Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 12:11:06 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 4  (Đọc 109871 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #50 vào lúc: 10 Tháng Tư, 2010, 09:27:23 pm »


Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị gồm ba huyện Do Linh, Cam Lộ, Hướng Hoá, phía bắc giáp Vĩnh Linh, Quảng Bình, tây giáp Trung - Hạ Lào, đông giáp biển Đông và nam giáp huyện Hải Lăng, sông Ba Lòng, thị xã Quảng Trị. Cuối năm 1954, khi nhảy vào xâm lược nước ta, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai Sài Gòn xem tỉnh Quảng Trị là phần đất cực Bắc giáp “cộng sản Bắc Việt” và coi biên giới Hoa Kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17. Ngay từ những năm 1960-1961, thực hiện chiến tranh đặc biệt nhất là khi trực tiếp đưa quân viễn chinh Mỹ vào miền Nam, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đã xây dựng hàng loạt căn cứ quân sự kiên cố liên hoàn ở khu vực giới tuyến quân sự, quyết biến vùng đất này thành nơi chia cắt vĩnh viễn đất nước. Trên trục đường số 1 từ cầu Quảng Trị bắc qua sông Thạch Hãn đến bờ nam cầu Hiền Lương, sông Bến Hải, Mỹ-ngụy đã xây dựng các căn cứ quân sự Ái Tử, Đông Hà, và các cứ điểm, cụm cứ điểm Ngã tư Sòng, Quán Ngang, Dốc Miếu, đồi 31... với mật độ khá dày. Trên trục đường 9 từ Cửa Việt đến Xavannakhẹt (Lào) đế quốc Mỹ nhận ra đây là “bức tường thép” khổng lồ ngăn chặn sự xâm nhập của cộng sản từ miền Bắc vào miền Nam. Chúng đã đốc thúc hàng chục nghìn binh lính củng cố, mở rộng và xây dựng các căn cứ quân sự Cửa Việt, Đông Hà, Cam Lộ, Khe Sanh (Việt Nam), Bản Đông, Mường Phìn, Pha Lan, Đồng Hến, Sênô (Lào). Ngoài các căn cứ quân sự mạnh kể trên, ở phía bắc đường 9, Mỹ-ngụy còn cho quân lính nống ra vùng giáp biên, giáp vĩ tuyến 17, xây dựng các chốt điểm Bái Sơn, Cồn Tiên, điểm cao 182 (khu Đông); Động Tri, điểm cao 660, 850 (khu Tây) để ngăn chặn ta từ xa.

Cùng với việc ra sức củng cố, xây dựng hệ thống căn cứ quân sự ở đường 9 - bắc Quảng Trị, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ ở Nam Việt Nam cũng bắt đầu cho các đơn vị viễn chinh Mỹ ở Chu Lai, Đà Nẵng ra Quảng Trị thực thi phòng thủ và tiến công hạn chế để giành quyền chủ động. Cuối tháng 4-1966, chúng bố trí ở dây hai tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ, hai tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ thuộc lực lượng dự bị chiến lược ngụy và lực lượng địa phương quân. Nhưng khi Mặt trận B5 ra đời, Bộ Chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn liền điều động Sư đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ số 3 ở Đà Nẵng và bốn tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ Sài Gòn đang làm nhiệm vụ tìm diệt quân giải phóng tại Quảng Ngãi, Tam Kỳ cùng hàng trăm xe tăng, thiết giáp, đại bác ra đường 9 - bắc Quảng Trị để ngăn ngừa ta tiến công. Một lần nữa chứng minh sự đúng đắn, sáng tạo của Đảng trong việc mở Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị.

Đặc điểm của chiến trường đường 9 - bắc Quảng Trị đối với ta là cửa ngõ để tiến vào giải phóng miền Nam, đối với địch là tuyến đầu ngăn chặn lực lượng cách mạng miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Quán triệt được ý nghĩa, tầm quan trọng của vị trí chiến lược đường 9 - bắc Quảng Trị, cũng như nhiệm vụ nặng nề mà Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương đã giao, Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh Mặt trận đường 9 - Bắc Quảng Trị họp, thống nhất quyết nghị: “Lãnh đạo, chỉ huy lực lượng trong biên chế tăng cường mở các cuộc tiến công liên tục vào quân địch, nhằm tiêu hao, tiêu diệt và cầm chân một lực lượng địch càng lớn càng tốt tại đường 9, thực hiện phương châm căng địch ra mà đánh, phối hợp đắc lực với các chiến trường, hỗ trợ có hiệu quả với phong trào du kích chiến tranh ở đồng bằng Trị - Thiên”1. Trước mắt, mặt trận tập trung lực lượng mở cuộc tiến công vào những nơi hiểm yếu trên tuyến phòng ngự đường 9 - bắc Quảng Trị của địch để mở thông đường vận chuyển chiến lược Trường Sơn. Rõ ràng, khi đế quốc Mỹ thực hiện chiến tranh cục bộ, huy động hàng vạn quân mở hàng loạt cuộc hành quân tìm diệt lực lượng vũ trang cách mạng, thì nhân dân miền Nam trước đã cần nay càng cần hơn sự chi viện to lớn về sức người, sức của và tinh thần của miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Hậu phương miền Bắc là “cái gốc, cái nền” của cuộc kháng chiến của nhân dân ta ở miền Nam. Đế quốc Mỹ và tay sai biết rất rõ điều đó, nên ngày nào Mỹ còn ở miền Nam Việt Nam, thì ngày đó chúng còn duy trì, củng cố tuyến phòng thủ đường 9 - bắc Quảng Trị. Chúng sẽ nỗ lực tới mức cao nhất nhằm chặt đứt tuyến đường vận chuyển chiến lược Trường Sơn của ta. Quân uỷ Trung ương đã cho mở Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị xuất phát từ sự quán triệt phương châm đánh lâu dài, tạo thời cơ đánh mạnh với quy mô ngày càng lớn việc thực hiện tiêu diệt chiến lược quân địch, làm chuyển biến cuộc chiến tranh có lợi cho ta. Ở đây không chỉ là nơi đánh tiêu diệt chiến lược quân địch, mà còn hỗ trợ thúc đẩy phong trào cách mạng ở vùng nông thôn đồng bằng Trị - Thiên phát triển, phối hợp với toàn miền Nam.

Chiến trường đường 9 - bắc Quảng Trị lúc đầu được Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh giao cho Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu IV trực tiếp chỉ huy và chỉ định Đại tá Nam Long, Phó Tư lệnh Quân khu IV làm Tư lệnh; đại tá Quách Sỹ Kha, Chủ nhiệm Chính trị Quân khu IV làm Chính uỷ. Tháng 9-1966, Quân uỷ Trung ương uỷ quyền cho Quân khu IV thành lập Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu tiền phương (còn gọi là Đảng uỷ, Bộ Tư lệnh mặt trận X) bao gồm các đồng chí: đại tá Nam Long, Phó Tư lệnh Quân khu IV, làm Tư lệnh; đại tá Quách Sỹ Kha, Chủ nhiệm chính trị Quân khu IV, làm Chính uỷ; thượng tá Chu Phương Đới, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 324 làm Phó Tư lệnh; thượng tá Nguyễn Tiến Lợi, Chính uỷ Sư đoàn 324 làm Phó Chính uỷ. Hai đồng chí Trương Chí Công, Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Trị và Hồ Sỹ Thản, Bí thư Khu uỷ Vĩnh Linh được bổ sung vào Đảng uỷ mặt trận. Giai đoạn đầu, Bộ Tư lệnh mặt trận chọn khu vực Chợ Cồn phía tây Đồng Hới 10km đóng sở chỉ huy. Từ cuối năm 1966, Sở chỉ huy tiền phương mặt trận đặt ở thôn Mỹ Lộc, xã Vĩnh Chấp để tiện việc chỉ huy, điều hành chiến đấu.
________________________________________
1. Nghị quyết Mặt trận B5 tháng 5-1966, Lưu trữ tại kho K4, Bộ Quốc phòng.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #51 vào lúc: 10 Tháng Tư, 2010, 09:28:18 pm »


Giữa tháng 6-1966, Đảng uỷ Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị họp phiên đầu tiên dưới sự chủ trì của đại tá Quách Sỹ Kha, Chính uỷ kiêm Bí thư Đảng uỷ mặt trận, bàn phương thức, biện pháp hoạt động của lực lượng vũ trang khu vực và hợp đồng tác chiến với các chiến trường bạn. Trên chiến trường đường 9 - bắc Quảng Trị từ đầu tháng 5-1966, địch đã ra sức củng cố, mở rộng các cứ điểm Làng Vây, Tà Cơn, Cà Lu, Tân Lâm, Cùa, Ba Dốc; khởi công xây dựng hệ thống lô cốt dọc sông Hiếu, từ cảng Đông Hà xuống cảng Cửa Việt; mở rộng hệ thống giao thông đường bộ từ Huế ra Đông Hà, lên Khe Sanh; xây dựng ba sân bay hạng trung Ái Tử, Đông Hà, Tà Cơn... chuẩn bị địa bàn cho hàng vạn quân có mặt tại Quảng Trị. Căn cứ vào tình hình trên, hội nghị chủ trương đưa bộ đội chủ lực vào hoạt động chiến đấu tại Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị để thu hút, giam chân một bộ phận quan trọng quân chủ lực địch (chủ yếu là quân Mỹ) ra chiến trường vùng cực bắc, tạo điều kiện cho các lực lượng vũ trang ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ hoạt động đánh bại các cuộc hành quân tìm diệt của Mỹ - ngụy, tạo thời cơ để củng cố, xây dựng lực lượng cách mạng, đặc biệt là lực lượng dân quân, du kích ở tỉnh Quảng Trị. Hội nghị cũng dự kiến khi ta hoạt động mạnh, Mỹ - ngụy có thể phản ứng mạnh hơn về quân sự. Ngoài lực lượng không quân, hải quân đang đánh phá miền Bắc, nếu đế quốc Mỹ liều lĩnh dùng lục quân đổ bộ ra nam Quân khu IV - chủ yếu là Vĩnh Linh, Quảng Bình hòng gỡ thế thất bại, thì địch có thể huy động lực lượng cấp tiểu đoàn, hay chiến đoàn? Thời gian tác chiến kéo dài bao lâu? Từ những vấn đề dự kiến nêu trên, Mặt trận xây dựng phương án tác chiến trên nhiều địa bàn khác nhau để trong tình huống nào ta cũng chủ động tiến công địch, hạn chế tới mức thấp nhất thiệt hại có thể xảy ra.

Quán triệt nghị quyết của Đảng uỷ Mặt trận, ngày 20-6-1966, Bộ Tư lệnh Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị tổ chức Hội nghị quân chính mở rộng tới cấp tiểu đoàn, triển khai chủ trương, kế hoạch tác chiến trên giao. Lúc này, Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị được tăng cường Sư đoàn 324 bộ binh. Đây là đơn vị có kinh nghiệm tác chiến trên chiến trường Lào từ 1961 - 1962 ở Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, Luông Nậm Thà và là lực lượng chủ yếu “Phối hợp với các lực lượng vũ trang tỉnh Quảng Trị tiêu diệt một bộ phận quân ngụy, kéo chủ lực của Mỹ ra đường 9, giam chân tiêu diệt chúng, buộc chúng phải bị động đôi phó, tạo điều kiện thuận lợi cho các chiến trường và làm chỗ dựa cho phong trào đấu tranh chính trị ở đồng bằng Trị - Thiên, củng cố xây dựng căn cứ miền núi, mở rộng hành lang vận chuyển của ta”1.

Trung đoàn 31 bộ binh độc lập của Quân khu IV tăng cường, có một số kinh nghiệm tác chiến với quân ngụy ở Do Linh, Cam Lộ, bắc đường 9 từ năm 1964 đến năm 1965, tổ chức thành nhiều đơn vị nhỏ cấp trung đội, đại đội luồn sâu vào các huyện Hải Lăng, Triệu Phong móc nối, xây dựng dân quân, du kích, hỗ trợ cho lực lượng vũ trang địa phương, các đội vũ trang công tác huyện, tỉnh, thực hiện phương châm: “Tích cực, chủ động đánh nhỏ, lẻ, liên tục bằng mọi hình thức (kể cả công tác binh, địch vận) xây dựng cơ sở cách mạng, phát động chiến tranh du kích, nhằm tiêu hao tiêu diệt từng bộ phận nhỏ quân địch”2.

Hai tiểu đoàn pháo binh 87 và 11 (pháo cơ giới và hoả tiễn ĐKB, A12) chuẩn bị trận địa ở các xã Vĩnh Thuỷ, Vĩnh Sơn, Vĩnh Lâm (bắc sông Bến Hải), Trung Giang, Gio An (nam sông Bến Hải) đối diện với các cứ điểm Dốc Miếu, Quán Ngang, Cồn Tiên, Bái Sơn... chi viện theo yêu cầu của Sư đoàn 324 và bắn chế áp các trận địa pháo binh địch. Các Tiểu đoàn 47 (Khu đội Vĩnh Linh), Đội 1 (Đoàn 126 đặc công hải quân) và các đơn vị thông tin, công binh, trinh sát, vận tải của quân khu và bộ tăng cường, sẵn sàng làm nhiệm vụ phối thuộc hoặc độc lập tác chiến nhỏ, lẻ trên từng hướng (chủ yếu là vùng sau lưng địch). Một số đại đội, trung đội bộ đội địa phương và dân quân du kích ở các huyện Hướng Hoá, Cam Lộ, Triệu Phong, Hải Lăng vừa giúp đỡ bộ đội chủ lực trinh sát chuẩn bị chiến đấu, vừa vận động nhân dân ở các khu tập trung diệt ác, phá kìm giành quyền làm chủ.

Căn cứ nhiệm vụ trên giao và yêu cầu cấp bách của toàn chiến trường, Bộ tư lệnh Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị quyết định đưa toàn bộ Sư đoàn 324 vào hoạt động tác chiến trên hai khu vực giáp ranh giữa đồng bằng và miền núi tỉnh Quảng Trị.

Khu vực một, bao gồm Đầu Mầu, Cam Lộ, Cù Đinh, Ba De. Sư đoàn 324 chọn căn cứ Đầu Mầu, điểm cao 402 (nằm sát đường 9) do hai đại đội biệt động quân ngụy chốt giữ làm mục tiêu chủ yếu, đánh châm ngòi kéo địch vào vòng chiến theo ý đồ chiến lược: thu hút, giam chân một bộ phận sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ - Ngụy. Nhiệm vụ quan trọng này được giao cho Trung đoàn 1 (còn gọi là Trung đoàn 90) và một số đại đội hoả lực cối 82mm, súng máy cao xạ 12,7 mm của sư đoàn đảm nhiệm.

Khu vực hai, bao gồm Cùa, Tân Lâm, nam Cà Lu do Trung đoàn 2 (còn gọi là Trung đoàn 812) phụ trách, có nhiệm vụ tiêu diệt đồn Cùa, cầm chân địch ở Tân Lâm và đánh sập một số cầu cống trên đường 9 (đoạn Đầu Mầu đi Cà Lu), ngăn chặn địch ở hướng nam hỗ trợ cho Trung đoàn 1 đột phá dứt điểm Đầu Mầu, điểm cao 402. Mặc dù là hướng nghi binh, nhưng Trung đoàn 2 không hoàn thành nhiệm vụ sẽ ảnh hưởng rất lớn tới ý đồ chiến dịch của toàn mặt trận.

Trung đoàn 3 (còn gọi là Trung đoàn 803) cùng một số tiểu đoàn trực thuộc 14, 15, 16, 17, 19 (trừ một vài phân đội hoả lực đi phối thuộc) làm lực lượng dự bị và công tác bảo đảm cho các đơn vị hoạt động ở phía trước.
________________________________________
1. Lịch sử Sư đoàn 324, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1992, tr. 30.
2. Nghị quyết quý III/ 1966 về hoạt động chiến đấu của Mặt trận B5, kho lưu trữ Bộ Quốc phòng.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #52 vào lúc: 10 Tháng Tư, 2010, 09:29:26 pm »


Trong khu vực hoạt động tác chiến của Sư đoàn 324, địch có bốn tiểu đoàn biệt động quân, bốn đại đội bảo an, dân vệ đóng chốt ngăn chặn lực lượng vũ trang ta hoạt động, đồng thời kìm kẹp nhân dân trong các khu tập trung ở Cam Lộ, Cùa. Ngoài ra, Trung đoàn 1, Sư đoàn 1 bộ binh, Vùng chiến thuật I đóng chốt ở cụm căn cứ Ái Tử, Đông Hà sẵn sàng chi viện cho tuyến đường 9 khi cần thiết.

Để tạo điều kiện cho Sư đoàn 324 làm công tác chuẩn bị chiến đấu, Bộ Tư lệnh Mặt trận B5 cho một tiểu đoàn của Trung đoàn 31 và hai đại đội của Tiểu đoàn 47 Vĩnh Linh vào Cồn Tiên, Dốc Miếu, đồi 31 vừa yểm trợ cho hai đại đội hoả lực cối 82, DKZ75 bắn chế áp các trận địa pháo địch, vừa nghi binh phân tán sự chú ý của chúng. Ở phía đông nam, bộ đội địa phương và dân quân du kích các huyện Triệu Phong, Hải Lăng được một số phân đội của Trung đoàn 31 giúp đỡ, đã tập kích, phục kích diệt một số xe địch trên đường số 1, buộc chúng phải đưa quân đến đây đối phó.

Sau một tuần chuẩn bị chiến trường, mở thông các cung chặng vận chuyển lót ổ gạo, đạn, hai Trung đoàn 1 và 2, Sư đoàn bộ binh 324 được lệnh hành quân chiếm lĩnh trận địa. Mặc dù trên đường hành quân bị lạc đường, vấp mìn, pháo địch bắn vào đội hình, nhưng các đơn vị đã xử lý các tình huống tốt, nên sau gần mười giờ hành quân liên tục, hai trung đoàn đã vào vị trí quy định, triển khai đội hình chiến đấu.

5 giờ sáng ngày 26-6-1966, Tiểu đoàn 5, Trung đoàn 1 cùng với một đại đội đặc công của sư đoàn tăng cường, do Tiểu đoàn trưởng Lê Văn Toàn và Chính trị viên Lê Quốc Huy chỉ huy mở màn đợt hoạt động quân sự bằng cuộc tiến công vào cứ điểm Đầu Mầu, tiêu diệt gọn đại đội biệt động quân, thu hơn 30 súng các loại, làm chủ trận địa. Đầu Mầu thất thủ, địch trên điểm cao 402 kế cận lo sợ định tìm đường tháo chạy. Nắm bắt thời cơ thuận lợi, Tiểu đoàn 19 đặc công của sư đoàn và một bộ phận của Tiểu đoàn 5 xốc tới bao vây tiến công, loại khỏi vòng chiến đấu đại đội biệt động quân chốt điểm cao 402. Mất điểm chốt quan trọng trên trục đường 9, trong những ngày cuối tháng 6 đầu tháng 7-1966, địch ở Đông Hà và thị xã Quảng Trị vội vàng đưa quân đi giải toả. Ngày 9-7-1966, địch dùng máy bay trực thăng đổ một tiểu đoàn biệt động quân ngụy Sài Gòn xuống đường 9 thuộc địa phận tây Cam Lộ nhằm chiếm lại các điểm cao đã mất. Riêng khu vực lèn đất 300 và lèn đá 300 ở bắc đường 9, địch đổ xuống một tiểu đoàn tăng cường. Tiểu đoàn 7 của ta đã bố trí sẵn ở đây, nổ súng diệt nhiều tên, buộc chúng phải rút lui xuống mỏm đồi bên cạnh.

Trước thất bại ở khu vực đường 9 - bắc Quảng Trị do ta tăng cường hoạt động tiến công, chỉ huy địch ở Vùng chiến thuật I cho máy bay, pháo binh đủ loại ở Đông Hà, Cam Lộ bắn phá ác liệt xuống các khu vực trên để dọn đường cho một tiểu đoàn dù ngụy mới điều từ Huế ra phản kích chiếm lại. Tiểu đoàn 8 Trung đoàn 2 của ta chốt giữ điểm cao 402 kịp thời nổ súng, loại khỏi vòng chiến đấu gần 100 tên, thu một số súng đạn và đồ dùng quân sự. Số địch còn lại hoảng sợ tháo chạy tán loạn về hướng thị trấn Cam Lộ.

Phối hợp với Trung đoàn 1 hoạt động ở Đầu Mầu, Cù Đinh, Ba De, Trung đoàn 2 đánh vào một loạt vị trí ở Cùa, Miếu Hoà, O Giang, Bản Hiệu, Phượng Nghĩa (Cam Nghĩa, Cam Chính), diệt và làm bị thương gần 200 tên địch, thu, phá huỷ nhiều súng đạn, giải phóng hàng nghìn dân. Ở phía nam sông Bến Hải, các đại đội hoả lực của mặt trận và của Khu đội Vĩnh Linh bắn hàng trăm quả cối 82, và ĐKZ75 vào căn cứ Cồn Tiên, Dốc Miếu, Dốc Sỏi, đồi 31, gây cho địch nhiều thiệt hại.

Hoạt động quân sự của ta tăng lên với sự xuất hiện của khối chủ lực cơ động miền Bắc, làm cho tuyến ngăn chặn địa đầu phía bắc rất quan trọng của địch bị uy hiếp, Huế, Đà Nẵng bị đe doạ. Mỹ vừa tăng quân chuẩn bị mở cuộc phản công chiến lược lần thứ hai đã buộc phải rút bớt quân ở các nơi khác đưa ra chiến trường đường 9 - bắc Quảng Trị. Chỉ trong vòng một tháng, Mỹ đã đưa ba trung đoàn thuộc Sư đoàn 1 và 3 lính thuỷ đánh bộ Mỹ, Sư đoàn dù ngụy và hai tiểu đoàn pháo 105, 155mm từ Đà Nẵng ra Trị - Thiên, nâng tổng số quân địch trên chiến trường Trị - Thiên lên 41.939 tên, trong đó có 16.750 lính Mỹ.

Trong lúc quân, dân Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị đang ra sức xây dựng lực lượng, thế trận trên hướng tiến công chiến lược mới, thì đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai cũng ráo riết đánh phá hai miền Nam - Bắc. Mùa mưa năm 1966, quân Mỹ và quân ngụy Sài Gòn mở hàng trăm cuộc hành quân nhỏ và vừa đánh phá các vùng giải phóng miền Đông Nam Bộ, Trung Trung Bộ, Tây Nguyên và Trị - Thiên nhằm phá tan các căn cứ du kích và phong trào chiến tranh nhân dân đang phát triển. Bằng hành động đó, Mỹ và Sài Gòn tưởng có thể giải toả cho các căn cứ lớn, các trục đường giao thông, giữ được hiện trạng thế phòng ngự, chuẩn bị cho cuộc phản công mùa khô 1966-1967. Nhưng mọi cuộc hành quân càn quét đều mang tính bị động và đã bị các lực lượng vũ trang giải phóng đánh bại.

Ở miền Bắc, trong ba tháng 6, 7, 8-1966, số lượng máy bay và số trận đánh phá của địch tăng gấp hai đến ba lần so với thời gian Hè - Thu 1965, trung bình mỗi ngày chúng sử dụng từ 200 đến 250 lần chiếc máy bay cất cánh, ngày cao nhất hơn 400 lần chiếc ném bom, bắn phá hầu hết các thành phố, thị xã và các tuyến đường giao thông quan trọng từ Vĩnh Linh đến Lạng Sơn...
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #53 vào lúc: 10 Tháng Tư, 2010, 09:30:13 pm »


Tình hình chiến sự sôi động ở hai miền Nam - Bắc Việt Nam và những thất bại của Mỹ trên chiến trường đã tác động mạnh mẽ làm cho phong trào chống chiến tranh của các tầng lớp nhân dân Mỹ lên cao, nội bộ chính quyền Giônxơn phân hoá. Phái diều hâu hiếu chiến tiếp tục hò hét đẩy mạnh chiến tranh, đòi ném bom mạnh hơn nữa vào Hà Nội, Hải Phòng.

Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân chuyển tới Mắc Namara yêu cầu mới xin tăng quân của Óetmolen lên 542.588 quân cho năm 1967. Nhóm nghiên cứu cuộc chiến tranh Việt Nam của Bộ Quốc phòng Mỹ gửi cho Mắc Namara báo cáo khẳng định không có cơ sở vững vàng để kết luận những cố gắng của Mỹ trong việc ném bom sẽ đạt kết quả. Nhóm này đề nghị xây dựng một hàng rào điện tử qua khu phi quân sự ở Việt Nam để ngăn chặn thâm nhập. Tháng 10-1966, sau khi nghiên cứu các báo cáo về tình hình miền Nam kết hợp với chuyến đi miền Nam trước đó, Mắc Namara báo cáo với L. Giônxơn: “Công tác bình định chỉ có đi thụt lùi”1 và các cuộc đánh phá miền Bắc “không ảnh hưởng gì nhiều đến hoạt động thâm nhập hoặc làm tan rã tinh thần của Hà Nội”2. Mắc Namara kiến nghị: “hạn chế hoặc tăng thêm lực lượng và xét việc ngừng ném bom hoặc chuyển mục tiêu từ Hà Nội, Hải Phòng sang các đường thâm nhập để tăng thêm tín nhiệm cho các cuộc thăm dò hoà bình”3 của Mỹ. Tổng thống L. Giônxơn bác bỏ yêu cầu tăng quân lên hơn 54 vạn của Oétmolen, vì làm như vậy khó tránh khỏi phải động viên quân dự bị. L. Giônxơn đồng ý hạn chế quân số Mỹ ở mức 47 vạn, nhưng không tán thành giảm bớt nhịp độ ném bom miền Bắc theo kiến nghị của Mắc Namara.

Mùa Hè năm 1966, đồng thời với việc điều động gấp sang chiến trường Việt Nam thêm 10 vạn quân, giới cầm quyền Mỹ còn cho không quân, hải quân leo thang đánh phá miền Bắc. Ngày 29-6-1966, hàng trăm lượt chiếc máy bay Mỹ ném bom bắn phá 52 điểm từ Đồng Hới đến Quảng Ninh, trong đó có hai mục tiêu quan trọng là kho xăng Đức Giang ở Thủ đô Hà Nội và kho xăng Thượng Lý (Hải Phòng). Mỹ đã leo thêm một nấc thang chiến tranh xâm lược mới cực kỳ nguy hiểm.

Ngày 15-7-1966, giữa lúc Sư đoàn 324 đang khẩn trương hoàn tất mọi công việc cho đợt chiến đấu mới, thì Sư đoàn 1 lính thuỷ đánh bộ Mỹ cho hàng trăm chiếc máy bay lên thẳng đổ quân xuống O Giang, Bản Hiệu, lèn đất 300, lèn đá 300, Cù Đinh, Ba De, điểm cao 402, miếu Bái Sơn, v.v... Đổ quân tới đâu, lính thuỷ đánh bộ Mỹ gọi phi pháo đánh phá các vùng xung quanh tới đó. Chỉ tính riêng trong 24 giờ ngày 16-7, chúng đã dùng 18 lần chiếc máy bay B52 ném hàng trăm quả bom xuống tây bắc Cù Đinh, nam Tân Lâm và đông bắc điểm cao 402. Ngoài ra, chúng còn dùng hàng chục lần chiếc máy bay phản lực, hàng chục khẩu pháo các loại đánh phá liên tục xuống nam - bắc sông Bến Hải hòng làm nhụt chí tiến công của quân và dân ta. Do công tác chuẩn bị chiến trường chu đáo, nên mặc dù bị phi pháo địch đánh phá ác liệt hầu hết các đơn vị ở phía trước của Sư đoàn 324 vẫn chủ động đánh địch ngay từ những giờ phút đầu.

Tại điểm cao 402, sau một đêm dùng phi pháo (kể cả máy bay B52) đánh phá phát quang dọn bãi, sáng ngày 16-7, máy bay trực thăng chở một tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ đổ xuống chiếm vị trí chiến thuật lợi hại này. Đại đội 6, Tiểu đoàn 6 Trung đoàn 2 Sư đoàn 324 chốt giữ điểm cao, mặc dù bị thương vong gần chục đồng chí do bom pháo, vẫn bám trụ kiên cường đánh bại các đợt tiến công của địch, loại khỏi vòng chiến đấu gần 100 tên Mỹ. Trong trận này, tổ hoả lực Nguyễn Phi Hùng đã lập công xuất sắc, đánh lui 12 đợt tiến công của địch, loại khỏi vòng chiến đấu 32 tên, góp phần đắc lực cùng đại đội giữ vững điểm cao 402 và hầu hết khu vực lèn đất 300.

Chiến công của Đại đội 6 Tiểu đoàn 6 đã cổ vũ Đại đội 2 Tiểu đoàn 5 được mệnh danh là Đại đội gió lốc, bám trụ kiên cường, đánh bại các đợt tiến công ồ ạt của một tiểu đoàn Mỹ, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 100 tên, trở thành “chốt thép thắng Mỹ” đầu tiên trên chiến trường đường 9 - bắc QuảngTrị.

Ngày 17-7, Sư đoàn 1 lính thuỷ đánh bộ Mỹ cho hai tiểu đoàn đổ bộ xuống Cù Đinh, Ba De tìm diệt bộ đội ta chốt giữ khu vực này. Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 1 và Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 3 mới được trên điều động đến đã dũng cảm vượt qua ác liệt do bom, pháo địch gây ra, tiến công ngay vào quân Mỹ đang đổ quân làm chúng hoảng sợ chạy tán loạn.

Phối hợp chặt chẽ với hai Trung đoàn 1 và 2 đánh địch giữ vững các điểm cao dọc đường 9, Trung đoàn 3 (thiếu Tiểu đoàn 1) được lệnh phân chia thành các tiểu đoàn độc lập, có các tổ vũ trang công tác các huyện dẫn đường, đã bí mật luồn sâu xuống Gio Hải (Gio Linh), Cam Giang, Cam Thanh (Cam Lộ), Triệu Thượng (Triệu Phong) cùng với các lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị, kết hợp hoạt động vũ trang, giải phóng một số xã phía đông tỉnh Quảng Trị, tạo bàn đạp đưa lực lượng xuống đồng bằng ven biển Triệu Hải.

Ở phía nam tỉnh Quảng Trị, ngày 16-7, Trung đoàn 6 Thừa Thiên thọc xuống quốc lộ 1 đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn ngụy, phá huỷ 15 xe quân sự. Đêm 17-6, du kích xã Hải Phú (Hải Lăng) phối hợp với tổ công tác huyện phục kích diệt một tiểu đội thám báo. Ngày 18-7, bộ đội địa phương được du kích huyện Quảng Điền phối hợp, phục kích giao thông, bắn cháy hai xe GMC, diệt 14 tên địch...
________________________________________
1÷3. Tài liệu mật của Bộ quốc phòng Mỹ, tlđd, t.2, tr.199.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #54 vào lúc: 10 Tháng Tư, 2010, 09:30:42 pm »


Trước thất bại ở đường 9 - bắc Quảng Trị, Bộ Chỉ huy Mỹ ở Nam Việt Nam vơ vét quân còn lại của hai Sư đoàn 1 và 3 lính thuỷ đánh bộ ở Tam Kỳ và Đà Nẵng đưa ra Quảng Trị. Sáng ngày 22-7, chúng đổ hai tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 5 lính thuỷ đánh bộ Mỹ xuống Khe Chùa, lập tuyến phòng ngự từ Ba De, Cù Đinh tới Đá May. Chúng còn cho Chiến đoàn dù ngụy đang chốt giữ vùng Cùa đổ quân xuống Khe Vạn, Làng Đôn phía tây Tân Lâm 10 km, kết hợp với quân Mỹ ở bắc đường 9 tạo thành hai gọng kìm hòng tiêu diệt quân ta.

Ngày 25-7, Tiểu đoàn 3 lính thuỷ đánh bộ Mỹ được sự yểm trợ của máy bay và pháo binh, chia làm hai mũi đánh lên điểm cao 314, nơi có một tiểu đoàn của ta chốt giữ. Nhưng mới ngày đầu tiến công ồ ạt, cả hai đại đội lính thuỷ đánh bộ Mỹ đã không còn đủ sức “vượt dốc” trước đòn phản công mãnh liệt của quân ta, phải khiêng cáng nhau lui về vị trí ban đầu. Thảm cảnh đó được Giócgiơ Étte, phóng viên Hãng tin Mỹ AP ngày 25-7 mô tả như sau: “Các máy bay lên thẳng của lính thuỷ đánh bộ Mỹ từ từ hạ xuống một cách khổ não trên ngọn đồi rậm để chở ra khỏi nơi này những cái lồng thép dành cho thương binh của Đại đội 1. Có 71 người bị thương, chiếm gần một nửa đại đội. Số chết sẽ được máy bay lên thẳng chở đi sau... Đại uý Gơ Lâydơ, Đại đội trưởng rưng rưng nước mắt nói: “Chúng tôi bị chết và bị thương vô số đây””.

Chiến đoàn dù ngụy hoạt động ở Khe Vạn, Làng Đôn khi biết tin tiểu đoàn Mỹ bị đánh bại ở hướng bắc, chúng không dám nống lấn thêm, chỉ quanh quẩn một chỗ gần như “án binh bất động”. Chiều 25-7, bị cối 82 của ta bắn vào đội hình, chúng đã tháo lui về Cùa, bỏ mặc cho quân Mỹ tác chiến. Trưa 26-7, thấy không còn trông cậy vào sự chi viện của quân ngụy, hai tiểu đoàn Mỹ hoạt động ở Cù Đinh, Ba De phải rút chạy về Cam Lộ, bỏ cuộc hành quân Háttinh (Hastings).

Bị thất bại liên tiếp ở đường 9 - bắc Quảng Trị, Bộ Chỉ huy Vùng chiến thuật I chẳng những không rút kinh nghiệm và còn tiếp tục tung lực lượng vào cuộc chiến, hòng cứu vãn tình thế thất bại. Trung tuần tháng 8-1966, Sư đoàn 1 lính thuỷ đánh bộ Mỹ cho ba tiểu đoàn đóng chốt ở Đông Hà, Cam Lộ, Tân Lâm tiến hành càn quét vùng giải phóng. Nhưng bọn lính thuỷ đánh bộ lấn chiếm tới đâu cũng bị lực lượng vũ trang ba thứ quân tỉnh Quảng Trị chặn đánh tới đó. Ngày 17-8, một đại đội hoả lực cối 82, ĐKZ75, 12.7 mm của Trung đoàn 2, Sư đoàn 324 bắn cấp tập một đại đội lính thuỷ đánh bộ Mỹ đang hành quân từ Cam Lộ lên Đầu Mầu, loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục tên. Ngày 18-8, một đại đội của Tiểu đoàn 5 lính thuỷ đánh bộ Mỹ đóng ở Đông Hà, được máy bay trực thăng chuyên chở, đổ bộ xuống Bản Hiệu, tây bắc Đầu Mầu 5 km, bị Đại đội 5, Trung đoàn 3 của ta đánh diệt và làm bị thương 40 tên. Đêm 25-8, hai đại đội đặc công của Mặt trận đường 9 tập kích trận địa hỗn hợp pháo binh, xe tăng chốt giữ phía tây bắc cầu Thiện Xuân, diệt 36 tên, phá huỷ hai pháo 105 mm, ba xe thiết giáp...

Đầu tháng 9-1966, sau khi điều thêm năm tiểu đoàn Mỹ (ba tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 1 và Sư đoàn 3 lính thuỷ đánh bộ ở Quảng Nam - Đà Nẵng ra và hai tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 5 từ Hạm đội 7 vào), Bộ Chỉ huy Mỹ ở Vùng chiến thuật I mở cuộc hành quân mang tên Đồng cỏ (Prairie) đánh vào vùng tây Gio Linh và tây bắc Cam Lộ, nhằm ngăn chặn bộ đội chủ lực ta đang hoạt động ngày một gia tăng ở vùng này.

Cuộc hành quân Đồng cỏ được chia làm hai cánh. Cánh một (chủ yếu) do hai tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ, một tiểu đoàn quân ngụy có ba chi đoàn xe tăng, thiết giáp yểm trợ, tiến đánh các khu vực từ phía tây đường số 1 lên xã Gio An, chú trọng các vị trí chiến thuật xung quanh căn cứ Cồn Tiên. Cánh hai do hai tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ và một tiểu đoàn bộ binh ngụy đánh vào các khu vực điểm cao 400, 363, lèn đất 300, lèn đá 300 (tây bắc cách huyện lỵ Cam Lộ 10 đến 12 km). Để giữ bí mật cho cuộc hành quân, ngày 19-9, Mỹ dùng Chiến đoàn 1 quân ngụy Sài Gòn càn quét các xã Gio Mỹ, Trung Hải (bắc cảng Cửa Việt) nhằm thu hút sự chú ý của Bộ chỉ huy Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị.

Ngày 19-9, khi trận càn quét của Chiến đoàn 1 ngụy đi vào giai đoạn cuối thì bọn chỉ huy Mỹ ở Đông Hà tưởng đã giành được thế bất ngờ, ra lệnh cho lính thuỷ đánh bộ Mỹ mở cuộc hành quân hòng tìm diệt bộ đội chủ lực ta. Mở màn cuộc hành quân, hàng trăm lần chiếc máy bay (kể cả máy bay B52), tám trận địa pháo, ném bom, bắn phá hàng giờ liền xuống các mục tiêu mà Mỹ dự định sẽ đổ bộ. Nhưng mọi ý đồ hoạt động của địch đã không đánh lừa được quân và dân đường 9 - bắc Quảng Trị. Tại khu vực An Bình (Gio An), Ban chỉ huy Trung đoàn 2 Sư đoàn 324 đã cho hai Tiểu đoàn 6 và 7 chiếm lĩnh các vị trí chiến thuật xây dựng trận địa chờ quân địch đến. Khi Tiểu đoàn 7 lính thuỷ đánh bộ Mỹ tiến công vào làng An Bình, Tiểu đoàn 6 Trung đoàn 2 của ta được sự chi viện của các trận địa pháo cối 120, 82 ở bờ nam sông Bến Hải bắn cấp tập vào đội hình Đại đội B lính thuỷ đánh bộ Mỹ đi đầu, rồi bất ngờ “bật thổ” đánh giáp lá cà với quân Mỹ. Không chịu nổi đòn đánh táo bạo rất ác liệt của Quân giải phóng, bọn lính Mỹ sống sót của Đại đội B phá chạy tán loạn.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #55 vào lúc: 10 Tháng Tư, 2010, 09:31:15 pm »


Sau ba ngày tiến công vào làng An Bình thất bại, sáng ngày 21-9, Tiểu đoàn 8 lính thuỷ đánh bộ Mỹ vừa thay Tiểu đoàn 7 bị tiêu hao nặng, mở đợt tiến công mới quyết san bằng làng An Bình. Mở đầu cuộc tiến công, máy bay và pháo binh Mỹ dội bom, bắn pháo suốt hai giờ đồng hồ xuống làng An Bình rộng không đầy 2 km2. Nhà cửa, cây cối và hầm hào trong làng gần như bị san phẳng. Quân Mỹ được xe thiết giáp yểm trợ xông vào làng. Nhưng một lần nữa quân địch lại vấp phải “bức tường lửa” của Tiểu đoàn 5, Trung đoàn 2 Quân giải phóng. Những chiếc xe tăng có súng phun lửa dẫn đầu cũng không giúp được gì cho lính thuỷ đánh bộ Mỹ tiến chiếm làng An Bình. Địch bị thương vong nhiều do bị bắn tỉa, sập hầm chông, vướng mìn... của lực lượng vũ trang địa phương, buộc chúng phải lui quân.

Trong lúc cánh quân thứ nhất đang bị sa lầy ở tây bắc Gio Linh, thì cánh quân thứ hai do Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 4 lính thuỷ đánh bộ Mỹ đảm nhiệm cũng bị pháo, cối của Trung đoàn 3, Sư đoàn 324 tập kích, loại khỏi vòng chiến đấu gần 20 tên. Giữa lúc chúng đang tập trung giải quyết hậu quả, hai đại đội của Trung đoàn 3, Sư đoàn 324 bộ binh đã bí mật vận động tập kích một trung đội lính thuỷ đánh bộ chốt giữ bình độ 285 (đông nam điểm cao 400) làm cho Tiểu đoàn 3 Mỹ chốt giữ khu vực lúng túng.

Sáng ngày 26-9, Tiểu đoàn 3 linh thuỷ đánh bộ Mỹ cho hai đại đội (được hoả lực chi viện đắc lực) đánh chiếm điểm cao 400. Nắm bắt được ý đồ của địch, Trung đoàn 3 dùng Tiểu đoàn 9 bí mật phục kích ở khu vực 400 từ đêm 25-9, đánh trả quyết liệt khiến hai đại đội địch không trụ nổi phải thu nhặt xác đồng bọn tháo lui. Tình cảnh ấy còn dành cho Trung đoàn 4 lính thuỷ đánh bộ Mỹ thêm hai ngày nữa. Ngày 29-9, thấy binh lực bị hao tổn ngày một nhiều trên cả hai cánh, trung tướng Uôntơ, Tư lệnh lính thuỷ đánh bộ Mỹ ở Nam Việt Nam phải huỷ bỏ cuộc hành quân mang tên Đồng cỏ.

Thất bại liên tiếp của lính thuỷ đánh bộ Mỹ ở đường 9 - bắc Quảng Trị trong hơn ba tháng đã chứng minh sự lúng túng bị động về chiến lược của quân viễn chinh Mỹ tại miền Nam Việt Nam. Rõ ràng việc điều các đơn vị lính thuỷ đánh bộ Mỹ ra trấn giữ vùng núi rừng Quảng Trị là một sai lầm của chúng. Bọn lính cọp biển Mỹ vốn chỉ quen tác chiến ở đồng bằng ven biển, được sự chi viện tối đa của phi pháo và xe thiết giáp với phương châm “tốc chiến, tốc thắng”, nay phải lên vùng đồi núi heo hút hiểm trở, không phát huy được xung lực, hoả lực, đội hình bị xé nhỏ chốt giữ từng mỏm đồi, khe suối, sa vào thế đánh nhỏ, lẻ, táo bạo của Quân giải phóng, dẫn tới tổn thất binh lực nghiêm trọng. Chính bọn chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn phải than phiền về sự lớn mạnh và cách đánh thiên biến vạn hoá của lực lượng vũ trang giải phóng Quảng Trị đã tạo ra một thế chiến lược mới có lợi cho Quân giải phóng miền Nam. Mặc dù bị thiếu quân ở khắp nơi, Bộ Chỉ huy Mỹ vẫn không dám dàn mỏng lực lượng ra để đối phó với chiến tranh du kích đang phát triển của ta. Địch buộc phải tăng quân, nhưng càng tăng quân chúng càng bị sa lầy nghiêm trọng. Đây là mâu thuẫn cố hữu giữa tập trung quân đóng chốt và phân tán lực lượng đi càn quét, giữa tiến công và phòng ngự của lính viễn chinh Mỹ trên chiến trường miền Nam.

Nhân đà quân Mỹ và quân Sài Gòn bị hút ra Trị - Thiên, chủ yếu là Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị, lực lượng vũ trang Khu V Nam Bộ đẩy mạnh hoạt động quân sự Thu - Đông. Tại tỉnh Thừa Thiên - Huế ngày 4-9-1966, các tổ vũ trang công tác ven thành phố Huế kết hợp với du kích tiến công tiêu diệt một đơn vị địa phương quân ở chợ Hôm; du kích huyện Hương Thuỷ phục kích bắn tỉa quân Mỹ trong căn cứ Phú Bài. Ngày 10-9, tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh phối hợp với du kích tiến công đồn Nam Giang, sau đó chuyển sang phục kích đánh đoàn xe chở quân địch đi càn quét, loại khỏi vòng chiến đấu gần 200 tên.

Ở các tỉnh đồng bằng Khu V vào giữa mùa mưa 1966, tuy gặp khó khăn thiếu thốn trăm bề về vật chất, trang bị, nhưng các cấp uỷ đảng, chính quyền và lực lượng vũ trang tỉnh, huyện, xã vẫn chủ động đánh địch bằng “hai chân, ba mũi” gây cho Mỹ và Sài Gòn nhiều thiệt hại. Giữa tháng 8- 1966, Tỉnh uỷ Quảng Nam đưa du kích các huyện, xã ra các vành đai diệt Mỹ đánh địch, thực hiện bao vây chúng trong các căn cứ, hạn chế càn quét của chúng, tạo điều kiện cho bộ đội địa phương và bộ đội chủ lực xây dựng lực lượng. Từ đầu tháng 8 đến giữa tháng 9-1966, du kích trên các vành đai diệt Mỹ ở Hoà Vang, vành đai diệt Mỹ ở Chu Lai đã gài mìn, đặt bẫy, bắn tỉa, chống càn, loại khỏi vòng chiến đấu gần 200 tên Mỹ, phá huỷ 14 xe quân sự các loại. Đêm 31-9, Tiểu đoàn 78 pháo binh quân khu pháo kích sân bay Chu Lai, phá hỏng 30 máy bay, loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục giặt lái và nhân viên kỹ thuật.

Rạng sáng ngày 15-7, Tiểu đoàn 48 bộ đội địa phương Quảng Ngãi chia làm hai mũi, tiến công cứ điểm Gò Sỏi do một đại đội Mỹ tăng cường đóng giữ. Sau gần một giờ chiến đấu quyết liệt, bọn Mỹ trong căn cứ phá vòng vây tháo chạy. Bộ đội ta làm chủ Gò Sỏi, loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục tên Mỹ, thu hai cối 81 mm, phá huỷ bốn xe quân sự.

Đêm 16-9, một bộ phận cán bộ Đại đội 202 và Tỉnh đội Phú Yên trinh sát cứ điểm Hòn Đồn (Tuy An), do hai trung đội Mỹ chiếm đóng. Thấy bọn địch sơ hở, đồng chí Trần Văn Mười, Tham mưu phó Tỉnh đội phụ trách bộ phận trinh sát quyết định tiến công. Bị đánh mạnh và bất ngờ, hai trung đội Mỹ không kịp chống cự đã bị tiêu diệt. Mười ngày sau chiến thắng Hòn Đồn, Đại đội 291 Tỉnh đội Phú Yên lại tập kích chốt điểm Núi Lá, diệt gọn một trung đội lính Nam Triều Tiên, thu toàn bộ vũ khí.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #56 vào lúc: 10 Tháng Tư, 2010, 09:31:48 pm »


Đặc biệt quân và dân tỉnh Bình Định, một trong những trọng điểm bình định mùa mưa của Mỹ - ngụy, chẳng những chiến đấu kiên cường giữ vững các vùng giải phóng, giữ vững phong trào chiến tranh nhân dân địa phương, mà còn chủ động tiến công tiêu diệt đồn, phá bốt địch, mở rộng vùng giải phóng. Tại huyện Bồng Sơn, đêm 7 rạng ngày 8-9, một tiểu đoàn địa phương tỉnh đã tiến công diệt đồn Thế Lộc. Ba hôm sau, quân ta tiến công tiêu diệt nhiều vị trí xung quanh chi khu quân sự Phù Mỹ. Bị uy hiếp mạnh, bọn chỉ huy địch ở Quy Nhơn phải đưa quân lên ứng cứu cho huyện lỵ Phù Mỹ. Trưa ngày 12-9, một tiểu đoàn quân ngụy lọt vào trận địa phục kích của quân ta ở phía bắc cầu Phù Ly và bị diệt gần một nửa.

Để cứu nguy cho các huyện phía bắc tỉnh Bình Định, ngày 15-9, quân Mỹ điều hai lữ đoàn thuộc Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 từ An Khê xuống và ba tiểu đoàn quân chủ lực ngụy từ Sài Gòn ra, mở cuộc hành quân Taylo đánh vào thung lũng Hội Sơn (Phù Mỹ), nơi chúng nghi là căn cứ của bộ đội chủ lực Khu V.

Dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân được xây dựng rộng khắp, các cấp chỉ huy khu, tỉnh đã phát động du kích địa phương (có tăng cường hai đại đội của tỉnh) chống địch càn quét bảo vệ Hội Sơn. Lực lượng chủ lực quân khu nhất loạt vận động tiến công bất ngờ vào sở chỉ huy địch ở Núi Một, đêm 22-9. Bị đánh dồn dập từ nhiều phía, bọn chỉ huy địch hoảng sợ phá chạy tán loạn. Chỉ sau một giờ tiến công, quân ta đã làm chủ trận địa, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch (chủ yếu là lính Mỹ), phá huỷ hàng chục xe quân sự các loại, buộc chúng phải huỷ bỏ cuộc hành quân Taylo đầy tham vọng.

Ở các tỉnh cực Nam Trung Bộ, thượng tuần tháng 9, hai tiểu đoàn bộ đội chủ lực Khu VI đánh liên tục bốn trận ở Bình An, Ma Lâm, Phú Hội, Lương Sơn (Bình Thuận), loại khỏi vòng chiến đấu bốn đại đội quân ngụy. Bộ đội địa phương tỉnh Ninh Thuận đánh đồn Hậu Sanh, diệt bốn trung đội bảo an và dân vệ, bức rút đồn Sơn Huế. Tại tỉnh Lâm Đồng, trong vòng một tuần, quân và dân địa phương các huyện sát lộ 20 tích cực phá càn, phục kích, tập kích, diệt gần 500 tên địch.

Ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ tuy các trận đánh cấp trung đoàn, sư đoàn ít đi do phải củng cố xây dựng lực lượng, nhưng các trận đánh nhỏ, lẻ cấp đại đội, tiểu đoàn vẫn diễn ra sôi động trên một số địa bàn trọng điểm.

Tại vành đai diệt Mỹ Củ Chi (Sài Gòn - Gia Định), đầu tháng 7-1966, Tiểu đoàn 8 pháo binh bắn 200 quả đạn vào trung tâm căn cứ Đồng Dù, diệt và làm bị thương hàng chục lính Mỹ, phá huỷ 20 xe quân sự. Ngày 24-7-1966, địch phát hiện bộ đội chủ lực Miền đứng chân ở Sa Nhỏ (Tây Bắc thị trấn Củ Chi 16 km) chúng cho 12 trực thăng chở một đại dội Mỹ, đổ xuống “tìm diệt” quân ta. Tiểu đoàn 8 bộ binh Miền hoạt động ở đây đã sử dụng hai đại đội xuất kích tiêu diệt đại đội Mỹ. Thấy đồng bọn có nguy cơ bị xoá sổ, quân Mỹ ở Đồng Dù cho cho 25 máy bay trực thăng đổ tiếp hai đại đội xuống Cỏ Ống (gần Sa Nhỏ) để ứng cứu. Chớp thời cơ đánh địch ngoài công sự, Tiểu đoàn 8 vượt qua tầm hoả lực pháo, bom của địch vận động bám thắt lưng Mỹ, diệt hàng chục tên, bắn cháy năm máy bay, buộc bọn còn lại phải tháo chạy về Trung Hoà.

Giữa tháng 8-1966, Lữ đoàn 1, Sư đoàn 1 Mỹ có hàng chục xe tăng, thiết giáp yểm trợ hành quân càn quét ở Bông Trang - Lò Gạch. Tiểu đoàn Phú Lợi tỉnh Bình Dương đã phục kích đánh diệt và làm bị thương gần 200 tên Mỹ, bắn cháy 16 xe tăng và M113. Bông Trang - Lò Gạch là trận phản đột kích có hiệu quả nhất trong lịch sử chiến đấu của Tiểu đoàn Phú Lợi. Cùng thời gian này, tỉnh đội Phước Long cho Đại đội 270 và 271 tiến công chi khu quân sự Phước Bình, pháo kích vào trung tâm tỉnh lỵ Phước Long diệt và làm bị thương gần 100 tên Mỹ, ngụy, phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh. Ngày 18-8, bộ đội Trung đoàn 5, Sư đoàn 5 bộ binh do Sư đoàn phó Trần Minh Tâm chỉ huy đã vận động phục kích tiến công Tiểu đoàn Hoàng gia Ôxtrâylia đi càn quét khu vực Núi Đất, Đất Đỏ. Sau 30 phút chiến đấu, Tiểu đoàn 6 (Trung đoàn 5) được một đại đội của Tiểu đoàn 445 Tỉnh đội Bà Rịa hỗ trợ tiêu diệt một đại đội lính Ôxtrâylia, làm cho lực lượng đánh thuê này được mệnh danh là có kinh nghiệm trong việc chống chiến tranh du kích hoảng sợ, tháo chạy về Đất Đỏ. Ngày 23-8, bộ đội đặc công Đoàn 10 nhận nhiệm vụ “chặn cổ sông Lòng Tàu” cùng đơn vị bạn làm hạn chế tàu xuồng vận chuyển hàng hoá quân sự chuẩn bị cho mùa khô 1966-1967 của địch, đã dùng hai quả “thuỷ lôi sừng chạm K5” đánh chìm tàu Batôn Rugiơ Victory trọng tải 10.000 tấn tại ngã ba Vàm Cống, diệt 45 tên địch, phá huỷ hàng chục xe M113 và nhiều phương tiện chiến tranh. Mười ngày sau, trên ngã ba sông Lô Giang, chiến sĩ Rừng Sát dùng súng ĐKZ75 bắn cháy chiếc tàu dầu 8.000 tấn. Đầu tháng 9-1966, pháo binh Miền pháo kích sân bay Biên Hoà, phá huỷ 20 máy bay, loại khỏi vòng chiến đấu nhiều phi công và nhân viên kỹ thuật Mỹ... Chiến công của quân dân Phước Long ở hướng tây bắc và của quân dân Bà Rịa, Long Khánh, Biên Hoà ở hướng đông Sài Gòn góp phần thúc đẩy phong trào “tìm Mỹ mà diệt” trên địa bàn chiến lược miền Đông Nam Bộ.

Đồng thời với việc chỉ đạo quân và dân ta trên chiến trường miền Nam tăng cường phá thế phòng thủ, củng cố lực lượng chuẩn bị cho mùa khô 1966-1967 của Mỹ, các cấp bộ đảng từ Trung ương đến các cơ sở cũng tích cực chỉ đạo việc tăng cường xây dựng lực lượng, củng cố thế trận, đáp ứng mọi mặt cho tình hình nhiệm vụ mới.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #57 vào lúc: 10 Tháng Tư, 2010, 09:33:02 pm »


Đầu năm 1966, Quân uỷ Miền ra Nghị quyết về xây dựng lực lượng vũ trang. Nghị quyết có đoạn: “Trong năm 1966, chủ yếu là kiện toàn, củng cố, nâng cao chất lượng các đơn vị đã có và tiếp thu thật tốt lực lượng mới đưa từ miền Bắc vào. Đối với khối chủ lực, chú trọng xây dựng sư đoàn, nhưng chủ yếu là từng trung đoàn đánh cho thật tốt. Phát triển các binh chủng, nhất là đặc công và công binh đánh giao thông. Đối với bộ đội địa phương và dân quân du kích, chủ yếu là củng cố, nâng cao chất lượng. Tuỳ theo khả năng của từng chiến trường có thể phát triển thêm, nhưng xây dựng đơn vị nào cho ra đơn vị đó”1.

Theo phương hướng xây dựng đó, Bộ Tư lệnh Miền và các quân khu, một mặt tập trung chỉ đạo việc tiếp nhận lực lượng do Bộ tăng cường, cử các đội vũ trang công tác về các địa phương cùng cấp uỷ đảng tuyển quân xây dựng lực lượng tác chiến tại chỗ..., mặt khác, tập trung đội ngũ cán bộ chủ chốt đã kinh qua chiến đấu, xúc tiến thành lập các đơn vị cấp trung đoàn, sư đoàn nhằm tăng cường sức cơ động và khả năng tác chiến tập trung.

Tại căn cứ Phước Long miền Đông Nam Bộ, ngày 13-6, Bộ Tư lệnh Miền thành lập Sư đoàn 7 bộ binh gồm ba Trung đoàn 52, 141, 165. Hai Sư đoàn 5, 9 và một số trung đoàn độc lập được tập trung điều chỉnh cho phù hợp với nhiệm vụ chiến đấu mới2. Mỗi sư đoàn biên chế thêm một tiểu đoàn súng máy 12,7 mm. Trung đoàn 84A pháo hoả tiễn ĐKB đổi phiên hiệu là Trung đoàn 72A. Tiểu đoàn 20 pháo hỗn hợp (sơn pháo 75 và cối 102) bổ sung cho Đoàn 69 pháo binh.

Ở Tây Nguyên, Sư đoàn 1 bộ binh được thành lập cuối tháng 12-1965 cùng với Sư đoàn bộ binh 63, đến đầu năm và giữa năm 1966, Tây Nguyên được bổ sung Trung đoàn 24 bộ binh và Sư đoàn 325 Bộ binh gồm Trung đoàn 95, 101B và Trung đoàn 88 (thuộc Sư đoàn 308). Tháng 8-1966, do khó khăn về bảo đảm vật chất cho các sư đoàn tập trung và do yêu cầu thực tế của chiến trường, Bộ Tư lệnh mặt trận quyết định giải thể Sư đoàn 325B. Khối chủ lực cơ động của Tây Nguyên còn lại Sư đoàn 1 bộ binh gồm các Trung đoàn 66, 320, 88 và Trung đoàn 101 độc lập, bốn tiểu đoàn pháo cối, súng máy cao xạ. Đưa Trung đoàn 24 về Kon Tum, Trung đoàn 95B về Gia Lai, Trung đoàn 33 về Đắc Lắc làm chủ lực tại chỗ. Các trung đoàn này có nhiệm vụ phối hợp chặt chẽ với đòn tiến công của chủ lực cơ động, tác chiến ở vùng sau lưng địch, vùng ven đô, trục đường giao thông chiến lược, trực tiếp hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, góp phần xây dựng, phát triển chiến tranh du kích ở địa phương.

Ở Khu V, tháng 8-1966, Bộ Tư lệnh Quân khu đưa Trung đoàn 31 vừa từ miền Bắc vào bổ sung cho Sư đoàn 2 và tập trung củng cố, xây dựng tăng cường sức mạnh cơ động cho sư đoàn này. Trung đoàn 20 bộ binh được điều vào tỉnh Khánh Hoà, cùng với Trung đoàn 10 đứng chân ở Phú Yên, làm lực lượng chủ lực của quân khu hoạt động ở Phân khu Nam. Để tăng cường sức mạnh chiến đấu, Bộ Tư lệnh Quân khu V tập trung xây dựng thêm Trung đoàn pháo binh 368 B hỗn hợp (cối 120, hoả tiễn ĐKB, A12). Cùng với sự phát triển của khối chủ lực cơ động và tại chỗ ở quân khu, bộ đội địa phương các tỉnh từ Quảng Nam - Đà Nẵng đến Phú Yên, Khánh Hoà đều có từ một đến hai tiểu đoàn bộ binh, một tiểu đoàn đặc công, hai đại đội pháo cối và từ hai đến sáu đại đội bộ binh độc lập. Lực lượng dân quân du kích xã, thôn lên tới hàng chục nghìn người. Những vành đai diệt Mỹ ở Đà Nẵng, Chu Lai, An Khê... lần đầu tiên xuất hiện đã kìm chân được một bộ phận quân Mỹ ở các căn cứ lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho bộ đội chủ lực đánh bại các cuộc hành quân tìm diệt của Mỹ - ngụy.

Tính đến tháng 10-1966, lực lượng chủ lực cơ động của quân đội ta ở miền Nam đã lên tới tám sư đoàn bộ binh4, một sư đoàn pháo binh, một số trung đoàn, tiểu đoàn bộ binh và binh chủng.

Về tổ chức chiến trường, ngoài việc thành lập Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị và các chiến trường đã có (Khu V, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ), Quân uỷ Miền quyết định thành lập Đặc khu quân sự Rừng Sác (5-1966) nhằm tăng cường chỉ đạo hoạt động quân sự và xây dựng khu căn cứ Rừng Sác. Đây là một đặc khu quân sự với lực lượng hỗn hợp tương đương một trung đoàn, có nhiệm vụ đầu tiên là “chặn cổ sông Lòng Tàu” - một trong những con đường thuỷ lớn nhất mà quân Mỹ vận chuyển hàng, vũ khí viện trợ cho chế độ Sài Gòn và cung cấp khối lượng hàng khổng lồ cho quân viễn chinh. Thành lập Khu 10 gồm hai tỉnh Quảng Đức, Phước Long của Khu VI và tỉnh Bình Long của khu VII, nhằm củng cố vững chắc căn cứ miền núi, xây dựng hành lang phục vụ bộ đội chủ lực tác chiến.
________________________________________
1. Quân uỷ Miền: Tổng kết xây dựng lực lượng vũ trang năm 1966, lưu tại Bộ Quốc phòng, hồ sơ 1831/QL.
2. Trung đoàn 3 tách khỏi Sư đoàn 9, trực thuộc Miền chuyên hoạt động sâu trong lòng địch. Trung đoàn 16 độc lập đứng trong đội hình Sư đoàn 9.
3. Sư đoàn bộ binh đầu tiên có các Trung đoàn 320, 66, 33.
4. Ba sư đoàn 9, 5 và 7 thuộc Bộ Tư lệnh Miền, hai Sư đoàn 2 và 3 thuộc Quân khu V, Sư đoàn 1 thuộc Mặt trận Tây Nguyên, hai Sư đoàn 324 và 325 thuộc Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #58 vào lúc: 10 Tháng Tư, 2010, 09:34:00 pm »


Cùng với việc tăng cường lực lượng, tổ chức chiến trường, xây dựng thế trận, Bộ Tư lệnh Miền và các quân khu, mặt trận còn đặc biệt chú trọng vấn đề bảo đảm vật chất, trang bị cho bộ đội chủ lực chiến đấu. Ở Tây Nguyên, quân và dân các dân tộc xây dựng một hệ thống đường vận chuyển mới từ trục đường chiến lược Trường Sơn đến phía đông đường 14 nối với các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà. Các xưởng quân giới, Xưởng dược 38 và Bệnh việc 211 được tăng cường, củng cố. Các đội điều trị 80, 81, 82, 83 bố trí trên các hướng tác chiến của bộ đội. Tỷ lệ tử vong do bệnh tật ở chiến trường gây nên được hạn chế tới mức thấp nhất. Ở miền Đông Nam Bộ, Bộ Tư lệnh Miền thành lập thêm các đoàn hậu cần khu vực 86 (Phước Long - Quảng Đức), 85 (Bình Long), 87 (Bình Thuận) và các Bệnh viện K77B, K97.

Ngành hậu cần các chiến trường, các binh trạm vận tải, đoàn hậu cần khu vực thực hiện tốt việc tiếp nhận ở các điểm giao hàng của Đoàn 962 (vận tải đường biển), Đoàn 559 và đơn vị K201, từ đó chuyển hàng đến điểm cấp phát cho các đơn vị, địa phương. Trong mùa mưa 1966, một số loại vũ khí, phương tiện chiến đấu mới đã được đưa vào chiến trường, tăng cường thêm trang bị cho các đơn vị chủ lực và địa phương. Ở Nam Bộ, mỗi đại đội trong biên chế sư đoàn bộ binh từ chỗ chỉ có ba khẩu súng chống tăng B40 được tăng lên sáu khẩu (8-1966), chín khẩu (12-1966). Một trung đoàn được trang bị 18 khẩu B41. Bộ đội địa phương các tỉnh Tây Ninh, Bình Dương, từ chỗ chỉ có sáu khẩu B40, đến năm 1966 mỗi tỉnh đã có 70 khẩu. Súng tiểu liên AK được trang bị đến bộ đội địa phương. Các tiểu đoàn tỉnh được trang bị ĐKZ75, súng cối 82mm, súng máy cao xạ 12,7mm. Các tiểu đoàn hoả lực ngoài việc trang bị máy thông tin hữu tuyến, nay có thêm máy vô tuyến K83. Lực lượng pháo binh của các khối chủ lực được tăng cường pháo hoả tiễn ĐKB, H12.

Để nâng cao sức mạnh chiến đấu cho bộ đội, ngoài việc củng cố tổ chức, biên chế, trang bị, các đơn vị tranh thủ thời gian giữa hai đợt hoạt động để huấn luyện quân sự, học tập chính trị. Mặc dù thời gian học tập có hạn, nhưng trình độ giác ngộ chính trị, hiểu biết về kỹ, chiến thuật của cán bộ, chiến sĩ được nâng lên một bước mới. Riêng các đơn vị chủ lực tác chiến ở chiến trường Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, Khu V, đường 9 chú trọng xây dựng tư tưởng đánh tiêu diệt và tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô vừa và lớn. Tư tưởng và cách đánh này được quán triệt suốt trong quá trình xây dựng và chiến đấu cửa khối chủ lực Quân giải phóng. Đối với đội ngũ cán bộ trung đoàn, sư đoàn, các quân khu, mặt trận đều mở các lớp tập huấn về nghệ thuật chiến dịch tiến công và phản công, làm cho cán bộ thuần thục chỉ huy, thành thạo cách thức lập thế trận, dùng mưu kế lừa địch, tổ chức đánh trận quyết chiến then chốt... Qua huấn luyện, học tập, năng lực lãnh đạo, chỉ huy và trình độ kỹ, chiến thuật của cán bộ, chiến sĩ nâng lên toàn diện. Bộ đội chủ lực miền Đông tổ chức rút kinh nghiệm các trận đánh Cần Đâm, Cần Lê, Bông Trang - Nhà Đỏ, Long Phước; tổ chức huấn luyện chiến đấu hiệp đồng binh chủng quy mô lớn trên nhiều địa hình phức tạp, đánh cả ban ngày và ban đêm; đánh địch trong công sự vững chắc, đánh địch hành quân dã ngoại. Bộ đội chủ lực miền Tây Nam Bộ tập hành quân đánh địch trên địa hình sông nước, đầm lầy... Bộ đội chủ lực khu V rút kinh nghiệm tác chiến tập trung trên địa hình đồng bằng và bán sơn địa...

Tháng 8-1966, Trung ương Cục và Quân uỷ Miền triệu tập Hội nghị công tác chính trị trong các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam Việt Nam lần thứ hai. Trung ương Cục chỉ rõ, trong tình hình mới của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, công tác lãnh đạo tư tưởng phải chủ động, linh hoạt và kịp thời; phải làm cho các lực lượng vũ trang trong bất kỳ tình huống nào cũng không mơ hồ, do dự về mục tiêu chiến đấu; xây dựng niềm tin và ý chí tiến công có cơ sở khoa học. Hội nghị biểu dương những đơn vị làm tốt công tác chính trị, có nhiều tiến bộ trong xây dựng và chiến đấu như Sư đoàn 9 và Sư đoàn 5 bộ đội chủ lực Miền; Sư đoàn 2 và 3 bộ đội chủ lực Quân khu V; bộ đội địa phương các tỉnh Long An, Bình Dương, Quảng Nam; bộ đội địa phương và dân quân du kích các huyện Củ Chi (Gia Định), Đức Hoà (Long An), Bến Cát (Thủ Dầu Một), Châu Thành (Mỹ Tho), Mỏ Cày (Bến Tre), Phụng Hiệp (Cần Thơ), An Ninh, Vĩnh Thuận (Rạch Giá)... Trung ương Cục còn chỉ thị cho các khu uỷ, tỉnh uỷ phải tăng cường xây dựng các lực lượng vũ trang cơ sở. Hai phần ba đảng viên của các chi bộ và 100% đoàn viên thanh niên ở thôn, xã phải tham gia du kích. Các cấp uỷ đảng hết sức coi trọng việc củng cố tổ chức, rèn luyện tư tưởng, trọng tâm là xây dựng chi bộ bốn tốt, đảng viên bốn tốt. Cán bộ, đảng viên phải nêu cao vai trò tiền phong gương mẫu, đi đầu trong mọi nhiệm vụ chiến đấu, công tác.


*
*   *


Mùa mưa năm 1966, đế quốc Mỹ tăng quân ồ ạt vào miền Nam, ra sức chuẩn bị cho cuộc phản công chiến lược lần thứ hai với hy vọng sẽ “bẻ gãy xương sống Việt cộng”, giành lại quyền chủ động chiến trường. Chúng tích cực mở nhiều cuộc hành quân càn quét, hành quân bình định nhằm tìm diệt một bộ phận chủ lực ta, tạo bàn đạp và thế trận tiến công trong mùa khô lần thứ hai 1966-1967. Nhưng quân và dân ta ở miền Nam biết rõ âm mưu của địch đã chủ động sử dụng lực lượng vừa phải đánh bại các cuộc hành quân càn quét, nống lấn của quân Mỹ, quân ngụy và quân đồng minh của Mỹ, đồng thời phá kế hoạch chuẩn bị của chúng. Đặc biệt là dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, ta đã mở Mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị tạo ra một hướng tiến công chiến lược mới, buộc Mỹ phải bị động đối phó, thế bố trí chiến lược của địch hoàn toàn bị đảo lộn. Đây là bất ngờ lớn đối với địch. Từ bất ngờ dẫn chúng đến lúng túng, bị động không chỉ về chiến lược mà cả về chiến dịch, chiến đấu. Ta đã tạo ra thế mới, lực mới để chủ động bước vào cuộc đọ sức trong mùa khô thứ hai với quân Mỹ.
________________________________________
1. K20 là một đơn vị vận tải của quân đội ta ở Campuchia, hoạt động dưới danh nghĩa một công ty kinh doanh của Việt kiều.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #59 vào lúc: 14 Tháng Tư, 2010, 05:59:51 pm »

CHƯƠNG 17
ĐÁNH THẮNG CHIẾN LƯỢC HAI GỌNG KÌM TÌM DIỆT VÀ BÌNH ĐỊNH
CỦA MỸ TRONG CUỘC PHẢN CÔNG MÙA KHÔ 1966-1967



I- ĐÁNH THẮNG CÁC CUỘC HÀNH QUÂN TÌM DIỆT ĐẦU TIÊN CỦA QUÂN MỸ TRONG MÙA KHÔ LẦN THỨ HAI, PHÁT TRIỂN THẾ TRẬN CHIẾN TRANH NHÂN DÂN


 Sau những thất bại liên tiếp từ mùa khô 1965-1966 đến mùa mưa 1966 và cả trong cuộc chiến tranh không quân đánh phá miền Bắc nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, giới cầm quyền Mỹ càng lúng túng, nội bộ bị phân hoá. Những ý kiến bất đồng về cách giải quyết cuộc chiến tranh Việt Nam nổi lên gay gắt. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Mắc Namara trước đây đã từng ủng hộ chính sách của Tổng thống L. Giônxơn đối với cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam thì nay cũng tỏ ra chán nản và nghi ngờ kết quả của chính sách leo thang của Mỹ ở Việt Nam. Ngày 14-10-1966, Mắc Namara gửi cho L. Giônxơn bị vong lục nói rõ: “Sự thật đáng nản lòng là, như trường hợp năm 1961, 1963 và 1965, chúng ta không thể tìm được công thức và chất xúc tác để lôi kéo, thúc đẩy họ (ngụy quyền Sài Gòn) đi vào hành động một cách có hiệu quả”, “... đứng về quan điểm một cuộc chiến tranh quan trọng, thực chất chúng ta tự thấy mình không khá hơn và có lẽ là tồi tệ đi”1. Cũng trong bị vong lục này, Mắc Namara kiến nghị năm điểm:

1. Ổn định mức quân số Mỹ ở Nam Việt Nam là 47 vạn.

2. Thiết lập một hàng rào điện tử với chi phí khoảng 1 tỷ đôla “nằm gần vĩ tuyến 17, chạy ngang từ biển qua phần cổ chai Nam Việt Nam (cắt ngang những con đường xâm nhập mới đi qua khu phi quân sự) và qua các đường mòn ở Lào” nhằm ngăn chặn sự xâm nhập từ miền Bắc vào miền Nam.

3. Ổn định chương trình sấm rền đánh phá miền Bắc.

4. Theo đuổi một chương trình bình định mạnh mẽ.

5. Gây sức ép đòi thương lượng.

Quan điểm của Mắc Namara bị phe hiếu chiến trong Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân phản đối. Phe này đòi phải đẩy mạnh chiến tranh, đòi ném bom Hà Nội, Hải Phòng, yêu cầu đưa quân đồng minh vào Lào, Campuchia, thậm chí ra cả miền Bắc Việt Nam, đòi tăng quân Mỹ lên 49 vạn rồi 57 vạn.

Tình hình miền Nam lúc đó như Mắc Namara đánh giá là: “một bức tranh ảm đạm, đau đớn đến tột cùng. Nhưng khi đó, tôi không thấy cách gì tốt hơn”2... CIA Cho rằng đánh giá của Mắc Namara là sâu sắc và giống với đánh giá của họ. Nhưng Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân thì “phản ứng mạnh mẽ”3.

Trước tình hình đó, Tổng thống Mỹ L.Giônxơn đã triệu tập Hội nghị khối SEATO (Khối quân sự Đông - Nam Á) ở Manila có sự tham gia của ngụy quyền Sài Gòn để thống nhất hành động với các nước đồng minh, tiếp tục tăng quân, cố giành thắng lợi có tính chất quyết định trong năm 1967. Đồng thời, L.Giônxơn cử các phái đoàn đi một loạt các nước đồng minh Tây Âu để tìm sự ủng hộ đối với hành động của Mỹ ở Việt Nam và tăng cường các hoạt động ngoại giao khác để đánh lạc hướng dư luận thế giới.

Mỹ quyết định mở cuộc phản công chiến lược lần thứ hai vào mùa khô 1966-1967, dự tính từ tháng 10-1966 đến tháng 6-1967. Ý đồ của Mỹ trong cuộc phản công chiến lược lần này là cố giành một thắng lợi quân sự lớn trên chiến trường, tạo một bước ngoặt, tiến tới giành những thắng lợi quyết định. Về chiến lược, lần này địch không phân tán lực lượng đánh trên nhiều hướng mà tập trung đánh vào miền Đông Nam Bộ, đồng thời chú trọng đẩy mạnh kế hoạch bình định, mở rộng vành đai an ninh quanh Sài Gòn - Gia Định, kiềm chế ta ở các hướng Tây Nguyên, Trị - Thiên. Cụ thể là: ưu tiên tập trung lực lượng tiến công vào hệ thống căn cứ của ta ở Tây Ninh, Bình Dương, Long An, Hậu Nghĩa, Phước Tuy, trọng điểm là Chiến khu Dương Minh Châu, diệt cơ quan đầu não và một bộ phận chủ lực ta, kết hợp với việc mở rộng vành đai an ninh quanh Sài Gòn. Trong phản công chiến lược lần thứ hai này, cùng một lúc Mỹ thực hiện cả hai nhiệm vụ “tìm diệt” và “bình định” mà chúng gọi là chiến lược “hai gọng kìm”.
_____________________________________
1. Tài liệu mật của Bộ Quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, VNTTX phát hành, 1971, t.2, tr.201.
2, 3. Mắc Namara: Nhìn lại quá khứ - tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.263.

Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM