Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 08:48:28 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Phỏng vấn Tướng lĩnh Việt Nam  (Đọc 81921 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #60 vào lúc: 22 Tháng Sáu, 2008, 07:51:46 am »

Trung tướng Dương Cự Tẩm

Cuối năm 1974, có một vị tướng Quân giải phóng miền Nam được phép rời chiến trường ra Bắc thăm vợ con, sau gần mười một năm xa biền biệt. Quà cáp núi rừng chứa đầy ba lô dã chiến. Lên đường! Đột ngột có lệnh: ở lại, chuẩn bị đánh lớn và mùa xuân 1975. Vị tướng đó chính là Dương Cự Tẩm, một trong những tướng lĩnh kỳ cựu ở chiến trường Nam Bộ, dưới bí danh Năm Thanh. Vốn là một học sinh yêu nước vùng Kinh Bắc, mười bảy tuổi đã đứng cứng đầu trước vành móng ngựa thực dân, hai mươi ba tuổi được Bộ Quốc Phòng biệt phái mang số tiền lớn tương đương một ngàn lượng vàng bí mật sang tla mua vũ khí; sát cánh cùng hoàng thân Suphanuvong trong liên quân Lào-Việt; rồi đưa một cánh quân hải ngoại ngượt Campuchia về tiếp tế Nam Bộ kháng chiến. Kể từ đó, trên mỗi bước đường chinh chiến, hết đánh Pháp đuổi Mỹ đến tiêu diệt tập đoàn diệt chủng Pol Pot-Iêng Sary, tướng Dương Cự Tẩm được tiếp thêm sức mạnh bởi một “nguồn lực” mới: tình yêu của một cô gái đồng bằng sông Cửu Long suốt đời dành cho ông-người chiến binh đến từ đồng bằng sông Hồng. Ông được thăng quân hàm thiếu tướng năm 1974, lên Trung tướng năm 1984 lúc đang là phó tư lệnh Quân khu 7 và được Nhà nước tặng Huân chương Độc lập hạng nhất.

-Thưa Trung tướng, giả sử bây giờ một mình trở lại sống giữa điệp ngàn Trường Sơn, thì trong ba lô Trung tướng cái gì nhất định không thể thiếu?

-Chiếc máy ảnh (cười sảng khoái). Tôi mê chơi ảnh lắm. Cả anh Trần Văn Trà và anh Trần Độ cũng vậy. Mà phong cảnh Trường Sơn thì tuyệt!


-Bây giờ Trung tướng vẫn còn chơi ảnh.

-Không bỏ được. Hồi ở Quân khu 9, thấy tôi mê ảnh, anh Đồng Văn Cống đã tặng tôi chiếc máy ảnh Canon không vỏ, trụi lủi. Tôi nhờ một chiến dịch biết nghề ảnh, chỉ giùm cách chụp, tráng phim, pha thuốc, rửa ảnh… Nay có dịp gặp anh em hay về thăm quê, tôi mới chụp.


-Tuổi thơ là một “tài sản” quan trọng của cuộc đời mỗi con người. Với Trung tướng, hình ảnh tuổi ấu thơ còn lưu gì trong ký ức của mình, thưa Trung tướng?

-Tổ tiên tôi vốn theo Nguyễn Công Trứ vào khai hoang ở đất Kim Sơn, Ninh Bình. Cha tôi là một nhà Nha, làm thuốc Đông y. CÒn mấy ông chú tôi theo Tây học. Mẹ tôi là một phụ nữ thuần hậu, chất phác. Mẹ bảo tôi tuổi Tuất, tức sinh năm 1922. Giấy khai sinh tốt nghiệp tiểu học của tôi lại đề sinh năm 1924. Còn tuổi nghỉ hưu thì năm 1921. Lúc nhỏ, tôi học tiểu học ở Kim Sơn, có một năm theo học trường dòng Phát Diệm. Năm 1939, tôi vào học trường kỹ nghệ Hà Nội, được giác ngộ tham gia phong trào cách mạng phản đế tại trường.

Vì tổ chức bí mật của học sinh yêu nước bị vỡ, năm 1942 tôi bị bắt cùng một nhóm thanh niên học sinh Hà Thành. Trong đó có anh Nguyễn Văn Kha, sau này là Bộ trưởng Bộ Công nghiệp; anh Hoè, sau này làm chủ tịch thành phố Hải Phòng, rồi trưởng Ban Kinh tế Trung ương. Chúng tôi bị chính quyền thực dân đưa ra toà án quân sự. Nhờ Luật sư Phan Anh cãi kịch liệt, với lý do tôi mới mười bảy tuổi, nên chỉ bị đưa đi trại cải tạo trẻ vị thành niên ở Bắc Giang. Năm 1943, tôi bị đưa về quản thúc ở địa phương, gia đình tổ chức cho tôi trốn lên huyện Yên Mô dạy học tư kiếm sống và tiếp tục hoạt động cách mạng.


-Được biết sau Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám. Trung tướng được phân công mang nửa triệu bạc Đông Dương sang Thái Lan mua vũ khí. Trung tướng có thể kể vài nét về sứ mệnh đặc biệt này?

-Vâng. Cách mạng thành công, tôi được anh Trần Văn Tuyên phân công phụ trách công đoàn Hà Nội. Lúc đó Trần Văn Tuyên là chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam, anh trực tiếp giới thiệu tôi vào Đảng. Và tôi đã dẫn đầu đoàn đại biểu công nhân thủ đô-đoàn dại biểu quần chúng cách mạng đầu tiên vào Phủ Chủ tịch để tiếp kiến Hồ Chủ tịch. Tiếp theo là một nhiệm vụ mới: tháng 11 năm 1945, tôi cùng các anh Lê Thiệu Huy-sinh viên luật, Hoàng Xuân Bình và Lê Trọng Thời là sinh viên y khoa, được Bộ Quốc phòng cử sang Thái Lan mua vũ khí tiếp tế cho Nam Bộ.

Thứ trưởng bộ quốc phòng Vũ Anh gọi tôi lên, viết giấy giới thiệu sang ngân hàng nhận nửa triệu đồng tiền Đông Dương, tương đương một ngàn lượng vàng. Trong điều kiện khó khăn của chính quyền non trẻ bấy giờ, đây là số tiền rất lớn. Tôi sang ngân hàng thì hết tiền mặt, chỉ còn có loại 5 hào. Biết làm sao? Tôi phải chạy đến các tiệm bánh quen ở phố Hàng Đào nhờ anh em công nhân vận động chủ tiệm đổi thành tiền loại 10 đồng, 20 đồng để dễ dàng mang đi. Tôi nhớ khi đến tiệm bánh đầu tiên, có hai cô gái khá xinh con ông chủ tiệm, nghe tôi là phái viên Bộ Quốc phòng mà còn quá trẻ, hai cô cứ lấp ló trộm nhìn (cười thích thú). Sau đó, hai cô cũng giúp tôi đắc lực trong việc đi đổi tiền.


-Bằng cách nào đoàn mua vũ khí sang được Thái Lan?

-Vượt qua đất Lào. Trước tiên, chúng tôi hẹn gặp nhau ở Huế. Tôi là đảng viên duy nhất trong đoàn, được phân công giữ tiền và được Bộ Quốc phòng cấp một thẻ “hoả tốc” đặc biệt ưu tiên. Muốn sang Thái Lan phải qua Savanakhet. Mà lúc đó, quân Pháp đã trở lại Nam Lào, cắt đứ con đường này. Nhưng theo qui định của quân Đồng Minh, từ vĩ tuyến 17 trở ra thuộc quyền kiểm soát của quân đội Tưởng Giới Thạch, nên dù có trở lại quân Pháp ở Lào vẫn “dưới cơ” quân Tưởng.


Bộ chỉ huy quân sự Huế làm cho tôi một căn cước giả và tôi ăn mặc giả người tàu để đi. Tài xế sắp xếp cho tôi ngồi ở trước, bên cạnh một thiếu uý quân Tưởng về Huế công tác, trở sang Lào. Vali tiền tôi để dưới chân. Nhờ có học chữ Nho nên tôi bút đàm với viên thiếu uý quân Tưởng. Anh ta rất thích thú. Xe hành khách hai lăm chỗ ngồi chạy qua những khu rừng toàn cây dầu. Thỉnh thoảng có vài tên lính Pháp mang súng chặn xe kiểm tra, nhưng thấy viên thiếu uý Tưởng, chúng liền gật đầu chào, để xe qua. Đến Savanakhet, ông Nguyễn Văn Tiến, chủ tịch Tổng hội Việt kiều ở Thái Lan sang chờ đón tôi. Thở phào nhẹ nhõm, thế là tôi hoàn thành nhiệm vụ. Tôi giao lại toàn bộ tiền cho ông Tiến. Mấy ngày sau, các anh Bình, Huy, Thời cũng sang.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #61 vào lúc: 22 Tháng Sáu, 2008, 07:52:55 am »

-Sao lúc đó Thái Lan có vũ khí mà ta sang mua?

-À, vì Thái Lan bấy giờ có phong trào du kích chống Nhật do Đảng Seri Thay lãnh đạo. Tổng hội Việt kiều có quan hệ tốt với đảng này. Mỹ đã thả dù vũ khí tiếp tế cho du kích Thái, nhưng Nhật vừa đầu hàng quân Đồng Minh, nên số vũ khí đó không sử dụng.


-Thưa Trung tướng, vật lực lượng Việt kiều Giải phóng quân mà Trung tướng tham gia chỉ huy đã ra đời như thế nào?

-Do Trung ương chỉ đạo tổ chức giúp Lào khởi nghĩa giành chính quyền. Vì thiếu cán bộ, ông Nguyễn Văn Tiến đã đề nghị với Hà Nội để tôi ở lại làm chính trị viên Bộ Chỉ huy Việt kiều Giải phóng quân tỉnh Thakhet. Ba anh Huy, Bình, Thời tiếp tục lo việc mua vũ khí. Anh Nguyễn Chánh vốn là lính khố xanh của Pháp, sau Cách mạng tháng Tám, đã đưa lính về gia nhập Giải phóng quân, được phân công làm chỉ huy trưởng ở Thakhet. Nguyễn Chánh hải ngoại này hiện là Trung tướng, khác với Nguyễn Chánh vốn là tư lệnh kiêm chính uỷ Liên khu 5 đã mất.


-Việc Trung tướng cộng tác với hoàng thân Suphanuvong bắt đầu từ đâu?

-Khi nhận nhiệm vụ chính trị viên, tôi đã tiếp xúc với hoàng thân. Chính phủ Cách mạng lâm thời do hoàn thân Suphanovong làm chủ tịch đã ra mắt tại Thakhet. Tôi nhớ trong buổi lễ, hoàng thân mặc bộ quân phục kaki vàng, tay chống ba-toong lên duyễn thuyết giữa tiếng hoan hô như sấm dậy. Nhân dân Lào tự hào về vị lãnh tụ của mình lắm! Sau bao năm chịu ách đô hộ của thực dân Pháp, họ đã có người dẫn đường giành lại độc lập cho đất nước.


-Còn phu nhân hoàng thân Suphanuvong, nghe nói là người Việt, Trung tướng có dịp tiếp xúc?

-Có. Phong cách hoàng thân ảnh hưởng đậm văn hoá phương Tây, nên đi đâu cũng có “bà đầm” bên cạnh. Ông quí mến bà lắm. Bà hoàng vốn là người gốc Huế. Khi xuất hiện trước công chúng, tóc bà cũng bới cao như phụ nữ Lào, mặc saron. Trong buổi đại lễ lập nước, khi hoàng thân đăng đàn, và cũng lên đứng cạnh ông. Sau buổi lễ, ông bà đã mở tiệc chiêu đãi.


-Trung tướng còn nhớ gì về hoạt động của lực lượng liên quân Lào-Việt lúc bấy giờ?

-Cuối tháng 9 năm 1945, sau khi gây hấn ở Nam Bộ, quân Pháp đã trở lại chiếm đóng Campuchia và các tỉnh Hạ Lào. Sau Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946, từ Nam Lào quân Pháp tập trung lực lượng lớn tấn công lên phía Trung và Bắc bằng máy bay, xe tăng, cơ giới. Các thành phố, thị xã Viêng Chăn, Savanakhet và Thakhet bị bao vây. Liên quân Lào-Việt được thành lập từ cuối năm 1945, đã chống trả ngoan cường. Nhưng do quân Pháp quá mạnh, liên quân chống giữ một thời gian thì phòng tuyến bị chọc thủng.


Đêm 23 tháng 3 năm 1946, liên quân đánh yểm trợ cho đồng bào rút lui, làm vườn không nhà trống, vượt sông Mêkông sang Thái Lan. Sau vạn Việt kiều ở ba tỉnh lớn của Lào cũng cùng di cư. Địch tập kích, hoàng thân Suphanuvong bị thương nặng khi qua sông. Anh Lê Thiệu Huy trúng đạn hy sinh ngay trên chiếc canô có hoàng thân. Chuyến vượt sông này quân cách mạng bị tổn thất khá nặng. Đồng bào di cư cũng bị chết rất nhiều. Chính phủ Thái Lan yêu cầu quân giải phóng phải giao nộp vũ khí. Nhưng nhờ Tổng hội Việt kiều ngoại giao tối với chính quyền địa phương, nên chỉ giao nộp tượng trưng, còn phần lớn vũ khí được phân tán cất giấu.


Tháng 5 năm 1946, có lệnh tập hợp lực lượng quân giải phóng chiến đấu ở Lào. Tôi cùng các anh Nguyễn Chánh, Lê Quốc Sản, Đỗ Huy Rừa được giao nhiệm vụ tổ chức, huấn luyện. Tại chiến khu Noong Kè, trong vòng mười ngày, chúng tôi đã lựa chọn và tập trung được hơn 400 chiến sĩ trong số những người tình nguyện từ các cơ sở Việt kiều, thành Chi đội Trần Phú. Anh Nguyễn Chánh là chi đội trưởng, tôi làm chính trị viên, hai anh Lê Quốc Sản và Đỗ Huy Rừa làm chi đội phó. Chi đội được tổ chức thành bốn đại đội, hoạt động dưới danh nghĩ công nhân làm đường để che mắt chính quyền Thái Lan ở Trung ương.


Qua Tổng hội Việt kiều, chúng tôi cũng nhận thầu xây dựng một con đường dài mười cây số từ Noong Kè ra Phnôm. Ban ngày làm đường, ban đêm bí mật ra cánh đồng đã gặt để tập luyện. Hậu cần đều do con Việt kiều ở Thái tiếp tế.


-Trung tướng đánh giá thế nào về sự đóng góp của Việt kiều Thái-Lào lúc đó cũng như trong suốt hai cuộc kháng chiến đối với Tổ quốc?

-Rất lớn. Cả sức người lẫn của cải vật chất. Việt kiều Thái-Lào đã ghi thêm những trang sử vàng vào lịch sử truyền thống yêu nước của dân tộc. Sự hình thành khối người Việt ở Thái-Lào có đặc điểm lịch sử riêng, mà nổi rõ nhất là dân tị nạn sau khi phong trào Cần Vương thất bại, đến Xô viết Nghệ-Tĩnh bị đàn áp dã man và công nhân khai thác mỏ ở Lào, phu làm đường nối ba nước Đông Dương. Vì vậy, lòng căm thù ngoại xâm và tinh thần yêu nước luôn nung nấu trong họ.


Phong trào cách mạng của Việt kiều Lào-Thái có mối liên hệ chặt chẽ với trong nước. Nhiều nhà cách mạng đã sang Thái Lan bí mật hoạt động trong sự che chở, giúp đỡ của Việt kiều. Mùa thu năm 1928 đến cuối năm 1929, Bác Hồ dưới bí danh Thầu Chín cũng từng hoạt động trong cơ sở Việt kiều ở đây. Từ năm 1941, các tổ chức Việt kiều phát triển mạnh, với Tổng hội Việt kiều là cơ quan lãnh đạo cao nhất. Đầu năm 1945, theo chỉ thị của Trung ương, Xứ uỷ Thái-Lào được sự giúp đỡ của Đảng Seri Thay-một đảng chính trị có xu hướng độc lập, dân chủ và chống phát xít Nhật, có chính sách thân thiện với Việt kiều, đã tổ chức thành lập chiến khu Sakon với lực lượng vũ trang lấy tên Việt Nam độc lập quân. Đây là chiến khu bí mật nhưng đã thu hút khá đông nam nữ thanh niên Việt kiều yêu nước, làm nòng cốt xây dựng Việt kiều giải phóng quân ở Lào sau này.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #62 vào lúc: 22 Tháng Sáu, 2008, 07:53:56 am »

-Thưa Trung tướng, khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, có tất cả mấy cánh quân hải ngoại xuất phát từ Thái Lan về tiếp tế Nam Bộ?

-Gồm bốn đơn vị. Thứ nhất là Bộ đội Độc lập số 1, còn gọi là Hải ngoại 1. Đây là lực lượng vũ trang của cộng đồng người Việt ở Campuchia, chủ yếu là vùng Battambang, được xây dựng cuối năm 1945 tại chiến khu Biển Hồ-lúc này còn thuộc quyền kiểm soát của Thái Lan. Tháng 8 năm 1946, Hải ngoại 1 có hơn 100 quân, do các anh Huỳnh Văn Vàng (Dương Tấn) là chỉ huy trưởng, Ngô Thất Sơn làm chỉ huy phó và Đặng Văn Duyệt làm bí thư chi bộ. Đơn vị hành quân theo hướng Siêm Riệp-Kompong Thom-Kompong Chàm về Tây Ninh. Cuối năm 1947, do yêu cầu mới, anh Ngô Thất Sơn được chỉ định làm chỉ huy trưởng Hải ngoại 1, đến đầu năm 1949 anh bị địch phục kích bắt rồi hy sinh trong tù.


Đơn vị thứ hai là Bộ đội Quang Trung, thành lập tháng 10 năm 1946 tại chiến khu Tippơdây. Quân số lúc đầu gần 50 người sau lên hơn 100. Tháng 11 năm 1946, ông Nguyễn Đức Quỳ-đại diện Chính phủ ta sang Thái Lan và ông Trần Văn Giàu giao nhiệm vụ anh Hoàng Xuân Bình làm chỉ huy quân sự đưa Bộ đội Quang Trung về Nam Bộ chiến đấu. Hoàng Xuân Bình cùng 15 người bí mật đưa vũ khí bằng đường xe lửa từ Bangkok sang Tippơdây. Ngày 15 tháng 11 năm 1946, Bộ đội Quang Trung làm lễ xuất phát, với các nhiệm vụ chính: mở đường mới về Nam Bộ qua vùng phía tây Biển Hồ, chuyển về Nam Bộ một số vũ khí đạn dược, hộ tống một số cán bộ cần về nước làm nhiệm vụ, kết hợp gây thanh thế cho lực lượng Issarak-Quân giải phóng nhân dân Campucha. Hành quân theo hướng Battambang-Pursat-Kômpng Chnăng-Kongpong Spư-Tà Keo về Châu Đốc. Ban chỉ huy gồm có các anh: Phạm Văn Thuận làm tổng chỉ huy kiêm chính trị viên, Hoàng Xuân Bình phụ trách chỉ huy trưởng quân sự, Võ Hoành và Hoàng Ngọc Cừ làm chính trị viên phó. Nguyễn Trọng Thường và anh Giao làm phó chỉ huy quân sự, Trần Ngọc Quế chỉ huy trung đội chiến đấu.


Đơn vị thứ ba là Chi đội Trần Phú. Ngày 20 tháng 12 năm 1946 đơn vị hq bằng xe bus chở hành khách từ That-Phanôm đến tập kết ở khu rừng gần Mường Đêk, Đông Nam Thái Lan. Có ba cán bộ được tăng cường cho đơn vị: anh Sơn Ngọc Minh-cán bộ cách mạng Campuchia, anh Trần Văn Sáu-uỷ viên Thường vụ Tỉnh uỷ Trà Vinh sang Thái Lan mua vũ khí và anh Lê Quán Trung (Hải Nam). Đến ngày 26 tháng 12, Chi đội Trần Phú làm lễ xuất phát. Tiến về biên giới Thái-Campuchia, vượt qua dãy núi Đăng Rek về biên giới dựng đứng, đơn vị hành quân về hướng phum Présenke trên bờ sông Mêkông thuộc tỉnh Kompong Chàm để về Tây Ninh.
Ban chỉ huy Chi đội Trần Phú lúc này gồm các anh: Nguyễn Chánh làm tư lệnh trưởng, Lê Quốc Sản và Đỗ Huy Rừa làm tư lệnh phó, Trần Văn Sáu là chính trị viên, Hải Nam và Dương Cự Tẩm làm chính trị viên phó, Sơn Ngọc Minh làm cố vấn. Chi đội tổ chức thành ba đại đội chiến đấu, một phân đội đại liên, một phân đội trinh sát, một phân đội vận tải và đoàn bộ, gồm tất cả 426 người. Chiến sĩ nhỏ nhất là em Ngọc mới mười ba tuổi. Quân phục màu xanh lá cây, nón sắt, dép da, dây nịt gọn gàng. Vũ khí trang bị phần lớn là các loại súng liên thanh mới. Mỗi người đều mang vác khá nặng.


Đơn vị tư là Tiểu đoàn Hải ngoại Cửu Long 2. Quân số gần 300 người được thành lập ngày 15 tháng 5 năm 1947 tại chiến khu Prakpong thuộc tỉnh Pracchin-Boari của Thái Lan, gồm phần lớn là con em Việt kiều ở Lào, có bốn người là cán bộ du kích Mã Lai và sáu người Campuchia. Ban chỉ huy gồm có các anh: tiểu đoàn trưởng Dương Quang Đông, chính trị viên Trương Văn Kỉnh và tiểu đoàn phó Bông Văn Dĩa. Bộ đội Cửu Long 2 được trang bị vũ khí mới, nhiều đạn dược, tập kết về chiến khu Mai Ruột, vùng biên giới Nam Thái Lan giáp Pailin của Campuchia. Ngày 7 tháng 11 năm 1947, đơn vị được lệnh hành quân về Hà Tiên của Khu 9, qua địa bàn Battambang-Kompông Spư. Trước khi lên đường, bộ đội Cửu Long 2 đã gây tiếng vang bằng trận đánh tiêu diệt đồn Sam Lop thuộc căn cứ Pailin do một trung đội quân Pháp chiếm đóng.


-Riêng Chi đội Trần Phú mà Trung tướng tham gia chỉ huy, sau kh về nước, đã có những hoạt động gì?

-Về tới Tây Ninh, chứng kiến cảnh nồi dao xáo thịt do bọn Cao Đài phản động gây ra, xóm làng đầy cảnh tang tóc, chi đội đã đề nghị tỉnh uỷ cho phép lấy danh nghĩa một đơn vị hải ngoại mới về nước, ra lời kêu gọi đoàn kết gởi đến các chức sắc, tín đồ Cao Đài. Vì lý do chính trị, đơn vị ký tên Chi đội Hải ngoại 4. Điều này cũng nhằm thông báo là chiến trường Nam Bộ đã có 4 đơn vị hải ngoại về nước. Tháng 3 năm 1947, Hải ngoại 4 đã tham gia Liên quân B với Chi đội 11 bộ đội Hoàng Thọ, hành quân chiến đấu ở Gò Dầu và Trảng Bàng thuộc Tây Ninh. Đặc biệt, có một phân đội đi bảo vệ hai anh Nguyễn Chánh và Trần Văn Sáu về Bộ tư lệnh Quân khu 7 để trình diện và nhận nhiệm vụ, đã tham gia hai trận đánh “trình làng” vang dội tại giồng Dinh và giồng Thổ Địa. Cả hai trận chống quân Pháp nhảy dù đều thắng lớn, tiêu diệt gần hai đại đội địch thu nhiều súng đạn. Sau đó, Chi đội Hải ngoại 4 được phân về hoạt động ở Quân khu 8.


-Bắt đầu từ đây, cuộc đời Trung tướng gắn chặt với chiến trường Nam Bộ?

-Vâng. Năm 1954 đình chiến, tôi ra Bắc làm chủ nhiệm chính trị Sư đoàn 332 đi tiễu phỉ ở biên giới Lạng Sơn trong hai năm. Sau thời gian công tác ở Tổng cục Chính trị, năm 1962 đi Chiến dịch Nậm Thà bên Lào làm chủ nhiệm chính trị chiến dịch mà anh Bằng Giang là tư lệnh, anh Trần Độ làm chính uỷ. Tháng 7 năm 1964 tôi bí mật vượt biển vào Nam, đổ bộ lên Bến Tre, cùng các anh Lê Văn Ngọc, Lê Văn Lựu… Về Bộ chỉ huy Miền, tôi được cử làm cục phó Cục Chính trị Quân giải phóng miền Nam. Đến năm 1967 tôi về làm chính uỷ Sư đoàn 7 còn anh Nguyễn Hoà làm tư lệnh.


Để chuẩn bị cho cuộc tấn công xuân Mậu Thân 1968, tôi được điều xuống Quân khu 9 làm phó chính uỷ khu do anh Đồng Văn Cống làm tư lệnh, tham gia mặt trận tiền phương ở Cần Thơ. Năm 1969, tôi về làm chính uỷ Quân khu 8, đi chiến trường, nghiên cứu chống bình định trọng điểm của địch ở Mỹ Tho. Năm 1974, tôi lại lên làm chính uỷ Quân khu 7, chuẩn bị cho cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa xuân 1975. Có thể nói, cuộc đời chiến đấu của tôi trải gần hết chiến trường Nam Bộ.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #63 vào lúc: 22 Tháng Sáu, 2008, 07:55:46 am »

-Nghe nói, cuối năm 1974, Trung tướng được nghỉ phép ra Bắc, nhưng khi vừa lên đường thì có lệnh ở lại tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh. Đúng không, thưa Trung tướng?

-Đúng vậy. Đang chờ xe, tôi được anh Lê Đức Anh-phó tư lệnh kiêm tham mưu trưởng Bộ tư lệnh Miền, gọi về báo chuẩn bị nhận nhiệm vụ mới. Lúc đó, tôi thực sự bần thần. Đã gần mười một năm xa vợ con. Rất thèm một chút không khí gia đình riêng tư. Anh Lê Đức Anh chỉ nó có nhiệm vụ mới, chứ không cho biết cụ thể, vì bí mật quân sự. Anh khuyên tôi nên ở lại, vì tôi đã lăn lộn ở chiến trường Nam Bộ bao năm, nếu không có mặt thì không hay, khi có khả năng đánh lớn.


-Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, Trung tướng tham gia cánh quân nào?

-Cánh quân phía Đông. Nhiệm vụ của tôi là đón Quân đoàn 2 và chọn người dẫn đường đưa xe tăng tiến vào dinh Độc Lập.


-Trung tướng còn giữ kỷ niệm gì về những ngày đầu tiên tiếp quản Sài Gòn?

-Bất ngờ nhất là tôi gặp vợ và con trai cũng vào tiếp quản thành phố. Vợ tôi sau khi vào Đà Nẵng tiếp quản các cơ sở công nghiệp, tiếp tục vào Sài Gòn làm nhiệm vụ. Con trai tôi cũng vào Đà Nẵng bằng đường thuỷ rồi bay vô Sài Gòn tiếp quản ngành không quân. Điều thú vị là cả vợ và con tôi cũng hoàn toàn bất ngờ khi gặp nhau tại Sài Gòn.


-Khi chiến tranh biên giới Tây Nam nổ ra, Trung tướng có ra trận?

-Có chứ! Tôi và anh Năm Ngà cùng làm phó tư lệnh Quân khu 7 phụ trách chung hai mặt trận tiền phương của quân khu: Siêm Riệp do anh Hồ Quang Hoá làm tư lệnh và Kompong Chàm do anh Đặng Quang Long làm tư lệnh, cùng tiến vào giải phóng Campuchia khỏi ách diệt chủng.


-Là vị tướng nhiều kinh nghiệm về công tác chính trị, Trung tướng đánh giá thế nào về vai trò của chính trị trong quân đội? Và theo Trung tướng có nên tách chính trị ra khỏi quân đội như nhiều quốc gia đã làm?

-Quân đội mỗi nước có đặc thù riêng. Đối với quân đội ta, chính trị phải luôn gắn liền với công tác quân sự, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực tế lịch sử cho thấy, nếu không có sự lãnh đạo của Đảng thì quân đội khó vượt qua những khó khăn mà đôi lúc tưởng chừng như tan rã. Và nếu không có Đảng lãnh đạo thì không có một đội ngũ cán bộ cốt cán là đảng viên trong quân đội, luon gánh lấy những nhiệm vụ nặng nề nhất, thử thách nhất.


-Trong chiến tranh có hiện tượng tham nhũng không, thưa Trung tướng?

-Có, nhưng chẳng đáng kể. Tham ô chỉ xảy ra ở những anh giữ kho quân trang, quân dụng, nói chung là bên hậu cần. Nhưng cũng dừng lại ở mức lặt vặt thôi. Bởi điều kiện đâu cho phép. Thứ nhất là anh rất dễ lộ diện giữa cuộc sống gian khổ và như thế, không thể tồn tại trên chiến trường. Thứ hai là trong rừng làm gì có hàng quán để ăn chơi xa xỉ, với lại chuyện sống chết luôn kề bên thì còn tâm trí đâu mà nghĩ tới chuyện thủ lợi riêng mình.


-Hồi ấy, là một chính uỷ quân khu, những buổi tiếp khách sang nhất của Trung tướng gồm những gì?

-Một, hai con gà đã ngon lành. Sang hơn nữa thì nhờ anh em cần vụ chạy kiếm con cầy.


-Ở chiến trường như thế, còn trong đời sống gia đình, theo Trung tướng làm thế nào để bảo vệ được hạnh phúc vợ chồng, nuôi dạy con cái nên người?

-Tôi chiến đấu xa nhà có lúc hàng chục năm trời, nên nuôi dạy con cái đều do bà nhà lo hết. Bây giờ khi da mồi tóc bạc mới có dịp gần gũi chăm sóc nhau. Kinh nghiệm cho thấy để cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, nhất thiết phải thực sự làm chủ, bởi điều đó còn quan hệ đến vd thu nhập, chi tiêu…


-Trung tướng còn nhớ kỷ niệm lần đầu gặp bà nhà trong hoàn cảnh nào?

-À, trong buổi lễ thương binh-xã hội lần đầu tiên do tỉnh Sa Đéc tổ chức vào ngày 27 tháng 7 năm 1947. Tôi đang là chính trị viên Trung đoàn 109 đóng ở đây. Trong Ban chỉ huy Hội Phụ nữ tỉnh Sa Đức lúc đó có mấy cô khá xinh. Tôi để ý một cô tên Mau, Vũ Thị Mau, trông gọn gàng, hoạt bát mà lại rất có “uy” với những cô khác. Anh em bộ đội thấy vậy… cắp đôi. Tôi nhớ một lần hai chúng tôi gặp nhau ở sở chỉ huy trung đoàn đóng tại nhà dân, cô ấy hỏi:


-Anh quê ở đâu?

Tôi đùa:

-Quê tôi là bộ đội!

Cô ấy ngầm giận mãi. Sau này tôi mới biết (cười).


-Đám cưới ông bà được tổ chức ở đâu?

-Ban chỉ huy Trung đoàn 109 đứng ra tổ chức tại xã Mỹ Thọ, huyện Cao Lãnh, nay thuộc tỉnh Đồng Tháp, nhân hội nghị Xứ ủy diễn ra ở đây năm 1949. Các anh Lê Duẩn, Phan Trọng Tuệ, Trần Văn Trà, Ung Văn Khiêm cùng nhiều anh chị Xứ uỷ đã đến dự. Vui lắm! Trung đoàn trưởng Đặng Văn Thông xin được một ít tiền bên tỉnh, đã tổ chức bữa ăn mặn đàng hoàng. Khi làm lễ, đồng chủ hôn là uỷ viên xã hội tỉnh đã nghiêm trang hỏi: Tên anh là gì? Tên chị là gì? Anh có yêu chị không? Chị có yêu anh không?... Còn có cả giấy hôn thú mà bây giờ bà ấy còn giữ.


-Hình như bà nhà còn có tên Mai Thanh?

-Vâng, đó là bí danh hồi kháng chiến. Ra Bắc, bà ấy đi học và làm việc bên ngành công nghiệp dệt. Sau này trở thành phó giám đốc Nhà máy dệt 8/3. Chúng tôi có ba con hai trai, một gái. Con trai lớn bây giờ là Đại tá giám đốc Phân viện Kỹ thuật Quốc phòng.


-Hỏi nhỏ ông: thời còn học sinh ở quê nhà, ông có mối tình nào đáng nhớ không?

-(Ngập ngừng) Có một kỷ niệm khá vui mà tôi nhớ mãi. Khi còn học ở thị xã Bắc Ninh, ông đốc học rất thương tôi và hay rủ tôi về nhà chơi. Ông đốc học có cô con gái dễ thương lắm, hợp tính, nên thường trò chuyện. Chúng tôi có tình cảm với nhau, nhưng tôi cũng chẳng biết đó là tình bạn hay tình yêu. Đến khi tôi tham gia cách mạng, bị bắt, mãn hạn tù về lại nhà. Một trưa nọ, bất ngờ có một cô gái mặc áo dài màu hồng nữ sinh đến nhà tôi, trông rất xinh đẹp. Làng xó mai cũng trầm trồ. Tôi đang ở trần, lom khom phơi rơm. Ngẩng đầu lên, nhìn tận măt, thì ra… cô Liên, con gái ông đốc học, lặn lội từ thị xã về làng hơn ba mươi cây số để thăm tôi!


Vào nhà, hỏi thăm nhau một lúc thì cô ấy chào về. Cô ấy xưng tôi, nhưng gọi tôi bằng anh. Tôi rất xúc động. Người trong làng thì xầm xì với nhau: cô ấy thích tôi! Tiếc rằng, vì nhiệm vụ cách mạng, tôi rời quê hương ra đi, không có dịp đến thăm thầy và cho đến bây giờ tôi cũng chưa có dịp gặp lại được cô Liên. Cô ấy bây giờ cũng thành bà cụ, nghe đâu lúc sống ở Hà Nội lúc thì cũng vô Sài Gòn cùng con cháu.


-Thế còn lúc ở Thái Lan và Lào, Trung tướng có làm bạn với cô gái Thái hay Lào…?

-Khi Chi đội Trần Phú được thành lập, đóng trong khuôn viên một ngôi trường của người Thái. Trường có một thầy hiệu trưởng và một cô giáo sống nội trú. Tôi làm công tác chính trị, hay giao thiệp. Cô giáo tỏ ra mến tôi và thường rủ tôi đi picnic, mời về nhà cô ấy chơi. Tôi cũng cảm thấy mình có một tình cảm đặc biệt, nhưng không thể thổ lộ được. Cô ấy da ngăm ngăm, có duyên, hình dáng gần giống người Lào. Tôi đâu biết tiếng Thái, nên nhờ cậu Ba Đen là bạn đồng đội đi theo phiên dịch. Chẳng biết Ba Đen có thêm bớt gì không, nhưng cứ nói ra thì cả ba cười ngất…


Kỷ niệm thời thanh xuân như làm vị tướng trẻ lại. Trông ông hết sức hồn nhiên. Khuôn mặt phúc hậu càng hồng hào hơn. Cử chỉ càng thanh thoát hơn. Tôi ngỡ như mái tóc bạc phơ của lão tướng phút chốc trở nên xanh thẳm cùng ký ức của ông. Châm nước trà mời tôi, Trung tướng hạ giọng: “Tổ quốc là thiêng liêng. Tình yêu và gia đình đối với mỗi con người cũng không thể thiếu. Suốt đời chiến đấu vì độc lập tự do cho dân tộc, tôi may mắn hơn nhiều anh em khác là có được một gia đình yên ấm, hạnh phúc!”. Hoà vào cảm xúc của vị tướng, tôi đọc bốn câu lục bát ứng khẩu tặng ông:

Đặc phái viên thành kiều bào
Lập liên quân giúp bạn Lào giải vây
Viện binh Nam Bộ đánh Tây
Mê hò sông Hậu vướng dây tơ hồng


Trung tướng Dương Cự Tẩm nở tràng cười sảng khoái, đứng lên nắm chặt lấy tay tôi.


Tân Bình, tháng 9 năm 1997
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #64 vào lúc: 29 Tháng Sáu, 2008, 07:27:11 am »

Thượng tướng Trần Văn Trà

Từ cậu bé miền Trung sớm ý thức nỗi đau quê hương dưới gót dày đinh nô lệ, Nguyễn Chấn đã hoạt động cách mạng trở thành danh tướng Trần Văn Trà được nhân dân, đồng đội tin yêu, kẻ thù nể trọng. Cuộc đời và tên tuổi tướng Trần Văn Trà gắn liền với chiến trường B2 máu lửa trong hai cuộc kháng chiến. Ông từng được giao nhiều trọng trách: khu trưởng Khu 8, phó tư lệnh Nam Bộ thời chống Pháp; phó tổng tham mưu trưởng, chánh án Toà án Quân sự Trung ương, tư lệnh Quân giải phóng miền Nam, trưởng Đoàn đại biểu Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam trong Ban Liên hiệp Quân sự bốn bên, phó tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh trong chống Mỹ; rồi chủ tịch Uỷ ban Quân quản Sài Gòn-Gia Định, tư lệnh kiêm chính uỷ Quân khu 7, thứ trưởng Bộ Quốc phòng, phó chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam kiêm chủ tịch Hội Cựu chiến binh Thành phố Hồ Chí Minh…, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh. Tuổi thanh xuân trôi qua trong đạn bom. Về già, vị tư lệnh chiến trường lừng danh năm xưa mới thảnh thơi sống hạnh phúc bên cạnh người bạn đời-Phó tiến sĩ Lê Thị Thoa cùng con cháu. Tôi đến với ông đúng lúc cả nước chuẩn bị kỷ niệm hai mươi năm ngày kết thúc chiến tranh chống Mỹ-cuộc chiến đã khăẳn định tài năng và nhân cách Trần Văn Trà. Bằng giọng nói âm vang của một tâm hồn nhạy cảm, một trí nhớ phi thường, một trái tim luôn sục sôi nhiệt huyết, Thượng tướng đưa tôi trở về những kỷ niệm gian lao, anh dũng của dân tộc của bản thân ông hơn hai mươi năm trước.

-Thưa Thượng tướng, một đời lặn lội với chiến trường, bí quyết nào giúp Thượng tướng vẫn giữ được sức khỏe tốt như vậy?

-Không có bí quyết gì cả. Tôi đi nhiều, làm việc nhiều, tập thể dục và ăn uống điều độ. Thế thôi.


-Thượng tướng có ăn kiêng không?

-Không. Do ở vùng biển miền Trung từ nhỏ, nên tôi rất thích ăn cá, ăn rau.


-Còn thú tiêu khiển?

-Đánh cờ. Hồi còn ở trong rừng thì thỉnh thoảng chơi tú-lơ-khơ (cười). Tôi cũng rất thích chơi ảnh nghệ thuật và mê điện ảnh.


-Hiện nay, công việc bình thường hàng ngày của Thượng tướng là gì?

-Một phần thời gian dành cho hội cựu chiến binh, thỉnh thoảng tiếp các đoàn khách trong và ngoài nước, còn chủ yếu là nghiên cứu lịch sử về tư tưởng, chiến lược, chiến thuật quân sự và viết lại những bài học, kinh nghiệm trong chiến tranh. Ngoài ra, tôi cũng tranh thủ thường xuyên theo dõi tin tức qua báo đài. Tạp chí Kiến thức ngày nay của các bạn thì tôi không bỏ số nào (ông vừa nói vừa đưa tay chỉ vào giá sách được xếp rất cẩn thận ngăn nắp).


-Thời gian tới, Thượng tướng có dự định cho xuất bản tác phẩm mới nào không?

-Tôi có viết cuốn hồi ký “Những chặng đường lịch sử B2 thành đồng”. Năm 1982, Nhà xuất bản Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh đã in tập 5-Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm. Gần đây, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân in thêm tập 1-“Hoà bình hay chiến tranh” và sách nghiên cứu “Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh”. Các tập còn lại đang chuẩn bị ra mắt độc giả.


-Trong lịch sử chiến tranh của Việt Nam cũng như thế giới, vị tướng nào đem lại cho Thượng tướng sự khâm phục lớn lao nhất?

-Quang Trung Nguyễn Huệ. Tôi chưa thấy vị tướng nào trên thế giới bách chiến bách thắng như ông. Chỉ cần một trận đánh tại Rạch Gầm-Xoài Mút, Nguyễn Huệ đã đuổi được quân xâm lược Xiêm ra khỏi bờ cõi, giải quyết xong một cuộc chiến tranh. Rồi chỉ trong vòng một khoảng thời gian ngắn, thần tốc, Nguyễn Huệ lại đánh tan quân xâm lược Thanh… Cả cách hành quân, cách đánh, nghệ thuật chỉ huy cũng khó ai sánh bằng, rất mưu lược và sáng tạo.


-Cả một đời vào sinh ra tử, bây giờ nhìn lại, Thượng tướng có cảm thấy hối tiếc điều gì không?

-Không. Tôi rất thỏa mãn về cuộc đời mình vì đã hoàn thành được nhiệm vụ mà Tổ quốc, nhân dân giao phó.
-Xưa Nguyên Công Trứ ở tuổi “cổ lai hi” khi nghe tin bờ cõi bị xâm lấn, vẫn thanh gươm yên ngựa sẵn sàng ra trận. Còn bây giờ, nếu đất nước lại lâm nguy, Thượng tướng có sẵn sàng đi Nam về Bắc như xưa không?
-Sẵn sàng, đó là trách nhiệm thiêng liêng của một người lính, một công dân.


-Thế sao Thượng tướng không trở lại tham gia chính trường?

-Có lẽ điều này tôi chịu ảnh hưởng tư tưởng Bác Hồ:

Kháng chiến thành công ta trở lại
Trăng xưa, hạc cũ, nước non này

Nhiệm vụ do nhân dân, đất nước giao phó, mình hoàn thành được nhiệm vụ nào trong giai đoạn nào của lịch sử cũng đều rất quí; chỉ vì nhiệm vụ, không nên vì danh lợi, địa vị, chức quyền. Vì lẽ đó, mà cuộc sống bây giờ của tôi rất thư thái. Cuộc đời con người ai cũng phải đến lúc nghỉ ngơi, nhưng nghỉ thế nào, lúc nào cho trọn vẹn, cho thanh thản thì mới là điều quan trọng.


Giống như tướng Nguyễn Bình khi lãnh sứ mạng vào Nam thống nhất các lực lượng vũ trang Nam Bộ được Chủ tịch Hồ Chí Minh trao tặng một khẩu súng lục, một trong những kỷ niệm sâu sắc nhất mà tướng Trần Văn Trà tự hào trong ba mươi năm chinh chiến là được Chủ tịch Hồ Chí Minh trao thanh gươm báu khi ông quay về Nam Bộ trong lần đầu tiên ra Việt Bắc “diện kiến” lãnh tụ tối cao vào cuối năm 1948. Lúc đó, Đoàn đại biểu Quân dân chính Nam Bộ do Khu trưởng Trần Văn Trà dẫn đầu sau mấy tháng trời rời bưng biền Đồng Tháp Mười vượt Trường Sơn trong sự ngăn chặn của địch, đã đặt chân đến chiến khu Việt Bắc báo cáo tình hình với Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch. Một chuyến đi lịch sử!


Từ trước Cách mạng tháng Tám, tên tuổi Nguyễn Ái Quốc đã trở thành niềm ngưỡng vọng tin yêu đối với chàng trai Nguyễn Chấn. Rồi ước mơ được gặp lãnh tụ Hồ Chí Minh luôn thôi thúc vị chỉ huy chiến trường trẻ tuổi Trần Văn Trà ở căn cứ địa Đồng Tháp Mười xa xôi. Và mơ ước ấy đã trở thành hiện thực. Ông cùng đồng đội được lãnh tụ tiếp đón bằng tình cảm nồng hậu, chân tình, gần gũi như người thân. Những ngày ở Việt Bắc với Hồ Chủ tịch đã đem lại cho Trần Văn Trà sự vững tin hơn ở tương lai, dù cuộc chiến đấu trước mắt đầy cam go thử thách. Đặc biệt trước khi trở về Nam, Hồ Chủ tịch còn đích thân đến trao cho vị tư lệnh chiến trường một thanh gươm và căn dặn: “Bác trao chú thanh gươm quí này đưa về để đồng bào miền Nam diệt thù. Các chú báo cáo với đồng bào rằng lòng Bác, lòng Đảng lúc nào cũng bên cạnh đồng bào. Chúng ta đồng lòng vì nước, nhất định chúng ta thắng”. Lời uỷ thác ấy của lãnh tụ càng giúp Trần Văn Trà và đồng đội tự tin hơn, mạnh mẽ hơn, bản lĩnh hơn, thôi thúc họ nhanh chân trở lại chiến trường lập công.


Năm 1954 với tư cách tư lệnh Phân liên khu miền Đông, Trần Văn Trà chuyển quân tập kết ra Bắc, được cử làm phó tổng tham mưu trưởng, rồi được phong quân hàm Trung tướng năm 1958. Đến năm 1974, khi đang là tư lệnh Quân giải phóng miền Nam, ông nhận quyết định thăng Thượng tướng ngay trên chiến trường. Ông còn được bầu làm uỷ viên Trung ương Đảng khoá IV, đại biểu Quốc hội khoá VI… Dù sau này nhiều lần gặp làm việc với Hồ Chủ tịch, nhưng đối với tướng Trà, ấn tượng đầu tiên vào năm 1948 vẫn sâu sắc hơn cả. Thanh gươm báu Bá trao đã trở thành ”bửu bối” thiêng liêng bên ông trên bước đường chinh chiến nơi đầu sóng ngọn gió.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #65 vào lúc: 29 Tháng Sáu, 2008, 07:28:28 am »

-Thưa Thượng tướng, tên tuổi Trần Văn Trà không xa lạ gì đối với nhân dân Việt Nam, bạn bè thế giới lẫn cả đối phương trong hai cuộc trường kỳ kháng chiến. Nhưng để bắt đầu sự nghiệp gian khổ và anh hùng của mình, tuổi thơ Thượng tướng đã gắn bó nơi đâu?

-Đó là một vùng quê nghèo khó nhưng giàu tình thương yêu đùm bọc lẫn nhau ở vùng duyên hải miền Trung, một vùng mà phong trào cách mạng rất cao, kể cả thời Văn thân cho đến phong trào do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Tôi sinh ngày 15 tháng 9 năm 1919, tuổi Mùi ở xã Tịnh Long, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, tên thật là Nguyễn Chấn. Gia đình tôi không có ruộng. Cha tôi là thợ xây, còn mẹ tôi mua gánh bán bưng nuôi anh em tôi ăn học. Cha tôi tham gia phong trào cách mạng 1930-1931. Do chịu ảnh hưởng của phong trào cách mạng đó và đọc thơ văn của các bậc tiền bối yêu nước, nên tôi luôn mơ tưởng làm được việc giải phóng dân tộc. Mơ ước tuổi thơ ấy cũng chính là lý tưởng của cả đời tôi. Và 4 câu thơ:

Vó ngựa trập trùng lên ải Bắc
Tuyết sường lạnh lẽo giá râu mày
Gươm thiêng lấp lánh bên lưng nhẹ
Ngựa hí vang lừng trận gió may

Không biết tác giả là ai, nhưng nó có tác động đến tâm hồn lãng mạn cách mạng của tôi. Nó diễn tả được tâm trạng và mơ ước tuổi thơ. Vì vậy, khi được cầm súng chiến đấu vì độc lập tự do, tôi như thoả mãn được ước vọng.


-Và xuất phát từ đây, Thượng tướng bắt đầu hành trình binh nghiệp của mình?

-Năm 1936, tôi thi vào trường kỹ nghệ Huế. Tôi tham gia phong trào học sinh yêu nước. Năm 1938, tôi được chi bộ Đảng nhà trường kết nạp Đảng Cộng sản. Năm 1939, tôi vô Sài Gòn làm công nhân hoả xa và tiếp tục hoạt động cách mạng. Sau đó tôi bị thực dân Pháp bắt. Ra tù, hoạt động bí mật, lại vào tù lần 2. Ngày 22 tháng 8 năm 1945, chính phủ Trần Trọng Kim phóng thích tù chính trị, ra khỏi tù tôi tham gia tổng khởi nghĩa, giành chính quyền ở Sài Gòn. Tôi bắt liên lạc với Xứ uỷ và được phân công về Kỳ bộ Việt Minh do anh Nguyễn Văn Nguyễn phụ trách.


Ngày 23 tháng 9 năm 1945, quân Pháp tái chiếm Nam Bộ. Kháng chiến bùng nổ. Tôi trở thành người lính, tham gia trận đầu tiên giữ mặt trận Cầu Bông trong nội thành Sài Gòn. Mặt trận Sài Gòn vỡ. Cơ quan lãnh đạo ta về Mỹ Tho. Tôi xin ở lại Sài Gòn chiến đấu. Trung ương tăng cường cho Nam Bộ lực lượng Nam tiến. Anh Nguyễn Bình vào chỉ huy khu 7, Đào Văn Trường chỉ huy khu 8 và Vũ Đức (tức Hoàng Đình Giong người dân tộc Tày) chỉ huy khu 9. Dù vậy, tình hình vẫn hết sức khó khăn. Sau đó, tôi đưa một bộ phận “Giải phóng quân liên quận” về tăng cường, chấn chỉnh khu 8. Tôi cùng anh em lập ra Chi đội 14 (chi đội bằng trung đoàn sau này), tôi làm Chi đội trưởng và bắt đầu xây dựng căn cứ địa Đồng Tháp Mười.


Tháng 9 năm 1946, tôi được Trung ương chỉ định làm Khu trưởng khu 8, anh Trương Văn Giàu làm Khu phó, còn anh Nguyễn Văn Vịnh là Chính uỷ. Cuối năm 1947, đơn vị chủ lực cơ động đầu tiên của Nam Bộ được thành lập, đó là tiểu đoàn 307 thuộc khu 8. Các khu khác cũng lần lượt thành lập những tiểu đoàn chủ lực. Tiểu đoàn 307 sau này rất nổi tiếng và đi vào thơ, nhạc đấy. Giữa năm 1948, tôi cùng đoàn đại biểu Quân dân chính Nam Bộ được cử ra Việt Bắc báo cáo tình hình với Trung ương. Lần đầu tiên tôi được gặp Bác Hồ, đồng chí Nguyễn Ái Quốc mà khi còn hoạt động bí mật trước năm 1945 tôi từng biết qua tài liệu và tiếng tăm.


Nam Bộ có bộ đội chủ lực, lại được phát triển củng cố các lực lượng địa phương và dân quân du kích, nên đã đánh thắng những trận vang dội như trận Cổ Cò, Giồng Dứa, Tầm Vu, La Ngà… Nhiều chiến dịch được mở ra. Bấy giờ anh Nguyễn Bình là Tư lệnh Nam Bộ, còn tôi là Phó tư lệnh. Năm 1950, tôi về làm Tư lệnh kiêm Chính uỷ khu Sài Gòn-Gia Định. Năm 1951, anh Nguyễn Bình ra Bắc và bị hy sinh trên đường đi. Lúc đó, Nam Bộ cũng được chia làm hai phân liên khu: miền Đông gồm các tỉnh tả ngạn và miền Tây gồm các tỉnh hữu ngạn sông Tiền. Miền Đông tôi làm Tư lệnh, anh Phạm Hùng làm Chính uỷ, anh Nguyễn Văn Nguyễn làm Phó tư lệnh. Miền Tây thì anh Lê Hiến Mai làm Tư lệnh, anh Phan Trọng Tuệ làm Chính uỷ. Sau Hiệp định Geneve, tôi chỉ huy lực lượng tập kết ra Bắc và làm Tổng tham mưu phó Quân đội.


-Lúc đó Thượng tướng mới vừa trong 35 tuổi!

-Vâng, cho đến năm 1956-1958, tôi sang Liên Xô cùng với các anh Nam Long, Vũ Lăng, Vũ Yên, Nguyễn Văn Minh, Đỗ Đức Kiên. Đây là đoàn cán bộ quân sự Việt Nam đầu tiên sang học ở Học viện cao cấp Liên Xô. Nhưng rồi bị bệnh tôi phải về. Năm 1960-1961 mới sang học lại. Từ năm 1959, sau khi có Nghị quyết 15, tôi đã xin vào Nam chiến đấu, nhưng bệnh chưa lành, không được đi. Năm 1963 tôi mới thực hiện được mong ước của mình, là trở về chiến trường xưa với đồng bào Nam Bộ.


-Được biết, Thượng tướng còn là người trực tiếp vạch kế hoạch và chỉ đạo việc mở đường 559-đường mòn Hồ Chí Minh, mà báo chí phương Tay gọi là “trận đồ bát quái xuyên rừng rậm”?

-Năm 1959, việc tổ chức lực lượng cán bộ tập kết ra Bắc trở vào Nam được đặt ra. Tôi và anh Nguyễn Văn Vịnh đề đạt với Tổng bí thư và được chấp thuận. Tôi được Trung ương và Quân uỷ Trung ương giao nhiệm vụ chọn, huấn luyện, đưa cán bộ tập kết trở về chiến đấu và tổ chức con đường này, trước nhất là vào đến khu 5. Tôi mời anh Võ Bẩm người Quân khu 5, đến giao thực hiện cụ thể kế hoạch…


Và nói đến đường mòn Hồ Chí Minh trên Trường Sơn thì cũng phải nhớ tới đường mòn Hồ Chí Minh trên biển. Cùng thời gian làm đường 559, tôi cũng giao cho anh Võ Bẩm tổ chức vận tải đường biển cho đến khu 5 lấy tên là 759. Nhưng rồi bị thất bại. Cho đến năm 1960-1961, nhờ một số đồng chí và ghe thuyền do Trung ương Cục miền Nam phái ra xin vũ khí, tôi nghiên cứu phương án khả thi và cho tổ chức đường 759 trên biển trở lại. Chuyến đầu tiên đi bằng tàu gỗ, khởi hành năm 1962, chở 28 tấn vũ khí, cập bến Rạch Gốc thuộc Cà Mau thành công. Sau mới đóng tàu sắt chở 100 tấn. Tôi mời anh Nguyễn Văn Đảnh, Cục trưởng đường biển, trước làm việc ở Ba Son, tham gia vào việc đóng tàu. Tôi đã trực tiếp lo tổ chức vận chuyển người và vũ khí cả 2 đường 559 và 759 cho đến năm 1963 khi tôi trở về Nam mới giao lại cho Bộ tổng tham mưu phụ trách.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #66 vào lúc: 29 Tháng Sáu, 2008, 07:30:03 am »

-Thưa Thượng tướng, trong cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, khi chuẩn bị bước đầu, trong tâm tưởng Thượng tướng có khi nào nghĩ rằng sẽ gặp phải thất bại hoặc chỉ thắng lợi ở mức độ nào đó, chứ không thắng lợi hoàn toàn?

-Thực tế đối đầu với quân nguỵ tại chiến trường chủ yếu, chúng tôi đã hiểu rõ địch, rõ ta, hiểu rõ tương quan lực lượng và nhất là thời cơ giành thắng lợi hoàn toàn. Sau mùa mưa năm 1974, Trung ương Cục miền Nam đã có hội nghị nhận định tình hình và ra nghị quyết Trung ương Cục để thông qua kế hoạch mùa khô 1974-1975 của Bộ tư lệnh Miền, nhằm đánh lớn thắng lớn. Tháng 9-1974, Trung ương Cục đã nhận định tình hình sẽ diễn biến nhanh, ngụy quân nguỵ quyền đang suy yếu trông thấy. Nếu xảy ra đột biến về quân sự chính trị ở Sài Gòn, chiến trường B2 phải tự mình tiến hành tấn công trận cuối cùng vào sào huyệt địch, kết thúc chiến tranh, mà không để lỡ thời cơ.


Cũng từ tháng 9 năm 1974, Trung ương Cục đã dự kiến chủ lực Miền đánh giải phóng Sài Gòn và các tỉnh thuộc B2 phải xây dựng lực lượng ngay, mạnh gấp hai ba lần, để lúc ấy hiệp đồng tỉnh giải phóng tỉnh, huyện giải phóng huyện và xã giải phóng xã. Tình hình lúc ấy sẽ cho phép như vậy. Và thật ra, đây là kế hoạch chúng tôi ôm ấp từ lâu, bắt đầu từ khi chuẩn bị kế hoạch Tổng công kích và Tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân 1968.


-Thế lúc ấy, kế hoạch của cả miền Nam, ngoài B2 thì thế nào, thưa Thượng tướng?

-Trung ương Cục và Quân uỷ Miền đã gởi báo cáo ra Hà Nội và đề nghị Bộ chính trị triệu tập cuộc họp với đại diện tất cả các chiến trường, để bàn kế hoạch thống nhất toàn miền Nam. Tháng 11 năm 1974, tôi và anh Phạm Hùng ra Bắc họp. Hội nghị của Bộ chính trị mở rộng có lãnh đạo và chỉ huy các chiến trường tham dự vào tháng 12 năm 1974, đã hạ quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam trong 2 năm 1975-1976. Ta phải đánh mạnh vào năm 1975 mới kết thúc thắng lợi vào năm 1976. Thời cơ nằm vào năm 1975, chứ không phải năm 1976. Quyết tâm này được củng cố sau khi ta giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước Long, mà Bộ chính trị đánh giá trận Phước Long như một đòn “trinh sát chiến lược” để ta hiểu rõ Mỹ nguỵ và hiểu ta hơn. Cần phải nắm kịp thời cơ để hành động là mấu chốt của thành công. Đó là tư tưởng Hồ Chí Minh, là trí tuệ của lãnh đạo.


-Thượng tướng đánh giá thế nào về sự đầu hàng vô điều kiện của Tổng thống Việt Nam cộng hoà Dương Văn Minh?

-Có nhiều người nghĩ rằng Dương Văn Minh đầu hàng để tránh cho Sài Gòn đổ nát, điều đó hoàn toàn sai lầm. Thật ra lúc ấy Mỹ vận động Nguyễn Văn Thiệu từ chức là có ý muốn nhường ngay ghế tổng thống Sài Gòn cho Dương Văn Minh, để Minh điều đình với ta. Nhưng Thiệu không chịu, mà mượn cớ Hiến pháp nhường cho Phó tổng thống Trần Văn Hương lên thay. Trần Văn Hương lên cuối ngày 21 tháng 4 năm 1975 đến ngày 28 tháng 4 năm 1975 mới giao chức Tổng thống lại cho Dương Văn Minh. Đó là ý đồ của đại sứ Mỹ và đại sứ Pháp tại Sài Gòn, mong Dương Văn Minh có thể nói chuyện được với Việt Cộng nhằm tránh cái thua triệt để.
Về phía ta, ta hiểu rõ mưu đồ của địch dùng ngoại giao để chặn bớt thắng lợi của ta, không để ta thắng lợi triệt để. Vì vậy ta đánh mạnh đánh nhanh, thời gian là lực lượng, để địch không còn gì mà nói chuyện. Dương Văn Minh chỉ rủi ro hứng lấy sự đầu hàng vô điều kiện.


-Khi chỉ huy quân giải phóng tiến vào Sài Gòn, Thượng tướng có nghĩ rằng sẽ tránh cho Sài Gòn khỏi sự đổ nát?

-Kế hoạch tấn công chiếm Sài Gòn đã dự kiến chiếm Sài Gòn nguyên vẹn. Thần tốc tấn công mãnh liệt không để cho địch tổ chức kháng cự, bằng năm mũi dũng mãnh thọc vào trung tâm từ 5 hướng, chiếm cùng lúc năm mục tiêu trọng yếu. Đó là nghệ thuật quân sự cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ tối đa sinh mệnh của nhân dân, tiết kiệm tối đa máu của chiến sĩ ta và giảm tối đa sát hại binh lính địch.


-Thượng tướng có cảm tưởng gì khi vào tiếp quản thành phố?

-Trở lại Sài Gòn nơi tôi từ đó ra đi kháng chiến 30 năm về trước, rồi nhận nhiệm vụ Trưởng đoàn quân sự Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam trong Ban liên hợp quân sự bốn bên tại Tân Sơn Nhất vào năm 1973. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 là ngày hạnh phúc và đẹp nhất đời tôi. Giấc mơ đời tôi đã thành hiện thực. Nhiệm vụ đã hoàn thành. Và hơn bao giờ hết, lòng tôi chạnh nhớ đến hàng triệu đồng bào, đồng đội đã hy sinh để có được ngày vinh quang. Đó là hình ảnh Trần Đình Xu, người chỉ huy bình tĩnh kiên cường trong mọi tình huống, đã hy sinh anh dũng trong lúc anh đang là Tư lệnh khu Sài Gòn năm 1969. Đó là Sư đoàn trưởng Nguyễn Thế Truyện dũng cảm vô song, là Hai Nhỏ (Nguyễn Văn Nhỏ), Phó tư lệnh Quân khu 8, một con người coi thường gian khổ hiểm nguy. Đó còn là hình ảnh Sáu Tâm (Nguyễn Việt Châu), người em ruột thân thương đã hy sinh anh dũng ở ven Cần Thơ năm 1969 khi làm nhiệm vụ Bí thư thành uỷ lãnh đạo Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa năm Mậu Thân 1968 ở Tây Đô…
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #67 vào lúc: 29 Tháng Sáu, 2008, 07:31:33 am »

-Thưa Thượng tướng, cả đời gắn bó với chiến trường, vậy còn thời gian nào Thượng tướng dành cho gia đình?

-Khoảng thời gian trở thành tướng về hưu (cười). Gia đình thì có bà nhà lo…


-Thượng tướng gặp bà từ lúc nào?

-Vào năm 1949, khi tôi từ Việt Bắc trở về. Lúc đó vừa xảy ra trận càn lớn của quân Pháp ở Đồng Tháp Mười. Cụ Lê Đình Chi, Trưởng ban quân pháp Nam Bộ bị hy sinh cùng một người con gái ruột của ông. Cụ là một trí thức yêu nước cùng thế hệ với Phạm Văn Bạch, Nguyễn Văn Hưởng, đã tham gia cướp chính quyền ở dinh Gia Long, Sài Gòn trong Tổng khởi nghĩa. Sau cụ làm Trung đoàn trưởng chiến đấu ở Tây Ninh. Rồi Trung tướng Nguyễn Bình mời cụ về phụ trách quân pháp Nam Bộ.


Trước tình cảnh mất mát của cụ và gia đình, tôi vô cùng xúc động. Tôi gặp gỡ và chia buồn với bà Lê Đình Chi (tức Lê Thị Tường Lân, nay là Bà mẹ Việt Nam anh hùng) và với người con gái đầu còn lại của cụ, cô Lê Thị Thoa. Không biết tự lúc nào, hai bên có cảm tình nhau. Phải chăng tình cảm riêng tư cũng bắt nguồn từ tình cảm chung yêu thương những người biết xả thân vì nước. Rồi cô ấy chuyển xuống rừng U Minh miền Tây học ngành y. Tôi lên nhận nhiệm vụ ở miền Đông. Lúc ấy tôi cũng chưa nghĩ tới việc lập gia đình.


Mãi cho đến năm 1954, anh em miền Tây mới đánh tiếng môi giới giữa chúng tôi. Thế rồi đám cưới được tổ chức ở Chiến khu Dương Minh Châu (Tây Ninh). Mấy tháng sau, cả gia đình tập kết ra Bắc. Cô ấy vừa nuôi dạy con vừa công tác và hết sức nhẫn nại, đã học lấy bằng phó tiến sĩ khoa học vào năm 1972. Trở về Nam, cô ấy làm Phó giám đốc Viện Pasteur tại Thành phố Hồ Chí Minh. Bây giờ thì cũng đã về hưu. Nhờ cô ấy lo cho từng miếng ăn, giấc ngủ, thuốc thang mà tôi mới vượt qua được bệnh tật, yên tâm hoàn thành tập hồi ký về cuộc chiến 30 chống Mỹ. Chúng tôi có 3 con, 2 gái, 1 trai và 4 cháu nội, ngoại đang sống hạnh phúc bên nhau.


-Xin cảm ơn Thượng tướng. Kính chúc Thượng tướng cùng bà luôn hạnh phúc và trường thọ.

-Cảm ơn anh. Qua Kiến thức ngày nay cho tôi gởi lời chào trân trọng đến tất cả đồng bào, đồng đội nhân ngày 30-4 lịch sử này.


Thượng tướng đứng lên tiễn tôi ra về. Thành phố tháng Tư thật sôi động. Khắp nơi nhộn nhịp kỷ niệm ngày lịch sử của hai mươi năm về trước. Vị tướng về hưu-một nhân vật trung tâm của sự kiện trên-đang cuốn hút theo dòng thời sự với những cuộc gặp gỡ, phỏng vấn, hội thảo,… Nghe ông nói, nhìn dáng đi với mái tóc bạc phơ cùng đôi mắt sáng quắc của ông, không hiểu sao tôi như thấy ẩn hiện đâu đầy hình ảnh vị Bình Tây đại nguyên soái Trương Định hùng dũng năm nào… Và, thật là một sự trùng hợp thú vị: cả hai danh tướng, Trương Định và Trần Văn Trà, đều cùng sinh ra ở Quảng Ngãi nhưng tên tuổi và sự nghiệp lại gắn liền với mảnh đất Nam Bộ, với chín khúc sông Rồng cuộn phù sa, dũng khí, hào hiệp.


Đáng tiếc thay, vừa tròn một năm sau cuộc phỏng vấn trên, Thượng tướng Trần Văn Trà đã đột ngột ra đi sau một cơn bạo bệnh vào ngày 20 tháng 4 năm 1996. Sứ mệnh hoành thành. “Thiên mã” thanh thản và đột ngột “thăng”, như bốn câu thơ mà vị danh tướng để lại:

Ra đi hai bàn tay trắng
Trở về một dải giang sơn
Trăng xưa, hạc cũ, dòng sông lặng
Mây nước yê bình, thiên mã thăng


Thượng tướng Trần Văn Trà đã ngã xuống trên chiến trường. Đây không phải là chiến trường lửa đạn. Đây là chiến trường của tinh thần trách nhiệm đối với Tổ quốc, nhân dân và đồng đội. Ông ngã xuống giữa lúc đang tìm kiếm “đối tác” ở Singapore mong xây dựng ở Việt Nam một bệnh viện hiện đại để chữa bệnh cho thương bệnh binh, những đồng đội đã từng sát cánh cùng ông trên chiến trường dầu sôi lửa bỏng và cho những người lớn tuổi.

Tướng Trà ra đi!

Người thân khóc ông. Đồng đội khóc ông. Nhân dân tiếc thương ông, lặng lẽ nghiêng mình tiễn đưa ông.
Có lẽ, thời gian gần đây, chưa có cuộc ra đi nào gây bàng hoàng và xúc động nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh lẫn nhiều nơi trong cả nước như cuộc ra đi của Thượng tướng Trần Văn Trà và Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ. Nếu như Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ là vị lãnh tụ đầy uy tín, là trung tâm đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân miền Nam trong cuộc đối đầu với Mỹ, thì Thượng tướng Trần Văn Trà là hình ảnh người chiến binh tiêu biểu trên chiến trường, là tấm gương, là niềm tin của hàng vạn người lính.


Trong vòng chưa đầy một năm, hai tên tuổi lớn của miền Nam, của Việt Nam, của thế giới đấu tranh vì độc lập, tự do, vì danh dự và quyền bình đẳng của con người đã bước vào cõi hư vô. Đi, nhưng hình ảnh đẹp của họ mãi còn lại trong ký sức dòng giống Lạc Hồng.


Tân Bình, tháng 4 năm 1995-tháng 4 năm 1997
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #68 vào lúc: 06 Tháng Bảy, 2008, 05:46:38 pm »

Trung tướng Lê Văn Tri

Cuộc chiến tranh giữ nước đã đi quan hai mươi năm. Những người lính sống sót sau cuộc chiến nay đã già. Ký ức về một thời hào hùng và bi thương của dân tộc luôn sống động trong trái tim họ. Một trong những người lính già chúng tôi tìm đến để hầu chuyện nhân kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 12 tháng 12 năm 1995 là vị tướng tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân năm xưa: Lê Văn Tri. Mồ côi cha từ lúc ba tuổi, Lê Văn Tri phấn đấu học tập, tham gia cách mạng trở thành vị tướng mà bước chân in dấu trên nhiều chiến trường. Là trung đoàn trưởng trung đoàn cao xạ đầu tiên, ông có công trong việc xây dựng binh chủng phòng không non trẻ. Lê Văn Tri còn là người thực thi kế hoạch đánh máy bay thần sấm F111 và pháo đài bay B52 của Mỹ trên bầu trời Hà Nội mà lịch sử gọi là trận “Điện Biên Phủ trên không”. Ông cũng là vị chỉ huy trực tiếp trận không kích sân bay Tân Sơn Nhất phát tín hiệu tổng công kích giải phóng miền Nam. Năm 1974, Lê Văn Tri được thằng từ Đại tá lên Thiếu tướng, đến năm 1982 là Trung tướng. Trước khi lui về an dưỡng tuổi già ở Hạnh Thông Taay, quận Gò Vấp, ông được Bộ Quốc phòng tín hiệm cử làm Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật. Có thể nói Lê Văn Tri là một chiến binh Việt Nam điển hình: đi từ người lính lên sĩ quan cấp tướng, từ tầm vông vạt nhọn đến máy bay, tên lửa…


Năm 1948, trước tình hình nguy cấp của chiến trường, để ngăn chặn bước tiến của quân Pháp từ Lào xuống Quảng Bình, chỉ huy trưởng mặt trận đường 12 là Lê Văn Tri đã chủ động ra lệnh cho bộ đội đánh phá tuyến đường này ở vùng biên giới Chalo. Đó cũng là trận đánh đầu tiên của Lê Văn Tri trên cương vị chỉ huy. Tuy nhiên, khi trận đánh vừa kết thúc thắng lợi thì có lệnh của Tư lệnh Lê Thiết Hùng bắt đưa Lê Văn Tri về Bộ Tư lệnh Quân khu 4. Lý do? Lê Văn Tri tự ý chỉ huy bộ đội đánh phá đường 12 mà không được phép của Bộ tư lệnh Quân khu 4. Như thế là vi phạm kỷ luật.


Lúc Lê Văn Tri trên đường về Bộ Tư lệnh Quân khu 4 thì Tư lệnh Lê Thiết Hùng nhận được điện khẩn của Bộ Tổng tư lệnh: Nhanh chóng đưa một tiểu đoàn công binh lên phá đường 12! Cầm bức điện trên tay, Tư lệnh Lê Thiết Hùng biết cấp dưới mình đã đúng khi chủ động đi trước một bước. Ông ra lệnh đưa Lê Văn Tri trở về đơn vị tiếp tục chỉ huy bộ đội chặn bước tiến của quân Pháp. Chính vì “sự kiện” này mà về sau Lê Thiết Hùng và Lê Văn Tri rất quí mến nhau, có lần hai vị tướng đã ôm nhau khóc khi nhắc lại những ngày đầu kháng chiến gian khổ ác liệt, thiếu thốn trăm bề.


Nhớ về trận đánh ở “cổng trời” biên giới Chalo gần nửa thế kỷ trước, Trung tướng Lê Văn Tri vuốt mấy sợi tóc lưa thưa trên trán hói, nụ cười lấp lánh sau cặp kính lão, xúc động đọc cho tôi nghe bốn câu thơ ông cảm tác ngay khi trận đánh trên kết thúc:

Chalo sương mù lạnh lẽo
Người lính biên thuỳ mưu mẹo đánh Tây
Cổng trời cao vút tầng mây
Tây ra Tây chết bỏ thây đầy đường


Những câu thơ hào sảng kết tinh từ sương gió máu lửa chiến trường. Nó không phải thứ thơ “sản xuất" từ sa lông cờ hoa ”hoan hô” chiến trận. “Thơ cháy trong tim đạn xoáy trên đầu”. Có lẽ trên thế giới ít có nơi đâu những người lính-thi sĩ như Việt Nam. Những người lính vô danh hay lừng danh như Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Văn Thái, Trần Văn Trà, Lê Trọng Tấn, Nguyễn Sơn, Hoàng Minh Thảo, Đinh Đức Thiện, Đặng Tính,… Tay súng tay bút, họ vừa đánh giặc vừa viết ăn làm thơ. Độc lập tự do của Tổ quốc là lẽ sống. Văn chương là một trong những thứ ”vũ khí” phục vụ cho lẽ sống đó!
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #69 vào lúc: 06 Tháng Bảy, 2008, 05:48:35 pm »

-Thưa Trung tướng, thời xông pha trận mạc đã kết thúc hơn 20 năm, đất nước đang thay đổi từng ngày, vậy trong ký ức Trung tướng, hình ảnh của một thời binh lửa có còn sống lại?

-Làm sao có thể quên được biết bao đồng chí đồng đội đã ngã xuống để có được ngày hôm nay! Tôi hay nằm mơ thấy họ, thấy cảnh đánh nhau, ngỡ như mới hôm qua đây thôi. Những chiến sĩ chân đất quả cảm với vũ khí thô sơ xông thẳng vào giặc Tây. Những pháo thủ, phi công anh hùng hạ pháo đài bay B52 của Mỹ ngay trên bầu trời thủ đô…


-Vốn là lính bộ binh, vì sao Trung tướng lại trở thành sĩ quan chỉ huy phòng không-không quân?

-Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, một nửa đất nước được giải phóng. Trung ương quyết định từng bước chính qui hoá, hiện đại hoá quân đội. Quân uỷ Trung ương đặc biệt quan tâm xây dựng các quân binh chủng mới như hải quân, phòng không, không quân, xe tăng, pháo binh, thông tin,… Riêng phòng không thì xây dựng lực lượng phòng không dã chiến, phòng khi bảo vệ các yếu điểm chiến lược quốc gia. Trung đoàn 367 đơn vị cao xạ đầu tiên của quân đội mà tôi làm trung đoàn trưởng được nâng thành Đại đoàn 367 trực thuộc Bộ Tư lệnh Binh chủng pháo binh, sau trực thuộc Bộ Quốc phòng. Đại đoàn 367 đo Hoàng Kiện làm đại đoàn trưởng, Đoàn Phùng làm chính uỷ, tôi làm đại đoàn phó.

Anh Hoàng Kiện cùng một số cán bộ đại đoàn đi học, tôi được lệnh chuyển binh chủng pháo 40, 88, và 90 thành lập các trung đoàn bảo vệ Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định và Vinh. Nhờ các đồng chí Đào Sơn Tây, Nguyễn Quang Tuyến, Dương Hán và Nguyễn Cận đi học các loại súng pháo trên trở về, nên việc chuyển binh chủng diễn ra nhanh chóng. Cuộc bắn đạn thật đầu tiên tổ chức ở Vai Cầy cũng đạt kết quả tốt, được Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Thiếu tướng Lê Thiết Hùng đến dự khen ngợi.

Đại đoàn trưởng Hoàng Kiện đi học trở về. Anh Đào Sơn Tây lên làm đại đoàn phó kiêm tham mưu trưởng. Tôi rời Đại đoàn 367 xuống Kiến An, Hải Phòng học văn hoá, học tiếng Trung Quốc cho tới đầu tháng 8 năm 1956 thì được lệnh về Hà Nội chuẩn bị sang Liên Xô học tập ở Học viện Pháo binh Leningrad. Nghĩa là kể từ lúc làm trung đoàn trưởng Trung đoàn 367 cao xạ, tôi đã thuộc về binh chủng phòng không.


-Thời gian Trung tướng học ở Liên Xô bao lâu?

-Gần bốn năm. Đoàn học viên khi ấy gồm năm mươi người sang học tại nhiều học viện quân sự khác nhau, do anh Đàm Quang Trung làm đoàn trưởng, anh Lê Tự Đồng phụ trách chính trị, tôi làm đoàn phó hậu cần. Trước khi đi, anh Nguyễn Chí Thanh đến thăm và nói chuyện. Ngày 20 tháng 8 năm 1956 đoàn rời Hà Nội, đi xe lửa qua Bắc Kinh, Mãn Châu Lý rồi sang Mạc Tư Khoa. Tại đây, đại diện các học viện nước bạn ra đón học viên Việt Nam, rồi ai về trường nấy. Tôi cùng một số anh em về Leningrad.

Chúng tôi học tập rất vất vả, nhất là phải nghe, đọc, viết và nói hoàn toàn bằng tiếng Nga. Mãi đến năm thứ hai mới có thể tiếp thu tương đối hoàn chỉnh. Tôi đặc biệt thích xạ kích, một môn học đòi hỏi phải giỏi xác suất. Nó giải quyết được vấn đề bắn trúng mục tiêu rất khoa học.


-Trung tướng nhận nhiệm vụ Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân vào thời điểm nào?

-Năm 1961. Sau khi học ở Liên Xô trở về, tôi làm tham mưu phó Bộ Tư lệnh Pháo binh. Sau đó, tôi chuyển về làm cục phó Cục Tác chiến, rồi được đề bạt phó tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân mà anh Phùng Thế Tài làm Tư lệnh, anh Đặng Tính làm Chính uỷ. Khi anh Phùng Thế Tài chuyển lên làm Phó tổng tham mưu trưởng, anh Đặng Tính kiêm luôn Tư lệnh. Sau đó, anh Đặng Tính vào làm Chính uỷ Bộ đội Trường Sơn 559, năm 1971 tôi thay anh Đặng Tính làm Tư lệnh còn Hoàng Phương làm Chính uỷ.


-Là Tư lệnh trực tiếp đánh trả cuộc không kích 12 ngày đêm của “thần sấm” B-52 Mỹ tháng 12-1972, xin Trung tướng cho biết vài nét về trận “Điện Biên Phủ trên không” này?

-Sau khi dùng đủ mọi phương tiện chiến tranh hiện đại nhất nhưng vẫn chuốc lấy thất bại, quân Mỹ đã đùng đến lực lượng máy bay chiến lược tinh nhuệ B-52 để ném bom rải thảm vùng giải phóng ở miền Nam, rồi tiến hành đánh phá miền Bắc, hòng ngăn chặn sự chi viện của hậu phương đối với chiến trường. Trận “Điện Biên Phủ trên không” là diễn biến tất yếu của tình hình đó. Thực sự lúc bấy giờ có nhiều ý kiến khác nhau về sức mạnh của lực lượng B-52 Mỹ. Có người cho rằng ta không đánh nổi. Bộ chính trị cũng đã họp đặt vấn đề vì sao ta không đánh máy bay B-52 và nếu đánh thì đánh bằng cách nào. Vì đây là lực lượng tinh nhuệ nhất của quân Mỹ bấy giờ, đã xâm nhập vùng trời Bắc Việt khiêu khích, đánh phá. Theo chỉ thị của cấp trên, Bộ tư lệnh Quân chủng Phòng không-không quân đã đề xuất kế hoạch kiên quyết đánh trả các cuộc tấn công bằng B-52. Kế hoạch này lần lượt được các anh Văn Tiến Dũng, Võ Nguyên Giáp và Bộ chính trị thông qua.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM