Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 03:18:54 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 4  (Đọc 110030 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #60 vào lúc: 14 Tháng Tư, 2010, 06:01:41 pm »


Mùa khô 1965-1966, với lực lượng hùng hậu của đội quân viễn chinh Mỹ và đồng minh của chúng có mặt ở Nam Việt Nam, Bộ chỉ huy Mỹ (MACV) tin rằng có thể nhanh chóng tiêu diệt quân chủ lực giải phóng, phá chiến tranh du kích, giành lại quyền chủ động chiến trường. Nhưng trước sức mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam quân Mỹ không thực hiện được mục tiêu đề ra. Nhà Trắng và Lầu Năm góc Mỹ nhận thấy chỉ chú trọng hoạt động quân sự tìm diệt thì chẳng những không tiêu diệt được chủ lực của đối phương mà còn bị đánh thiệt hại. Vì vậy, mùa khô 1966-1967, song song với tìm diệt, Bộ chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn sử dụng một bộ phận quân Mỹ phối hợp với quân ngụy tiến hành bình định nhằm lấn đất giành dân với ta.

Để thực hiện kế hoạch chiến lược trên đây, những tháng cuối năm 1966 và đầu năm 1967, đế quốc Mỹ đưa thêm vào miền Nam nước ta hai Sư đoàn bộ binh số 4 và số 9, nâng tổng số quân Mỹ có mặt ở Nam Việt Nam lên 389.000 tên vào cuối tháng 12-1966. Mỹ còn dự kiến sẽ tăng quân Mỹ ở Nam Việt Nam lên 459.000 cho năm 1967. Nhưng mới đến tháng 8-1967, tình hình quân sự, chính trị của Mỹ và Sài Gòn ở Việt Nam biến chuyển theo chiều hướng đi xuống không có lợi cho Mỹ, nên chúng phải trù tính tăng quân Mỹ lên 542.588 vào cuối năm 1967.

Bước vào mùa khô lần thứ hai, cùng với 54.000 quân của các nước đồng minh của Mỹ và hơn nữa triệu quân đội Sài Gòn, Mỹ đã có trong tay 20 sư đoàn và 10 lữ đoàn, trung đoàn bộ binh và binh chủng. Ngoài ra, Mỹ còn huy động thêm lực lượng yểm trợ tác chiến gồm hai tập đoàn không quân và 1/3 lực lượng hải quân của nước Mỹ.

Đi đôi với tăng quân, ngân sách quân sự Mỹ năm tài khoá 1966-1967 cũng tăng lên đến mức cao nhất từ trước tới lúc này. Ngân sách này lúc đầu dự kiến 48 tỷ đôla, sau tăng lên 68 tỷ, trong đó giành cho cuộc chiến tranh Việt Nam hơn 50%, khoảng 38 tỷ đôla1. Phương tiện chiến tranh cũng được bổ sung nhiều gần gấp 1,5 lần so với mùa khô lần thứ nhất. Tính đến tháng 12-1966, số máy bay đưa vào Việt Nam lên tới 3.500 chiếc và đến tháng 5-1967 tăng lên 4.300 chiếc; xe tăng, thiết giáp 2.500 chiếc, pháo 2.540 khẩu, v.v... Nếu tính cả lực lượng Mỹ ở Hạm đội 7, Thái Lan, Philíppin, Guam, tham gia cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam thì tổng số quân tham chiến của địch lên tới 1.200.000 tên, riêng quân Mỹ 60 vạn.

Về tổ chức và bố trí lực lượng: các đơn vị quân Mỹ được tổ chức thành một lực lượng cơ động chiến lược binh chủng hợp thành mạnh, tập trung hoạt động tiến công tìm diệt chủ lực ta. Quân chủ lực ngụy cùng với một bộ phận quân Mỹ và quân các nước đồng minh của Mỹ càn quét vòng trong phối hợp với các “đội bình định” dồn dân, lập ấp chiến lược.

Nhằm hỗ trợ cho cuộc phản công chiến lược lần thứ hai, đế quốc Mỹ tăng cường đẩy mạnh cuộc chiến tranh không quân, hải quân đánh phá hệ thống kho nhiên liệu, cầu cống, căn cứ quân sự trên miền Bắc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, hòng làm kiệt quệ tiềm lực kháng chiến của ta, ngăn chặn sự chi viện của hậu phương lớn xã hội chủ nghĩa cho tiền tuyến lớn miền Nam, làm lung lay ý chí của Đảng và nhân dân ta ở miền Bắc.
_____________________________________
1. Trong số 38 tỷ đôla có khoản chi phí tăng thêm là 18 tỷ. Chi phí tăng thêm là chi phí cho hoạt động của máy bay B52 và các loại máy bay khác dùng vào việc đánh phá miền Bắc và yểm trợ hành quân tác chiến.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #61 vào lúc: 14 Tháng Tư, 2010, 06:03:56 pm »


Tháng 10-1966, Hội nghị Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng sau khi đánh giá toàn bộ tình hình địch, ta qua cuộc đọ sức mùa khô lần thứ nhất, đã khẳng định: “Đông - Xuân 1965-1966 sau khi đưa trên 20 vạn quân Mỹ và quân chư hầu vào miền Nam, cùng với nửa triệu quân ngụy, đế quốc Mỹ tiến hành cuộc phản công chiến lược lớn... Song, quân và dân ta đã phát triển mạnh mẽ chiến tranh nhân dân đánh bại cuộc phản công quy mô lớn đầu tiên của bọn xâm lược, làm thất bại các mục tiêu chiến lược của chúng”1. Bộ Chính trị phân tích sự thất bại của địch trong cuộc phản công lần thứ nhất càng làm cho mâu thuẫn giữa tập trung với phân tán của quân Mỹ trên chiến trường bị khoét sâu, không thể nào khắc phục được, đẩy chúng luôn luôn ở vào thế bị động chiến lược. Tình hình đó càng làm tăng thêm nỗi lo của chính quyền Oasinhtơn về sự thất bại khó tránh khỏi và đã ảnh hưởng xấu đến tình hình kinh tế, tài chính, chính trị, quân sự nước Mỹ. Nhưng do cuộc tổng tuyển cử bầu tổng thống ở Mỹ vào năm 1968 thôi thúc và do tự huyễn hoặc về sức mạnh siêu cường của họ, đế quốc Mỹ “ra sức đẩy mạnh chiến tranh xâm lược hòng giải quyết vấn đề Việt Nam vào những năm 1967, 1968, đặc biệt năm 1967 có tầm quan trọng đối với địch cũng như đối với ta. Địch sẽ ra sức tăng cường lực lượng nhằm đánh nhanh, thắng nhanh, ta phải có những cố gắng lớn hơn về mọi mặt, tạo thời cơ giành thắng lợi quyết định”2. Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ cụ thể trước mắt cho quân, dân ta là:

Ở miền Nam: “Ra sức đánh bại cuộc phản công chiến lược lớn lần thứ hai của bọn xâm lược Mỹ, làm thất bại các mục tiêu lớn của chúng, giữ vững thế chủ động, bảo tồn và phát triển lực lượng của ta, tạo điều kiện, thời cơ cho các hoạt động lớn tiếp theo, tiến lên tổng công kích, tổng khởi nghĩa, thực hiện quyết tâm chiến lược của Trung ương. Đồng thời, ra sức xây dựng cơ sở vững chắc, chuẩn bị điều kiện đánh thắng địch trong trường hợp chiến tranh kéo dài hoặc mở rộng ra cả nước”3.

Ở miền Bắc: “phải tích cực đẩy mạnh sản xuất và chiến đấu đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, tăng cường lực lượng kinh tế và quốc phòng, ra sức giữ vững và mở rộng các con đường hành lang, bảo đảm tăng cường chi viện cho miền Nam và Lào, tích cực chuẩn bị và kiên quyết đánh thắng địch trong trường hợp chúng đổ bộ ra phía nam Khu IV cũ, chiếm đóng Trung, Hạ Lào, đồng thời chuẩn bị đánh thắng địch trong trường hợp chúng mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả nước”4.

Về phương châm đấu tranh, Bộ Chính trị chủ trương: “Đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị, triệt để vận dụng ba mũi giáp công”5... “Đi đôi đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị trong nước, chúng ta cần tiến công địch về mặt ngoại giao... trên cơ sở đó, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ mạnh mẽ hơn nữa của nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa anh em, nhân dân yêu chuộng hoà bình toàn thế giới, kể cả nhân dân Mỹ, để tăng cường lực lượng của ta về các mặt vật chất, chính trị và tinh thần”6.

Cũng tại Hội nghị này, sáu phương thức tác chiến mà Quân uỷ Trung ương đề ra từ tháng 2-1966, qua thực tiễn chứng minh, được Bộ Chính trị chính thức thông qua, coi đó là cách đánh sáng tạo và phù hợp nhất để phát triển chiến tranh nhân dân. đánh bại chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ. Cùng với Hội nghị Bộ Chính trị, tháng 10-1966, Hội nghị chiến tranh du kích toàn Miền lần thứ ba được tổ chức, Hội nghị đã tổng kết, đánh giá và chỉ ra những khả năng to lớn của phong trào chiến tranh du kích ở miền Nam:

1. Chiến tranh du kích đã từ chỗ tiêu hao địch lẻ tẻ tiến lên tiêu hao nhiều hơn và rộng rãi hơn cả quân ngụy và quân Mỹ, diệt gọn từng đơn vị nhỏ của chúng.

2. Chiến tranh du kích chẳng những diệt được nhiều bộ binh Mỹ, ngụy mà với vũ khí thô sơ thông thường cũng đã đánh bại được ưu thế về không quân, cơ giới của Mỹ, hạ được hàng ngàn máy bay, diệt hàng ngàn xe cơ giới, xe bọc thép hiện đại của chúng.

3. Dân quân, du kích đã cùng với nhân dân đánh bại những cuộc càn quét lớn, dài ngày của hàng chục ngàn quân Mỹ, ngụy, bảo vệ được nhân dân, bảo vệ được vùng giải phóng.

4. Trong phong trào chiến tranh du kích đã xuất hiện những vành đai diệt Mỹ. Đó là một hình thức tiến công địch sáng tạo của chiến tranh nhân dân.

5. Chiến tranh du kích từ chỗ bao vây đồn bốt lẻ tẻ, tiến lên bao vây đánh các đồn bốt lớn, các chi khu quân sự, cắt đứt đường giao thông địch trên diện rộng, dài ngày, tiêu hao, tiêu diệt được nhiều sinh lực địch.

6. Bằng chiến tranh du kích, ta đã đánh phá thường xuyên, liên tục các đường giao thông quan trọng, gây cho địch nhiều khó khăn về quân sự, kinh tế, hậu cần, giam chân được một bộ phận lực lượng cơ động của địch.

7. Phong trào chiến tranh du kích không những phát triển ở vùng giải phóng mà đã tiến sâu vào các vùng tranh chấp, đến tận cửa ngõ hậu cứ địch và phát triển mạnh ngay cả trong lòng các thành phố bị địch tạm chiếm.

8. Lực lượng dân quân, du kích đã sáng chế ra nhiều vũ khí thô sơ, lấy được vũ khí địch, chế tạo thành vũ khí đơn giản nhưng có uy lực lớn, hiệu quả cao.

9. Trong quá trình thực hiện chiến tranh du kích, các xã chiến đấu liên hoàn đã hình thành với hệ thống công sự, trận địa vững chắc, chống được các vũ khí tối tân của địch, tạo điều kiện thuận lợi cho du kích và đồng bào phối hợp với bộ đội tập trung đánh bại những cuộc hành quân lớn của địch.

10. Dân quân, du kích kết hợp chặt chẽ với bộ đội địa phương và chủ lực hình thành một lực lượng ba thứ quân bảo đảm đánh thắng địch trong mọi tình huống.

11. Bên cạnh dân quân, du kích, có hàng triệu quần chúng nhân dân vũ trang tham gia chiến đấu làm tăng sức mạnh to lớn của chiến tranh du kích.

12. Phụ nữ có vai trò to lớn trong chiến tranh du kích. Họ không những có khả năng đấu tranh chính trị, binh vận mà còn tỏ ra có năng lực rất lớn trong đấu tranh vũ trang.
_____________________________________
1. Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 10-1966, bản sao, lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, số TW 218, tr. 1.
2. Tlđd. tr. 3.
3÷6. Tlđd, tr. 5-6.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #62 vào lúc: 14 Tháng Tư, 2010, 06:20:41 pm »


Tiêu biểu cho phong trào du kích chiến tranh trên toàn Miền có thể kể đến các địa phương: Củ Chi đất thép thành đồng với hệ thống địa đạo nhiều tầng, nhiều lớp, kiên cố chưa từng thấy. Chính tại mảnh đất kiên cường này, hồi đầu 1966, với thế trận chiến tranh nhân dân độc đáo và sáng tạo, ta đã bẻ gãy cuộc hành quân “Cái bẫy” (Grimp) nhằm “tiêu diệt dầu não Quân khu Sài Gòn - Gia Định”. Cũng chính tại nơi đây ngay sau chiến thắng vang dội này, Đại hội liên hoan dũng sĩ diệt Mỹ đã được tổ chức. Nhiều tấm gương tiêu biểu của “đất thép thành đồng” xuất hiện như Xã đội trưởng Phạm Văn Cội một mình diệt 98 tên Mỹ, Trần Thị Gừng bắn chết nhiều Mỹ, Tô Văn Đực nổi tiếng làm mìn tự tạo diệt xe tăng... Từ phong trào chiến tranh nhân dân ở Củ Chi, 10 bài học kinh nghiệm đã được đúc rút làm cơ sở cho các địa phương khác nghiên cứu, học tập. Củ Chi không chỉ là nỗi kinh hoàng của quân Mỹ từng tham chiến tại đây, nó còn nổi tiếng khắp thế giới về tính ác liệt, sức chịu đựng, tinh thần anh dũng tuyệt vời và sự sáng tạo vô song của con người Việt Nam đã tạo ra hệ thống địa đạo, hầm ngầm có một không hai trên thế giới. Harrisơn trong cuốn Cuộc chiến tranh triền miên đã đánh giá: “Quân cộng sản tồn tại được qua các cuộc ném bom ồ ạt và các cuộc càn quét quân sự là nhờ thiết lập được bằng tay không một hệ thống địa đạo không sao tưởng tượng nổi. Khu liên hợp hàng trăm dặm địa đạo và giao thông hào không những chỉ là khu vực hỗn hợp kỳ lạ nhất đáng nghiên cứu mà thực tế nó đã mang lại hiệu quả thật to lớn cho đối phương”1.

Nếu Củ Chi nổi tiếng với các trận “địa đạo chiến” thì ở các tỉnh Tây Ninh, Bình Dương, Mỹ Tho, Long An... ngay khi quân Mỹ đặt chân đến, một hình thức tiến công địch kiểu mới của chiến tranh nhân dân hình thành. Đó là sự xuất hiện của các vành đai diệt Mỹ. Có thể kể đến những vành đai diệt Mỹ Trảng Lớn (Tây Ninh), Bình Đức (Mỹ Tho) và ngay tại Củ Chi cũng có vành đai diệt Mỹ nổi tiếng Đồng Dù (còn gọi là Bắc Hà). Thông thường, ở đâu có quân Mỹ đóng quân, ở đó có vành đai diệt Mỹ. Nó kế thừa và phát triển lên một trình độ mới của làng, xã chiến đấu và phương thức tác chiến của chiến tranh nhân dân địa phương từng có từ kháng chiến chống Pháp, là hệ thống những xã ấp chiến đấu áp sát, bao vây quanh các căn cứ quân sự Mỹ, được tổ chức thành thế trận vững chắc vây hãm và tiến công địch. Vành đai Đồng Dù (Bắc Hà) ở Củ Chi gồm hệ thống xã, ấp chiến đấu bao quanh căn cứ của Sư đoàn 1 Anh cả đỏ. Vành đai Trảng Lớn (Châu Thành - Tây Ninh) hình thành khi Mỹ xây dựng căn cứ cho Lữ dù nhẹ 196 Mỹ ở đây. Những vành đai diệt Mỹ này đã làm cho quân Mỹ ở trong căn cứ nơm nớp lo sợ, hễ cứ ra ngoài là đụng phải “Việt cộng”. Vành đai, vì vậy mà kìm giữ, giam chân một bộ phận lực lượng cơ động Mỹ, tạo điều kiện cho lực lượng vũ trang ta thực hiện các trận đánh lớn vào sâu trong căn cứ của địch. Đây là một hình thức “toàn dân đánh giặc” rất sáng tạo và hiếm có trong lịch sử.

Tổng kết kinh nghiệm phong trào chiến tranh du kích ở các địa phương, Hội nghị chiến tranh du kích toàn Miền lần thứ ba đã đề ra phương hướng hoạt động trong thời gian tới là:

1. Chú trọng phát động nhân dân tham gia kháng chiến trong một cao trào chiến tranh du kích rộng lớn, nghiên cứu nhiều hình thức tổ chức thích hợp để nhân dân tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu được đông đảo, làm cho chiến tranh du kích thực sự là một hình thức chiến đấu vũ trang của toàn dân chống ngoại xâm.

2. Chú trọng vận dụng các phương châm chỉ đạo hoạt động và tác chiến cho tích cực và linh hoạt, nắm chắc phương châm đấu tranh ba mũi, tăng cường hơn nữa việc kết hợp hoạt động của ba thứ quân.

3. Phát triển tiến công mạnh mẽ, ra sức tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, đánh phá mạnh mẽ các đường giao thông, đánh sâu vào hậu phương của địch, căng địch ra khắp nơi để mà đánh, tạo điều kiện cho các lực lượng tập trung tiến công diệt địch mạnh mẽ hơn.

4. Hết sức chú trọng tăng cường sự lãnh đạo và chỉ đạo phong trào chiến tranh du kích.

Sau Hội nghị chiến tranh du kích toàn Miền lần thứ ba, các chiến trường Trị - Thiên, Khu V, Tây Nguyên và Nam Bộ đều tổ chức hội nghị tổng kết, rút kinh nghiệm hoạt động của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân, du kích trên địa bàn, đề ra phương châm phối hợp tác chiến giữa các lực lượng nhằm đánh bại bước leo thang mới của đế quốc Mỹ.

Giữa lúc ta đang khẩn trương chuẩn bị để đối phó với những âm mưu, thủ đoạn mới của địch, thì đế quốc Mỹ lợi dụng yếu tố về thời tiết ở Nam Bộ đang chuyển dần sang mùa khô, bắt đầu mở cuộc phản công chiến lược lần thứ hai nhằm đánh đòn bất ngờ vào lực lượng ta.
_____________________________________
1. Harrison: Cuộc chiến tranh triền miên, Trung tâm thông tin dịch, tr. 296.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #63 vào lúc: 14 Tháng Tư, 2010, 06:22:53 pm »


Bộ chỉ huy Mỹ ở Nam Việt Nam đã sử dụng 40% lực lượng chủ lực Mỹ (ba sư + 3 lữ trong tổng số bảy sư và tám lữ) kết hợp với Trung đoàn Hoàng gia Ôxtrâylia và bốn sư đoàn ngụy, hình thành khối chủ lực chung gồm bảy sư đoàn và năm lữ đoàn tập trung vào một hướng chính là miền Đông Nam Bộ. Lực lượng này được chia làm ba cánh: cánh thứ nhất gồm Sư 1 và Sư 25 bộ binh, Lữ 199, Trung đoàn thiết giáp 11 và Chiến đoàn dù quân đội Sài Gòn, triển khai trên trục đường số 13 và 22 nhằm đánh vào cụm căn cứ của ta ở Bắc Sài Gòn (Chiến khu Dương Minh Châu, khu tam giác sắt: Củ Chi, Bến Súc, Trảng Bàng) và Chiến khu Đ. Cánh thứ hai gồm Lữ đoàn 3 của Sư đoàn 9, Lữ 196, Trung đoàn Ôxtrâylia với sự phối hợp của Sư 18 ngụy triển khai trên khu vực đường số 18 đánh vào căn cứ của ta ở đông Sài Gòn (Phước Tuy, Bình Tuy). Cánh thứ ba gồm Sư đoàn 9 (thiếu), một bộ phận của Sư đoàn 7 ngụy triển khai trên trục đường số 4 ở khu vực Long An - Mỹ Tho nhằm ngăn chặn từ cửa ngõ miền Tây lên Sài Gòn.

Cuộc phản công của địch bắt đầu vào ngày 14-9-1966 bằng cuộc hành quân cấp quân đoàn đầu tiên: hành quân Áttơnborơ. Không gian của cuộc hành quân từ Trảng Bàng đến Gò Dầu Hạ nằm trên đường số 1 và Trại Đèn trên đường 13 (Tây Ninh), nhằm tìm diệt một bộ phận chủ lực của ta (Sư đoàn 9 và Trung đoàn 16), hỗ trợ cho việc bình định quanh Sài Gòn của chúng.

Tham gia cuộc hành quân này có lực lượng của Sư đoàn 1 Sư đoàn 25 (thiếu), Lữ đoàn 196, một tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn dù 173 Mỹ cùng chín tiểu đoàn quân ngụy, chưa kể lực lượng pháo binh, thiết giáp và không quân (có cả B52) chi viện. Tất cả khoảng 30.000 quân. Đây là cuộc hành quân lớn nhất của Mỹ - ngụy lúc đó.

Mở đầu cuộc hành quân, địch sử dụng Lữ đoàn 196 và một bộ phận của Sư đoàn 25 cùng hai tiểu đoàn pháo càn quét khu vực đông và đông bắc thị xã Tây Ninh có tính chất thăm dò và chuẩn bị chiến trường. Sau nửa tháng lùng sục liên tục, nhưng quân địch không gặp chủ lực ta, nên chưa có những trận đụng độ lớn. Cho đến đầu tháng 10, phát hiện ra một số kho hậu cần chứa nhiều gạo, muối và đạn dược của ta, Bộ Tư lệnh Mỹ ở Sài Gòn mới quyết định mở cuộc hành quân tìm diệt cấp quân đoàn nhằm phá căn cứ hậu phương ta, thực hiện một trong nhiều mục tiêu của cuộc phản công chiến lược lần thứ hai.

Ngày 14-9, địch triển khai lực lượng và dùng không quân, pháo binh đánh phá nhiều nơi, đến ngày 15-10-1966, chúng dùng hai tiểu đoàn của Lữ đoàn 196 và hai tiểu đoàn của Sư đoàn 25 càn quét các khu vực Bà Nhã, Bến Củi, Bàu Gòn.

Ngày 20-10-1966, Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng kêu gọi: “Giặc Mỹ mưu mô mở cuộc phản công mới trong mùa khô tới, hòng bình định nhân dân ta và tạo thế mạnh buộc ta chịu đàm phán với điều kiện đầu hàng, cúi đầu khuất phục chúng”1. Quân và dân ta ở miền Nam lúc này hơn lúc nào hết hãy “nỗ lực vượt bậc, đập tan kế hoạch phản công mới của Mỹ - ngụy, quyết giành thắng lợi thật to lớn trong Đông - Xuân 1966 - 1967... Dù lâu dài gian khổ mấy, quân và dân ta cũng quyết đánh và quyết thắng, không có gì quý hơn độc lập, tự do2.

Cùng với cuộc hành quân Áttơnborơ trên địa bàn Tây Ninh, để đánh lạc hướng và phân tán lực lượng ta, địch sử dụng Lữ đoàn 3 của Sư đoàn 4 đóng tại Nước Trong mở cuộc hành quân Brimớctơn đánh vào Nhơn Trạch nhằm yểm trợ bình định, giải toả vành đai (23-10-1966). Trên hướng Tánh Lịnh, Võ Đắc (Long Khánh), từ 17-10 đến cuối tháng 10-1966, chúng đưa Lữ dù 173 và Trung đoàn thiết giáp 11 càn quét. Tại Thủ Dầu Một, địch dùng hai tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn 1 và hai tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn 3, Sư đoàn bộ binh 1 mở cuộc hành quân Xinenđô vào khu vực Long Nguyên, Nhà Mát, Hố Đá, Cẩm Xe...

Nắm chắc tình hình diễn biến trên chiến trường, Quân uỷ và Bộ Chỉ huy Miền giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 9 bộ binh kết hợp với tỉnh Tây Ninh mở chiến dịch ở địa bàn Tây Ninh nhằm đánh bại cuộc hành quân Áttơnborơ bảo vệ kho tàng và căn cứ Dương Minh Châu. Hai phương án tác chiến được đặt ra là:

Phương án một: Dùng từng đơn vị nhỏ đánh mạnh vào hệ thống đồn bốt nhỏ, ấp chiến lược, hỗ trợ cho phong trào địa phương và uy hiếp mạnh địch, chuẩn bị lực lượng, sẵn sàng đánh địch phản kích nhằm tiêu diệt gọn từng đại đội, tiểu đoàn địch bằng phục kích, tập kích.

Phương án hai: Dự kiến trong quá trình chuẩn bị hoặc đang tiến công, địch có khả năng càn quét vào căn cứ ta. Vì vậy, đi đôi với phương án mở chiến dịch, ta có kế hoạch chủ động đánh địch khi chúng càn vào căn cứ và coi đây là thời cơ tốt để ta tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch bảo vệ căn cứ.
_____________________________________
1, 2. Lời kêu gọi của Đoàn Chủ tịch U.B.T.Ư.M.T.G.P, ngày 20-10-1966, lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #64 vào lúc: 14 Tháng Tư, 2010, 06:26:11 pm »


Ngày 2-11-1966, các đơn vị của Sư đoàn 9 bộ binh đã hoàn thành mọi công tác chuẩn bị và hành quân đến vị trí tập kết để bắt đầu đợt tiến công theo phương án một. Trung đoàn bộ binh 1 tập kết ở khu vực tây bắc thị xã Tây Ninh (tây đường 22). Trung đoàn 16 và Tiểu đoàn 6 của Trung đoàn 2 tập kết ở khu vực đông bắc suối Đá (nam - bắc, đường số 13). Trung đoàn 2 (thiếu) đứng chân ở khu vực Long Nguyên.

Ngay trong đêm 2 - 11- 1966, bộ đội ta đã tiến công mãnh liệt vào hệ thống cứ điểm vùng suối Bà Tươi ở phía đông tỉnh Tây Ninh, diệt một đại đội bảo an, một trung đội biệt kích, một trung đội cán bộ bình định. Tại ấp chiến lược Truông Mít, ta tập kích bọn Mỹ đóng ở đây, diệt 60 tên, phá hỏng nặng hai đại bác.

9 giờ sáng ngày 3-11-1966, địch đổ một bộ phận thuộc Lữ đoàn 196 xuống Trảng Tranh (tây bắc Bàu Gòn), cách căn cứ Dương Minh Châu 500m, bên cạnh Sở Chỉ huy tiền phương của Sư đoàn 9. Trung đội vệ binh và trinh sát của sư đoàn được điều động ra đối phó với địch. Sau một thời gian chiến đấu ta bắn rơi một máy bay trực thăng, diệt 50 tên địch.

Dự đoán địch có thể tiếp tục càn lên phía bắc Bàu Gòn, Bộ Chỉ huy chiến dịch quyết định chuyển Trung đoàn 16 sang làm nhiệm vụ chống càn. Tiểu đoàn 9 của Trung đoàn 16 được điều sang khu vực căn cứ Dương Minh Châu. Tiểu đoàn 7 và 8 sẵn sàng đánh địch ở khu vực nam - bắc, đường số 13 (đoạn Lộc Ninh - Võ Tùng).

Đêm 3 rạng 4-11, ta bắn phá dữ dội Sở Chỉ huy địch ở Gò Dầu, Bàu Đồn, Chi khu quân sự Trảng Bàng và cứ điểm Trâm Vàng. Cùng đêm đó, ta pháo kích vào Sở chỉ huy Lữ đoàn 196 đóng ở Trảng Lớn. Đồng thời ta bắn phá đồn Trại Bí trên đường 22 ở phía bắc tỉnh Tây Ninh.

Sáng 4-11, địch đổi hai tiểu đoàn của Lữ đoàn 196 xuống tây bắc Bàu Gòn. Kết hợp với lực lượng đã đổ xuống đây trong ngày 3-11, địch tổ chức tiến công vào trận địa của Tiểu đoàn 9 (Trung đoàn 16) theo hai hướng tây bắc và tây. Lợi dụng địa hình, địa vật và hệ thống công sự vững chắc, Tiểu đoàn 9 đã đẩy lùi được nhiều đợt tiến công của địch. 

Ngày 5- 11, địch lại đổ thêm một tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn 2 (Sư đoàn 25) Mỹ xuống Trảng Dài. Lực lượng này cùng với số quân còn lại của Lữ đoàn 196 hình thành ba mũi tiếp tục đột phá vào trận địa ta. Trung đoàn 16 đã tổ chức những trận đánh dữ dội vào đội hình địch gây cho chúng nhiều thiệt hại. Tính đến hết ngày 5-11, quân Mỹ đã bị đánh thiệt hại ba tiểu đoàn. Tên trung tá tiểu đoàn trưởng của Mỹ chết tại trận. Lữ đoàn bộ binh nhẹ 196 mất sức chiến đấu. Tướng Đxốtxuya, Tư lệnh Lữ đoàn 196 và là chỉ huy toàn bộ cuộc càn quét Áttơnborơ bị cách chức. Trước tình hình đó, địch vội vã lệnh cho Sư đoàn bộ binh số 1, Sư đoàn bộ binh 25, Lữ đoàn 173, Trung đoàn 11 thiết giáp sớm kết thúc cuộc càn Xinenđô và Brimớctơn để tập trung lực lượng đối phó với ta ở Tây Ninh. Quyền chỉ huy cuộc càn Áttơnborơ được giao cho Đêpit, Tư lệnh Sư đoàn bộ binh 1.

Lúc này ở khu vực bắc đường 13, địch đã triển khai sáu cụm pháo các loại tại cầu Lộc Ninh và Suối Đá nhằm chi viện trực tiếp cho cánh quân chúng dự định sẽ đổ xuống Trại Đèn, Chà Dơ và Bãi Trứng.

Ngày 6-11, theo đúng dự kiến, Lữ đoàn 2 (Sư đoàn bộ binh số 1) đổ xuống Chà Dơ, Sa Mát, Lữ đoàn 3 (Sư đoàn 1) đổ xuống Trại Đèn, Bãi Trứng. Theo dõi chặt chẽ diễn biến tình hình, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 9 sử dụng Trung đoàn 16 đánh địch ngay sau khi chúng vừa đặt chân tới, đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn Mỹ ở Chà Dơ và đông Trại Đèn.

Đêm 7 rạng ngày 8-11, Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 16) lại tập kích vào khu vực đóng quân của Tiểu đoàn 2, Lữ đoàn 2 Sư đoàn bộ binh số 1 tại Chà Dơ, diệt một đại đội địch, tiêu hao một đại đội khác, thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng.

Lữ đoàn 196 bị thiệt hại nặng, Sư đoàn bộ binh 1 của Mỹ bị đánh ngay khi mới đổ quân làm cho tinh thần địch hoang mang. Chúng phải điều cả Lữ đoàn 173 và Trung đoàn 11 thiết giáp lên làm dự bị cho cuộc hành quân (Lữ đoàn 173 đóng ở Dầu Tiếng, Trung đoàn thiết giáp ở Chơn Thành). Trước đây, Lữ đoàn 1, Sư đoàn bộ binh 1 làm dự bị cho sư đoàn, này có Lữ đoàn 173 làm dự bị, Lữ đoàn 1, Sư đoàn 1 bắt đầu bung ra càn quét vùng Cầu Khởi, Bàu Sen...
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #65 vào lúc: 14 Tháng Tư, 2010, 06:26:52 pm »


Trong lúc địch đang mở rộng phạm vi càn quét, thì đêm 11, rạng ngày 12-11, Trung đoàn bộ binh 1 của ta pháo kích Sở chỉ huy Sư đoàn bộ binh 1 Mỹ đóng ở Dầu Tiếng, diệt gần 200 tên địch, phá hỏng 17 trực thăng, 2 khẩu pháo. Cùng trong đêm, Trung đoàn bộ binh 1 pháo kích vào Trảng Lớn lần thứ hai, đồng thời tập kích Trảng Sụp và công đồn Ngã Ba Vịnh, diệt Đại đội biệt kích 338, thu 45 súng, bắt sống 14 tên.

Phối hợp với bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và du kích các huyện Trảng Bàng, Gò Dầu, Dương Minh Châu đẩy mạnh diệt ác, phá kìm, đánh phá giao thông trên đường 22 và đường số 1, gây cho địch nhiều khó khăn. Chiến tranh nhân dân trên địa bàn Tây Ninh phát triển mạnh. Chỉ riêng lực lượng vũ trang địa phương Dầu Tiếng trong tháng 11 đã diệt 170 tên Mỹ, bắn rơi 5 máy bay lên thẳng, trong đó có chiếc trực thăng chở tên chỉ huy phó cuộc hành quân (bắn rơi ngày 20-11).

Trên vùng căn cứ của ta, du kích, tự vệ cơ quan cũng hoạt động tích cực. Nhiều phân đội nhỏ diệt cơ giới địch xuất hiện như đội du kích B5 thuộc Trung ương Cục diệt 8 xe, 55 tên Mỹ; Tiểu đoàn 170 diệt 8 xe M113 và 40 tên Mỹ...

Đồng thời với việc mở cuộc hành quân lớn trên địa bàn Tây Ninh, ngày 1-11-1966, tại Sài Gòn, địch tổ chức một cuộc duyệt binh nhân ngày “Quốc khánh đệ nhị cộng hoà” nhằm biểu dương lực lượng, gây uy thế chính trị. Nắm được ý đồ của địch, từ rất sớm, Bộ Chỉ huy Miền đã quyết định tổ chức trận địa pháo ở ngay sát Sài Gòn để pháo kích vào nơi địch tổ chức mít tinh. Công việc chuẩn bị được tiến hành hết sức công phu. Cho đến trước ngày địch làm lễ mít tinh, Tiểu đoàn 6 Bình Tân, Tiểu đoàn 8 Quân khu Sài Gòn - Gia Định và Đặc khu Rừng Sát đã bố trí được hai trận địa, một ở Nhà Bè (cách mục tiêu 6.745 m), một ở bưng Sáu Xã, Thủ Đức (cách mục tiêu 5.378m). Ngoài ra, Bộ Chỉ huy còn tổ chức một khẩu đội “quyết tử” làm dự bị đặt ngay trong nội đô. Chỉ huy cuộc pháo kích là đồng chí Nguyễn Văn Tăng (F100 đặc công).

Đúng lúc địch khai mạc cuộc mít tinh, các trận địa pháo của ta đồng loạt nổ súng, 24 quả đạn rơi trúng mục tiêu đã định. Oétmolen thú nhận: “Có 14 quả đạn rơi vào khu vực lễ trường, khu diễu binh”, một quả rơi đúng hàng quân danh dự làm đại tá Mỹ F.Goroxơ Risớt tử thương (Hồi ký Oétmolen). Cả quảng trường náo loạn. Hãng tin Anh Roitơ ngay trong ngày 1-11 cho biết: “Các quan khách ngồi trên lễ đài sợ quá, đã chạy trốn và chui xuống bục”. Còn Hãng tin Pháp AFP thì bình luận: “Cuộc pháo kích đã gây ra những cảnh sợ khủng khiếp. Nó chứng tỏ rằng Việt Cộng đã có thể mang vũ khí nặng vào thành phố”.

Ở mặt trận Tây Ninh, từ 15 đến 20-11-1966, bộ đội ta hoạt động rất tích cực, đánh nhiều trận tại các vùng Bàu Bỏ, Bàu Câu, Sóc Ky, Cà Tum, diệt gần 200 tên địch, hầu hết là lính Mỹ. Ngày 16-11, Trung đoàn 16 đánh địch tại Khe Đôn, Sóc Xoài diệt 79 tên, bắn rơi ba máy bay lên thẳng. Trung đoàn còn phục kích trên đường Tây Ninh đi suối Đá, diệt 3 xe địch.

Bị đánh liên tiếp, địch tìm cách rút dần về hậu cứ. Ngày 20-11, Lữ đoàn 173 và Trung đoàn 11 thiết giáp rút khỏi Dầu Tiếng. Ngày 21, Lữ đoàn 1, Lữ đoàn 2 và một bộ phận của Lữ đoàn 3 Sư đoàn bộ binh số 1 cũng bắt đầu rút về hậu cứ. Không để quân Mỹ rút lui an toàn, Bộ chỉ huy Sư đoàn 9 quyết định bám đánh địch trên đường chúng lui quân, chủ yếu trên đường số 4. Bộ chỉ huy Miền cũng chỉ thị cho các đơn vị miền Đông phối hợp tiêu hao địch trên đường chúng rút.

Thực hiện chủ trương này, đêm 21-11, Trung đoàn bộ binh 1 của ta pháo kích Sở chỉ huy địch ở Tà Đạt, diệt khoảng 100 tên, phá huỷ một số nhà tầng.

Đêm 22-11, Trung đoàn 16 của ta pháo kích vào cụm pháo Suối Đá, làm hỏng hai khẩu.

Ngày 24-11-1966, Oétmolen ra lệnh kết thúc cuộc hành quân Áttơnborơ. Trên đường lui quân, Trung đoàn 11 thiết giáp bị ta tập kích ở Bến Cát, Suối Râm, Lữ đoàn dù 173 bị đánh ở Dầu Tiếng, Thủ Đức. Đồng thời, đêm 25-11, Trung đoàn bộ binh 2 của ta pháo kích vào Dầu Tiếng lần thứ hai, diệt 300 tên địch, làm cháy một kho xăng khoảng 12.000 lít, phá hỏng năm trực thăng, làm hư hỏng nặng hai khẩu pháo 105 mm...

Sau 72 ngày đêm chiến đấu oanh liệt chống lại cuộc càn lớn của địch, quân và dân miền Đông Nam Bộ đã loại khỏi vòng chiến đấu 4.500 tên địch, trong đó có 1.700 tên Mỹ, bắn rơi, bắn hỏng 65 máy bay, phá huỷ 7 đại bác, bắn cháy nhiều xe tăng và xe bọc thép, đánh thiệt hại nặng Lữ đoàn bộ binh nhẹ 196 Mỹ. Với thắng lợi này, ta đã giáng một đòn đau vào lực lượng cơ động của Mỹ, gây tác động trực tiếp đến toàn bộ kế hoạch phản công chiến lược lần thứ hai của Mỹ. Mặc dù vậy qua cuộc phản công này, một vấn đề lớn đặt ra là, việc đối phó với từng chiến đoàn xe tăng hạng nặng của Mỹ như thế nào trong khi số lượng súng chống tăng của ta trên chiến trường còn rất hạn chế. Để khắc phục tình trạng này, tỉnh Tây Ninh đã tổ chức hội nghị quân sự và quyết định gấp rút thành lập xưởng công binh làm mìn chống tăng.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #66 vào lúc: 14 Tháng Tư, 2010, 06:27:59 pm »


Lúc này, trên chiến trường Tây Nguyên, phối hợp với quân và dân miền Đông Nam Bộ, ta mở chiến dịch Sa Thầy (18-10 đến 6-12-1966) đánh bại cuộc hành quân Pôn Rivơ 4 (Paule Rivere4) của Sư đoàn 4 Mỹ.

Sông Sa Thầy chảy từ Kon Tum xuống Gia Lai theo hướng bắc - nam. Phía đông sông Sa Thầy là sông Pô Cô. Giữa sông Sa Thầy và sông Pô Cô là khu vực tác chiến chủ yếu của chiến dịch. Địch xây dựng ở phía bờ đông sông Pô Cô đồn biên phòng Plây Giăng, cách biên giới Việt Nam - Campuchia 20 km. Địa hình ở đây núi non hiểm trở, địch khó phát huy thế mạnh về binh khí, kỹ thuật hiện đại. Ta đã chọn nơi này làm quyết chiến điểm để kéo quân Mỹ ra tiêu diệt. Chiến thuật của ta là “công đồn, diệt viện”.

Thực hiện ý đồ này, ngày 18-10-1966, ta dùng Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 95 lực lượng vũ trang Tây Nguyên pháo kích và bao vây đồn biệt kích biên phòng Plây Giăng. Lo sợ cứ điểm Plây Giăng bị mất, cửa ngõ phía tây Plâycu sẽ bị chọc thủng, “hậu cứ” của ba lữ đoàn thuộc Sư đoàn bộ binh số 4 và số 25 của Mỹ sẽ bị uy hiếp trực tiếp, Mỹ lập tức mở cuộc hành quân Pôn Rivơ 4 hòng cứu nguy cho quân ngụy. Ý đồ của Mỹ là thực hiện một cuộc đổ quân rồi đánh thọc sâu vào phía sau lưng lực lượng ta.

Ngày 20-10, chúng dùng nhiều toán biệt kịch ngụy Sài Gòn thọc sâu ra phía tây Plây Giăng trinh sát để phát hiện Quân giải phóng. Chúng còn liên tục cho máy bay, kể cả B52, pháo binh bắn phá và ném bom dữ dội xuống các khu vực chúng nghi có bộ đội ta.

Sau những trận bom, pháo dọn bãi, sáng 26-10, Mỹ đổ Lữ đoàn 1 thuộc Sư đoàn bộ binh số 4 xuống phía đông sông Sa Thầy, cách tây - tây bắc Plây Giăng 12 đến 14 km. Chờ cho đêm xuống, khi bọn Mỹ yên trí là chúng đã đổ quân “trót lọt” giữa rừng núi Tây Nguyên hiểm trở, Trung đoàn 320 bắt đầu tiến công vào các cánh quân Mỹ. Ngày 28-10, ta đã diệt hai đại đội Mỹ, tiêu hao nặng một đại đội Mỹ khác. Hãng tin Mỹ UPI, ngày 28-10 đưa tin: “Sư đoàn bộ binh số 4, mới đến Việt Nam được hai tháng, chưa có kinh nghiệm đã bị quân lão luyện của Việt cộng trừng phạt một trận đau nhất”. Bị đòn đau ở đông sông Sa Thầy, địch cho rằng, muốn giải toả áp lực của Quân giải phóng ở Plây Giăng phải đánh mở đường sang phía tây. Ngày 9-11-1966, chúng lại cho máy bay lên thẳng đổ ba đại đội biệt kích ngụy Sài Gòn xuống phía tây sông Sa Thầy, cách tây - tây bắc Plây Giăng 22 đến 24 km, cách trận địa của quân Mỹ ở đông sông Sa Thầy khoảng 10 km.

Trưa ngày 10-11-1966, Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 66 phán đoán chính xác hướng lùng sục của địch đã bố trí trận địa phục kích đánh tiêu diệt hai đại đội. Phát huy thắng lợi, đêm 10-11, Trung đoàn 320 pháo kích vào các trận địa pháo của Mỹ ở phía đông sông Sa Thầy, diệt 70 tên, phá huỷ bốn khẩu pháo 105mm.

Bị đánh ở cả hai bên bờ đông và tây sông Sa Thầy, ngày 11-11-1966, Mỹ đưa Tiểu đoàn 2 thuộc Lữ đoàn 2, Sư đoàn 4, có pháo binh và hai đại đội biệt kích ngụy Sài Gòn đi cùng đổ bộ xuống bãi C1 trên bờ tây sông Sa Thầy.

Tiểu đoàn pháo binh 32 đã ém quân tại đây từ trước khi mở màn chiến dịch. Sau hơn một tháng kiên trì phục kích, sáng 12-11 địch đã kéo đến đúng nơi ta dự kiến. Những quả pháo 120mm bắn cấp tập chụp trúng đội hình địch. Đại đội pháo 105 mm, Đại đội cối 106,7mm và Sở chỉ huy Tiểu đoàn 2 Mỹ bị diệt, bộ binh địch bị thương vong nặng nề. Từ các hướng các chiến sĩ Trung đoàn 88 và Tiểu đoàn 7 (Trung đoàn 66) xung phong băng qua những bãi cây mắc cỡ cao khuất đầu người, lởm chởm gai, đánh chiếm bãi C1. Nhưng do rừng gai cản trở và chiến thuật tập kích địch trú quân dã ngoại của bộ đội ta không thuần thục, nên ta không diệt gọn được tiểu đoàn Mỹ.

Ngày 13-11, dưới sự chi viện của không quân, một đại đội Mỹ nhảy xuống bãi C1 nhặt xác đồng đội, một đại đội khác của Lữ đoàn 3 (Sư đoàn bộ binh 25) mò vào phía nam bãi C1 liền bị Tiểu đoàn 9 (Trung đoàn 66) tiến công diệt gọn.

Liên tiếp những ngày sau đó, các trận đánh trên lưu vực phía đông và tây sông Sa Thầy nổ ra dồn dập. Kế hoạch của cuộc hành quân Pôn Rivơ 4 bị đảo lộn. Mỹ phải điều cả Lữ đoàn 2, Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 từ Bình Định, Phú Yên lên Tây Nguyên để đối phó. Mặt trận chính diện rộng gần 400 km2, chiều dài từ Sùng Thiện, Sùng Lễ đến Đức Cơ, Lệ Thanh, chiều ngang từ bờ đông sông Pô Cô đến bờ tây sông Sa Thầy, quân Mỹ tập trung Sư đoàn bộ binh số 4, Lữ đoàn 2 Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 và hàng chục đại đội pháo, biệt kích Mỹ, ngụy. Ngày 20 và 21-11, các Trung đoàn 320, 66 và 95 liên tục tiến công vào các cụm quân Mỹ thuộc Lữ đoàn 2 Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 và Sư đoàn 4 Mỹ ở đông sông Sa Thầy. Thừa thắng, ta đánh tràn sang cả phía đông sông Pô Cô, phá tan tuyến phòng ngự ngăn chặn của Sư đoàn 4 Mỹ, tiến xuống hoạt động ở huyện 4, huyện 5, tỉnh Gia Lai.

Bị thất bại nặng, ngày 27, 28-11, quân Mỹ phải rút khỏi khu vực đông và tây sông Sa Thầy. Sau đó chúng củng cố lại lực lượng, đổ xuống khu vực Cà Đin và đẩy Trung đoàn 42 ngụy nống ra Plây Kleng, Plây Le nhằm đánh một đòn bất ngờ vào lực lượng ta. Tiểu đoàn 200 đã bày sẵn thế trận đón đánh chúng. Ngày 6-12-1966, khi địch đổ một tiểu đoàn và hai đại đội Mỹ xuống Cà Đin, Tiểu đoàn 200 pháo binh đã giáng cho chúng một đòn sấm sét, đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 1 thuộc Lữ đoàn 2 Sư đoàn kỵ binh không vận số 1.

Chiến dịch Sa Thầy đến đây kết thúc thắng lợi. Có một tiểu đoàn và tám đại đội Mỹ, hai đại đội ngụy bị tiêu diệt, một tiểu đoàn Mỹ khác bị đánh thiệt hại, 20 máy bay bị bắn rơi, 25 khẩu pháo và 17 xe quân sự bị phá huỷ. Chiến thắng Sa Thầy đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của lực lượng vũ trang Tây Nguyên. Nó góp phần cùng quân và dân miền Nam đánh bại cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai của Mỹ.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #67 vào lúc: 14 Tháng Tư, 2010, 06:29:48 pm »


Một tháng sau khi chiến dịch Sa Thầy kết thúc, tại miền Đông Nam Bộ, Mỹ mở cuộc hành quân cấp quân đoàn thứ hai mang tên Xêđa Phôn vào vùng “tam giáp sắt” (Bến Súc - Củ Chi - Bến Cát). Đây là nơi có cơ quan đầu não của Quân khu Sài Gòn - Gia Định, cũng là điểm lực lượng ta thường xuất phát tiến công vào “thủ đô” Sài Gòn của Mỹ - ngụy. Chiến tranh nhân dân ở đây phát triển khá mạnh với hệ thống hầm hào, địa đạo kiên cố từng gây khiếp đảm cho kẻ thù. Đavít Risớt Panmơ, đại tá chỉ huy Sư đoàn thiết giáp số 2 lục quân cơ giới Mỹ đã miêu tả: “Vị trí này mạnh ở chỗ trên mặt đất thì hầu như không thể nào xâm nhập được mà ở dưới mặt đất thì có một hệ thống hầm hào vô cùng phức tạp”1.

Để củng cố tuyến phòng thủ phía bắc Sài Gòn, lập một vành đai trắng chia cắt vùng giải phóng của hai tỉnh Gia Định và Thủ Dầu Một, chuẩn bị cho cuộc hành quân lớn thứ hai đánh vào căn cứ địa kháng chiến của ta ở Tây Ninh, Mỹ đặt ra nhiệm vụ phải triệt hạ được vùng “tam giác sắt”, tiêu diệt chủ lực và cơ quan đầu não của Quân khu Sài Gòn - Gia Định đóng tại đây. Bộ Chỉ huy Mỹ ở Nam Việt Nam tập trung một lực lượng lớn binh lực vào cuộc hành quân Xêđa Phôn không kém gì cuộc hành quân Áttơnborơ, bao gồm Sư đoàn bộ binh số 1 Mỹ, Lữ đoàn 3 Sư đoàn bộ binh số 4, Lữ đoàn 2 Sư đoàn bộ binh số 25, Lữ đoàn bộ binh nhẹ số 196 (vừa được củng cố lại sau thất bại trong cuộc hành quân Áttơnborơ), Lữ đoàn dù 173, Trung đoàn thiết giáp số 11 Mỹ và một bộ phận Sư đoàn 5 chủ lực quân ngụy cùng một số lính đánh thuê Niu Dilân với hơn 400 xe tăng, xe bọc thép, 800 tàu xuồng chiến đấu trên sông, hơn 100 khẩu pháo các loại và nhiều máy bay, kể cả B52.

Hướng chính của cuộc hành quân là Bến Cát do các đơn vị thuộc Sư đoàn bộ binh số 1, Lữ đoàn 3, Sư đoàn bộ binh số 4, Trung đoàn thiết giáp số 11 và Lữ đoàn dù 173 Mỹ phụ trách.

Ngày 2-1-1967, cuộc hành quân bắt đầu. Địch đổ một tiểu đoàn Mỹ xuống Cổ Trạch, ven đường liên tỉnh số 14 rồi dùng xe cơ giới tiến quân vào Thanh An, hoạt động có tính chất thăm dò ở Cà Tông, Bàu Rùa (bắc Bến Súc). Bộ đội chủ lực cùng du kích địa phương đã kịp thời chặn đánh ngay khi địch vừa đặt chân xuống đất, diệt hơn 100 tên. Các toán quân địch khác nhảy rải rác xuống các nơi cũng đều bị đánh. Chúng phải lùi về Bến Tranh để củng cố.

Sau những đòn thăm dò, ngày 8-1-1967, Mỹ bắt đầu chia quân ra làm nhiều mũi, càn vào Bến Súc. Một mũi tiến vào xã An Điền (tây đường số 13) liền bị các lực lượng thuộc Sư đoàn 9 và quân dân nam Bến Cát liên tiếp đánh nhiều trận, diệt hàng trăm tên địch, phá huỷ, phá hỏng 10 xe M41. Ngay trong đêm 8-1, bộ đội ta đã thọc sâu vào thị trấn Bến Cát, tiến công vào các căn cứ quân sự địch tại thị trấn.

Mũi tiến công thứ hai của địch tiến vào xã An Tây, cả quân bộ và cơ giới địch đều bị bộ đội chủ lực phối hợp với du kích chặn đánh quyết liệt, phá hỏng 26 xe M113 và M118, diệt nhiều tên Mỹ.

Cùng với hai mũi tiến quân đường bộ bị ta đánh, địch dùng máy bay đổ một số quân xuống Bàu Khai để từ đó tiến vào xã Kiến An. Bộ đội địa phương đã phục kích bắn rơi hai máy bay, bắn bị thương hai chiếc khác. Tiếp đó, từ ngày 9 đến 13-1, ta chặn đánh diệt tám xe tăng và xe bọc thép, diệt và làm bị thương toàn bộ bọn địch trên xe khi chúng từ Bàu Khai vào Kiến An.

Không chỉ chặn đánh các mũi tiến công của địch, đêm 11-1, ta pháo kích Sở chỉ huy dã chiến của Lữ đoàn 3 Sư đoàn bộ binh số 4 Mỹ ở Dầu Tiếng, diệt và làm bị thương trên 100 tên địch, phá huỷ, phá hỏng 15 xe GMC.

Cuộc chiến đấu của quân và dân ta ở Bến Súc ngày càng trở nên quyết liệt khi địch dùng các loại máy bay ném bom và bắn pháo phát quang địa hình để chúng tiến quân. Không chịu lùi bước trước kẻ thù tàn bạo, bộ đội chủ lực phối hợp chặt chẽ với bộ đội địa phương và du kích kiên trì bám trụ, vận dụng các chiến thuật tác chiến linh hoạt bẻ gãy các mũi tiến công của địch. Tại Thanh An, trong hai ngày 16 và 17-1, Trung đoàn 2, Sư đoàn 9 bí mật vượt sông Sài Gòn, bất ngờ tập kích cụm quân Mỹ, đánh thiệt hại nặng hai tiểu đoàn. Du kích ở đây còn có sáng kiến treo mìn trên cây phục đánh tàu giặc trên sông Sài Gòn.

Phối hợp với quân và dân Bến Cát ở hướng chính, trong ngày 2-1-1967, quân và dân Củ Chi tiến công vào các đơn vị Sư đoàn bộ binh 25 Mỹ có xe tăng thiết giáp yểm trợ vừa đổ xuống xóm Trại, Gốc Cháy thuộc xã An Nhơn Đông. Địch buộc phải quay về cố thủ ở Sa Nhỏ (xã Trung Lập Thượng).

Đến ngày 8-1-1967, sau khi đã bắn phá dữ dội vào các xã ở phía bắc Củ Chi, Mỹ mới cho Lữ đoàn 2, Sư đoàn bộ binh 25 chia làm nhiều mũi tiến công vào các xã An Phú, Phú Mỹ Hưng, Phú Hoà Đông, Nhuận Đức, Trung Lập Thượng, An Nhơn Đông, An Nhơn Tây. Dựa vào hệ thống địa đạo, hầm hào kiên cố, quân và dân Củ Chi đã chiến đấu kiên cường với địch. Quân Mỹ cũng không từ một thủ đoạn dã man nào để có thể “bóc vỏ mặt đất”, phá được hệ thống địa đạo của ta bởi từ sau cuộc hành quân Grim (1-1996), Mỹ đã kết luận: “hệ thống đường ngầm là một trở ngại kinh khủng và nguy hiểm” và “giải quyết được địa đạo thì giải quyết được chiến tranh du kích”. Chúng đưa cả máy ủi, xe tăng hạng nặng và chó bécgiê để săn tìm cửa địa đạo. Chúng bơm nước, xả hơi độc xuống địa đạo. Chúng còn tổ chức cả những đội quân “chuột cống” gồm những tên Mỹ có vóc dáng nhỏ được đào tạo đặc biệt để đưa xuống địa đạo “lùng sục” Việt cộng và phá hầm ngầm. Nhưng các chiến sĩ bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và du kích Củ Chi dày dạn kinh nghiệm diệt Mỹ từ cuộc chống càn Grim thắng lợi đã sáng tạo ra những cách đánh địch rất độc đáo, diệt hàng trăm tên Mỹ, phá huỷ và phá hỏng 54 xe bọc thép. Hệ thống địa đạo về cơ bản vẫn được giữ vũng. Diễn biến của cuộc hành quân hoàn toàn không như quân Mỹ dự tính. Rất ít quân du kích bị đánh bật ra ngoài hoặc bị chết. Hệ thống hầm ngầm không bị triệt phá mà chỉ bị hư hại. Hố bom loang lổ, hàng mảng đất bị cày xới lên bằng máy xúc. Song không có quả bom nào, không có máy xúc nào của địch khoét đủ sâu để phá hoại hầm ngầm. Cái khó không phải hệ thống hầm ngầm đào quá sâu mà chính vì nó chạy ngoắt ngoéo không một chỗ nào là thẳng. Những cửa ngách và lỗ thông hơi thì nhiều vô kể, điều đó hạn chế khả năng bị phá huỷ. Các sĩ quan Mỹ trong cuộc càn Xêđa Phôn đều có chung nhận xét như vậy.

Sau những nỗ lực lớn không mang lại kết quả như mong muốn, ngày 26-1-1967, Mỹ phải kết thúc cuộc hành quânXêđa Phôn với khoảng 2.500 tên Mỹ, 200 tên ngụy và 54 tên lính đánh thuê Niu Dilân bị loại khỏi vòng chiến đấu, 149 xe quân sự trong đó có nhiều xe tăng M41, xe bọc thép M113 và M118 bị phá huỷ, phá hỏng, 28 máy bay các loại bị bắn rơi và bị thương. Đây là đòn nặng thứ hai đánh vào kế hoạch phản công mùa khô 1966-1967 của Mỹ trên chiến trường miền Đông Nam Bộ.

Với chiến thắng oanh liệt này, ta không những đã tiêu diệt một bộ phận sinh lực quan trọng quân Mỹ mà còn làm thất bại ý đồ của địch là dùng quân đông và vũ khí hiện đại để tìm diệt chủ lực ta, triệt phá vùng căn cứ cách mạng, đầu não Quân khu Sài Gòn - Gia Định. Chiến thắng cuộc càn Xêđa Phôn một lần nữa khẳng định khả năng to lớn của chiến tranh nhân dân Việt Nam chống chiến tranh hiện đại của Mỹ.
_____________________________________
1. Đavít Risớt Panmơ: Tiếng kèn gọi quân, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1981, tr. 158.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #68 vào lúc: 14 Tháng Tư, 2010, 06:34:35 pm »


II- CUỘC HÀNH QUÂN GIANXƠN XITY - ĐỈNH CAO CỦA CHIẾN LƯỢC TÌM DIỆT CỦA QUÂN MỸ
BỊ THẤT BẠI HOÀN TOÀN

Mặc dù bị thất bại liên tiếp trong các cuộc hành quân tìm diệt lớn trên chiến trường miền Đông Nam Bộ và các nơi khác, đế quốc Mỹ vẫn không chịu từ bỏ ý đồ đánh phá căn cứ, tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến của ta.

Theo tính toán của Oétmolen, Tây Ninh không chỉ là căn cứ của Trung ương Cục miền Nam, Bộ chỉ huy Miền, Mặt trận Dân tộc giải phóng, mà còn là nơi tích trữ vật chất, có nhiều kho dự trữ chiến lược; là địa bàn đóng quân của lực lượng “chủ lực Việt cộng” (tức Sư đoàn 9). Đánh chiếm được Tây Ninh sẽ tạo vành đai che chở cho ngụy quân, ngụy quyền bình định ở phía sau, giải toả cho Sài Gòn - Chợ Lớn đang bị uy hiếp. Mặt khác, Oétmolen thấy, với chiến trường Tây Ninh, Mỹ có thể phát huy ưu thế của các loại vũ khí tối tân. Vì vậy tuy đã thất bại nặng trong cuộc hành quân lớn trước đó Bộ chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn vẫn quyết định mở cuộc hành quân quy mô lớn mang tên Gianxơn Xity, tập trung lực lượng đông đánh vào Chiến khu Dương Minh Châu (Tây Ninh). Mục tiêu của địch trong cuộc hành quân là:

1. Phá huỷ căn cứ kháng chiến lớn của quân và dân ta ở bắc Tây Ninh.

2. Tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến toàn Miền.

3. Tìm diệt một bộ phận chủ lực lớn của ta ở miền Đông (Sư đoàn 9).

4. Tạo lá chắn yểm trợ cho ngụy Sài Gòn tiến hành bình định ở phía nam, gỡ thế bị uy hiếp nặng ở Sài Gòn - Chợ Lớn.

5. Giành một thắng lợi quân sự có ý nghĩa quyết định, tạo ra bước ngoặt làm chuyển biến cục diện chung có lợi cho Mỹ và Sài Gòn.

Để thực hiện những mục tiêu trên, Mỹ huy động đại bộ phận quân Mỹ triển khai ở miền Đông Nam Bộ và một phần quân ngụy. Lực lượng này bao gồm chín lữ đoàn bộ binh Mỹ (ba lữ của Sư đoàn bộ binh 1; hai lữ của Sư đoàn bộ binh 25; một lữ của Sư đoàn bộ binh số 4; một lữ của Sư đoàn bộ binh 9, Lữ đoàn 196 và Lữ đoàn dù 173), một lữ thuỷ quân lục chiến ngụy Sài Gòn. Ước tính quân số khoảng 45.000 tên và trên 1.000 xe tăng, xe bọc thép, hàng trăm khẩu pháo các loại, cùng nhiều máy bay.

Lực lượng ta chỉ có Sư đoàn 9, được tăng cường Trung đoàn 16 với các lực lượng khác, tổng số chưa đến 10.000 quân.

Đây quả là một thử thách lớn đối với quân và dân Tây Ninh cũng như cả miền Đông Nam Bộ. Mặc dù vậy, trên cơ sở đánh giá đúng mạnh, yếu của ta và địch, đặc biệt từ kinh nghiệm đánh bại cuộc hành quân Áttơnborơ, Quân uỷ và Bộ Chỉ huy Miền quyết định mở chiến dịch phản công ở Tây Ninh và giao cho thiếu tướng Lê Trọng Tấn làm Tư lệnh chiến dịch; thiếu tướng Trần Độ làm Chính uỷ; các đồng chí Hoàng Cầm - Sư đoàn trưởng Sư đoàn 2 làm Tham mưu trưởng. Quân uỷ và Bộ chỉ huy Miền chủ trương: Động viên mọi lực lượng cơ quan và đơn vị trong căn cứ bám trụ chiến đấu tại chỗ, phối hợp với một bộ phận chủ lực Quân giải phóng mở chiến dịch phản công, kiên quyết đánh bại cuộc hành quân quy mô lớn của địch, bảo vệ căn cứ kho tàng, bẻ gãy gọng kìm tìm diệt để hỗ trợ cho việc phá vỡ gọng kìm bình định, tạo điều kiện giành thắng lợi có ý nghĩa quyết định cho năm 1967. Muốn vậy, phải xây dựng được một thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc và kết hợp chặt chẽ tác chiến của chiến tranh nhân dân địa phương với tác chiến chiến lược của chiến tranh nhân dân các binh đoàn chủ lực.

Vấn đề xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân không phải đến lúc này mới được đặt ra. Do đặc trưng riêng của khu căn cứ Dương Minh Châu, nhằm bảo đảm an toàn tuyệt đối cho các cơ quan lãnh đạo trong điều kiện căn cứ chỉ có 800 dân sinh sống dọc sông Vàm Cỏ Đông, việc tổ chức phòng thủ, bảo vệ căn cứ địa được đặt ra khá sớm. Tuy nhiên, trước đây chủ trương của ta trong việc chống càn quét của địch về cơ bản là tránh né, vì vậy ta đã xây dựng nhiều căn cứ dự bị. Từ khi nắm được ý đồ của địch trong cuộc phản công lớn lần thứ hai, đồng thời thực tế, thấy khả năng bám trụ của các đơn vị, cơ quan trong căn cứ, Quân uỷ và Bộ Chỉ huy quân sự Miền đề ra phương châm củng cố, tổ chức lại hệ thống phòng thủ, bảo đảm đánh địch tại chỗ bằng cách tổ chức ra “khu dân cư đặc biệt”, trong đó “dân” là cán bộ, chiến sĩ, nhân viên các cơ quan, đơn vị, đoàn thể thuộc Trung ương Cục, Mặt trận Dân tộc giải phóng, Bộ chỉ huy quân sự Miền đóng trong căn cứ. Mỗi cụm cơ quan, đơn vị được tổ chức thành “khu dân cư” liên kết với nhau như một đơn vị hành chính xã, huyện. Cơ quan Trung ương Cục, Mặt trận Dân tộc giải phóng đóng ở phía tây và đông đường 22 đến giáp sông Vàm Cỏ được tổ chức thành sáu huyện căn cứ:

1. Huyện Rùm Đuôn - Sóc Mới do cơ quan Bảo vệ Trung ương Cục đảm nhiệm.

2. Huyện Suối Mây do cơ quan Binh vận Trung ương Cục đảm nhiệm.

3. Huyện Bảy Bàu: cơ quan Tổ chức Trung ương Cục đảm nhiệm.

4. Huyện Sa Mát - Tà Xia: Cơ quan An ninh Trung ương Cục đảm nhiệm.

5. Huyện Lò Gò - Bến Ra: cơ quan Tuyên huấn Trung ương Cục đảm nhiệm.

6. Huyện Xóm Giữa - Đồi Thơ: cơ quan Dân y đảm nhiệm.

Cán bộ, nhân viên trong các cơ quan dân, chính, đảng tổ chức thành những tiểu đội, trung đội du kích, tự vệ tác chiến tại chỗ; đồng thời lựa chọn một số cán bộ, nhân viên có sức khoẻ, kỹ thuật quân sự tốt lập thành các đại đội, tiểu đoàn tập trung, làm nhiệm vụ bộ đội địa phương, cơ động tác chiến trên địa bàn huyện.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #69 vào lúc: 14 Tháng Tư, 2010, 07:33:12 pm »


Cơ quan Bộ chỉ huy Miền gồm tham mưu, chính trị, hậu cần, các trường quân sự, xưởng sản xuất sửa chữa vũ khí, kho tàng, bệnh viện, văn công, các đơn vị trực thuộc đóng từ phía đông đường số 4 đến giáp sông Sài Gòn được tổ chức thành bảy huyện:

1. Huyện Châu Thành do Trung đoàn bộ binh 170 bảo vệ cơ quan Bộ chỉ huy Miền phụ trách.

2. Huyện Tà Keng do Bộ Tham mưu Miền phụ trách.

3. Huyện Cà Tum do Cục Chính trị Miền phụ trách.

4. Huyện Tà Đạt do Phòng thông tin Miền phụ trách.

5. Huyện Sóc Ky do Phòng công binh Miền phụ trách.

6. Huyện Bà Chiêm do Đoàn 69 pháo binh Miền phụ trách.

7. Huyện Bà Hảo do Đoàn hậu cần 82 phụ trách.

Cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ chỉ huy Miền được tổ chức thành bảy đại đội, một tiểu đoàn làm nhiệm vụ bộ đội địa phương huyện. Hai nghìn cán bộ, chiến sĩ, nhân viên còn lại tổ chức thành các tiểu đội, trung đội du kích, tự vệ chiến đấu tại chỗ.

Đến trước thời điểm Mỹ chính thức mở cuộc tiến công vào vùng căn cứ của ta, thế trận chiến tranh nhân dân trong chiến khu với ba thứ quân đã được tổ chức, xây dựng khá vững chắc. Ngoài Sư đoàn 9 chủ lực Miền và Trung đoàn 16 triển khai đội hình chiến đấu như sau: ở phía tây đường 22 (Trung đoàn 1), Chà Dơ (Trung đoàn 2), Phước Sang, đường 13 (Trung đoàn 3), Suối Dây (Trung đoàn 16); ta còn xây dựng được tại căn cứ ba tiểu đoàn, 13 đại đội bộ đội địa phương và 3.200 du kích các cơ quan.

Phương án tác chiến được Bộ chỉ huy Miền xác định: “Kết hợp chặt chẽ giữa ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương các huyện và du kích các cơ quan, đánh nhỏ, đánh vừa và tạo điều kiện đánh lớn, bảo đảm đánh dài ngày, mạnh bạo nhưng chắc thắng, tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, bảo vệ được cơ quan, kho tàng trong vùng căn cứ, bảo vệ lãnh đạo Miền”1. Bộ chỉ huy Miền còn chỉ rõ: “du kích các cơ quan, bộ đội địa phương các huyện và bộ đội bảo vệ căn cứ, bám trụ đánh địch tại chỗ, giữ chắc các xã, ấp chiến đấu. Nơi nào địch không đến thì phải bung ra, tìm địch mà đánh, bám địch mà diệt, thực hiện tiêu diệt địch rộng rãi... Vừa chiến đấu, bộ đội địa phương và du kích cơ quan vừa phải bảo đảm công tác phục vụ cho bộ đội chủ lực chiến đấu, bảo vệ an toàn cho cơ quan, căn cứ, kho tàng, duy trì được sinh hoạt bình thường trong căn cứ để đánh lâu dài với địch”2.

Bộ đội chủ lực khi tập trung, lúc phân tán linh hoạt, sẵn sàng cơ động, phối hợp và hỗ trợ cho du kích cơ quan thực hiện đánh nhỏ, đánh vừa, tạo điều kiện đánh những trận lớn, tiêu diệt được tiểu đoàn, chiến đoàn địch, bẻ gãy các mũi hành quân của chúng vào vùng căn cứ cách mạng.

Các đơn vị tham gia chiến dịch được tăng cường trang bị các loại vũ khí tốt. Đặc biệt số vũ khí từ miền Bắc mới chuyển vào được Bộ chỉ huy Miền cấp phát ngay cho bộ đội và du kích, tự vệ cơ quan. Cùng với vũ khí dự trữ ở các kho của Miền (B2), vũ khí miền Bắc đưa vào trong năm 1966, nhất là súng B40, B41 được trang bị cho bộ đội, du kích, tự vệ cơ quan trong căn cứ đã đối phó có hiệu quả với “xe tăng bầy” của Mỹ. Tính đến cuối năm 1966, ở Nam Bộ, mỗi đại đội trong biên chế sư đoàn bộ binh từ chỗ chỉ có ba khẩu B40, nay tăng lên chín khẩu. Mỗi trung đoàn được trang bị 18 khẩu B41. Riêng các tỉnh Tây Ninh, Bình Dương, trước kia chỉ có sáu khẩu B40 nay mỗi tỉnh đã có 70 khẩu. Đây là một trong những nhân tố quan trọng giúp ta chiến thắng trong cuộc càn ác liệt này.

Công tác hậu cần cũng được triển khai rất khẩn trương. Đoàn 82 hậu cần Miền chịu trách nhiệm chính trong việc cung cấp lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh... cho toàn căn cứ và sẵn sàng đón nhận vũ khí, trang bị chi viện từ miền Bắc vào qua Campuchia.

Mọi công tác chuẩn bị cho chiến dịch phản công đánh bại cuộc hành quân Gianxơn Xity hoàn thành vào tháng 1-1967.

Ở thời điểm này, tình hình trong nước và thế giới cho phép ta mở mặt trận đấu tranh ngoại giao để vạch mặt kẻ thù, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân thế giới và nhân dân tiến bộ Mỹ. Từ 23 đến 26-1-1967, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 13 và ra Nghị quyết về đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao. Nghị quyết chỉ rõ: Để thực hiện quyết tâm chiến lược của ta, trên cơ sở phát huy những thắng lợi đã giành được, chúng ta phải ra sức đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam, đồng thời, ta cần tiến công địch về ngoại giao, phối hợp với hai mặt đấu tranh đó để giành thắng lợi to lớn hơn nữa. “Đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho thắng lợi trên mặt trận ngoại giao... Trong tình hình quốc tế hiện nay, với tính chất cuộc đấu tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động”3.
________________________________________
1, 2. Chiến dịch phản công đánh bại cuộc càn Gianxơn Xity, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1997, tr. 113.
3. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 13, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III), bản sao lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.

Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM