểm soát được tại Bắc Bộ. Nhận thấy đây là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng, ta có điều kiện tác chiến tập trung, tháng 9-1952, Tổng Quân ủy quyết định mở Chiến dịch Tây Bắc nhằm: Tiêu diệt sinh lực địch, tranh thủ nhân dân và giải phóng một phần đất đai. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm: 3 đại đoàn chủ lực (308, 312, 316), 6 đại đội sơn pháo 75mm, 3 đại đội súng cối 120mm, 1 trung đoàn công binh, 1 tiểu đoàn bộ binh và 11 đại đội bộ đội địa phương.

Sau gần 2 tháng tiến công liên tục, quân và dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 6.029 tên địch, giải phóng một vùng đất đai rộng lớn khoảng 30.000km2 với 250.000 dân, nối liền Tây Bắc với Việt Bắc và Thượng Lào... Chiến dịch Tây Bắc đã hoàn thành xuất sắc các mục tiêu đề ra, khẳng định sự trưởng thành vượt bậc, toàn diện, vững chắc của quân đội ta, đặc biệt là bước phát triển mới, quan trọng về nghệ thuật chiến dịch (NTCD).

Sự phát triển ấy trước hết thể hiện, ta đã tập trung lực lượng phá vỡ từng khu vực phòng thủ then chốt của địch, tạo sự chuyển biến lớn cho chiến dịch. Địch ở Tây Bắc bố trí trên một khu vực rất rộng, trong đó chú trọng tăng cường phòng ngự ở một số điểm then chốt như Nghĩa Lộ, Mộc Châu, Lai Châu để tạo các lá chắn bảo vệ khu trung tâm Sơn La, Lai Châu. Trước đặc điểm phòng ngự của địch, Bộ chỉ huy chiến dịch đã kiên quyết tập trung lực lượng và các mặt bảo đảm để phá vỡ một số khu vực then chốt của địch. Trong đợt 1, ta sử dụng 2 đại đoàn, 1 trung đoàn bộ binh và toàn bộ pháo binh chiến dịch đánh địch ở khu vực Nghĩa Lộ, trong đó sử dụng 2 trung đoàn cùng pháo binh chiến dịch tiến công cụm cứ điểm Pú Chạng - Nghĩa Lộ. Do có ưu thế về binh hỏa lực và cách đánh phù hợp, ta nhanh chóng đập tan phòng tuyến vòng ngoài của địch từ hữu ngạn sông Thao đến tả ngạn sông Đà, từ Vạn Yên đến Quỳnh Nhai.


Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ đạo phương án tác chiến đánh đồn Nghĩa Lộ năm 1952. Ảnh tư liệu.

Trong đợt 2 chiến dịch, ta sử dụng 3 đại đoàn thiếu (6 trung đoàn) và toàn bộ pháo binh chiến dịch đánh địch ở khu vực Mộc Châu, Bản Hoa, Ba Lay..., trong đó, sử dụng 2 trung đoàn tiến hành trận then chốt tiêu diệt cứ điểm Mộc Châu, do tiểu đoàn ngụy Thái số 2 chiếm giữ. Các trận tiến công ưu thế của ta trên khu vực này, đặc biệt là trận Mộc Châu đã phá vỡ chiếc lá chắn của địch trên Đường số 6, buộc chúng phải rút khỏi các vị trí Chiềng Pan, Sông Con, Tạ Say, Sa Piệt, Tạ Khoa..., khai thông con đường lên Tây Bắc, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để Trung đoàn 165 thọc sâu giải phóng Mường Sài, Sơn La và một vùng rộng lớn Nam Lai Châu.

Bằng việc chọn đúng và tập trung lực lượng ưu thế đập vỡ các khu vực then chốt, hiểm yếu, ta nhanh chóng phá vỡ thế trận phòng ngự của địch, làm rối loạn chỉ huy, dồn địch vào thế bị động đối phó, tạo ra những thuận lợi để chiến dịch phát triển nhanh chóng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng đất đai.

Cùng với đó ta tổ chức nghi binh, giữ bí mật chặt chẽ, tạo bất ngờ lớn với địch. Chiến dịch Tây Bắc là chiến dịch lớn, tiến hành trên một địa bàn rộng, với lực lượng và binh khí kỹ thuật lớn, đường hành quân xa... Để giữ bí mật, tạo bất ngờ lớn đối với địch, Bộ Tổng tư lệnh đã có kế hoạch chu đáo để che giấu mọi hoạt động chuẩn bị và tìm cách đánh lạc hướng quân Pháp. Trong quá trình chuẩn bị, việc sửa chữa những trục đường vận chuyển bằng ô tô, đường 13 từ Chủ Chè đi Yên Bái vào Ba Khe, Đường số 6 từ Hòa Bình lên Suối Rút và đường Hồi Xuân lên Suối Rút, được tiến hành từ nơi xa địch trước. Hậu cần không chuyển hàng hóa lên lót ổ, lập chân hàng bên hữu ngạn sông Hồng, mà phải tập kết bên tả ngạn, tổ chức vận chuyển theo sát các mũi tiến công...

Đặc biệt, Bộ chỉ huy tiến hành một kế hoạch nghi binh lớn, hiệu quả. Trung đoàn 238 ở Bắc Ninh, Bắc Giang mang tên mới là Đại đoàn 316; Trung đoàn 246 ở Vĩnh Yên mang tên Đại đoàn 308; Trung đoàn 91 ở Sơn Tây, Phú Thọ mang tên Đại đoàn 312; điện đài thường trực của các đại đoàn chủ lực tham gia Chiến dịch Tây Bắc đều bố trí ở vị trí cũ, tiếp tục phát tin liên lạc định kỳ theo mật mã cũ để lừa địch. Đúng ngày triển khai chiến dịch, Bộ Tổng tham mưu cho thay đổi mật mã, tổ chức tập trung dân quân tiến hành các cuộc chuyển quân rầm rộ ở Vĩnh Phúc, Hà Đông, Hà Nam, Ninh Bình; tổ chức làm cầu, sửa đường qua Tu Vũ để xuống Khu 3; đồng thời đưa 2 đại đoàn 304 và 320 vào địch hậu cùng thời điểm các đơn vị tham gia chiến dịch lên đường.

Các hoạt động nghi binh của ta trên nhiều hướng đã đánh lừa được Bộ chỉ huy Pháp ở Hà Nội. Chúng vẫn đinh ninh ta sẽ đánh đồng bằng và bố trí 29 trong số 32 tiểu đoàn cơ động vào việc phòng thủ hai bờ Nam, Bắc sông Hồng. Ngay cả khi một loạt vị trí xung quanh phân khu Nghĩa Lộ bị tiêu diệt, Bộ chỉ huy Pháp ở Hà Nội vẫn chưa biết hướng tiến công chủ yếu của ta.

Khi tiến hành chiến dịch, ta vẫn tiếp tục thực hiện các biện pháp nghi binh, bảo mật làm cho địch bất ngờ về hướng tiến công chủ yếu của đợt 2. Ta đã sử dụng Trung đoàn 165 tiến công trên hướng thọc sâu, ở khu vực phía Nam Lai Châu làm cho địch lầm tưởng đây là hướng chính, lập tức điều lên Lai Châu 2 tiểu đoàn đồng thời tăng viện cho Nà Sản 2 tiểu đoàn. Trong khi đó, trên hướng chủ yếu (Nam Sơn La), các trung đoàn của ta vượt sông Đà bí mật, an toàn, triển khai lực lượng đánh địch thắng lợi.

Có thể nói, trong Chiến dịch Tây Bắc, ta đã kết hợp chặt chẽ giữa nghi binh với phòng gian, giữ bí mật; đã lừa được địch trong một chiến dịch lớn, tạo được yếu tố bất ngờ để giành thắng lợi. Đây thực sự là bước tiến quan trọng, thể hiện sự phát triển mới về NTCD trong giai đoạn này.

Ta đã tổ chức thành công các trận then chốt tiêu diệt các cụm cứ điểm mạnh của địch ở địa hình rừng núi, thể hiện bước tiến mới trong đánh công kiên của bộ đội ta. Trong đợt 1, ta đã tổ chức thành công trận then chốt tiêu diệt cụm cứ điểm Pú Chạng - Nghĩa Lộ. Đây là trận công kiên quy mô 2 trung đoàn, đánh vào cụm cứ điểm mạnh nhất của phân khu Nghĩa Lộ, do 1 tiểu đoàn chiếm giữ, có hỏa lực khá mạnh và hệ thống công sự vật cản kiên cố, trên điểm cao có giá trị về chiến thuật. Trong trận này, ta đã tập trung ưu thế hơn hẳn địch; tổ chức đội hình chặt chẽ; thực hành chiến đấu công kiên, như bao vây, chiếm lĩnh trận địa, đột phá tiền duyên, chiến đấu tung thâm, củng cố giữ vững trận địa, rút lui, hiệp đồng giữa bộ binh và pháo binh, cũng như kiềm chế pháo binh địch... bộ đội ta cũng có nhiều tiến bộ. Bộ chỉ huy chiến dịch còn tổ chức tiêu diệt một loạt vị trí nhỏ tiền tiêu, đồng thời đưa lực lượng bao vây kiềm chế các cứ điểm lân cận không cho địch tổ chức ứng cứu, chi viện, tạo điều kiện chắc thắng cho trận đánh... Trong đợt 2, ta cũng đã tổ chức thành công trận công kiên quy mô hai trung đoàn, tiêu diệt cứ điểm Mộc Châu, do Tiểu đoàn ngụy Thái số 2 chiếm giữ.

Đúng như Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định tại Hội nghị sơ kết Chiến dịch ngày 10-12-1952: "Thu Đông 1952 là Thu Đông chiến thắng Tây Bắc. Nếu nhìn rộng ra toàn chiến trường Bắc Bộ thì đó là thắng lợi lớn của ta trên con đường tiếp tục giành thế chủ động...”

--------------

[1]. Thắng lợi đó đã rèn luyện nhiều cho bộ đội ta, đánh dấu bước phát triển mới về NTCD, tạo điều kiện để ta tổ chức các chiến dịch giành những thắng lợi lớn hơn.

[2] Báo cáo kế hoạch TCCD và tổng kết kinh nghiệm của các chiến dịch lớn, BTTM... Xb 1963, tập 2, tr217.


Đại tá PHẠM HỮU THẮNG

http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/301/302/302/216203/Default.aspx
« Sửa lần cuối: 18 Tháng Mười Một, 2012, 08:13:45 pm gửi bởi lexuantuong1972 » Logged

Ký ức một thời hoa lửa: (P1)(P2)(P3)(P4)
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM