menthuong
Thành viên
Bài viết: 411
Nhất tướng công thành vạn cốt khô
|
|
« Trả lời #29 vào lúc: 14 Tháng Mười, 2009, 10:23:17 pm » |
|
Quan hệ Việt-Trung chủ yếu là Việt ngăn chặn sự bành trướng của Hán. Trong lịch sử từng có lần cha ông ta Bắc tiến, nhưng hầu như chỉ nhằm mục đích “tiên phát chế nhân”, không nhằm chiếm đất, chiếm dân. Mở đầu là cuộc tấn công Hợp Phố của Lý Bí (542) và lớn nhất là cuộc chinh phạt “Tiên hạ thủ vi cường” sang Ung Châu của Lý Thường Kiệt vào năm 1075. Sau đây là một sô lần quan quân Đại Việt đánh lên phía bắc: - Mùa xuân năm Nhâm Tuất (542), vua Lương sai quân sang đánh nước ta nhưng bọn tướng cầm đầu là Tôn Quýnh, Lư Tử Hùng sợ nên dùng dằng không dám tiến, do đó quân giặc đi rất chậm. Khi chúng mới kéo đến Hợp Phố thì Lý Nam Đế đã cho quân chủ động đánh vào đất giặc, sử cũ chép “quân Lương 10 phần chết đến 6,7 phần, quân tan rã chạy về”. - Mùa xuân năm Kỷ Mùi (995) hơn 100 chiến thuyền của nước ta đánh vào trấn Như Hồng thuộc Khâm Châu sau đó rút quân. Đến mùa hạ cùng năm, hơn 5000 hương binh châu Tô Mậu (nay thuộc Lạng Sơn) tấn công vào Ung Châu rồi lui binh - Năm Nhâm Tuất (1022) vua Lý Thái Tổ sai Dực Thánh Vương (Nhị Hoàng tử) đem quân đi đánh Đại Lịch do người Nùng ở đây làm phản, sau đó “quân ta đi sâu vào trấn Như Hồng đất Tống, đốt kho tàng rồi rút về” . - Tháng 3 năm Kỷ Hợi (1059) vua Lý Thánh Tông cho quân “đánh Khâm Châu nước Tống, khoe binh uy rồi về, vì ghét nhà Tống phản phúc”. - Năm Canh Tý (1060) châu mục Lạng Châu của nước ta là Phò mã Thân Thiệu Thái đánh vào đất Tống, bắt được tướng Tống là Dương Bảo Tài và quân lính, trâu ngựa đem về. - Ngày 15/9 Ất Mão (27/10/1075) bằng chiến sách khôn khéo, bất ngờ và táo bạo, 40.000 quan quân Đại Việt do Lý Thường Kiệt 李常傑 thống lĩnh tấn công thành Khâm châu (30/12/1075), tiếp làm chủ Liêm châu (03/01/1076). Đây là 2 châu giáp biển thuộc Quảng Tây giáp với Quảng Ninh và Lạng Sơn nay. Sau đó Lý Thường Kiệt sai làm Phạt Tống lộ bố văn 罚宋路佈文,yết dọc đường để lấy danh nghĩa và gây thanh thế rồi đem quân tiến tới tận Ung châu (cung xthuộc Quảng Tây) phá được thành này sau 42 ngày vây hãm. Trận “Tiên hạ thủ vi cường” này làm cả triều Tống lo sợ và bối rối. Tống Thần Tông dặn ty kinh lược Quảng Tây : “Nếu xem chừng có quân Giao Chỉ tới đâu mà không đủ quân giữ, thì chỉ giữ mấy chỗ hiểm yếu mà thôi…” sau đó lại dụ : “Nếu quân bỏ thành mà đi chỗ khác, thì lo rằng lòng dân rối sợ. Hãy bảo các quan ti đều phải trở lại thành mình”. Rõ là hai đạo chiếu trái ngược nhau, kết cụ là thành trì và quân Tống bị thiệt hại nặng. Như vậy, trong hơn 3 tháng trời, Lý Thường Kiệt cùng binh khê động tâm phúc các nơi tiến quân vào đất Tống, phá hết các cứ điểm của Tống mà có thể dùng để đánh ta, phá thành Ung, Khâm, Liêm; đốt các trái Vĩnh Bình, Thái Bình, Cổ Vạn, Thiên Long, giết người vô số (khoảng 7-10 vạn người) rồi rút quân về đem theo hàng ngàn quân dân Tống bị bắt đem về Đại Việt cùng nhiều của cải. Tất cả chuẩn bị đợi Tống sang làm nên trận Như Nguyệt nổi tiếng (Xuân Hè 1076). - Tháng 10 năm Tân Sửu (1241) vua Trần Thái Tông thấy một số tộc người ở nước Tống thường hay quấy nhiễu biên giới bèn sai đốc tướng Phạm Kính Ân đem quân vượt biên giới đánh vào hang ổ của chúng rồi về. Cũng trong năm đó Trần Thái Tông lại “đem quân đánh vào các trại Vĩnh An, Vĩnh Bình của nước Tống, theo đường bộ rồi đi qua các châu Khâm, Liêm”. - Mùa hạ năm Nhâm Dần (1242) Trần Thái Tông sai “thân vệ tướng là Trần Khuê Bình đem quân trấn giữ biên giới phía bắc, đánh lấy địa phương lộ Bằng Tường”. - Tháng 2 năm Bính Dần (1266) đời vua Trần Thánh Tông, thủy quân lộ Đông Hải của nước ta tấn công rồi đánh đến tận núi Ô Lôi ở phía đông nam huyện Khâm (nay thuộc Quảng Đông, Trung Quốc), “nhờ đó biết được quân Nguyên có âm mưu xâm lược nước ta”. Theo Nguyên sử cho biết, vào tháng giêng năm Qúy Sửu (1313) quân Đại Việt gồm hơn 3 vạn người và hơn 3000 kị binh đánh vào Vân Động, châu Trấn Yên (nay thuộc Thiên Bảo, Quảng Tây, Trung Quốc), sau đó tấn công các xứ Lôi Động, Tri Động và châu Quy Thuận (nay thuộc Tĩnh Tây, Quảng Tây, Trung Quốc). Đến tháng 4 năm đó quân ta lại đánh vào châu Dưỡng Lợi (nay thuộc huyện Dưỡng Lợi, Quảng Tây, Trung Quốc). Về sau nhà Nguyên phải cho sứ đến thương lượng quân ta mới rút lui. - Theo sách Minh sử thì năm Mậu Ngọ (1438) thổ quan châu Tư Lang của nước ta đem quân đánh hai châu An Bình và Tư Lăng (nay thuộc Quảng Tây, Trung Quốc). Vua Minh phải sai sứ là Thang Đinh sang nước ta, vua Lê Thánh Tông cũng cho sứ sang nước Minh thương nghị. - Tháng 6 năm Canh Tý (1480) tổng binh tri Bắc Bình của nước ta là Trần Ao sai Đào Phu Hoán đem 600 quân đánh vào Cảm Qủa, chiếm được ải Thông Quang (thuộc Quang Lang, Ôn Châu, Trung Quốc) rồi tiến vào Ban Động dựng rào chắn, sau đó tâu về triều đình. Vua Lê Thánh Tông sau đó cho người lên biên giới “biện bạch phải trái với nhà Minh”. - Đặc biệt việc đòi đất được đề cập táo bạo dưới thời Tây Sơn. Quang Trung có ý muốn lấy lại vùng Quảng Đông, Quảng Tây (Thanh) vốn trước kia cùng với Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam (Đại Việt) lập thành Nam Việt của Triệu Đà. Rất tiếc mọi việc đang dang dở thì Quang Trung mất (9/1792) rồi nhà Tây Sơn đổ (1802).
|