Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 17 Tháng Tư, 2024, 01:34:34 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Sự lừa dối hào nhoáng  (Đọc 147463 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
TraitimdungcamHP
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 505


« Trả lời #170 vào lúc: 14 Tháng Bảy, 2008, 03:45:06 pm »

Vann khuyến khích cô bỏ học, ở lại hẳn Sài Gòn . Những gì anh nói hoặc làm làm cô tin chắc anh cũng yêu cô. Về nhiều phương diện, cô khác hẳn Lee. Cô xinh và thanh mảnh, không quá đáng trong tình dục và không hài hước giễu cợt như Lee. Cô cũng không biết tiếng Anh hoàn hảo như Lee. Annie là một người phụ nữ trẻ dịu hiền và kín đáo, nhẹ nhàng vui vẻ. Ngược lại, Lee hấp dẫn Vann vì mỗi khi làm tình là một cuộc phiêu lưu mới và bởi vì cô là một trong những người phụ nữ hiếm hoi anh có thể nói chuyện thẳng thắn. Nhưng với một người đàn ông như Vann, quan hệ với một người đàn bà có tính cách như Lee luôn có một yếu tố đe dọa. Anh gắn bó với Annie chình vì những đức tính ngược lại của cô.

Khi Annie đột ngột thay đổi, bố cô lo ngại về những gì đã xảy ra, đi hỏi thăm về Vann và biết đó là một tay chạy theo váy đàn bà và đã có vợ con. Một đêm, ông chờ Vann và Annie trước  nhà. Khi Vann xuống xe, ông lại gần và tát vào mặt anh.

“Anh không xấu hổ à ? Người bố kêu lên. Anh không có tí trách nhiệm nào ư ? Anh không biết có thể bị đưa ra tòa vì tội quyến rũ trẻ vị thành niên ?”

Vann không cố tự vệ. Anh nói, mong được giải thích.

“ Không có gì phải giải thích, người bố lại nói. Anh tránh xa con gái tôi ra “.

Ông tát Annie, buộc cô phải vào nhà ngay.

Vann cư xử như chưa bao giờ dám làm như vậy ở Hoa Kỳ . Anh tiếp tục gặp Annie và làm tình với cô. Anh chỉ chú ý tránh bị bạt tai một lần nữa bằng cách để Annie xuống cách nhà một quãng. Khi anh gọi điện cho cô hẹn gặp mà người bố trả lời, Vann bị mắng không ăn thua gì. Bố Annie quá xấu hổ, chỉ còn cách kiện lên đại sứ Cabot Lodge. Ông cố phân tích lý lẽ với con gái, giải thích Vann chẳng có ý định cưới cô và dù sao anh cũng quá già so với cô. Anh ta chỉ lợi dụng sự ngây thơ của cô. Cô đang hủy hoại tương lai, đánh mất sự nghiệp và cơ may có một người chồng tử tế, một gia đình hạnh phúc.

Lý lẽ không có tác dụng. Ông bố bèn dùng biện pháp mạnh. Như các gia đình tầng lớp trên ở Sài Gòn, nhà ông có tường bao quanh. Ông khóa cổng, giữ chìa khóa để cô không ra ngoài ban đêm được. Annie trèo tường. Vann chờ bên ngoài đỡ cô xuống. Giận dữ và thất vọng, ông bố đánh con gái mỗi khi về nhà. Việc đó không cản trở được cô khi có dịp hẹn gặp bằng thư hoặc điện thoai, cô lại trèo tường và bị đánh khi về nhà. Sự ngoan cố xem ra do tính tình một phụ nữ trẻ quen làm điều gì mình muốn. Nhưng nhất là với một cô gái sống hoan lạc trong một giấc mơ lãng mạn. Việc thách đố của Vann đối với bố cô càng chứng minh rõ anh hết lòng vì cô.

Vann nghỉ phép trở về Hoa Kỳ, sau khi trở lại anh nói với Lee anh đã cố thuyết phục Mary Jane ly dị nhưng chị không chịu và đưa ra những điều kiện quá đáng. Anh sẽ phá sản vì cung cấp cho vợ và các con. Lee bảo cô chờ và Mary Jane có thể sẽ thay đổi ý kến. Dĩ nhiên việc  nói chuyện ấy với Mary Jane không hề có. Điều quan trọng hơn cả là những người Mỹ giữ được hình ảnh tôn trọng hôn nhân và gia đình mà vẻ ngoài củng cố tốt hồ sơ cá nhân của họ. Đồng thời Mary Jane cũng cần thiết cho Vann. Một cuộc hôn nhân không tan vỡi ở Mỹ tạo điều kiện cho sự tự do tình dục ở Việt Nam .

Annie mang thai vào cuối năm 1966 và thông báo muốn giữ đứa con. Vann giải thích sự nghiệp của mình sẽ bị ảnh hưởng nếu người ta biết anh là bố của một đứa con bất hợp pháp và nói đến việc nạo thai. Cô bất đắc dĩ phải chấp nhận. Phẫu thuật về thể xác và tâm lý đối với cô rất khó khăn và cô báo trước với Vann sẽ không lặp lại nữa. Anh không khuyến khích cô dùng các biện pháp tránh thai. Về phần Lee, cô đã nạo thai hai lần trước khi dùng các biện pháp tránh thai theo sáng kiến của mình. Hình như Vann tin rằng có thể thuyết phục Annie nạo thai lần thứ hai nếu cô lại mang thai. Đối với anh việc mang thai thuần túy là một việc của đàn bà. Với anh, phụ nữ chỉ là để thỏa mãn và anh lợi dụng quá đáng họ mà mẹ anh, Myrtle là người chịu trách nhiệm.
Logged
TraitimdungcamHP
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 505


« Trả lời #171 vào lúc: 14 Tháng Bảy, 2008, 04:13:33 pm »

 Con trai của Myrtle có một thắng lợi tồi đối với bà mẹ vào mùa thu năm 1966. Một chiều tháng Chín, cảnh sát thấy bà nằm dài gần bất tỉnh trên bãi biển Norfolk. Bà sống gần đấy trong một gian phòng cho thuê. Người bà sặc mùi rượu và còn cầm trong tay một chai rượu đầy, chắc vừa mới mua. Cảnh sát cho rằng bà lại say và nhốt bà vào phòng giam dành cho những người nghiện rượu. Đến 4 giờ sáng, có người phát hiện ra bà đang hôn mê và đau đớn bởi bệnh gì đó. Bà chết ngay chiều hôm ấy. Một tên bạo dâm chắc đã đánh đập lúc bà đang uống, làm vỡ trán, dập mắt cá chân và sưng nhiều chỗ. Bà càng nghiện ngập qua năm tháng, càng say thường xuyên và lâu hơn. Đã 61 tuổi, bà quá yếu nên các thầy thuốc không cứu được.

Cuối cùng, ngoài việc xin ăn hoặc đánh cắp, đứa con trai bà đối xử tàn ác nhất là nguồn giúp đỡ tài chính duy nhất của bà. Trong nhiều năm, hàng tháng Vann gửi cho bà một ngân phiếu, thiệt thòi cho Mary Jane là bây giờ anh chỉ cung cấp vừa đủ cho chị sống. Anh tăng tiền gửi vào đầu năm 1960 khi Myrtle ly dị viên hạ sĩ thủy quân mà vì ông này bà đỏ bỏ Frank Vann. Ông lính thủy dữ tợn, đã làm nổ con mắt bên trái của Myrtle bằng cách ném một chai bia vào bàn trong một cuộc ẩu đả và bà phải mang một con mắt giả. Khi về hưu, họ ở Arkansas rồi ông lính thủy bị bắt vì buôn rượu và ăn cắp. Myrtle lợi dụng lúc đó bỏ rơi ông, trở về Norfolk cố uống nhiều với số tiền ít ỏi nhận được từ cuộc ly dị. Trước lúc bà chết, Vann gửi cho bà mỗi tháng 200 đôla.

Anh cũng chi phí cho đám tang, không muốn bà xuống mồ với một chiếc hộp gỗ trắng người ta dùng ở các trang trại khi anh còn trẻ ở Carolina Bắc. Khi người em đầu Frank thông báo cho anh cái chết của Myrtle, anh trả lời sẽ bay ngay về làm tang lễ đúng mức và chắc chắn bà sẽ có một chiếc quan tài tử tế. Anh sẽ chi phí cho tất cả. Vann về Norfolk buổi sáng, kịp nhìn mẹ trước khi đóng quan tài. Sau lễ an táng, anh kết thúc thắng lợi đáng ngờ về mẹ mình với một công bố bất ngờ. Myrtle vẫn giữ họ của ông chồng lính thủy sau khi ly hôn. Cử chỉ đầu tiên của Vann là đưa bà về lại trong gia đình. Tên họ sẽ khắc trên bia mộ, anh cũng trả tiền, là tên họ bà không mang nữa 18 năm nay : Myrtle Lee Vann. Dorothy Lee phản đối : nếu mẹ cô muốn đổi tên họ và lấy lại họ Vann thì bà đã làm rồi. Dorothy tin chắc bà giữ họ của ông thủy thủ vì tuy chia tay nhau bà vẫn thiết tha với ông ấy. Frank và Gene ngả theo ý kiến của John. Họ không chịu đựng được nếu họ của người kia khắc trên mộ mẹ họ.

John thực hiện ý đồ của mình. Vann muốn Myrtle đã chết là người đã từ chối không là mẹ anh lúc còn sống. Anh cho khắc trên tấm bia :

“ Myrle Lee Vann … Mẹ thân yêu của John, Dorothy , Frank và Gene “.
Logged
TraitimdungcamHP
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 505


« Trả lời #172 vào lúc: 14 Tháng Bảy, 2008, 05:36:53 pm »

 Trong lúc Myrtle đi tới kết thúc, việc John Vann đi lên trong hệ thống chính quyền ở Việt Nam , không phải không gặp những nguy hiểm vụn vặt thường xảy ra. Việc chỉ định anh đứng đầu chương trình của AID để đưa ra những nhóm cán bộ bình đinh làm anh tranh chấp với CIA, đến mức suýt bị đưa về Hoa Kỳ sớm hơn dự kiến.

Chương trình mới là cố gắng lớn nhất để bình định nông thôn, từ các ấp chiến lược của Diệm. Một trại lớn được xây dựng ỏ Vũng Tàu để đào tạo những đội đặc  nhiệm Việt Nam , mỗi đội 40 người, gọi là những “ Đội hoạt động chính trị “. Đầu năm 1966, CIA đã huấn luyện ở đó 16.000 người Việt. Trại khá rộng, mỗi lần có thể đào tạo được 5.000 người nhằm xây dựng một lực lượng tổng cộng 45.000 người. Họ sẽ bận áo bà ba đen của nông dân, được gọi là “ cán bộ “ bắt chước theo những người cộng sản Việt Nam .

Trùm CIA ở Sài Gòn, Jorgenson và người phó Tom Donohue lầm tưởng những đội bố trí tại chỗ đã gây những tổn thất to lớn cho Việt cộng . Đào tạo xong, những cán bộ bình định được giao cho các huyện trưởng, tỉnh trưởng sử dụng chống du kích. Những người của CIA không đi kèm họ trong hoạt động. Để đánh giá hiệu quả, họ giao cho các quan chức Sài Gòn ở tỉnh, những người chỉ muốn nhận tiền của CIA và được quân đội bảo vệ, đã lừa bịp họ một cách có hệ thống.

CIA xem công việc bình định là một hoạt động rộng lớn nhằm nhận diện và loại bỏ cán bộ của di kích địa phương. Vann không coi trọng cảnh đàn áp ấy và cho là không tránh khỏi được. Anh nghĩ phải kèm theo một sự thay đổi kinh tế xã hội để tranh thủ sự hợp tác của tầng lớp nông dân nên muốn các đội phải bổ sung thành những toán 80 người trong đó có những nhà chuyên môn về chính quyền, về y tế, giáo dục và hiện đại hóa nông nghiệp. Với mục tiêu ấy, dĩ nhiên phải có sự thay đổi về chương trình đào tạo ở Vũng Tàu.

Sự mỉa mai về số phận đưa CIA tranh chấp với sĩ quan chính họ đưa vào cầm đầu chương trình về phía Việt Nam, trung tá Trần Ngọc Châu. Ông này đưa Vann vào đấy và trở thành người bạn Việt Nam tốt nhất của anh. Trần Ngọc Châu là một sĩ quan rất hiếm hoi của Quân lực Cộng hòa đã chống Pháp cùng với Việt Minh trong bốn năm. Ông thuộc một gia đình quan lại Huế bị ngược đãi như thường xảy ra đối với giai cấp này khi hợp tác với thực dân. Trong Thế chiến thứ hai, Châu và hai em theo Việt Minh và Châu nhanh chóng lep lên thành chỉ huy tiểu đoàn. Nhưng ông ta có tính quá ích kỷ, không chịu được sự hy sinh bản thân và kỷ luật tập thể của Đảng cộng sản Việt Nam đòi hỏi ở cán bộ và quá tham vọng , không muốn theo đuổi sự nghiệp đó nữa. Hai người em được kết nạp vào Đảng nhưng Châu không được giải quyết. Ông ta đào ngũ, vào quân đội của Bảo Đại dưới sự chi phối của Pháp.

Những người bạn Mỹ nhận thấy những tính tốt của Châu, không quan tâm đến những lý do ông rời hàng ngũ cộng sản. Họ cho rằng vì những lý do chính trị và nguyên tắc, không phải do thái độ và tính tình của ông. Đối với Vann, Dan Ellsberg cũng như đối với Bumgardner và những người khác, Châu thậm chí là sự mẫu mực của một người Việt Nam “ tốt “. Theo tiêu chuẩn của Sài Gòn , ông trung thực, quan tâm đến sự thăng tiến và tiếng tăm chứ không vì tiền. Ông thực lòng muốn cải thiện cuộc sống của nông dân cho dù hệ thống ông phục vụ không cho phép biến nguyện vọng của ông thành hiện thực. Bốn năm ở cùng Việt Minh và với trí óc nhanh nhạy, tinh tế cho phép ông tranh cãi về chiến tranh du kích, về công việc bình đinh, thái độ của nhân dân nông thôn và những sai sót của xã hội Sài Gòn một cách sáng suốt và thông minh. Vấn đề với những người Sài Gòn , như ông nói, họ là những “ người Việt Nam ngoại lai”.

Châu và Vann gặp nhau lần đầu năm 1962 ở Bến Tre, khi Diệm bổ nhiệm Châu làm tỉnh trưởng Kiến Hòa, tỉnh lộn xộn nhất ở phía bắc vùng đồng bằng.. Trong năm đầu , quan hệ giữa Vann và Châu không bình lặng, nhất là vì Châu, hào hứng về sự chú ý và đề bạt của tổng thống, là một trong những thuộc hạ trung thành của Diệm thời kỳ ấy. Nhưng hai người xa nhau với một tình cảm mến trọng nhau và năm 1965, khi Vann trở lại, tình bạn của họ phát triển. Ở Kiến Hòa, Châu cũng tiếp xúc trực tiếp với CIA. Ông không đạt kết quả hơn những tỉnh trưởng khác vì trong những ấp chiến lược của ông, Việt cộng tuyển dụng được gần 2.500 người tình nguyện sau trận Ấp Bắc. Nhưng ông là một ngoại lệ vì ông tiến hành việc bình định trong tỉnh rất nghiêm chỉnh. CIA chú ý nhất là Châu đã thực hiện nhiều chương trình thực nghiệm được tài trợ, đặc biệt chương trình loại trừ những thành viên chính quyền Việt cộng bí mật bằng những đơn vị giống những toán ám sát của CIA gọi là đội “ chống khủng bố “. Vì vậy, cuối năm 1965, khi Gordon Jorgensen, trùm CIA Sài Gòn cần một giám đốc người Việt Nam về dự án đào tạo những đội bình định, ông ta quan hệ với AID và Châu được chọn một cách hợp lý. Châu đưa Vann vào guồng máy và đề nghị anh là cố vấn Mỹ của ông.

Tháng Ba năm 1966, người ta tìm được một thỏa hiệp về tính chất và qui mô những đội bình định, quân số ấn định lên 59.000 nhưng với biết bao tranh luận khiến Jorgenson và Donohue tự nhủ vì sao họ đánh giá Châu cao đến vậy. Về phần mình, Vann tranh thủ được tình bạn của Donohue mặc dù họ khác biệt nhau còn Jorgenson thì đã ngán kẻ gây rối hỏng việc ấy. Phải có một trọng tài, người đó là William Porter, người số hai sau đại sứ Lodge, giám sát tất cả chương trình bình định như tổng thống Johnson yêu cầu. Jorgensen phàn nàn với Porter, Vann là một người vô trách nhiệm làm rối tung một chương trình tốt đẹp để tự mình kiểm soát. Porter, 51 tuổi mà 30 năm làm Ngoại giao, không biết rõ về Việt Nam và châu Á; ông theo đuổi sự nghiệp ở Trung Đông và chức vụ trước đây là đại sứ ở Algeria. Có thể ông sẽ ngả theo quan điểm của CIA nếu Vann không biết về những việc lạ lùng xảy ra ở trại Vũng Tàu.
Logged
TraitimdungcamHP
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 505


« Trả lời #173 vào lúc: 15 Tháng Bảy, 2008, 11:20:33 am »

Richard Holbrooke, người tập sự của năm 1963, đã trở thành trợ lý của Porter vì là một trong những nhà ngoại giao hiếm hoi có kinh nghiệm về bình định trên thực địa. Khi Vann vào văn phòng kể chuyện, Holbrooke không muốn tin. Thật quá sửng sốt.

Chương trình huấn luyện đặc vụ của CIA, Vann kể, bị “đổi hướng” bởi một thành viên nhóm chính trị mờ ám Việt Nam dùng làm vỏ bọc tuyên truyền chống cộng sản và cũng chống Sài Gòn . Thủ phạm là người chỉ huy trại, chịu trách nhiệm về chương trình học, đại úy Quân lực Cộng hòa Lê Xuân Mai, nhân viên CIA những năm 1950. Không chỉ tuyên truyền trong những người thực tập bằng sự khóe léo trong các bài học chính trị, ông ta đưa vào mỗi đội một nhóm bí mật bốn thành viên của ông. Ông ta làm điều đó tự do trước mắt các chỉ huy CIA và trợ lý vì không một ai trong trại nói được tiếng Việt. Mặt khác, không người nào kể cả Jorgenson và ai đó dưới quyền ông tò mò đọc báo dịch những gì người ta dạy. Châu phát hiện ra điều đó và cảnh báo với Vann.

Holbrooke xác minh lại câu chuyện này và khi thấy đúng, đã thu xếp một cuộc hẹn gặp Porter. Vann đã gặp ông này một lần trước đây để trình bày quan điểm của mình về các bài giảng và không may cho anh, Porter đã được Jorgenson phỉnh phờ nói trước những điều không tốt về anh. Cuộc hẹn gặp lần thứ hai ấn định vào cuối ngày. Porter ra khỏi văn phòng, nói với Holbrooke ông về nhà. Vann theo ông, vừa đi vừa nói.

Hôm sau, Porter trở về Đại sứ quán, kinh ngạc và thích thú. Ông kể Vann không rời ông một giây, theo ông trong thang máy rồi ra đến xe vừa không ngừng nói. Anh bảo có thể lên chỗ ông vì còn nhiều điều cần nói. Porter đồng ý và Vann ngồi vào ghế sau bên cạnh ông vừa tiếp tục giải thích. Một lúc sau, chiếc xe limousine dừng lại vì tắc nghẽn giao thông. Vann đột ngột nói “ Xin cám ơn nhiều, thưa ông đại sứ “ và mở cửa xe, biến mất trong đám đông. Porter bắt đầu hiểu rõ hơn những đức tính của con người khá lập dị này.

Tình bạn và sự thán phục của Dan Ellsberg đối với Vann dựa nhiều vào sự việc tình cờ đó. Lansdale để cho Ellsberg tùy ý hoạt động vì nhiệm vụ lần thứ hai của anh ở Việt Nam thực ra là một thất bại trong năm 1966. Anh trở lại để nhận một vai trò hoàn toàn buồn cười : tổ chức lại từ chóp chế độ Sài Gòn bằng sự thuyết phục và hấp dẫn của những lý tưởng cuộc cách mạng Mỹ. Westmoreland, tổng chỉ huy có thể được Kỳ, Thiệu và những người khác lắng nghe vì ông có những nguồn cho phép họ làm giàu. Lodge, đại sứ, cũng là một kẻ đối thoại có giá trị vì ông nắm quyền lực, họ có thể tác động để thỏa mãn tham vọng cá nhân về chính trị. Lansdale không có gì để thương lượng, và các quan chức Sài Gòn bỏ mặc ông với  những bài thuyết giáo. Hơn thế, nhiệm vụ chính trị của ông là liên lạc giữa Đại sứ quán và Bộ Kiến thiết nông thôn không còn lý do tồn tại từ khi Johnson quyết định giao cho Porter giám sát chương trình bình định. Do vậy, Lansdale ở trong một tư thế mơ hồ và đi đến thất bại trong việc cố vấn những vấn đề bình định bên cạnh Đại sứ quán. Điều tích cực duy nhất ông có thể làm trong những hoàn cảnh đáng ngờ ấy là dùng uy tín vốn có để tác động dư luận về hướng này hoặc hướng khác. Nhiệm vụ của nhóm ông cho phép Ellsberg chõ mũi vào cuộc tranh cãi về công việc bình định và hoạt động của trại Vũng Tàu. Và anh không bỏ qua ! Những báo cáo của anh với Lansdale là những bản trình bày rõ ràng, ngoạn mục luận thuyết của Vann, thuyết phục được Lansdale và gây ấn tượng cho Porter.

Tuy tình hình tồi tệ, phải để nhiều tháng, đến tháng Sáu năm 1966, người ta mới rũ bỏ được Mai, chỉ huy của nhóm trong trại. Jorgenson không muốn mất mặt khi thừa nhận trùm CIA và tất cả những công việc tình báo của ông bị một trong những nhân viên trung thành của họ lừa. Dù sao ông cũng  đủ độc lập vì là trưởng chi nhánh ở Sài Gòn để thu xếp mọi việc theo ý mình.

Vann bắt đầu sợ mình la một người bị theo dõi. Tháng Tư, anh được bổ nhiệm phụ trách các kế hoạch và dự án có quyền giám sát tất cả những chương trình khác về chống nổi dậy cũng như việc huấn luyện các đội bình đinh. Tuy vậy, anh sợ bạn bè của Jorgenson than phiền vê anh khá mạnh ở Washington làm ảnh hưởng đến bước tiến của anh. Khi nghe tiếng đồn về trường hợp ấy, anh tìm một khả năng khác tránh việc đáng sợ là phải trở về Colorado.

Cũng thời kỳ đó, McNamara muốn kiểm soát chặt chẽ hơn các lực lượng quân sự, thành lập một nhóm dân sự ở Lầu Năm Góc cung cấp cho ông những phân tích không thiên vị về chiến lược và chương trình trang bị vũ khí. Văn phòng phân tích này gồm một nhóm trí thức khác thường kiểu Ellsberg. Hai người chịu trách nhiệm, Alian Enthoven, trước đây cũng ở Công ty Rand và người phó Fred Hoffman, đều là bạn của Ellsberg. Cho đến lúc đó, văn phòng phân tích bỏ quan châu Á để tập trung vào chiến lược hạt nhân và Liên minh Đại Tây Dương. Bây giờ, McNamara muốn họ nghiên cứu về việc tiến hành chiến tranh ở Việt Nam . Ông tìm một người không bảo thủ có kinh nghiệm về thực địa và khả năng trí tuệ cần thiết để phân tích về số lượng chủ yếu dựa trên thống kê. Một trong những bạn bè họ gặp Vann ở Sài Gòn, nghĩ anh có thể phù hợp với vị trí này.

Tháng Năm, Hoffman viết thư cho Vann, gợi ý trong đợt nghỉ phép tới, đến Lầu Năm Góc nói chuyện về việc phụ trách bộ phận châu Á đang hình thành. Vann trả lời sẵn sàng và Ellsberg gửi một bức thư ba trang giới thiệu một cách ca ngợi và thuyết phục. Công việc mới này cho phép Vann có khả năng gần gũi với McNamara và tiếp tục đi sâu về vấn đề anh đã ấp ủ từ lâu. Là thành viên của nhóm tinh hoa phục vụ quyền lực của Washington , một ngày nào đó anh có thể trở lại Việt Nam với trách nhiệm cao hơn. Và vì Mary Jane cùng các con đã ở Colorado, anh không cần phải đưa họ lên Washington.

Anh trao đổi với Hoffman và Enthoven trong tháng Sáu, cố sức gây cho họ cảm tưởng có thể chờ đợi nhiều ở anh. Enthoven nhấn mạnh việc McNamara để cho Văn phòng phân tích tự do hoàn toàn nên các thành viên phải trung thành tuyệt đối với bộ trưởng Quốc phòng nếu một ngày nào họ không tán đồng đường lối của ông ấy. Vann hứa triệt để kín đáo và im lặng. Anh cho rằng vị trí người ta dành cho anh là dịp tốt, nhất là, sau khi anh trở lại Việt Nam một người bạn viết thư cho anh biết trưởng cơ quan AID của Đông Nam Á bắt đầu nghi ngờ anh qua những khiếu nại của CIA và định giữ chân anh ở vị trí bàn giấy không quyền lực.

Việc Enthoven được McNamara đồng ý, đưa anh vào vị trí này là một vinh dự và chứng tỏ tiếng tăm của Vann, sự tôn trọng sự thật, tinh thần dũng cảm và ý thức phục vụ được trung tâm hệ thống cầm quyền biết đến. Nhưng vào cuối tháng Chín, khi Enthoven quyết định có sự điều động nghiêm chỉnh thì việc tín nhiệm ban đầu của Vann ở vị trí này kém hẳn. Một cách nhìn khác và một truyền bá hơi rắc rối (mà Vann có tham gia) làm người ta xét lại vị trí của anh vì Jorgenson và CIA cho là kỳ cục. Rồi Jorgenson ra đi, việc tranh cãi trước đây chỉ là một chuyện cũ đối với trùm CIA mới dù vẫn còn một ít chua cay. Vị trí của Vann ở Việt Nam được tăng cường đến mức anh có thể đương đầu với những khiếu nại của một số chống lại anh ở Washington. Đầu tháng Mười, khi anh về làm lễ tang Myrtle, anh đã lên một bước trên bậc thang chính quyền, được bổ nhiệm làm phó giám đốc các hoạt động của AID ở Quân đoàn 3.
Logged
TraitimdungcamHP
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 505


« Trả lời #174 vào lúc: 15 Tháng Bảy, 2008, 02:30:01 pm »

 Vann biết Washington dự định tổ chức lại việc bình định vì tổng thống và McNamara không hài lòng về kết quả . Họ lựa chọn giữa giao toàn bộ trách nhiệm cho tướng Westomerland hoặc giữ quân sự và dân sự độc lập với nhau nhưng hợp nhất các cơ quan dân sự AID, CIA, USIS dưới quyền của Porter. Một chức vụ lãnh đạo bên trong tập hợp đó sẽ có trách nhiệm lớn hơn là giám đốc vùng củ AID. Vann đã đặt một chân vào vị trí ấy khi hiên nay anh đã có một luật sư đặc biệt tốt là Ellsberg. Do nhóm của Lansdale đã giải thể, bây giờ Ellsberg làm việc cho Porter rồi anh sẽ trở thành phó của ông. Chính chất lượng những báo cáo của anh cho Lansdale rất nhuộm màu chiến tranh, đã đưa anh lên vị trí này. Vann đã dạy cho anh sự mạo hiểm sẽ được trả công rất hào phóng bằng nguồn tin tức dồi dào thu lượm được và sẽ thỏa mãn về cảm giác nên Ellsberg không ngừng một mình đi khắp nước hoặc đi cùng Scotton và Bumgardner khi Vann không rảnh việc . Họ chấp nhận với nhau là thành viên nhóm tinh hoa nhỏ người Mỹ, như Vann, say sưa và táo bạo.

John Vann cũng biết trong quá trình cải tổ như vậy, xu hướng tự nhiên của chính quyền là lựa chọn  những nhân vật không bàn cãi về các vị trí có trách nhiệm. Để tăng thêm vận may, anh chơi trò nhìn vào người cần đến mình : anh viết thư cho Enthoven ở Lầu Năm Góc nói sẽ rất sung sướng được đứng đầu bộ phận châu Á mới của anh và những việc đào tạo chính thức sẽ bắt đầu với sự bô nhiệm mới này. Dĩ nhiên, anh làm cho những người có tiếng nói ở Sài Gòn biết sự tình cờ hấp dẫn ấy đồng thời anh đề nghị với Washington giải quyết công việc tạm thời này biến nó thành vị trí ổn đinh. Như anh đã viết cho một người bạn ở Denver “ Tôi sử dụng Enthoven để gây rắc rối cho AID “.

Porter chắc tán thành Vann đủ để có một quyết định mạnh bạo. Washington chọn giải pháp thứ hai, tập hợp các cơ quan dân sự dưới một mái dù và cuối tháng Chín năm 1966 tuyên bố thành lập Cơ quan các hoạt động dân sự (OCO). Porter được Lodge đồng ý, để cho Vann chọn giữa Quân đoàn 3 và Quân đoàn 4, chỗ chiến tranh bị đình trệ. Vậy là anh thích Quân đoàn 3 hơn vì những lý do nghiệp vụ và riêng tư. Văn phòng của anh ở Biên Hòa chỉ cần nửa giờ đi xe là đến Sài Gòn. Đấy là trung tâm dễ tiếp cận quyền lực của Đại sứ quán và của Westmoreland, những “ nhà du lịch “ nổi tiếng đến ngó xem cuộc chiến tranh , cũng thuận tiện liên lạc với báo chí vốn không bỏ qua việc bổ nhiệm anh. Ward Just của tờ WASHINGTON POST viết một bài báo đăng lên trang đầu, nói Porter đã chọn “một trong những người Mỹ huyền thoại “.

Việc chọn vị trí này không cản trở gì cuộc sống riêng tư của anh với Annie và Lee, không làm anh mất cảm giác của những đêm Sài Gòn . Bán kính hoạt động của anh trải rộng trên 11 tỉnh xung quanh thủ đô. Anh bố trí tổng hành dinh trong một chỗ trú quân khiêm tốn AID đã làm gần sân bay Biên Hòa và tổng hành dinh của Quân đoàn 3. Sở chỉ huy các lực lượng Mỹ, bốn sư đoàn, thêm một lực lượng quân Úc 45.000 người và một lớp lính mới nhập ngũ người New Zealand, bố trí tại một căn cứ mới rộng lớn ở Long Bình cách đấy không xa.

Vị trí đứng đầu những hoạt động dân sự của Quân đoàn 3 là chức trách đầu tiên quan trọng nhất của Vann kể từ Sư đoàn 7 và anh rất hào hứng. Trong giấy bổ nhiệm chính thức, Porter chỉ rõ anh là “viên chức dân sự Mỹ có cấp bậc cao nhất trong vùng” và anh “ lãnh đạo, giám sát, phối hợp mọi hoạt động dân sự Mỹ”. Việc bổ nhiệm chính thức anh vào phân ban châu Á của Washington đến cùng một lúc với quyết định của Porter. Vann viết thư cho Enthoven tỏ ý tiếc, nói rằng việc đề bạt của Porter là một bất ngờ; để chuẩn bị cho tương lai, anh nói thêm kinh  nghiệm làm việc ở Quân đoàn 3 sẽ chuẩn bị tốt hơn cho một vị trí sau này ở Lầu Năm Góc. Các cố vấn dân sự trong một tỉnh bắt đầu làm việc thành nhóm dưới quyền một người có trách nhiệm có thể thuộc về bất cứ cơ quan nào và sẽ đại diện cho họ trong quan hệ với những quan chức Việt Nam . Tuy vậy, do các cố vấn quân sự tùy thuộc vào một sự chỉ huy khác, những yếu tố an ninh cần thiết cho công việc bình định, các lực lượng vùng và cảnh sát tiếp tục dưới một quyền lực khác.

Những bất cập và yếu kém của Cơ quan hoạt động dân sự mà Vann nhận thức thấy không làm giảm  niềm vui của anh là đảm đương một cấp dân sự tương đương gần như một tổng chỉ huy ở thực địa. Tính tất cả thành viên ban tham mưu của anh, các cố vấn và phó của họ, Vann có dưới quyền của mình 350 người Mỹ, gần 100 người Philippines và Nam Hàn, hơn 550 nhân viên Việt Nam . Tướng Seaman vốn mến anh, tiếp anh ở phòng ăn các sĩ quan, để anh ra vào tự do ở ban tham mưu với lợi thế của một nhân vật quan trọng, đặc biệt được sử dụng tùy ý một trong những chiếc máy bay lên thẳng H-23 dùng cho việc quan sát và liên lạc. Nhờ chiếc máy bay nhỏ hai chỗ ngồi này, Vann đi thăm 11 tỉnh trong một tuần lễ vào tháng Chạp. Ở mỗi tỉnh, anh qua nửa ngày với các cố vấn dân sự, giải thích kế hoạch hành động, hỏi họ và chọn những người phụ trách. Tuần lễ tiếp đó, anh trình bày với Seaman và ban tham mưu của ông tổ chức mới của chương trình bình định và những mục tiêu muốn đạt được. Rồi anh cũng làm thế với các chỉ huy sư đoàn và ban tham mưu. Nói chuyện với những người cầu vai có sao thật là vui thích ! Anh viết thư cho York “ Không cần phải nói tôi hân hoan đến mức nào về công việc mới của tôi “.

Tình hình công việc không làm Vann để mất mục tiêu cuối cùng của anh. Cũng trong bức thư gửi York ngày 23 tháng Chạp, anh viết  “Không may là tôi không thể thông báo cho anh một tiến bộ nào từ khi chúng ta trao đổi với nhau trong mùa xuân. Tôi vẫn luôn lạc quan về điểu có thể làm nhưng vẫn buồn lòng về thực tế thực hiện được ít ỏi “. Cùng thời gian ấy, diễn ra những sự kiện quan trọng. Bây giờ, tướng Westmoreland sử dụng ở miền Nam 385.000 lính Mỹ và đi vào giai đoạn hai cuộc chiến tranh hủy diệt của ông : chuẩn bị cho chiến thắng cuối cùng. Vann không thấy sự tàn bạo ấy có thể giúp xây dựng ở Sài Gòn một chính phủ và một xã hội bền vững ở chỗ nào. Anh viết trong một bức thư khác “ Tôi rất sợ không bao giờ chúng ta phát hiện ra cách có thể thắng ở Nam Việt Nam. Có vẻ tuyệt đối chắc chắn chúng ta tiếp tục leo thang cho đến lúc Bắc Việt Nam buộc phải thương lượng và ở bàn thảo luận, chúng ta sẽ đặt cược vào tất cả những gì chúng ta đạt được, giá của những sinh mạng Mỹ và Việt Nam , không kể đến những tỷ đô la phải đóng góp “. John Vann tôi gặp năm ấy đang sục sôi giận dữ, nhận thấy sự đau khổ vô ích áp đặt lên tầng lớp nông dân Việt Nam , sự tha hóa được người Mỹ khuyến khích, thái độ lơ là của Quân lực Cộng hòa và sự biến đổi xâu xa của đất nước này mà anh đã đầu tư biết bao sức lực với bao xúc cảm.
Logged
TraitimdungcamHP
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 505


« Trả lời #175 vào lúc: 15 Tháng Bảy, 2008, 04:37:01 pm »

 Làn sóng những người mất gốc tăng lên theo những dòng suối không nhà cửa như tôi đã thấy ở đồng bằng Bồng Sơn đã lên đến hơn 2 triệu người. Những mất mát dân thường, phần lớn do những “hành động bạn bè”, theo một đánh giá dè dặt, hàng năm đã có 25.000 người chết, bình quân mỗi ngày 68 đàn ông, đàn bà và trẻ con. Mỗi năm khoảng 50.000 người không chiến đấu bị thương nặng. Thôn làng bỏ lại, ruộng lúa không cấy cày đã trở thành quang cảnh quen thuộc ở nông thông. Hơn một phần ba ruộng đồng ven biển miền Trung bỏ hoang. Những vùng tự do bắn phá mà người ta gọi là “ vùng tấn công “ phát triển nhanh chóng trên bản đồ bằng những gạch đỏ không thể đếm được số lượng và diện tích nữa. Những máy bay B-52 của chỉ huy Không quân chiến lược hành quân với mật danh “ Cầu Vồng “ chỉ còn bỏ bom những cơ sở cộng sản ở các vùng tương đối không có người ở vì sức công phá gần như một  máy bay hạt nhân chiến thuật. Máy bay phản lực tám động cơ biến thành những quái vật ném bom hai mươi tấn bom bay. Một đội hình sáu chiếc b-52 bay cao 10.000 mét thực tế có thể phá hủy tất cả trong một chu vi chiều rộng một cây số, chiều dài ba cây số. Mỗi lần “ Cầu Vồng “ ầm ì lúc bình minh quanh Sài Gòn , cả thành phố thức dậy vì rung chuyển.

Máy bay B-52 chỉ thả một phần ba số bom. Hai phần ba kia dành cho máy bay tiêm kích ném bom muốn đánh đâu tùy thích. Cuối năm 1966, mỗi ngày có 400 lần bay. Trong 24 giờ, kể cả B-52, 825 tấn bom đổ xuống một vùng đất rộng bằng một phần ba nước Pháp. Từ cửa máy bay, người ta có thể thấy những vệt nâu lớn hố bom làm biến dạng vẻ đẹp phong cảnh của Việt Nam .

Nhưng máy bay không chỉ ném bom. Năm 1966, những chiếc C-123 dùng thuốc diệt cỏ tiêu diệt gần 350.000 héc ta rừng và hoa màu. Việc rải hóa chất làm trụi lá bắt đầu từ năm 1962 lại là một sai lầm nữa của John Kennedy thuận theo sự độc ác của Diệm và niềm say mê những giải pháp công nghệ của McNamara. Năm 1965, quân đội Mỹ tới Việt Nam , việc làm rụng lá cũng như những việc khác tăng theo con số chính xác và triệt để. Từ năm 1967, 600.000 héc ta rừng và đất canh tác bị phá hủy hàng năm để làm binh lính cộng sản thiếu ăn và không có chỗ ẩn náu. Việc phun hóa chẫt của máy bay C-123 lan theo gió, thuốc trừ cỏ bốc hơi vì nhiệt độ cao làm chết cả cây ăn quả và những vùng trồng trọt không trực tiếp bị đổ xuống. 70 triệu lít thuốc trừ cỏ dội trên 20% rừng miền Nam theo cách như vậy. Chất độc thường dùng nhất có chứa một lượng nhỏ dioxin, một trong những hóa chất nguy hiểm nhất, cuối cùng tích tụ lại trong bùn những con suối và thâm nhập vào toàn bộ hệ sinh thái. Sau chiến tranh những cuộc thử nghiệm chỉ rõ trong cơ thể dân chúng miền Nam có lượng dioxin lớn gấp ba lần liều lượng trung bình.

Khối lượng đạn súng cối và ca nông gần bằng khối lượng bom do máy bay dội xuống. Thông thường quân lực Cộng hòa bắn 1.000 quả đạn trọng pháo Mỹ , gấp mười lần số lượng cần thiêt để chống lại Việt Nam và quân chủ lực Bắc Việt . Mức độ tiêu thụ vượt xa số lượng các cơ quan hậu cần xây dựng theo kinh nghiệm Thế chiến thứ hai và chiến tranh Triều Tiên. Tướng DePuy được Westmoreland khen thưởng vào mùa xuân năm 1966 về việc chỉ huy Sư đoàn 1 bộ binh và nhận ngôi sao thứ hai do sự đóng góp trong cuộc chiến tranh hủy diệt. Ông ta đã bắn đạn súng cối vào vùng trồng cao su đến mức Seaman phải bắt đầu định mức cho ông “ Giải pháp ở Việt Nam là bom nhiều nữa, đạn cối nhiều nữa, napalm nhiều nữa cho đến lúc đối phương gục xuống và bỏ cuộc “, một hôm trong bữa ăn trưa dưới lều bạt, DePuy đã nói như vậy với Ellsberg.

Theo “Qui ước của quân đội chiến đấu 27-10” ký tại La Haye và Geneve khi đăng ký hợp pháp quân đội Mỹ, nói rõ các sĩ quan “phải tôn trọng những nguyên tắc nhân đạo và thượng võ”. Trong cuộc hành quân Máy nghiền ở Bồng Sơn, những người Mỹ có trách nhiệm ở Việt Nam quay mặt đi và những người nông dân bị bỏ mặc cho AID. Một bác sĩ quân ý, trung tướng James Humphreys, cố phát huy tối da lòng nhân đạo. Ông xin hai máy bay vận tải và năm trực thăng để chuyển dân thường bị thương lên bệnh viện tỉnh và đưa những người cần chữa trị đặc biệt lên bệnh viện Sài Gòn . Những người bị thương nặng không có may mắn được trực thăng chở đi chết trước khi được cứu chữa và những người đi xe cấp cứu đến Sài Gòn thì cuộc hành trình dài trên những con đường hư hỏng cũng đủ để kết thúc cuộc đời họ. Trong một nước có những phi đội đầy đủ máy bay vận tải, 2000 chiếc trực thăng năm 1966 và hơn 3000 năm 1967, tướng Humphrey được trả lời những yêu cầu về quân sự không cho phép hai máy bay vận tải và năm trực thăng quay lại để chuyển những người dân thường bị thương.

Humphrey dự định cho xây dựng ba bệnh viên quân y dành cho dân thường bị thương. Ông đã tính hàng năm số lượng người bị thương sẽ lên đến 75.000 người ( năm 1968 có 85.000 người ). Nghị sĩ Edward Kennedy, nhân vật chính trị độc nhất ở Washington không ngừng nêu lên điều kiện đáng buồn của thường dân Việt Nam lên ủy ban Thượng viện về người tị nạn mà ông là thành viên, làm mọi điều cần thiết để Humphreys có thể trình bày kế hoạch lên tổng thống ở hội nghị Guam tháng Ba năm 1967, Lyndon Johnson đã phê chuẩn.

Đáng lẽ những bệnh viên được xây dựng trong ba tháng. Nhưng lề lối quan liêu của các cơ quan y tế trong quân đội không muốn nhận trách nhiệm, làm chậm trễ và phá hỏng kế hoạch. Một nhóm điều tra của các bác sĩ nổi tiếng do phó chủ tịch Hội bảo vệ sức khỏe Mỹ cầm đầu, được cử sang Việt Nam vào mùa hè năm 1968. Nhóm này cũng phản đối kế hoạch vì sợ quân đội không đưa thầy thuốc vào các bệnh viện mới. Tháng Mười năm 1967, Kennedy phải chỉ thị nhiều lần , buộc quân đội dành 300 giường trong những bệnh viên quân y hiện có cho dân thường bị thương, con số này tháng Chạp lên đến 500. Hai bệnh viện đầu tiên do Humphreys dự kiến cuối cùng làm xong vào mùa xuân năm 1968 và bệnh viện thứ ba hoàn thành trong năm. Các bệnh viện chữa trị được khoảng 10% dân thường bị thương trước khi đóng cửa vào năm 1971. Humphreys và người kế nhiệm tổ chức được các đội y tế gồm người Mỹ và một số đồng minh chiến đấu người Úc và người Nam Hàn. AID cũng cử sang những người tình nguyện tuyển dụng ở Hoa Kỳ trong thời hạn hai tháng. Nhưng mọi cố gắng ấy không tránh được việc làm cho những bệnh viện tỉnh thành những nơi chồng chất xác chết.

Vann tin chắc việc nảy sinh dân tị nạn và số lượng mất mát kèm theo không phải do những trận đánh vào quân địch mà là kết quả của một đường lối có chủ đích cảu chỉ huy cấp cao. Mỗi lần chúng tôi nói về điều đó, anh giận dữ như trước đây khi một cố vấn của Sư đoàn 25 tuyên bố rằng nếu nông dân muốn sống với những người cộng sản thì “ họ phải chịu bom đạn “. Khi ấy, cổ và mặt anh đỏ lên vì bực bội và cuộc nói chuyện kết thúc bằng một tràng chửi rủa.

Có thể Westmoreland không có ý định gây ra một làn sóng rộng lớn và những mất mát cho dân thường cao đến vậy. Ông ta bắt đầu cuộc chiến tranh một cách quá đáng vì chỉ nghĩ đơn giản như DePuy phải “ đánh “ cho quân địch đến chết. Nhưng có vẻ dĩ nhiên khi nhận định những hậu quả chiến lược của mình, ông rút ra những gì ông tưởng là lợi thế và ý thức về việc mình làm cũng như những người có trách nhiệm trên và dưới ông. Westmoreland là một người rất lịch sự và cởi mở với báo chí trong những năm đầu chiến tranh này. Khi một phóng viên kết thúc công việc ở Việt Nam, anh không ra đi mà không được đặc ân có một ngày cùng Westmorelan đi trực thăng tham các đơn vị khác nhau. Đấy cũng là trường hợp của tôi trước khi trở về NEW YORK TIMES ở Washington vào tháng Tám năm 1966. Tôi có dịp hỏi vị tướng nghĩ gì trước sự mất mát to lớn của dân thường do máy bay và trọng pháo bắn phá. Ông trả lời :

“ Neil, chắc chắn đấy là một vấn đề. Nhưng việc ấy làm cho quân địch không có sự giúp đỡ của dân chúng, đúng không ? “.
Logged
TraitimdungcamHP
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 505


« Trả lời #176 vào lúc: 16 Tháng Bảy, 2008, 11:39:31 am »

 Việc phá hủy không hạn chế, những mất mát thể xác ấy có hậu quả đến cơ cấu vật chất và tinh thần của đất nước. Việc xây dựng những cỗ máy giết người sẽ trở thành một kết thúc của chính mình. Đất nước nhỏ bé này với nền kinh tế thuần túy nông nghiệp biến thành một công trường rộng lớn nhờ những công trình Westmoreland cho xây dựng : bốn sân bay mới ( Không quân muốn có năm ) thêm vào ba đã có ở Tân Sơn Nhất, Biên Hòa và Đà Nẵng; sáu hải cảng mới với 28 bến tàu hàng ; bốn kho hậu cần; 26 cơ sở thường xuyên cho các đội quân chiến đấu và lực lượng tăng cường; 75 đường băng có thể tiếp nhận máy bay vận tải bốn động cơ C-130 Herculess ( năm 1965 đã có 19 đường băng ); 26 bệnh viện với 8.280 giường; tổng hành dinh của Westmoreland , một tòa nhà lắp ráp một tầng gần Tân Sơn Nhất, trang bị phòng làm việc có điều hòa nhiệt độ cho 4.000 người, tất cả được lắp hệ thống điện tử mới nhất và một hệ thống điện thoại trực tiếp gồm 13.900 mạch điện.

Mỗi cơ sở hàng không là một thế giới riêng, bao gồm một đường băng dài 3 cây số với hàng chục nghìn mét vuông diện tích khởi động và lối vào ( lúc đầu bằng nhôm sau đổ bê tông), các kho hàng, xưởng sửa chữa, văn phòng và trung tâm hoạt động, lều trại tạm, nhà ăn và những cơ sở phụ. Lúc đầu, phần lớn cơ sở là các làng. Ví như Long Bình, tổng hành dinh của Seaman ở phía đông bắc Sài Gòn trở thành một thị trấn thực sự với diện tích 65 hec ta cho 43.000 người Mỹ cùng một trong bốn kho hậu cần lớn nhất ở Việt Nam, là đơn vị hành chính và chỉ huy phụ thuộc trực tiếp vào Westmoreland.

Cảng Cam Ranh, cách Sài Gòn 300 cây số về phía đông bắc, được xem là hải cảng tự nhiên đẹp nhất sau Sydney ở Úc. Người Pháp đã xây dựng một cơ sở nhỏ ở đây với đường băng máy bay hạ cánh. Vùng này luôn ít dân cư vì núi rừng miền Trung ăn xuống tận biển chỉ có một dải đất cát. Người Mỹ đưa từ bờ biển phía Đông Hoa Kỳ sang những ụ nổi đồ sộ tạo nên một hải cảng mới lớn nhất với mười trạm bốc dỡ có thể đón những tàu lớn nhất. Dải đất cát đầy cửa hiệu, kho chứa đạn dược, bình nhiên liệu và một đường băng dài ba cây số. Ở đây bố trí nhà kho thứ hai trong bốn kho hậu cần lớn; hai kho kia ở phía bắc, Quy Nhơn và Đà Nẵng.

Westmoreland cho thực hiện nhanh chóng chương trình xây dựng gồm 950.000 mét vuông nhà kho, 500.000 mét vuông là chỗ để đạn dược, các bể xăng, 39 triệu mét khối đất nạo vét, 4.000 cây số đường cải tạo và 175.000 héc ta đất trồng trọt bị tận dụng.

Toàn bộ kiến trúc ấy cũng là sự nhập cảng nền văn minh Mỹ. Việc đó bắt đầu từ những trại nghỉ của quân đội, nhà gỗ trên nền xi măng, có quạt  máy, nước nóng trong vòi tắm và những nhà vệ sinh chu đáo. Các tướng tá ở Long Bình ở nhà nghỉ lưu động có điều hòa nhiệt độ, xung quanh là thảm cỏ và cây hoa do người Việt Nam chăm sóc. Để nuôi sống hàng trăm nghìn người trong một nước nhiệt đới cách nước nhà mười lăm nghìn cây số mỗi ngày ba bữa ăn có quả tươi, rau, thịt và sản phẩm sữa giống như quân lính ở Hoa Kỳ , phải có một số lượng lớn máy đông lạnh và tủ lạnh. Tháng Chạp năm 1965, xí nghiệp Mỹ Foremost Dairy được quân đội chi tiền xây dựng ở Sài Gòn một nhà máy chế biến sữa. Một công ty khác xây dựng hai nhà máy khác. Để đảm bảo đủ kem lạnh cho quân lính, quân đội cũng cho làm bốn mươi nhà máy nhỏ khắp trong nước. Lính đi hành quân nói chung phải ăn khẩu phần C bình thường thời chiến nhưng có thể họ cũng được trực thăng cung cấp khẩu phần A gồm những món ăn nấu từ căn cứ và vận chuyển đến trong những container cách nhiệt giữ nóng.

Các sĩ quan cao cấp ở trong những khu cấp tướng, những ai có thể đều trang bị nhà ở, phòng ăn, chỗ làm việc có điều hòa nhiệt độ. Với những nhu cầu khác của quân đội, nguồn điện địa phương nhanh chóng quá tải, đến mức phải cắt điện hai ngày một lần trong một số vùng ở Sài Gòn . Do máy phát điện ở nông thôn không đủ, quân đội mua riêng ( 1.300 máy phát rất mạnh của Nhật và Hoa Kỳ ), biến những đèn dầu cũ thời Thế chiến thứ hai thành những máy phát điện nổi và làm nhà máy điện cao thế ở các căn cứ chính.

Tiện nghi cũng đòi hỏi xây dựng cả một hệ thống giải trí : nhà chiếu phim, chơi bowling, câu lạc bộ đầy đủ xô đa, bia, rượu Whisky, kem trứng , nhiều khối đá lạnh để giữ mát những thứ đó, không kể bánh kẹp thịt, kẹp xúc xích nóng bít tết. Không còn là những căng tin bán thuốc lá, lưỡi dao cạo, kẹo bánh mà thay vào đó là những cửa hàng lớn cung cấp cho quân lính đầy đủ vật dụng thích hợp với cuộc sống quen thuộc : đài, máy ghi âm, đồng hồ, quần thể thao, sơ mi mặc trong đợt nghỉ phép nếu họ không bị bắn chết trong sáu tháng đầu năm của họ đến Việt Nam . Ở đấy cũng có những mỹ phẩm cho các bạn gái Việt Nam . Nếu người lính muốn có một chiếc quạt máy, bình cà phê điện, một máy vô tuyến truyền hình, máy điều hòa nhiệt độ hoặc thậm chí tủ lạnh trong cửa hàng không có, anh ta có thể đặt hàng theo bảng mẫu. Lý thuyết chính thống cho rằng, tạo điều kiện cho lính Mỹ bước vào thiên đường tiêu thụ, người ta bớt được việc mua ở chợ địa phương và do đó kiềm chế được sự lạm phát trong nước.
Logged
TraitimdungcamHP
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 505


« Trả lời #177 vào lúc: 16 Tháng Bảy, 2008, 05:53:44 pm »

Lý luận ấy không hoàn toàn sai. Lạm phát được giữ đến 50 và 60% hàng năm nhất là khi tăng nhập khẩu do AID tài trợ cho nền kinh tế miền Nam Việt Nam ( 650 triệu đô la trong năm 1966 ) và gửi hàng triệu tấn gạo Mỹ sang một nước năm 1964 còn xuất khẩu gạo. Nhưng nhìn vào tai họa rộng lớn về đạo đức và xã hội một số điểm mà lý thuyết ấy cho phép lạm phát cũng không khác nhau nhiều. Những người miền Nam Việt Nam đứng trước một thế giới lộn xộn. Hàng trăm nghìn người bắt đầu kiếm sống dựa vào việc phục vụ những người ngoại quốc hào phóng này. Và gia đình hàng trăm nghìn người khác sống vào sự ủy thác của người Mỹ. Công việc vệ sinh ở Sài Gòn suy sụp vì những người hốt rác bỏ việc hàng loạt chạy đi làm ở các công trường xây dựng của quân đội lương cao hơn nhiều so với mức lương hội đồng thành phố trả.

Năm 1966, thời kỳ xây dựng phát triển mạnh, các hãng xây dựng lớn của Mỹ liên hiệp làm cho quân đội đã dùng đến 50.000 người Việt Nam . Năm 1967 đã có 8.500 kỹ thuật viên, không kể hàng nghìn người thuộc nhiều tổ chức khác. Quân lính cũng cần người giúp việc nhà, giặt quần áo, đánh giày, lau chùi nhà cửa, làm bếp, phục vụ các nhà ăn và câu lạc bộ. Chỉ riêng Long Bình đã có 20.000 người.

Lại phải có những dịch vụ giải trí cho những người nước ngoài này. Báo chí Sài Gòn in hoạt họa hệ thống xã hội mới theo thứ tự quan trọng đối với người Mỹ. Đầu tiên là gái mại dâm và ma cô, vị trí thức ba thuộc về những lái xe taxi đưa lính Mỹ đi từ chỗ vui chơi này đến chỗ vui chơi khác. Thợ may rẻ tiền và nhà chứa mệnh danh “ nhà tắm hơi “ hoặc “ phòng xoa bóp “ nở rộ ở Sài Gòn và các thành phố lớn hoặc trong những căn nhà tạm bợ bên ngoài các trại lính. Chỉ riêng ở Sài Gòn theo thống kê chính thức có 56.000 gái mại dâm, dĩ nhiên chưa kể những người không chuyên.

Phần lớn gái mại dâm đến từ nông thôn vì sự phá hủy vật chất ở các vùng nông nghiệp đã có một tác dụng gián tiếp khác, giúp lính Mỹ về công việc và giải trí. Những người tị nạn đến chồng chất trong những căn nhà tồi tàn ở các khu phố đã quá đông dân cư, xây dựng những nhà rách nát mới xung quanh các trung tâm đô thị. Nhưng không phải tất cả đều may mắn tìm được việc làm ở những người nước ngoài giàu có hoặc có người bà con giúp đỡ. Miền Nam Việt Nam cũng có hành khất. Trên đại lộ Catinat ở Sài Gòn, người quen nghề, thường là tàn tật, ngày này qua ngày khác chiếm một chỗ đầu hè phố xin người qua lại và sống bằng những của bố thí ít ỏi. Đàn bà góa, trẻ mồ côi, những người què cụt cầu khẩn lòng thương của người Mỹ trở thành một cảnh thường xuyên trong đời sống thành phố.

Rác rưởi ít được thu lượm, chất đống ở Sài Gòn . Đêm khuya sau giờ giới nghiêm, khi không gian tĩnh lặng , những đống rác bắt đầu lay động khi có người đi qua : tiếng chân bước làm chuột bỏ chạy từng đàn. Một hôm, tôi thấy một câu tiếng Việt được viết bằng phấn đậm nét trên hè đường trước một đống rác. Tôi đề nghị nhà báo Việt Nam đi cùng dịch hộ. Câu ấy là :

“ Kết quả sự giúp đỡ của Mỹ là thế đấy “.

Các ông tướng Sài Gòn cùng vợ của mình cũng như các ông tá và vợ của họ , giới tư sản người Hoa Chợ Lớn và những tay lừa đảo cỡ nhỏ đánh chén trong bữa tiệc ăn như hộ pháp của sự tha hóa. Tổng thống Thiệu và vợ đã vơ vét được nhiều triệu đến mức họ mua một nhà băng quản lý tiền lãi cho dịch vụ mua bán của họ. Không phải tình cờ mà phần lớn những ngôi nhà ở Sài Gòn người Mỹ thuê ở, làm văn phòng hoặc kho hàng là tài sản của những gia đình quyền thế của chế độ hoặc của những mối quan hệ của họ. Hai mươi bốn triệu đô la tiền thuê nhà quân đội Hoa Kỳ trả năm 1966 là của bất ngờ Trời cho những chủ nhân có tài sản như tình cờ bố trí nhà cửa. Người Trung Hoa và người Việt Nam giàu có lớn tiếng đòi hỏi và đút lót mạnh để được phép xây dựng những ngôi nhà và khách sạn mới cho người Mỹ thuê. Nhưng để xây dựng những cơ sở mới ấy phải có giấy phép mua xi măng, sắt thép và những nguyên vật liệu về nguyên tắc được định mức để dành cho chiến tranh và nhà ở cho dân tị nạn. Hàng trăm triệu đô la rót vào  nền kinh tế Việt Nam để chống lạm phát tạo điều kiện dễ dàng chi phí cho giấy phép nhập khẩu ở hậu trường.

Dựa vào sự khát uống của lính Mỹ, việc nhượng quyền phân phối bia Nhật hoặc Philippines cũng đặc biệt béo bở. Ngoài 40 nhà máy làm kem đá, quân đội Mỹ đòi gửi sang 40 nhà máy làm đá để tất cả các nhà ăn và câu lạc bộ không thiếu những miếng đá nhỏ bỏ vào cốc. Thế nhưng hình như không đủ. Thiếu tướng Phạm Ngọc Thuần, chỉ huy Sư đoàn 5 Quân lực Cộng hòa trong vùng trồng cao su, vội vã thỏa mãn yêu cầu của họ. Ông cho công binh xây dựng một nhà máy và lao vào kinh doanh đến mức nổi tiếng là “ tướng đá “.

Bảo Đại, những người đồng lõa Bình Xuyên và bạn bè thân tín của họ cảm thấy rất thỏa mãn làm giàu bằng tiền hoa hồng đánh vào nghề mại dâm và những thú vui kèm theo. Những người kế nghiệp họ mở rộng nguồn lợi lớn ấy với hàng đoàn gái đĩ do quân đội của nước mạnh nhất thế giới kéo đến mà quân lính giàu hơn rất nhiều những người lính trơn, lính Lê dương và lính đánh thuê Bắc Phi của quân đội viễn chinh Pháp. Mặt khác chỉ cần có một chút đầu óc kinh doanh để không chỉ hài lòng với kiểu tống tiền truyền thống và đơn sơ trong nghề mại dâm. Những khả năng mới mở ra đặc biệt của chiến tranh Mỹ vì như buôn đồng, mặt hàng hiếm có trên thế giới vì sự tiêu thụ quá mức cho súng đan. Thu nhặt vỏ đạn đồng trở thành nghề rất béo bở của những người bán lại cho nước ngoài với giá như vàng.

Ngoài ra, người Mỹ đem đến một nguồn lợi mới vô cùng tai họa : ma túy. Ở Đông Nam Á, nhiều người hút thuốc phiện và như Vann nhận xét năm 1965, binh lính Quân lực Cộng hòa cũng dùng chất ma túy và rượu để thoát khỏi hoàn cảnh vô vọng. Những người bản xứ ít dùng heroin. Người Mỹ thì khác. Phần đông những người được đưa sang Việt Nam mang theo mình chất ma túy và heroin phát triển ở Hoa Kỳ vào cuối những năm 50.

Những tay trộm cướp người xứ Corse đã có truyền thống xuất khẩu thuốc phiện để biến thành heroin ở Marseille rồi bán sang châu Âu và Hoa Kỳ không có điều kiện tiếp xúc với nhu cầu đột ngột của việc mua bán quan trọng này với người Mỹ. Ngược lại, xã hội sang trọng của những tay trộm cướp Trung Hoa của Chợ Lớn có thể nắm lấy thương trường này. Họ thừa mứa tiền bạc, bố trí một đường dây anh em và bà con suốt miền Đông Nam Á, chưa kể số băng nhóm thuộc hạ theo lệnh họ đảm bảo việc phân phối thuốc phiện ở miền Nam. Những người Corse tiếp tục tìm kiếm thuốc phiện đưa sang Marseille nhưng số lượng lớn nhất được những kẻ mua , biến thành heroin trong các phòng thí nghiệm bí mật ở Miến Điện hoặc Thái Lan. Cây thuốc phiện cho đến lúc đó được trồng một ít trong vùng trở thành một loại cây phát triển mạnh và bắt đầu đến Việt Nam hàng tấn. Những người lái máy bay ở An Khê nhanh chóng biết được trong thôn xóm gần đấy có những căn nhà tạm bợ từ đâu đó xuất hiện, họ có thể mua tất cả “loại cỏ” họ muốn với giá rẻ và nguyên chất hơn, có thể đưa họ lên độ cao, xa hơn loại họ mua rất đắt ở Hoa Kỳ . Để bảo vệ việc mua bán có lợi và tinh tế đó, cần thiết có những khoản đút lót lớn nhưng những con buôn Trung Hoa không cần đổ tiền vào từng viên tướng Sài Gòn : họ chỉ quan hệ với những người có quyền lực bảo vệ họ và những món hàng của họ.
Logged
TraitimdungcamHP
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 505


« Trả lời #178 vào lúc: 18 Tháng Bảy, 2008, 11:16:13 am »

Trừ những tiểu đoàn vận chuyển hàng không và Hải quân mà Westmoreland sử dụng trong những cuộc hành quân, các đội quân thường trực của Sài Gòn cẩn thận tránh đánh nhau sau năm 1965. Vann viết thư cho York ngày 23 tháng Chạp năm 1966 nói :” Tôi cho rằng hiệu nặng của Quân lực Cộng hòa chưa bao giờ kém như vậy”. Vừa rất hân hoan nhận trách nhiêm mới, giám đốc cơ qua hoạt động dân sự ở Quân đoàn 3, anh vừa nhận thấy cuộc chiến tranh không có tiến bộ nào đáng ghi nhận. Anh nêu lên con số thống kê những cuộc hành quân của ba sư đoàn Việt Nam ( thứ 5, 18 và 25 ) của Quân đoàn trong thời gian năm ngày : ngoài 5.237 cuộc tuần tra, chỉ có 13 cuộc tiếp cận với quân địch. Vann bình luận “ Bản thân tôi còn làm hơn thế với ít thời gian hơn”.

Do Westmoreland tiếp tục đòi tăng thêm quân cho cuộc chiến tranh hủy diệt, người ta gây sức ép với ông phải chấm dứt tính không hiệu quả của Quân lực Cộng hòa. Đầu năm 1967, Lyndon Johnson hứa cho ông 470.000 quân Mỹ. Tháng Ba, viên tướng báo cáo với Washington ông còn cần 80.576 người nữa để xây dựng một “ Lực lượng chủ yếu tối thiểu “ là 550.500 quân “càng sớm càng tốt, dù sao cũng trước ngày 1 tháng Bảy năm 1968”. Nhưng ông nói thêm ông mong có sự bổ sung 207.838 quân Mỹ để có một “ Lực lượng tối cần thiết khoảng 678.000 người”. Tổng thống khuyến khích ông “ đảm bảo quân đội Nam Việt Nam có tác dụng tốt trở lại”.

Viên tướng vừa nhắc lại đề nghị tăng cường quân Mỹ vừa bố trí để tự bảo vệ do lời kết tội không chăm lo đến quân lính Việt Nam . Westmoreland bảo ban tham mưu thảo chương trình, một tập văn bản ghi “ Mật “ để cải tiến trang bị và tập luyện lực lượng Sài Gòn , tăng thêm 300 cố vấn quân sự bổ sung. Ông cũng có những chỉ thị hướng dẫn các cố vấn, khi có thể, nêu lên những “yếu tố tích cực về tinh thần chiến” của quân đội Nam Việt Nam và giảm nhẹ những thất bại. Ông lên diễn đàn đề cao họ. Theo sĩ quan đối ngoại của ông, vị tướng muốn “cải tiến hình ảnh của Quân lực Cộng hòa”.

Trong phần lớn trường hợp, binh lính thường trực có thể tránh nhưng quân địa phương, bảo an và cảnh sát tiếp tục bị tiêu diệt ở các đồn tiền tiêu và trong các đợt phục kích : năm 1966, 11.953 người trong bọn họ bị giết, gấp hai lần con số 6.503 của lính Mỹ; năm 1967, họ chết 12.716 người, gần bằng các lực lượng Hoa Kỳ .

Với khuynh hướng hóm hỉnh bi đát, Vann sẽ thấy thật mỉa mai trong lúc anh viết thư cho York nói chẳng có gì thay đổi , anh biết người chống đối anh ba năm trước, Victor Krulak cũng thất vọng và giận dữ như anh. Trí thông minh đặc biệt và tài năng nghề nghiệp của ông cuối cùng đưa vị tướng Hải quân đến chỗ đồng lòng trong cuộc chiến tranh này. Bây giờ, ông khác với những người có trách nhiệm cao khác trong quân đội Mỹ ở chỗ hiểu được tính cách của những người Hà Nội.

Cũng như một luật sư giỏi buộc phải xem mỗi trường hợp như là độc nhất, việc người Mỹ tham chiến năm 1965 buộc Krulak hình dung cuộc tranh chấp ở Việt Nam khác đi. Cuộc chiến tranh hủy diệt của Wasington và De Puy mà ông chấp nhận không đắn đo thời Harkins bây giờ không còn có nghĩa đối với ông, đặc biệt dựa vào tình trạng đất đai và dân cư của năm tỉnh cực bắc vùng bờ biển miền trung ( Quân đoàn 1 ), nơi các đơn vị Hải quân của ông triển khai. Krulak đến đấy tháng Tám năm 1965, một trong nhiều chuyến đi nhân danh chỉ huy trưởng Hải quân Thái Bình Dương, chứng kiến trận đánh của quân lính ông chiến đấu chống Trung đoàn 1 Việt Nam, chết 51 người. Ông đã nghiên cứu báo cáo của Moore và một tiểu đoàn không vận khác bị tiêu diệt ở vùng sông Drang trong tháng Mười một. Những việc đó buộc ông phải đặt lại tất cả vấn đề. Tháng Chạp năm 1965, ông đã có quan điểm rõ ràng. Trong mùa xuân, ông báo cáo những nhận xét của mình trong một loạt giác thư và thư gửi McNamara cũng những người có trách nhiệm khác nhưng không nhận được trả lời như ông mong muốn. Ông quyết định tổng hợp những luận thuyết của mình để lôi kéo sự chú ý ông đang cần. Rõ ràng, Hà Nội không nhượng bộ trước sự tấn công bằng không quân xuống miền Bắc và những cuộc chiến đấu tại chỗ đang đi đến điểm cuối cùng. Krulak muốn người ta nắm lại quyền kiểm soát chiến tranh để tiến tới thắng lợi trong lúc còn chưa muộn.

Ông bắt đầu làm việc ở văn phòng, đặt trên một ngọn đồi khống chế vùng Trân Châu Cảng. Phải mất một tuần lễ viết bằng bút cìh trên giấy kẻ khổ rộng bản trình bày 17 trang đánh máy. Ông nêu chi tiết mỗi lập luận của mình kèm biểu đồ nhấn mạnh những điểm quan trọng. Người ta thấy trong đó nhiều ý tưởng sai đã thành truyền thống của người Mỹ về người Việt Nam và lịch sử của họ.

Cuộc chiến tranh hủy diệ sẽ thất bại. Krulak viết, vì đó là trò chơi của quân địch. Lấy ví dụ như trận Ia Drang, trong bốn ngày có đến 233 nạn nhân Mỹ, ông cho rằng những người cộng sản Việt Nam “ tìm cách hủy diệt lực lượng Mỹ với những cuộc tấn công dữ dội và gần, hầu như giáp lá cà để vô hiệu hóa lực lượng hỗ trợ” nghĩa là trọng pháo và máy bay. Những người có trách nhiệm của Hà Nội cho rằng nếu họ giết và làm bị thương khá nhiều lính Mỹ trong một thời gian nhất định, “họ làm suy mòn tinh thần quốc gia của chúng ta đến mức dẫn chúng ta đến việc chấm dứt giúp đỡ chính quyền Sài Gòn “. Võ Nguyên Giáp “ trong cuộc chiến tranh thứ nhất đã nghĩ nếu cái giá về mạng người và tiền bạc khá cáo thì người Pháp sẽ thất bại ở ngay Paris. Ông ấy nói đúng. Có thể ngày nay ông ta cũng nghĩ như thế về Hoa Kỳ “.

Krulak thể hiện một logic luận thuyết của ông về chiến tranh hủy diệt, chứng minh Hà Nội có thể hy sinh trong cuộc chơi chết chóc này nhiều người hơn Hoa Kỳ . Những người cộng sản Việt Nam có ở miền Bắc cùng Việt Nam ở miền Nam một lực lượng quân sự dự trữ khoảng 2.600.000 lính chiến đấu. Nếu dựa vào tỷ lệ chính thức về mất mát, một lính Mỹ hoặc lính miền Nam bị giết đổi lấy 2,6 Việt cộng hoặc lính miền Bắc, những con số Krulak đánh giá “lạc quan”, cũng phải mất 10.000 lính Mỹ và 165.000 lính Sài Gòn chết “ để làm giảm tiềm lực quân địch với mức khiêm tốn 20%”.

Krulak trình bày kế hoạch của ông để chiến thắng và Vann phải tự hào vì nó rất giống kế hoạch của anh. Vị chỉ huy Hải quân cũng muốn áp dụng chiến lược bình định để tranh thủ sự ủng hộ của tầng lớp nông dân với một chương trình hào phóng cải cách nông nghiệp và những quyền lợi xã hội kinh tế khác. Đấy là vận may duy nhất đi đến thành công. Để đạt được, Hoa Kỳ phải tăng cường ảnh hưởng đến mức nắm lấy quyền hành của chế độ Sài Gòn . Chiến tranh hủy diệt chỉ là một trong những “ mặt kèm theo “ của cuộc đấu tranh thực sự. Cho dù những đơn vị chiến đấu của Việt cộng và miền Bắc “ ngày nay đi đến một hành tinh khác, chúng ta cũng không vì thế mà thắng trong chiến tranh “ vì chính nhân dân Việt Nam là cái giá của cuộc chiến đấu. Không có chỗ dựa của họ, du kích địa phương , chính phủ Việt cộng bí mật, quân đội cộng sản không thể tồn tại. Do vậy, Hoa Kỳ phải sử dụng quân lính đảm bảo sự ủng hộ của dân chúng, tranh thủ được “ lòng tin tưởng và sự trung thành của dân chúng”.
Logged
TraitimdungcamHP
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 505


« Trả lời #179 vào lúc: 18 Tháng Bảy, 2008, 02:01:11 pm »

 Nhưng các chiến binh Bắc Việt Nam và Việt cộng không vì thế mà được để yên trong những chỗ ẩn nấp ở rừng núi. Phải có mọi thông tin truy tìm họ và “dùng máy bay tấn công họ không ngừng” trước hết là những vùng ít dân cư, “ Chúng ta có lợ thế lớn vừa tiết kiệm sức lực vừa bảo vệ được những vùng giải phóng”. Nhưng Hoa Kỳ không nên rơi vào trò chơi của quân địch, hành động “ theo sáng kiến của họ hoặc khiêu khích để đánh nhau”. Việc chọn chiến lược phải đưa lại hiệu quả. Công việc bình định và những cải cách xã hội, kinh tế “ phác họa chiến thắng” còn chiến tranh hủy diệt là “ con đường đi đến thất bại”.

Người nói như vậy không phải một anh trung tá bỏ đạo ở miền Nam hoặc một cố vấn ở tỉnh phao đồn những lý thuyết kỳ cục. Lần này là một vị tướng, người đứng thứ ba trong hệ thống Hải quân mà ảnh hưởng dù sao vẫn luôn cao hơn cấp bậc của mình. Vả lại hai người cấp trên là đồng minh của ông. Người thứ nhất, đô đốc Hải quân Ulysses S.Grant Sharp, trong Thế chiến thứ hai chỉ huy một  khu trục hạm, bây giờ là tổng chỉ huy Thái Bình Dương. Người thứ hai, tướng Wallace Greene, chỉ huy các Quân đoàn Hải quân. Trong những năm 60, Greene không ngập ngừng hơn những chỉ huy quân sự khác về cuộc chiến tranh Việt Nam . Thậm chí, ông muốn huy động cả những quân nhân dự bị, gửi sang 500.000 người càng nhanh càng tốt nhưng không muốn sử dụng như Westmoreland đã làm. Hải quân có một quan niệm truyền thống từ sự can thiệp của họ vào Trung Mỹ và vùng Caraibes. Theo họ, những cuộc tranh chấp như ở Việt Nam là những cuộc chiến tranh bình định chứ không phải là sự đụng độ của những đơn vị chiến đấu lớn. Vì vậy, khi Greene nhận được một bản giác thư, ông tán thành ngay.

Trở ngại là ở Westmoreland. Greene đã cố thuyết phục ông ta có quan niệm đúng đắn hơn về công cuộc bình định vào tháng Tư năm 1965. Đô đốc Hải quân Sharp cũng đã thuyết phục ông ta. Kế hoạch của Krulak không cần trung gian, khai thác những quan hệ của ông đã có với McNamara trong những năm dưới quyền Kennedy để khuyến cáo bộ trưởng Quốc phòng. Sharp và Greene đều tán đồng. Krulak bay đến Washington tháng Giêng năm 1966 và thấy McNamara bị tác động mạnh mẽ bở những con tính của Krulak : 20% tiềm lực Hà Nội trả giá cho 175.000 mạng người. Ông ấy nói : “ Tôi nghĩ ông phải nói điều này với tổng thống “. Nhưng ông gợi ý trong lúc chờ đợi, nên gặp Averell Harriman , lãnh đạo những vấn đề chính trị để trao đổi một điểm khác cần tranh luận nhiều do Krulak nêu lên trong giác thư về việc ném bom miền Bắc Việt Nam . Ông cho rằng thật mơ hồ khi cố gắng ngăn chặn việc tiếp tế vũ khí, đạn dược của Liên Xô, Trung Quốc đưa vào miền Nam bằng đường bộ và đường sắt ở Bắc Việt Nam . Ông nói, muốn có hiệu quả, phải ngăn chặn việc đưa vào miền Bắc bằng thả mìn và ném bom Hải Phòng, các hải cảng khác và đường sắt ở biên giới Trung Quốc.

“ Ông muốn đánh nhau với Liên Xô và Trung Quốc à ?”. Harriman hỏi khi họ cùng ăn trưa ở tư dinh Gergetown. Vừa nói ông vừa vung chiếc cùi dìa nặng bằng bạc trước chiếc mũi nổi cao của Krulak làm ông này khó chịu. McNamara không giữ lời hứa cùng nhau gặp tổng thống. Krulak không biết lúc ấy ông có thể làm ông bộ trưởng Quốc phòng chú ý một ít nhưng không giữ ông lại được vì McNamara bị Westmoreland và các tướng khác lôi cuốn, không quan tâm đến lô gic và các con tính sơ cấp.

Greene cố thuyết phục các thành viên Bộ tổng tham mưu các lực lượng quân đội áp dụng quan điểm của Hải quân, ra lệnh cho Westmoreland thực hiện chiến lược mới này. Không người nào theo ông. Họ không phản đối những con số nhưng hành động theo Westmoreland. Các viên tướng trong quân đội , Earle Wheeler chủ trì Bộ tổng tham mưu và Harold Johnson đứng về phía vị tướng trên thực địa của họ. Tướng John McConnell, đại diện Không quân và đô đốc Hải quân McDonald không thấy lý do gì liên kết với những luận thuyết của Greene để chống lại ý kiến quân đội. Vả lại, Không quân và Hải quân đóng một vai trò lớn ở Việt Nam nhờ vào cuộc chiến tranh hủy diệt.

Khác với Vann, Krulak ở vị trí khá cao để có thể đưa vấn đề lên cấp trên có thẩm quyền cao nhất. Ông phải chờ đợi nhiều tháng để có cuộc tiếp kiến tổng thống do Greene đề nghị vào mùa hè năm 1966. Krulak gửi một bản sao giác thư lên Nhà Trắng trước, đủ thì giờ cho Johnson biết vấn đề. Câu hỏi đầu tiên của tổng thống chứng tỏ ông chưa đọc. “ Chúng ta phải trả giá như thế nào để chiến thắng ?”. Krulak bắt đầu giải thích. Johnson để ông nói trong bốn mươi phút. Ông hỏi một số câu nhưng Krulak có cảm giác những gì ông nói không ăn nhập gì. Khi Krulak nói đến việc cần thiết thả mìn ở cảng Hải Phòng, ông nghĩ như “ Johnson ngồi phải một chiếc đinh “. Ông ta đứng ngay dậy, quàng tay vào Krulak, nói ông là một viên tướng tài và đưa ông ra đến cửa.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM