Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 07:34:10 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Phỏng vấn Tướng lĩnh Việt Nam  (Đọc 81765 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #50 vào lúc: 08 Tháng Sáu, 2008, 10:08:57 pm »

Thiếu tướng Trần Đại Nghĩa


Trần Đại Nghĩa, cái tên nhuốm màu huyền thoại từ lâu đã đi vào tâm khảm người Việt Nam với một niềm ngưỡng phục lớn lao. Cái tên ấy cũng từng làm kinh ngạc cả thế giới khi Tổ quốc còn chìm trong lửa đạn chiến tranh. Trần Đại Nghĩa là ai? Người anh hùng có biệt danh nổi tiếng ấy đang ngồi trên chiếc salon gỗ trước mặt chúng tôi, giữa phòng khách được bài trí đơn sơ trong một căn nhà không có vẻ gì là “dinh thự” của một vị giáo sư, viện sĩ, một tướng lĩnh khai quốc và nguyên là bộ trưởng cả. Con người ấy đang bước vào tuổi bát tuần. Trong giọng nói run run của tuổi già, vẫn toát ra một nghị lực phi thường, một sự hóm hỉnh thông minh, một tình yêu đời vô hạn của một trí tuệ lớn. Mỗi nét đăm chiêu, mỗi nụ cười rạng rỡ của ông khi nói chuyện với tôi và nghệ sĩ Phan Tấn Thi hãy quay sang người bạn đời mà ông hết mực quý trọng-bà Nguyễn Thị Khánh, đang ngồi đối diện, chúng tôi cảm thấy ông gần gũi, thân thiết và còn lớn lao hơn tất cả những gì mà người ta đã viết, nói và biết về ông…


-Thưa Viện sĩ, ra Hà Nội tìm Viện sĩ thì được biết gia đình đã chuyển vào Thành phố Hồ Chí Minh?

-Vâng, tôi vào trong này đã được 3 năm. Mắt đã mờ nên ít đi đâu. Năm ngoái-1993 tôi trở ra Hà Nội dự lễ mừng sinh nhật lần thứ 80 của mình, rồi vào lại. Ở đây không khí dễ chịu hơn. Thỉnh thoảng anh em, bạn bè đến chơi cũng vui.
(Viện sĩ giới thiệu: “Đây là bà nhà tôi, người góp sức rất quan trọng để Trần Đại Nghĩa hoàn thành nhiệm vụ đấy”, rồi ông nở nụ cười hồn nhiên. Căn phòng bỗng trở nên ấm cúng đến lạ thường).


-Thưa Viện sĩ, cuộc đời và sự nghiệp của Trần Đại Nghĩa là cả một “hành trình bí mật”, mà nhiều người ngưỡng mộ muốm tìm hiểu…

-Công việc của Trần Đại Nghĩa thì bí mật chứ đời thường chẳng có gì bí mật cả.


- Nếu không có gì bí mật, xin Viện sĩ thổ lộ đội nét về mình.

-Tôi sinh ngày 13 tháng 9 năm 1913, tuổi Sửu, trong một gia đình giáo viên nghèo, tại xã Xuân Hiệp, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Tên cha mẹ đặt là Phạm Quang Lễ. Mới bảy tuổi, tôi đã mồ côi cha. Nhà nghèo, chị gái tôi tám tuổi đã phải nghỉ học để cùng má tôi tảo tần mua bán nuôi tôi ăn học. Thời đó, học trò nghèo mà được gia đình tạo điều kiện đến trường như tôi hiếm lắm, vì thế, thế hệ tôi đa số bị thất học. Cuộc sống hết sức nghèo khổ, tù túng. Cảnh đói khát, chết chóc diễn ra triền miên rất đau lòng.


Tôi còn nhớ năm 1925, lúc tôi mới mười hai tuổi, đi học qua cầu Thiềng Đức, hai lần tôi chứng kiến cảnh người nhảy xuống sông tự tử. Tôi ngạc nhiên hỏi vì sao, thì mọi người xung quanh bảo rằng do cuộc sống cơ cực đói khổ quá. Chế độ thuộc địa hà khắc của thực dân Pháp, lại thêm cường hào địa phương áp bức bóc lột khiến họ không chịu đựng nổi. Hình ảnh hai cái chết thương tâm ray rứt mãi trong lòng tôi, gây cho tôi nhiều suy nghĩ. Tôi bắt đầu nuôi ý tưởng đánh đuổi người Pháp để cho dân mình bớt khổ. Mà muốn đuổi được người Pháp ra khỏi đất nước mình thì phải có vũ khí.


-Và Viện sĩ không theo học những ngành có thể thăng quan tiến chức, mà đã quyết tâm theo học ngành chế tạo vũ khí?

-Vâng. Hành trình học tập của tôi là cả một chặng đường cam go. Từ năm, 1926 đến 1930, tôi xa nhà lên Mỹ Tho học. Chung lớp tôi có anh Phạm Hùng sau này là Thủ tướng đấy. Qua những giờ lịch sử, tôi được biết thêm về cụ Phan Chu Trinh và những phong trào chống Pháp. Tôi học khá giỏi về khoa học tự nhiên như toán, lý, hoá, cơ học. Tôi càng hiểu thêm: muốn đánh giặc phải có chiến lược, chiến thuật và vũ khí. Tôi chú tâm theo học môn chế tạo vũ khí cho bằng được.


Từ năm 1930-1933 tôi lên Sài Gòn học ở trường Pétrus Ký. Tôi đỗ đầu tú tài bản xứ và tú tài Pháp cả hai môn triết và toán học, được học bổng đi Hà Nội nhưng tôi không đi, vì ở Việt Nam không có trường dạy về vũ khí và cũng không có tài liệu.

Tôi trở về Mỹ Tho làm thơ ký. Thời gian này tôi quen nhà báo yêu nước Vương Quan Ngươu, ông vận động và xin cho tôi học bổng 1 năm tại Pháp vào cuối tháng 9-1935. Học bổng này là của hội phụ huynh học sinh người Pháp và người Việt có quốc tịch Pháp mới được cấp. Học trình của một số trường Pháp thời đó là: sau khi đậu tú tài phải học thêm 2 năm mới có đủ trình độ thi vào hệ cao đẳng hay đại học. Học bổng cấp cho tôi chỉ có 1 năm, nên khi mới qua Pháp tôi liền nhảy vào học năm thứ 2, ở nhà trọ, tìm sách tự học năm thứ 1. Cuối năm 1936 tôi thi đậu vào trường Quốc gia cầu cống và được học bổng tiếp.


Tôi học công khai ở các trường: Quốc gia cầu cống, điện, hàng không, Đại học Sorbonne, nhưng cái chính là bí mật thu thập tài liệu để học về chế tạo vũ khí qua bảy trường, mà các trường này dù là người Việt có quốc tịch Pháp cũng không được đặt chân đến. Các đảng viên Cộng sản Pháp hết sức quí trọng và nhiệt tình giúp đỡ tôi nhiều tài liệu học tập.


-Hình như Viện sĩ có thời gian sang Đức làm việc?

-Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra. Đức ký kết liên minh phe Trục với Nhật. Đa số người châu Á được Đức xem là… “Nhật Bổn”, nên chúng tôi được thoải hơn người Pháp chính gốc. Một nhà máy chế tạo máy bay nằm ở miền Trung nước Đức là Halle nhận tôi vào làm. Kỹ thuật hàng không của Đức vốn tiến bộ nhất châu Âu lúc đó, nên đây là dịp để tôi tìm hiểu, học hỏi. Mấy tháng sau, thấy việc làm không thích hợp, tôi trở lại Paris làm cho công ty Sud-Avion. Chỉ một thời gian ngắn sau khi tôi rời Đức, máy bay quân Đồng minh đã oanh tạc tan tành nhà máy Halle. Thật may mắn cho tôi (Cười).


-Viện sĩ trở về Việt Nam trong hoàn cảnh nào?

-Tháng 5 năm 1946, Bác Hồ sang Pháp cùng với phái đoàn đàm phàn của ta do Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn. Lúc ấy, anh Hoàng Xuân Mạn (em của Hoàng Xuân Hãn) là Chủ tịch Hội Việt kiều ở Pháp. Biết trước Hội nghị Fontainebleau sẽ thất bại và phải đánh nhau với Pháp, nên anh Phạm Văn Đồng tìm người hiểu biết về vũ khí. Ở bên nước ta lúc bấy giờ có nhiều tướng giỏi nhưng am hiểu về vũ khí thì không có. Anh Hoàng Xuân Mạn mới giới thiệu tôi cho anh Phạm Văn Đồng. Sau đó, tôi được gặp Bác Hồ. Bác hỏi tôi về vũ khí và kinh nghiệm Chiến tranh thế giới thứ hai. Rồi bác bảo rằng, thế nào chúng ta cũng đánh nhau với Pháp và bảo tôi chuẩn bị sẵn sàng tư liệu về vũ khí để về nước.


Đúng như dự đoán, Hội nghị Fontainebleau thất bại. Nước Pháp không chịu công nhận chủ quyền và nền độc lập của nước Việt Nam. Bác Hồ và chúng tôi về nước. Lúc ấy, chính phủ Pháp sắp xếp đưa Bác về bằng đường hàng không, nhưng Bác từ chối. Bác đi theo đường biển.


-Ngoài Viện sĩ, còn có trí thức Việt kiều nào ở pháp theo Hồ Chí Minh về nước?

-Ngoài tôi, còn có bác sĩ Trần Hữu Tước, kỹ sư luyện kim Võ Quý Huân, kỹ sư mỏ và luyện kim Võ Đình Quỳnh theo về với Bác.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #51 vào lúc: 08 Tháng Sáu, 2008, 10:12:17 pm »

-Ngay sau khi đặt chân lên Tổ quốc, Viện sĩ lao vào công việc nghiên cứu và chế tạo vũ khí?

-Ngày 20 tháng 10 năm 1946, tôi đặt chân lên cảng Hải Phòng. Tôi còn nhớ đó là ngày kỷ niệm thành lập Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Nghỉ ngơi được mấy hôm là tôi nhận nhiệm vụ. Ngày 5 tháng 11 năm 1946, anh Tạ Quang Bửu đưa tôi lên Thái Nguyên để nghiên cứu đạn chống tăng. Lúc đó, anh Tạ Quang Bửu là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Về vũ khí, ngành quân giới của ta chưa biết gì nhiều. Lúc tôi mới về, anh Võ Nguyên Giáp có nói: “Nghe tin anh về, anh em bên này mừng lắm!”. Bấy giờ xe tăng là con chủ bài của quân Pháp. Làm sao để chống được xe tăng khi chúng tấn công?


Điều thuận lợi là tình báo Mỹ có giúp ta 3 khẩu súng và hơn 20 viên đạn Bazooka để chống Nhật mà Bộ Quốc phòng có giao cho bên quân giới trước đó. Dựa vào mẫu vũ khi của Mỹ, chúng tôi chế tạo Bazooka, với quyết tâm phải làm cho bằng được trong hoàn cảnh khó khăn lúc đó. Đạn nổ tốt nhưng không xuyên thép được. Vậy là phải tiếp tục nghiên cứu, sửa chữa và điều chỉnh thật gấp rút, vì thời điểm toàn quốc kháng chiến (19-12-1946) sắp nổ ra.


Trong khi đó, quân Pháp lớn tiếng tuyên bố sẽ tiêu diệt quân đội chính quy Việt Nam trong vòng 8 ngày. Điều này trưởng phái đoàn của Pháp tại Hội nghị Fontainebleau cũng đã tuyên bố với trưởng đoàn của ta là Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Con chủ bài chính về vũ khí của Pháp là máy bay và xe tăng, mà họ lại biết rất rõ là ta làm gì có súng chống tăng.


Và trận chiến đầu tiên đã nổ ra vào ngày 3 tháng 3 năm 1947 tại chùa Trầm ở Sơn Tây. Dẫn đầu đội hình quân Pháp gồm 4 xe tăng. Ta lại chỉ có đúng 5 viên đạn để bắn thử. Thế nhưng, viên đầu tiên bắn ra thì chiếc xe tăng dẫn đầu bốc cháy. Không thể kể hết niềm hân hoan vui sướng của quân ta lúc đó, nhất là anh em quân giới. Quân Pháp hoảng hồn bỏ chạy. Sau đóm, thêm một trận chiến nửa lửa có tính chất quyết định cuộc chiến mà quân Pháp có ý đồ nhằm chấm dứt chiến tranh vào tháng 9-1947. Nhưng quân Pháp cũng đã tiếp tục thất bại.
S

au súng Bazooka đến súng SKZ (súng không giật) ta cũng chế tạo trong điều kiện không đúng theo yêu cầu lý thuyết sách vở. SKZ mạnh hơn Bazooka, có khả năng chọc thủng dễ dàng các bức tường bê tông dày 600-1000mmm của lô cốt địch.


-Thưa Viện sĩ, được biết sau khi về nước Viện sĩ đã bị mất một tấn sách tài liệu về vũ khí…

-Đúng là tôi bị mất gần một tấn sách tài liệu về vũ khí, do thất lạc khi gởi cho một người bạn. May mắn là ngay khi về nước, tôi có phân phát cho anh em trong quân đội một số tài liệu cơ bản. Còn phần lớn công việc là phải làm lại từ đầu. Bằng trí nhớ của mình, tôi cố gắng moi tất cả kiến thức về vũ khí, từ trong đầu, nối kết và tính toán trở lại để làm tư liệu sản xuất vũ khí. Trong việc này, sự giúp đỡ về “hậu cần” của nhà tôi là rất lớn. Nhờ vậy mà tôi mới an tâm ngày này qua ngày khác lao vào nghiên cứu.

Nói đến đây, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa quay sang phía bà nhà, cười. Bà Nguyễn Thị Khánh hồn hậu vui vẻ cho biết:

-Ôi vất vả lắm các anh ạ! Có khi nửa đêm, ông chợt thức giấc, ngồi dậy, ghi chép công thức cho đến sáng. Ông nhớ đâu là liền ngồi ghi chép ở đó. Lúc nào cũng vũ khí với vũ khí… (cười). Chuyện quên ăn quên ngủ với ông là chuyện thường. Đến bữa ăn, có khi gọi hoài mà ông chẳng hề nhúc nhích động đậy.


-Thưa Viện sĩ, thế còn SAM-2 hạ pháo đài bay B-52 trong chống Mỹ thì sao?

-Đây cũng là thứ vũ khí cải tiến với mẫu mã có sẵn của Liên Xô cũ. B-52 lúc bấy giờ đúng là loại pháo đài bay bất khả xâm phạm, tầm bay rất cao, sức phá hoại do chúng oanh tạc ghê gớm. Chúng tôi có hai việc phải làm. Một là, B-52 gây nhiễu làm rối loạn sóng radar của SAM-2, khiến cho SAM nổ từ xa chứ không tiếp cận được B-52. Hai là, tầm bay B-52 cao hơn tầm bắn của SAM-2. Biết được hai yếu tố cơ bản trên, chúng tôi tập trung giải quyết.


-Phương thức giải quyết tiến hành ra sao?

-Đây là bí mật quốc phòng.


-Viện sĩ đánh giá thế nào về vai trò vũ khí trong chiến tranh?

-Ngoài yếu tố con người, vũ khí đóng vai trò quyết định. Vũ khí có khả năng gây yếu tố bất ngờ và thay đổi cục diện chiến tranh.


-Viện sĩ có thường theo dõi tình hình phát triển và sản xuất vũ khí trên thế giới nữa không?

-Có. Tiềm lực phát triển vũ khí hiện đại rất mạnh. Tôi vẫn còn một tủ sách tài liệu về vũ khí ở bên Pháp, bạn bè cất giữ. Nhưng so với hiện nay thì đã lạc hậu, nên không đưa về.


-Được biết, Viện sĩ còn là một trong những người được phong tướng đầu tiên…

-Vâng. Lúc đó anh Võ Nguyên Giáp được phong quân hàm Đại tướng; anh Nguyễn Bình là Trung tướng; còn tôi, anh Nguyễn Sơn, Văn Tiến Dũng, Song Hào, Hoàng Văn Thái, Chu Văn Tấn, Hoàng Sâm… là Thiếu tướng.


-Thế quân hàm hiện nay của Viện sĩ?

-Vẫn là Thiếu tướng (cười).


-Còn những nhiệm vụ chính mà Viện sĩ được giao phó?

-Khi còn bên Pháp, Bác Hồ đã nói trước nhiệm vụ của tôi là phục vụ cho kháng chiến. Ngày 5 tháng 12 năm 1946 tôi nhận nhiệm vụ Cục trưởng Cục quân giới, sau đó (năm 1949), kiêm Cục trưởng Cục pháo binh. Đến năm 1950 tôi nhận thêm chức vụ Thứ trưởng Bộ công thương và tiếp tục nghiên cứu khoa học. Ngày 8-2-1966, tôi được tặng danh hiệu Viện sĩ Viện hàm lâm khoa học Liên Xô.


-Ngoài ra, Viện sĩ cũng từng là Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban khoa học và kỹ thuật Nhà nước, là người đề xuất thành lập Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam… Một khối lượng công việc không ít, nếu không nói là quá tải.

-Có năng lực đến đâu tôi sẵn sàng cống hiến đến đó. Chỉ sợ mình bất tài, làm hư việc mà thôi.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #52 vào lúc: 08 Tháng Sáu, 2008, 10:15:06 pm »

-Thưa Viện sĩ, vì lý do nào anh Phạm Quang Lễ lại có bí danh Trần Đại Nghĩa.

-Trần Đại Nghĩa là tên do Bác Hồ đặt cho tôi tại Bắc Bộ phủ vào ngày 5 tháng 12 năm 1946. Lúc đó Bác giao cho tôi nhiệm vụ lãnh đạo Cục quân giới, hơn nữa tôi mới ở nước ngoài về, nên yếu tố bí mật phải được tôn trọng, nhất là tôi còn gia đình, người thân ở trong Nam sợ địch trả thù. Từ đó tôi mang cái tên này.


-Là người được tiếp xúc và làm việc nhiều với Hồ Chủ tịch, xin Viện sĩ cho biết vài ấn tượng của mình đối với Bác.

-Trước đây ở Pháp, tôi đã nghe kể rất nhiều về Bác, nhưng đến hội nghị Fontainebleau tôi mới được gặp mặt. Không có vị lãnh tụ nào của Việt Nam đi và sống nhiều như Bác. Hơn 30 năm trời Bác bôn ba học hỏi và nghiên cứu không ngừng ở hầu khắp thế giới, trong mọi hoàn cảnh gian khổ.


Tôi được may mắn kề cận Bác suốt 102 ngày: 62 ngày tại Paris và 40 ngày lênh đênh trên tàu từ cảnh Toulouse về Hải Phòng. Và cả sau này, trong hai cuộc trường kỳ kháng chiến, Bác luôn là hình ảnh thiêng liêng nhưng rất gần gũi với tôi. Bất kỳ lúc nào tôi có ý muốn gặp Bác, thì điện thoại cho anh Vũ Kỳ (thư ký riêng của Bác), nếu không bận, Bác sẵn sàng tiếp. Và mỗi lần điện thoại cho Bác là tôi đều chuẩn bị xe trước. Hễ Bác đồng ý, tôi đến ngay.


Mãi cho đến bây giờ, Bác vẫn vô cùng gần gũi và như vẫn còn sống trong tôi như ngày nào. Trong tâm khảm tôi, một bên là ba má tôi và chị tôi, còn một bên là Bác!


-Nếu như có một sự định vị, thưa Viện sĩ, Trần Đại Nghĩa là một nhà yêu nước hay một chiến sĩ cộng sản?

-Làm thế nào tách tời được hai con người này. Với Trần Đại Nghĩa yêu nước và cộng sản là một.


-Thưa Viện sĩ, có một thời ta chỉ nói đến cái chung mà ít nói đến cái riêng, hay nói rõ hơn là quên đi sự đóng góp của cá nhân đối với tiến trình lịch sử dân tộc. Là chứng nhân sống của hai cuộc kháng chiến, Viện sĩ có suy nghĩ gì về điều này?

-Tất nhiên, tập thể quyết định sự thành bại của lịch sử. Nhưng cá nhân đóng vai trò hết sức quan trọng. Trận Điện Biên Phủ chẳng hạn, nếu như không có vài trò của anh Võ Nguyên Giáp thì tôi tin cục diện sẽ khác đi và chiến thắng không lừng lẫy như thế.


-Là một nhà bác học uyên thâm, Viện sĩ có thể cho thế hệ trẻ ngày nay biết vài kinh nghiệm về phương pháp học tập và nghiên cứu của mình?

-Tại các trường học dân dụng mà tôi học thì có thầy dạy, tốt nghiệp thì có bằng cấp. Nhưng về quân sự, mà nhất là ngành chế tạo vũ khí, thì làm sao học công khai được, nên phải tìm cách khác. Tôi làm quen, rồi dần thân thiết với các quản thủ thư viện, mượn sách “mật” về quân sự của thế giới để tự học. Tôi chỉ mượn loại sách này đúng vào khoảng thời gian: từ 5 giờ chiều thứ bảy đến 7 giờ sáng thứ hai phải trả, nếu không, bị lộ, cả quản thủ và tôi có thể bị tù. Sách thì thường dày hàng ngàn trang, nên làm sao có thể ghi chép cho kịp, chỉ vận dụng bằng trí nhớ. Và tôi phải thức suốt cả ngày lẫn đêm để học, đến sáng thứ hai trả sách xong thì về nhà lăn ra ngủ bù.


-Viện sĩ có thể sử dụng được bao nhiêu ngoại ngữ?

-Thông thạo thì có Pháp, Đức, Anh, Nga, còn nghe hiểu và đọc được thì có tiếng Trung Quốc và một vài thứ tiếng khác.


-Để có một vốn liếng ngoại ngữ hiếm có như vậy, Viện sĩ học bằng cách nào?

-Có nhiều cách. Thí dụ, khi tôi muốn nghiên cứu sách quân sự Đức, tôi hỏi một anh bạn Đức: “Biết được bao nhiêu chữ thì có thể đọc sách quân sự bằng tiếng Đức?”. Anh bạn trả lời: “Khoảng 4.000 chữ”. Tôi về mua một quyển tự vị Đức-Pháp khoảng 1 vạn chữ và học thuộc lòng. Tôi còn nhớ khoảng 40% tức khoảng 4.000 chữ và như thế là đọc sách quân sự tiếng Đức được. Cách học song ngữ ấy tôi cũng thường áp dụng để đọc sách triết học và quân sự của thế giới.


-Ở tuổi bát tuần, nhìn lại cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Viện sĩ có cảm tưởng như thế nào?

-Bác Hồ đã nói với tôi từ lúc còn ở Pháp: “Chú về, chú sẽ làm được việc nhưng không sung sướng đâu”. Đúng như vậy. Các bạn tôi còn ở lại Pháp, cho đến giờ, họ sướng hơn tôi nhiều về vật chất và không phải lo nghĩ gì cả. Nhưng rõ ràng về mặt phụng sự cho Tổ quốc thì họ cũng chẳng có gì cả.


Ngày 30 tháng 4 năm 1975, đất nước hoàn toàn thống nhất, tôi ghi trong sổ tay của mình là đã hoàn thành nhiệm vụ và, đó là việc lớn nhất của đời tôi mà tôi đã làm xong. Tôi cũng nói với các anh em mỗi lần gặp gỡ như thế. Và công việc tiếp theo xin chuyển giao cho thế hệ trẻ. Anh Hoàng Xuân Hãn ở Paris có gửi thư về nói rằng: “Tôi chúc anh sống lâu đẻ xem bọn trẻ làm ăn thế nào”.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #53 vào lúc: 08 Tháng Sáu, 2008, 10:18:11 pm »

-Nếu có một lời khuyên suy nhất đối với thế hệ trẻ thì Viện sĩ muốn khuyên điều gì?

-Cố gắng giữ gìn và phát triển đất nước. Đó là mong mỏi của đời tôi và cho cả các thế hệ sau này. Không có đất nước nào trên thế giới này phải chống trả 14 cuộc xâm lăng như đất nước mình. Nhiều lúc tôi nghĩ, giá như Việt Nam là một đảo quốc tách khỏi đát liền, xung quanh biên giới là biển thì hay hơn.


-Còn với tư cách là một nhà khoa học, Viện sĩ có suy nghĩ gì về nền khoa học Việt Nam hiện nay?

-Tôi rất hiểu và thông cảm cho nỗi khó khăn của anh chị em làm công tác khoa học. Bởi tôi cũng từng là hiệu trưởng đầu tiên của Trường đại học Bách khoa Hà Nội. Chúng ta cần nhiều kinh phí hơn để tổ chức nghiên cứu khoa học cơ bản, vì lý thuyết có vững thì thực hành mới tiến xa được. Và cần thiết phải mua phát minh, sáng chế của nước ngoài, mới theo kịp tiến độ phát triển của khoa học thế giới. Thí dụ, Nhật là một nước bại trận trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nhưng thắng lợi trong xây dựng kinh tế nhanh chóng, bởi họ biết tranh thủ “chất xám” tiên tiến của các nước. Nhiều nước khác cũng tương tự như thế.


Sẵn đây nói vui, cũng vì vấn đề kinh phí cho khoa học, mà tôi với một đồng chí lãnh đạo cao cấp hiểu lầm nhau, khi tôi đòi tăng kinh phí cho công việc nghiên cứu khoa học, sau ngày miền Nam giải phóng. Nhưng cuối cùng đồng chí ấy cũng hiểu ra và cho rằng tôi đúng.
Cho đến nay, kinh phí cho khoa học của ta so với thế giới vẫn còn thấp. Chẳng hạn số liệu năm 1990, Mỹ 205 tỉ đôla, Pháp 10 tỉ, Trung Quốc 4 tỉ, còn ta chỉ vẻn vẹn có 12 triệu đôla cho lĩnh vực khoa học. Tôi mong các nhà làm ngân sách phải chú ý đến điều này. Một đất nước không thể có tương lai xán lạn nếu không có sự đầu tư đúng mức cho giáo dục khoa học.


-Thưa Viện sĩ, cả cuộc đời hiến dâng cho Tổ quốc, giờ đã vượt quá tuổi “cổ lai hi”, cuộc sống hưu trí của Viện sĩ có thoải mái không?

-Viện sĩ hàn lâm thì không được về hưu. Còn cuộc sống tất nhiên là chật vật, không thể nào sung sướng hơn kẻ tham nhũng (cười).


-Viện sĩ ăn uống và sinh hoạt thế nào?

-Buổi sáng thức dậy, tôi đi bộ quanh nhà và tập thể dục nhẹ, tay không. Sức khỏe tôi bình thường, chỉ cặp mắt thì hơi yếu. Vì lúc bên Pháp tôi làm việc rất nhiều, về nước kháng chiến gian khổ, thiếu thôn thuốc men nên mắt yếu dần. Tôi ăn uống rất dễ, món nào cũng được. Tôi ăn ít vì y học có khuyên người già ăn ít sống lâu. Bà bác sĩ nhà tôi là một đầu bếp giỏi (ông quay sang phía bà, cùng cười).


-Thế mỗi lần Viện sĩ cần đi đâu…

-À, có xe của viện khoa học đến đón. Tôi nhờ anh em giới khoa học nhiều lắm. Họ cũng không sung sướng gì, nhưng biết tôi khó khăn, nên họ sẵn sàng giúp.

Như chợt nhớ điều gì, bà đứng dậy đi ra phía cửa. Tôi hỏi nhỏ Viện sĩ: Thưa Viện sĩ, bà có phải là mối tình đầu của Viện sĩ không?

-(Ông mỉm cười, tay run run cầm chén nước trà) Lúc ở Pháp tôi chủ trương không lấy vợ. Vì tôi sẽ về nước kháng chiến bất kỳ lúc nào khi cần. Lúc đó, có một cô bạn gái người Pháp rất mến tôi và thường đến gặp để trò chuyện, tỏ vẻ chăm sóc tôi. Tôi cũng rất quí cô ấy. Nhưng rồi tôi khuyên cô ấy nên tìm người bạn trai khác, vì theo tôi cô ấy sẽ khổ… Có lẽ sau nhiều lần như vậy, cô hiểu, cô nghe lời tôi… Vậy là thôi.


-Thế còn Viện sĩ với bà nhà gặp nhau trong hoàn cảnh nào?

-Nhà tôi bấy giờ là y tá riêng của Cục quân giới. Chúng tôi làm đám cưới lúc bà ấy mới hai mươi, còn tôi đã ba tư tuổi. Đám cưới tổ chức đơn sơ ở Bắc Cạn-thủ đô kháng chiến chín năm chống Pháp. Hiện nay bà ấy là bác sĩ về hưu. Chúng tôi có bốn con trai. Con trai trưởng là Trung tá đang phục vụ trong quân đội.


-Là người từng sống nhiều năm ở phương Tây, Viện sĩ có ý kiến gì về khái niệm “gia đình”…

-Cái này tôi thấy Khổng Tử đúng. Tôi không bị Tây hóa, bởi Tây phương ly dị quá nhiều (cười).


Thành phố tháng Năm không khí oi nồng. Trong câu chuyện vui, chúng tôi còn được biết thêm cách đây vài năm, được sự giới thiệu của Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô, Viện Hàn lâm Khoa học Thế giới thứ ba có mời hai nhà khoa học Việt Nam là Trần Đại Nghĩa và Nguyễn Văn Hiệu làm viện sĩ. Nhưng nghĩ tuổi già sức yếu, muốn nhường các nhà khoa học trẻ hơn, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa đã không làm hồ sơ.


Sau khi chúc sức khoẻ ông bà, tôi và anh Phan Tấn Thi xin phép ra về. Viện sĩ Trần Đại Nghĩa run run gượng đứng dậy tiễn. Hơi thở của viện sĩ dồn dập, hơi thở của con người ở tuổi bát tuần. Chúng tôi cảm kích nhìn ông, rồi nhìn nhau, không nói nên lời. Theo chân bà xuống cầu thang, ra cửa, chúng tôi cùng quay lại nhìn căn nhà một lần nữa. Vâng, căn nhà đơn sơ ấm áp ở đất Phú Nhuận này, không chỉ hôm nay mà mãi mãi sẽ là một kỷ vật đẹp: lưu dấu những tháng năm cuối cùng của cuộc đời vợ chồng vị anh hùng huyền thoại Trần Đại Nghĩa!
Hơn ba năm sau cuộc trò chuyện này, vào lúc 16 giờ 20 phút ngày 9 tháng 8 năm 1997, Thiếu tươíng-Giáo sư-Viện sĩ Trần Đại Nghĩa đã từ trần tại Thành phố Hồ Chí Minh, thọ 85 tuổi. Trong nỗi xúc động lớn của nhân dân cả nước, Tổng bí thư Đỗ Mười đến viếng và ghi vào sổ tang: “Vô cùng thương tiếc Giáo sư-Viện sĩ Trần Đại Nghĩa, một trí thức cách mạng giàu lòng yêu nước; một nhân cách lớn, một tấm gương sáng tận tuỵ phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân; người học trò tin yêu của Chủ tịch Hồ Chí Minh; một trong những Anh hùng Lao động đầu tiên của nước ta.

Cả cuộc đời đồng chí luôn gắn bó với cách mạng, với nhân dân. Đồng chí đã có nhiều công lao trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Là một nhà khoa học lớn, đồng chí đã góp phần xứng đáng trong xây dựng và phát triển nền khoa học và kỹ thuật nước nhà.

Tổ quốc, nhân dân mãi mãi ghi nhớ công lao và sự nghiệp của đồng chí".


Tân Bình, tháng năm 1994-tháng 11 năm 1999
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #54 vào lúc: 15 Tháng Sáu, 2008, 07:51:15 am »

Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên

Trong lễ tưởng niệm mười năm ngày mất của Thượng tướng Đinh Đức Thiện tại Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 10 tháng 1 năm 1997, Đại tướng Võ Nguyên Giáp xúc động nói: “Đồng chí Đinh Đức Thiện và đồng chí Đồng Sĩ Nguyên có công lớn trong việc xây dựng tuyến đường Trường Sơn 559, xây dựng hệ thống giao thông vận tải lớn từ hậu phương miền Bắc đến các chiến trường, trong đó có tuyến đường ống dẫn xăng dầu, nhằm bảo đảm chi viện cho miền Nam, tạo cơ sở hạ tầng cho cơ động lực lượng và vận chuyển lớn, phục vụ đắc lực cho thời cơ chiến lược, nhất là cho Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975”. Và ở những năm cuối thế kỷ XX này, khi tướng Đinh Đức Thiện đã mãi mãi ra đi thì thật may mắn, người đồng đội chí thiết-tướng Đồng Sĩ Nguyên, vị tư lệnh lừng danh Trường Sơn năm xưa, vẫn còn đồng hành với thế hệ hôm nay, với Quốc lộ Hồ Chí Minh, trở thành trục đường bộ xuyên Việt thứ hai trong tương lai của đất nước…

-Thành phố Hồ Chí Minh với tôi có nhiều kỷ niệm lắm! Mỗi lần đặt chân đến thành phố này là tôi nhớ tới anh Đinh Đức Thiện, một nhà chiến lược tài ba, cấp trên trực tiếp của tôi trong chiến tranh. Sau ngày giải phóng Sài Gòn 30 tháng 4 năm 1975 một tuần, vào ngày 8 tháng 5 năm 1975, anh Thiện triệu tập tôi đến bàn ngay kế hoạch xây dựng kinh tế Tây Nguyên để đệ trình lên Chính phủ, mà lực lượng nòng cốt là bộ đội Trường Sơn.


Kế đó, anh Thiện chỉ đạo lên phương án tiềm kiếm dầu khí ở đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Đó cũng chính là nền tảng đầu tiên để liên danh với Liên Xô xây dựng ngành dầu khí Việt Nam. Nghĩa là, giống như sau chiến thắng Điện Biên Phủ được Đảng và Nhà nước tin cậy giao xây dựng Khu Công nghiệp gang thép Thái Nguyên có qui mô lớn nhất nước bấy giờ, anh Đinh Đức Thiện đã lao ngay vào những công việc tầm cỡ quốc gia ngay sau khi giải phóng Sài Gòn, thống nhất đất nước!


Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên đã mở đầu câu chuyện một cách nồng nhiệt, thân tình khi tôi cùng đồng nghiệp Hoàng Ngọc Châu tìm đến nhà riêng của ông ở phố Nguyễn Bỉnh Khiêm vào một chiều thu Hà Nội.
Thân hình vạm vỡ. Cử chỉ hoạt bát. Phong cách giản dị, thâm trầm. Thời gian như có vẻ chùn bước trước sức khỏe lẫn dáng dấp oai phong của một người lính dạn dày trận mạc, một nhà lãnh đạo giàu bản lĩnh kinh nghiệm nay đang ở giữa tuổi thất tuần.


Quê xã Quảng Trung, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình, Đồng Sĩ Nguyên cất tiếng khóc chào đời ngày 1 tháng 3 năm 1923. Sáu tuổi bắt đầu đến trường. Bảy tuổi học chữ Hán. Rồi học chữ quốc ngũ hết bậc tiểu học ở trường huyện, lên tỉnh học trung học tư thục. Cũng từ đó ông bắt đầu tham gia cách mạng. Đang học năm thứ ba Thành chung Trường Saint Marie ở thị xã Đồng Hới, Đồng Sĩ Nguyên được Xứ ủy Trung Kỳ cho thoát ly sang Thái Lan tránh khủng bố khi bị truy nã gắt gao và tiếp tục hoạt động trong phong trào Việt kiều yêu nước Thái-Lào. Cuối năm 1944 phát xít Nhật tấn công quân Pháp ở Đông Dương. Ông bí mật trở về quê hương, củng cố Phủ ủy ở Quảng Trạch, làm chủ nhiệm báo Hồng Lạc, trực tiếp đàm phán với chỉ huy tàn quân Pháp để phối hợp đánh Nhật, rồi phụ trách chiến khu Trung Thuần, huấn luyện tự vệ cứu quốc địa phương chuẩn bị tổng khởi nghĩa.


Cách mạng tháng Tám thành công, Đồng Sĩ Nguyên làm chủ nhiệm Việt Minh tỉnh, chỉ huy bộ đội địa phương. Ông được bầu làm đại biểu Quốc hội khóa I. Chính thời điểm này trong một lần tiếp xúc với cử tri, “ông Nghị” trẻ Đồng Sĩ Nguyên gặp Nguyễn Thị Ngọc Lan, một cô gái duyên dáng xinh đẹp, con của một nhân sĩ yêu nước, về sau trở thành bạn đời chung thủy của ông. Bà Ngọc Lan năm lần “vượt cạn” hạ sinh sáu người con, bốn trai hai gái. Các con ông cũng lần lượt tiếp bước cha ra trận. Trong đó, có một người con trai khi tham gia giải phóng Sài Gòn năm 1975, ra chiến đấu ở biên giới phía Bắc đã vĩnh viễn ngã xuống năm 1979.


Năm 1948-1949, Đồng Sĩ Nguyên được phân công làm chính trị viên kiêm tỉnh đội trưởng Quảng Bình. Cuộc đời chàng học sinh nghèo yêu nước Quảng Trạch năm xưa đã thực sự gắn liền với con đường binh nghiệp, với những bước thăng trầm của hai cuộc chiến tranh vệ quốc. Trải bao cuộc trường chinh vào sinh ra tử, từ người chiến sĩ vệ quốc Đồng Sĩ Nguyên đã trở thành danh tướng của Quân đội nhân dân Việt Nam, đứng đầu Bộ tư lệnh Binh đoàn Trường Sơn 559, trực tiếp chỉ huy tuyến đường Hồ Chí Minh huyền thoại mà giới truyền thông phương Tây gọi là “trận đồ bát quái xuyên rừng rậm” trong chống Mỹ. Cùng với các bậc tiền bối Trần Đăng Ninh, Đinh Đức Thiện, Phan Trọng Tuệ… Đồng Sĩ Nguyên được xem là tướng chỉ huy hậu cần chiến lược tài ba hàng đầu, lập nhiều công trạng.


Đất nước im tiếng súng. Hai mươi tám vạn quân từ chiến trường lửa đạn tiến hẳn sang chiến trường kinh tế góp phần khắc phục hậu quả chiến tranh. Tướng Đồng Sĩ Nguyên cũng chuyển sang mặt trận mới, giữ chức thứ trưởng Bộ Quốc phòng phụ trách Tổng cục Xây dựng kinh tế, rồi Bộ trưởng Bộ Xây dựng, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải. Chiến tranh biên giới phía Bắc xảy ra năm 1979, ông được điều khẩn cấp trở lại quân đội làm tư lệnh kiêm chính uỷ Quân khu Thủ đô.


Đồng Sĩ Nguyên được bầu làm ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IV, ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị khóa V, ủy viên Bộ Chính trị khóa VI và là phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải. Trên cương vị này, Đồng Sĩ Nguyên trực tiếp chỉ đạo xây dựng các công trình: nhiệt điện Phả Lại, thủy điện Hòa Bình, thủy điện Trị An, cầu Thăng Long, cầu Chương Dương, cầu Bến Thủy, các nhà máy xi măng Bỉm Sơn, giấy Bãi Bằng, Kiên Lương, kính Đáp Cầu, dầu khí Vũng Tàu, Viện bảo tàng Hồ Chí Minh, mở rộng năm cửa ô Thủ đô Hà Nội… Cho đến khi thôi giữ chức Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, ông vẫn được tin cẩn giao làm đặc phái viên Chính phủ phụ trách Chương trình 327 về bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ, rừng đặc dụng; giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ dạo Ban Chỉ đạo Nhà nước về Quốc lộ Hồ Chí Minh.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #55 vào lúc: 15 Tháng Sáu, 2008, 07:52:52 am »

Vì sao từ chỉ huy quân sự Đồng Sĩ Nguyên lại chuyển sang phụ trách công tác hậu cần? Ân cần rót nước suối mời chúng tôi, vị tướng cho biết:

-Trong những ngày diễn ra Chiến dịch Điện Biên Phủ, tôi đang là phái viên của Tổng cục Chính trị được Bộ Tổng tư lệnh cử tham gia Bộ tư lệnh cánh phối hợp Trung-Hạ Lào. Sau Hiệp định Genève, tôi về Bộ Tổng tham mưu phụ trách Cục Động viên dân quân. Năm 1964, sau ba năm học tập tốt nghiệp Học viện Cao cấp Quân sự Bắc Kinh, về nước tôi được đề bạt làm Tổng tham mưu phó Bộ Tổng tham mưu. Năm 1965, tôi được điều vào làm chính uỷ, bí thư Quân khu 4 và tư lệnh kiêm chính uỷ Bộ đội tình nguyện Trung-Hà Lào. Trong một trận chiến đấu tôi bị thương.


Về Hà Nội điều trị lành bệnh, tôi được điều sang làm phó chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần kiêm chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần tiền phương năm 1966. Sở chỉ huy Tổng cục Hậu cần tiền phương đóng tại xã Hương Đô, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh vốn ngày xưa là căn cứ địa của cụ Phan Đình Phùng. Một nhiệm vụ rất mới mẻ. Tôi trực tiếp lo tổ chức thực hiện việc chi viện cho các chiến trường ta và hai nước bạn Lào, Campuchia ở phạm vi Nam Đông Dương.


-Việc phụ trách hậu cần tiền phương phải chăng là bước chuẩn bị cho nhiệm vụ chỉ huy tuyến đường Hồ Chí Minh mà Trung tướng được đề bạt sau đó, thưa Trung tướng?

-Trách nhiệm ấy do Quân uỷ Trung ương quyết định. Là người lính, tôi luôn cố gắng hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao phó. Một năm chỉ huy vận tải ở tuyến lửa Nam Khu 4 đối với tôi là một năm thực tập bổ ích, tích lũy được nhiều kinh nghiệm quí báu. Từ tháng 8 đến tháng 12 năm 1966, Tổng cục Hậu cần tiền phương với lực lượng 750 xe vận tải, 5 tiểu đoàn của bốn binh trạm, đã lập được chân hàng ở các cửa khẩu tuyến đường 559 đạt tới 75% kế hoạch cả năm, trong bối cảnh máy bay Mỹ đánh phá ngăn chặn ác liệt.


-Hình như trong chiến tranh chống Mỹ, Trung tướng là một trong hai sĩ quan cao cấp vinh dự được thăng quân hàm vượt cấp từ Đại tá lên thẳng Trung tướng?

-Vâng, tôi với anh Lê Đức Anh, được thăng vượt cấp vào năm 1974. Tôi được phong Đại tá từ năm 1958 khi làm Cục trưởng Cục Động viên dân quân.


-Thưa Trung tướng, phẩm chất cần nhất của người làm tướng khi ra trận là gì?

-Bình tĩnh. Không nóng nảy, không chủ quan, đánh giá đúng địch đúng ta. Tập trung cao độ tư duy, hạ lệnh đúng lúc, dứt khoát, sát đúng.


-Trong đời thường, điều gì dễ gây Trung tướng dị ứng?

-Quan cách. Nịnh hót. Luồn lách. Nói xấu, bôi nhọ người khác. Nạn quan liêu giấy tờ. Bệnh phô trương hình thức.


-Khi còn trên chiến trường, ai là đồng đội thân thiết của Trung tướng?

-Trong kháng Pháp, khi ở chiến trường Bình Trị Thiên cũng như lúc về Tổng cục Chính trị, tôi được sự dìu dắt của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh. Chính anh cũng đã góp phần tạo nên nhân cách của tôi về sau.
Ngay trên chiến trường quê nhà trong buổi đầu kháng chiến, những người bạn thân thiết nhất của tôi là các anh Lê Văn Tri, Đoàn Khuê, Nguyễn Hòa, Trần Sự, Phan Khắc Hy,… Khi về Bộ Tổng tư lệnh thì có các anh Nguyễn Trọng Vĩnh, Lê Quang Đạo, Phạm Ngọc Mậu, Hoàng Văn Thái, Đinh Đức Thiện, Trần Sâm,… Trong suốt hai cuộc kháng chiến, ngoài anh em thân thiết trong Bộ tư lệnh 559 Trường Sơn, trên các chiến trường tôi còn quen thân nhiều bạn bè, trong đó có các anh Chu Huy Mân, Trần Văn Trà, Vương Thừa Vũ, Lê Trọng Tấn, Hoàng Minh Thảo, Trần Quý Hai, Nam Long, Nguyễn Quyết, Hoàng Cầm, Đặng Kính, Vũ Lăng…


-Thành phồ Bộ tư lệnh khi Trung tướng phụ trách gồm những ai?

-Ngoài tôi, Bộ tư lệnh 559 còn có các phó tư lệnh qua các thời kỳ: Hoàng Kiện, Nguyễn An, Lê Đình Sum, Nguyễn Quang Bích, Phan Khắc Hy, Nguyễn Lang, Nguyễn Hòa. Chính uỷ và các phó chính uỷ: Vũ Xuân Chiêm, Đặng Tính, Lê Xy, Hoàng Thế Thiện, Lễ Nghĩa Sĩ, Bùi Đức Tạm, Trần Quyết Thắng, Nguyễn Lệnh.


-Trung tướng nhớ thời điểm Chính uỷ Đặng Tính hy sinh?

-Nhớ chứ. Năm 1972, anh Đặng Tính vào làm chính uỷ 559. Trên đường đi kiểm tra tuyến đường Trường Sơn anh bị trúng bom hy sinh vào ngày 3 tháng 4 năm 1973 ở Pắc Xoòng.


-Đối với hai vị chỉ huy cao cấp nhất của quân đội là Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Đại tướng Văn Tiến Dũng, Trung tướng có được nhiều thời gian gần ũi?

-Trong lòng tôi, Đại tướng Võ Nguyên Giáp như người anh thân thiết. Tôi được làm việc với Đại tướng rất nhiều lần. Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp là danh tướng, một nhà chiến lược về quân sự, chính trị của Đảng và dân tộc trong thời đại Hồ Chí Minh.


Còn đối với Đại tướng Văn Tiến Dũng, tôi cũng được làm việc nhiều lần, kể từ lúc tôi còn là Phó Tổng tham mưu trưởng cũng như khi phụ trách đường Hồ Chí Minh. Đại tướng là một vị tướng quân sự, chính trị song toàn, dày dặn, thao lược trong việc dùng binh.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #56 vào lúc: 15 Tháng Sáu, 2008, 07:55:20 am »

-Đối với các tướng lĩnh là thế, còn với Chủ tịch Hồ Chí Minh, trung tướng còn nhớ lần đầu được trực tiếp gặp lãnh tụ? Ấn tượng sâu sắc nào của Người đọng lại trong tâm khảm Trung tướng?

-Với tư cách đại biểu Quốc hội khóa I, tôi được cử vào ban sửa đổi hiến pháp năm 1959. Tôi vinh dự gặp Bác Hồ trong một số buổi thảo luận dự thảo hiến pháp sửa đổi. Bác thông thạo chữ Hán cổ lẫn tiếng Trung Quốc hiện đại cùng nhiều thứ tiếng khác. Bác cũng hết sức tôn trọng các nước bạn. Tuy nhiên, khi viết hay nói cho đồng bào trong nước, bao giờ Bác cũng dùng tiếng Việt. Tôi còn nhớ có lần thảo luận hiến pháp, khi đề cập tới cụm từ nam-nữ, Bác nói: Tại sao không dùng từ con trai, con gái?... Từ những việc cụ thể đó làm cho chúng tôi trong ban sửa đổi hiến pháp ai cũng thấy sự anh minh của Bác đối với giá trị cội nguồn dân tộc.


Trong dòng cảm xúc có tính riêng tư, Trung tướng lật cuốn album cho chúng tôi xem một số tấm ảnh mà ông chụp với bạn bề, đồng đội và người thân. Chợt ông dừng lại ở một tấm ảnh trắng đen còn khá mới. Ảnh ông cùng bà Ngọc Lan chụp từ năm 1960.Thật trẻ trung và hạnh phúc. Nhìn anh, tôi lại nhìn ông. Vị tướng không thấy tôi nhìn. Ông đang theo đuổi một ý nghĩ nào đó. Hình như tấm ảnh gợi cho ông về một thời tuổi trẻ hào hùng và gian khổ, hạnh phúc và chia ly? Cắt dòng suy tư của vị tướng, tôi từ tốn hỏi:


-Thưa Trung tướng, một trong những cái đích vươn tới của con người là tình yêu và hạnh phúc. Quan niệm của Trung tướng về điều này ra sao?

-Tình yêu và hạnh phúc phải bắt đầu từ cái “tâm”. Trời thì cao, biển thì rộng nhưng tấm lòng con người còn có thể cao hơn trời, rộng hơn biển. tấm lòng là cội nguồn của tình yêu và hạnh phúc!


-Thời của Trung tướng xã hội vẫn còn đặt nặng chuyện “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Vậy mối tình giữa Trung tướng với người bạn đời do gia đình sắp đặt hay tự nguyện?

-Do chúng tôi tự đến với nhau. Nhà tôi xuất thân từ một gia đình Nho giáo nghèo. Một thiếu nữ bình thường ở nông thôn, trụ cột lo toan việc nhà. Cô ấy cũng sớm tham gia phong trào địa phương chuẩn bị khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám. Đó là quan sát ban đầu trong một vài lần tôi đến nhà cô vận động ông cụ tham gia Việt Minh. Tình cảm giữa chúng tôi dần dần nảy nở! Khi bắt đầu bén duyên, tôi rất quan tâm đến “tầm lòng” của người mình yêu. Và tôi đã nhận biết điều đó qua biểu hiện ở một vài việc nhỏ.


-Những biểu hiện tấm lòng ấy cụ thể ra sao…

-(Cười) Hồi tháng 9 năm 1945, Việt Minh tỉnh Quảng Bình tổ chức một cuộc mít tinh toàn tỉnh, tôi là người chủ trì, phát biểu chính. Cô ấy cùng một số chị em phụ nữ từ quê vào tỉnh lỵ dự mít tinh và mong trực tiếp… nghe người mình yêu! Một lần khác, trước lúc tôi từ Quảng Trạch lên ga tàu hoả về Vinh họp khu uỷ, cô ấy đã mời tôi cùng cô về nhà. Khi sang sông, tôi để ý thấy cô dốc hết năm chữ tiền đồng trong túi trả tiền đò. Về tới chiếc cầu gần nhà, cô ra hiệu nói nhỏ anh: “Anh đi chậm lại. Em về trước, anh vào sau!”.


Khi tôi đến nhà, ông bà cụ ra đó. Tôi liếc xuống bếp thấy cô đang loay hoay thái rau, nấu cơm. Không hề biết giờ tôi lên tàu nhưng vì sao cô ấy đoán được lại khẩn trương chuẩn bị cơm? Chỉ một lát sau bữa cơm đã dọn tươm tất. Ông bà cụ mời tôi cùng ăn. Tôi ước lượng thời gian ăn xong vẫn lên ga kịp. Trên đường ra Vinh tôi cứ miên man nghĩ, đúng là một cô gái nhanh nhẹn, tháo vát, đảm đang, lại có “tấm lòng hết sức nhiệt thành, chân thật… Tôi càng quí mến, quyến luyến!


Rồi một lần khác, lúc giặc Pháp đóng đồn gần nhà cô ấy, tôi chỉ huy một đơn vị nhỏ Vệ quốc quân đến đánh. Trong thời gian chuẩn bị, tôi đóng quân tại một làng gần đó. Không hiểu sao cô ấy biết được, liền vượt qua đồn địch, đến tận nơi trú quân để thăm. Cô còn mang theo một gói lạc và nói lại nguyện vọng của nhân dân trong vùng mong Vệ quốc quân sớm đánh tan đồn địch ở ga Minh Lệ. Nghe cô nói, tôi rất cảm động!


-Ông bà thực sự đến với nhau lúc nào?

-Khi quân Pháp chiếm huyện lỵ Quảng Trạch, cơ quan huyện dời lên chiến khu Trung Thuần, cô ấy theo bố ra thăm. Ông cụ được mời ở lại hẳn chiến khu làm chủ nhiệm Mặt trận Liên Việt. Cô cũng ở lại. Từ đó, chúng tôi nên vợ nên chồng ngay trên chiến trường.


Một thời gian sau, tôi nhận quyết định ra Trung ương học lớp trung cao quân sự thì nhà tôi mang thai đứa con đầu lòng. Dù trong túi không tiền nhưng nhờ sự tháo vát và được cơ quan giúp đỡ, bà đã một mình vượt cạn, tần tảo nuôi con. Rồi nhà tôi ra Việt Bắc, vào làm ở Tổng cục Chính trị. Tôi tiếp tục đi chiến dịch. Bà ở nhà vừa công tác vừa chăm sóc con cái. Cả trong chống Mỹ cũng thế. Bằng đồng lương ít ỏi, bà tính toán chu đáo lo cho sáu đứa con ăn học đến trưởng thành, rồi năm đứa lần lượt vào bộ đội. Bà lặng lẽ vất vả một đời nhưng không bao giờ có lời kêu ca, trách móc chồng. Nhờ vậy, tôi mới an tâm tập trung công tác nơi chiến trường!


-Thưa Trung tướng, trong suốt hành trình chinh chiến của mình, thời gian nào Trung tướng cảm thấy khó khăn nhất?

-Khó khăn nhất là giai đoạn 1947-1948, đánh Pháp phần lớn bằng vũ khí thô sơ, tri thức quân sự lại kém, chủ yếu dựa vào tinh thần xả thân của anh em. Trong chống Mỹ, đó là thời gian làm tư lệnh kiêm chính uỷ Bộ đội Trung-Hạ Lào, tôi bị thương phải rời chiến trường điều trị một thời gian. Thời kỳ phụ trách đường Trường Sơn, khó khăn là lúc đường cầu còn độc đạo, binh chủng hợp thành còn yếu; từ năm 1965-1967 bộ đội rất thiếu thốn, nhất là ở Tây Nguyên.


-Trung tướng chính thức nhận trọng trách tư lệnh Bộ đội Trường Sơn lúc nào?

-Đầu năm 1967, tôi vào thay anh Hoàng Văn Thái làm tư lệnh Đoàn 559 kiêm chủ nhiệm Tổng cục Hậu Cần tiền phương, đồng thời là tư lệnh một quân khu trực thuộc Bộ Tổng.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #57 vào lúc: 15 Tháng Sáu, 2008, 07:57:04 am »

-“Xe dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Một câu thơ của nhà thơ Tố Hữu luôn gợi nhớ đến con đường Hồ Chí Minh lịch sử khi đất nước còn chìm trong máu lửa thương đau. Nhưng thưa Trung tướng, vì sao phải xẻ dọc Trường Sơn mà không chọn con đường khác?

-Đông, Tây Trường Sơn vừa là bên sườn vừa là bên ruột của chiến trường ba nước Đông Dương, là một căn cứ chiến lược vĩ đại, có địa lợi, nhân hoà, thế địch yếu, tấn công phòng ngự vô cùng lợi hại. Được ba nước đồng lòng, Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch quyết định thành lập tuyến chi viện chiến lược, không chỉ bằng đường núi mà còn bằng cả đường biển. Ngày 19 tháng 5 năm 1959 nhân sinh nhật lần thứ sáu chín của Bác Hồ, đường Trường Sơn chính thức ra đời, được đặt tên đường Hồ Chí Minh, mang mật danh đường 559. Anh Võ Bẩm là người đầu tiên được Quân uỷ Trung ương cử phụ trách mở đường. Nó gồm ba giai đoạn. Đầu tiên là đường bộ, gùi thồ. Từ năm 1964 phát triển thành nhiều phương thức: đường bộ, đường sông, đường ống. Bên cạnh đường Hồ Chí Minh trên Trường Sơn thì đường Hồ Chí Minh trên biển Đông cũng được thành lập với mật danh 759.


-Được biết trước khi Trung tướng về phụ trách, thì đường Trường Sơn còn ở dạng thô sơ, những cuộc thử nhiệm vận tải cơ giới qui mô bị thất bại. Bên cạnh đó lại có ý kiến chỉ muốn quay lại gùi thồ. Và tranh luận đã diễn ra. Vậy nhờ đâu cuối cùng Trung tướng thành công?

-Nhờ thừa kế kinh nghiệm các năm trước. Năm 1964, anh Võ Bẩm cho thí điểm mở đường vận tải cơ giới. Mùa khô 1964-1965, Tư lệnh kiêm Chính uỷ Đoàn 559 Phan Trọng Tuệ cùng Chủ nhiệm Tổng cục Hậu Cần Đinh Đức Thiện tiếp tục thử nghiệm vận tải cơ giới cấp tiểu đoàn 100 xe trên cung đường 300 km. Do thời gian quá ngắn, chưa nắm được qui luật đánh phá ngăn chặn của địch và cũng chưa tổ chức được bộ đội hợp thành, chỉ huy chưa tập trung thống nhất, nên cuộc thử nhiệm không thành công. Tuy nhiên, hai anh Phan Trọng Tuệ và Đinh Đức Thiện luôn cương quyết bảo vệ quan điểm tiếp tục mở đường vận tải cơ giới chứ nhất định không quay lại gùi thồ.


-Và thực tế đã chứng minh quan điểm của hai ông là hoàn toàn đúng?

-Vâng. Cuối năm 1966, Quân uỷ Trung ương triệu tập cuộc họp do Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp chủ trì. Tôi được mời dự thính. Hai loại ý kiến trái ngược nhau được đưa ra thảo luận sôi nổi, đôi lúc hết sức gay gắt. Anh Tuệ và anh Thiện thẳng thắn tự phê bình việc thử nghiệm chưa thành công, phản bác mọi lý lẽ muốn lùi về gùi thồ và phân tích một cách thuyết phục sự cần thiết cấp bách của vận tải cơ giới nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu theo tình hình phát triển của chiến trường, vì mục tiêu cuối cùng phải đạt tới là giải phóng miền Nam thống nhất đất nước!


Hai anh cũng đề nghị tranh thủ tập trung mọi trí tuệ, sức lực ưu tiên cho chiến trường mà trước hết phải tăng cường đồng bộ lực lượng đủ mạnh cho con đường huyết mạch Trường Sơn, cầu nối hậu phương với tiền tuyến. Theo hướng đề nghị đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã tổng kết nhấn mạnh rằng “địch dùng chiến tranh để ngăn chặn, ta cũng phải tổ chức bộ đội hợp thành để chống lại, cương quyết thực hiện thành công đường vận tải cơ giới, có kết hợp gùi thồ nơi và lúc cần”.


-Sau đó, chính Trung tướng là người trực tiếp thực hiện quyết định có tầm chiến lược của Quân uỷ Trung ương vốn xuất phát từ ý tưởng của tướng Tuệ và tướng Thiện?

-Tôi nhớ khi giao nhiệm vụ cho tôi làm chủ nhiệm Tổng cục Hậu Cần tiền phương sau khi cuộc họp trên vừa kết thúc, anh Đinh Đức Thiện bức xúc nói rằng do thử nghiệm vận tải cơ giới chưa thành công nên mới có ý kiến bàn thụt lùi. Anh rất tức! Và anh hy vọng chắc chắn ở tôi: “Lần này, cậu vào chính quê cậu, tâm điểm đánh phá ác liệt của giặc Mỹ, hãy cố thực hiện cho được vận tải cơ giới qui mô lớn để chứng minh kết luận của Quân uỷ Trung ương là hoàn toàn đúng đắn”.


-Từ kinh nghiệm ở Tổng cục Hậu cần tiền phương, Trung tướng đã vận dụng như thế nào đối với đường 559? Nếu không thuộc phạm vi bí mật quốc gia, xin Trung tướng cho biết những nguyên tắc chủ yếu để thực hiện thành công nhiệm vụ vận tải quân sự chiến lược.

-Nguyên tắc chủ yếu là phải chuyển đổi tổ chức và lực lượng thành lực lượng chiến đấu. Phải chuyển tuyến vận tải chiến lược đường Hồ Chí Minh thành một hướng chiến trường, một căn cứ chiến lược. Phải tổ chức bộ đội hợp thành dưới sự chỉ huy tập trung thống nhất ở các cấp. Phải vận dụng được nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân, lấy đánh lâu dài, lấy tư tưởng tiến công làm chủ đạo.


-Những nguyên tắc ấy được cụ thể ra sao, xin Trung tướng vui lòng cho biết rõ hơn?

-Thứ nhất, trong điều kiện chiến tranh ác liệt phải lấy tư tưởng tiến công làm chủ đạo, đồng thời coi trọng phòng tránh. Đó là nguyên tắc đánh được địch, giữ được mình. Thứ hai, không thể để xe vận tải “đơn thương độc mã” trên đường, mà phải có công binh thiện chiến túc trực, pháo cao xạ yểm trợ chống máy bay địch oanh tạc, bộ binh bảo vệ và các lực lượng phục vụ chiến đấu tích cực hỗ trợ thường xuyên trên tuyến đường. Đồng thời còn cơ động pháo theo đội hình xe vận tải. Tất cả bám đường trên nguyên tắc binh chủng hợp thành, lấy bộ đội xe làm chủ lực, nắm trọng điểm, coi trọng diện. Thứ ba là tập trung thống nhất chỉ huy về một mối, lệnh phát ra có hiệu lực ngay.


-Trung tướng còn nhớ thời điểm quân số cao nhất của bộ đội Trường Sơn là bao nhiêu?

-Mười hai vạn. Trong đó có mười ngàn thanh niên xung phong. Gồm chín sư đoàn. Tám sư thuộc Bộ tư lệnh 559. Một sư cao xạ, tên lửa của Bộ phối thuộc.


-Thế còn mốc thời gian nào vận tải cơ giới được xem phát triển đến đỉnh cao.

-Năm 1972-1973. Chúng tôi bắt đầu chuyển sang móc mới vận tải quân sự chiến lược. Bỏ cung, trạm. Vận tải xuyên suốt Bắc-Nam, đi theo đội hình sư đoàn, cơ động gọn từng quân đoàn sư đoàn bộ binh, binh chủng kỹ thuật, cơ sở vật chất đến thẳng từng chiến trường. Nếu trước đây đi bộ mất bốn tháng thì bây giờ vận chuyển chỉ mười hai ngày. Hai sư đoàn ô tô vận tải quân sự cũng đã hình thành. Gồm mười ngàn xe. Có thể nói đây là những sư đoàn vận tải đầu tiên và duy nhất trong lịch sử chiến tranh của dân tộc. Đến năm 1975 hai sư vận tải đã đón đúng thời cơ thực hiện lệnh thần tốc, thời gian từ miền Bắc vào đến Bù Đăng rút xuống chỉ còn bảy-tám ngày để phục vụ kịp thời Chiến dịch Hồ Chí Minh.


Về hạ tầng cơ sở, đến năm 1975 đã xây dựng 16.700 km đường, chủ yếu là đường dã chiến,trong đó có hơn 800 km đường kín, 1.500 km rải đá, 200 km nhựa. Ngoài ra, còn có 1.500 km đường ống dẫn dầu, 1.350 km đường dây thông tin tải ba, 3.800 km đường giao liên, 500 đường sông.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #58 vào lúc: 15 Tháng Sáu, 2008, 07:59:07 am »

-Đường ống dẫn xăng dầu Trường Sơn là một công trình ngoài sức tưởng tượng, nhất là trong điều kiện không quân Mỹ thường xuyên oanh kích. Ai là người đề xuất sáng kiến táo bạo này?

-Anh Đinh Đức Thiện. Từ đầu năm 1969, anh cùng Bộ tư lệnh 559 bàn bạc hạ quyết tâm lắp đặt đường ống dẫn xăng dầu vào đến Bù Đốp thuộc tỉnh Bình Phước ngày nay. Nhiều chính khách trên thế giới cũng từng phải ngạc nhiên: trong lúc không quân Mỹ đánh phá dữ dội, làm sao chúng ta có thể sử dụng đến hàng sư đoàn xe vận tải, cơ động bằng cơ giới từng quân đoàn, sư đoàn bộ binh, cơ động khối lượng lớn binh chủng kỹ thuật vào tận chiến trường Nam Bộ, chỉ cách Sài Gòn 100 km. Xăng dầu được tiếp tế như thế nào?


-Báo chí phương Tây còn gọi đường mòn Hồ Chí Minh là “trận đồ bát quái xuyên rừng rậm”?

-Đường Hồ Chí Minh không chỉ là một tuyến vận tải mà còn là một chiến trường, một căn cứ địa chiến lược rộng lớn vững chắc hậu thuẫn cho các chiến trường của ta và bạn. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, nó là một trong những yếu tố quyết định thần tốc. Lúc đầu dự kiến giải phóng miền Nam trong vòng hai năm. Sau, Bộ Chính trị rút còn một năm. Nhưng đánh xong Buôn Mê Thuột, nhờ sự chuẩn bị chu đáo ở các chiến trường và tuyến chi viện đường Hồ Chí Minh, Bộ Chính trị quyết định giải phóng miền Nam trong tháng 4 năm 1975.


-Hình như sự so sánh trên còn xuất phát từ thất bại của không quân Mỹ…

-Đúng! Nhưng Mỹ đâu chỉ tấn công đường Hồ Chí Minh bằng không quân. Từ năm 1965, Mỹ nguỵ cấu kết với các nước chư hầu bắt đầu đánh phá bằng nhiều binh chủng kết hợp, với đủ loại phương tiện vũ khí chiến tranh hiện đại như hàng rào điện tử, mưa nhân tạo, mù nhân tạo, bom từ trường, chất độc hoá học… Năm 1971, địch lại tiến hành chiến dịch tổng hợp Đường 9 Nam Lào gồm cả bộ binh, không quân, hải quân quyết tâm một lần nữa cắt đứt mạch máu chi viện cho các chiến trường. Nhưng một lần nữa chúng lại chuốc lấy thất bại. Nhờ lưới lửa phòng không tập trung mạnh, lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh ta đã bắn rơi mấy mươi chiếc trực thăng Mỹ. Điều chưa từng có. Mỹ nguỵ vô cùng hoảng hốt, cam chịu thất bại. Cũng từ đó, đường mòn Hồ Chí Minh huyền thoại vĩnh viễn không bị cắt đứt, được cả thế giới biết đến!


-Theo Trung tướng, yếu tố nào đóng vai trò quyết định làm nên huyền thoại đó? Nghệ thuật chỉ huy, sức mạnh của vũ khí hiện đại hay con người?

-Đương nhiên có nhiều yếu tố tổng thành, nhưng yếu tố quyết định là con người! Chính con người cá nhân lẫn con người tập thể là yếu tố quan trọng nhất làm nên điều kỳ diệu Trường Sơn. Những con người của thời đại Hồ Chí Minh biết kết hợp sức mạnh yêu nước truyền thống với tinh thần cách mạng tiến công, kết hợp dũng và mưu, quyết chiến quyết thắng trong chiến tranh lâu dài.


-Thắng lợi càng lớn, cái giá phải trả càng lớn. Cho đến khi kết thúc nhiệm vụ lịch sử, có bao nhiêu chiến sĩ Trường Sơn đã ngã xuống?

-Mười chín ngàn người đã vĩnh viễn nằm xuống. Hơn ba mươi ngàn người bị thương. (Vị tướng xúc động mạnh khi nhắc đến những con số chừng như khô khốc nhưng hết sức đau thương. Mắt ông ngấn đỏ. Giọng nói như chùng hẳn xuống). Là người chỉ huy rực tiếp cao nhất, tôi hiểu hơn ai hết sự hy sinh to lớn của các chiến sĩ Trường Sơn. Họ đi vào cõi vĩnh hằng cho đất nước vĩnh hằng. Họ là anh hùng của dân tộc anh hùng!


-Vâng thưa Trung tướng, cái giá vì sự thống nhất Tổ quốc trong hai cuộc kháng chiến vừa qua có lẽ đến các thế hệ sau còn vang vọng! Bây giờ hồi tưởng lại, Trung tướng đánh giá như thế nào? Có một cách nào đó có thể tiết kiệm được thời gian lẫn xương máu không?

-Tôi nghĩ nếu như từ năm 1967 đường Trường Sơn rải đá theo hai trục Bắc-Nam, xoá bỏ vận tải theo mùa, tập trung và quyết tâm hơn thì tình hình sẽ khác. Hay giá như làm đường kín 800 dưới rừng già Lào sớm hơn chứ không phải tới năm 1972 mới tiến hành, để xe chạy cả ban ngày, thì ta đỡ thiệt hại hơn, mà hiệu quả lại cao hơn. Bởi thời gian là lực lượng. Con đường kín này ta chỉ mới sử dụng một năm thì Hiệp định Paris được ký kết.


Tuy nhiên, đối với những việc đã qua lẽ thường hay tiếc những thiếu sót, “giá như thế này, giá như thế kia”. Ở đây một cuộc kháng chiến kéo dài ba mươi năm, với hai kẻ thù hùng mạnh nhất của thế giới trong thế kỷ XX. Cả hai cuộc kháng chiến tương quan lực lượng, mức độ có khác nhau nhưng nói chung lúc đầu ta đều yếu về kinh tế, quân sự, trang bị kỹ thuật. Nhưng tại sao ta thắng? Ta thắng vì ta biết kết hợp sức mạnh truyền thống dân tộc và thời đại, có một nền tảng khoa học quân sự chiến tranh nhân dân lỗi lạc, độc đáo; có một đường lối chiến tranh tài trí, thao lược, độc lập, sáng tạo, làm chủ mọi thời cơ của Đảng và Bác Hồ. “Lấy yếu đánh mạnh” thì phải chịu đựng được trường kỳ, sử dụng tốt vị thế địa chính trị, tranh thủ được sự ủng hộ rộng rãi của bạn bè thế giới, vừa đánh vừa giữ gìn lực lượng, không ngừng phát triển, đuổi va vượt sức mạnh đối phương.


Thắng lợi nào cũng đều phải trả giá. Mười sáu năm chiến đấu trên đường Hồ Chí Minh, Bộ đội Trường Sơn cùng với các chiến trường đã phải trả một giá cực kỳ xứng đáng để phát triển và giành thắng lợi, thống nhất Tổ quốc, giữ được độc lập, tự do, chủ quyền dân tộc. Điều đó là vô giá, không thể tính đắt rẻ.


-Trung tướng có quan điểm ra sao khi Chính phủ quyết định xây dựng đường Trường Sơn xưa thành đường Quốc lộ Hồ Chí Minh xuyên Bắc-Nam.

-Đây là quyết định đúng. Một đất nước như nước ta, từ Bắc đến Nam nếu chỉ có duy nhất một con đường Quốc lộ 1 thì sẽ rơi vào thế độc đạo, ngõ cụt. Và phải trả giá khi thiên thai hay chiến tranh xảy ra. Tôi nhớ năm 1972, chúng tôi từng đứng ôm nhau khóc trên đỉnh Bù Lạch, khi binh lực đủ sức tiến đánh Đà Nẵng từ phía Tây nhưng không có đường đủ tiêu chuẩn! Nếu được triển khai, Quốc lộ Hồ Chí Minh Bắc-Nam sẽ cùng với Quốc lộ 1 hợp thành mạn lưới giao thông liên hoàn vững chắc, giảm bớt lưu lượng xe cho Quốc lộ 1, giúp đưa các vùng ở miền núi Tây Nguyên và dọc Trường Sơn vào quỹ đạo phát triển chung của đất nước, nối thông với hai nước bạn láng giềng. Quốc lộ Hồ Chí Minh không chỉ là mục tiêu của thế hệ hôm nay, mà tôi nghĩ đó cũng chính là ước mơ của hàng vạn chiến sĩ đã ngã xuống trên Trg, trong đó có sáu ngàn liệt sĩ hiện vẫn còn nằm biệt tích trong mưa rừng gió núi!


-Ai cũng biết rằng đường Hồ Chí Minh trên Trường Sơn là sản phẩm của tình đoàn kết ba nước Đông Dương, đặc biệt là với Lào trong thời gian đầu mờ tuyển đường Tây Trường Sơn. Riêng bản thân mình, hình như Trung tướng có nhiều duyên nợ với đất nước Triệu Voi?

-Vâng, tôi xem Lào như quê hương thứ hai của mình. Năm 1944, khi bị địch truy lùng, tôi bí mật sang hoạt động ở Thái-Lào, chủ yếu là Lào. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, Trung-Hạ lào là một trong các cánh phối hợp, tôi được tham gia Bộ tư lệnh cánh quân này. Đến năm 1965, tôi nhận nhiệm vụ tư lệnh kiêm chính uỷ Bộ đội tình nguyện ở Trung-Hạ Lào, trong một trận chiến đấu tôi đã bị thương trên chiến trường nước bạn. Và khi trở thành tư lệnh đường Trường Sơn, tôi lại có dịp trở lại Lào lần thứ tư. Các bạn Lào đón tôi như đón người thân trở về. Cho đến khi kết thúc chiến tranh, ta đã mượn đất bạn mười một năm để xây dựng tuyến đường Tây Trường Sơn. Một mối quan hệ nghĩa tình đặc biệt khó có trong lịch sử bang giao giữa các nước láng giềng.


Đồng thời, bộ đội tình nguyện Việt Nam cũng đã sát cánh cùng quân dân nước bạn giải phóng sáu tỉnh Trung-Hạ Lào: Salavan, Savanakhet, Attapw, Sekon, Chambasak, Khăm Muộn. Thời điểm quyết định nhất là năm 1962, ta giải phóng từ biên giới theo Đường 9 đến Mường Phìn tỉnh Savanakhet và dọc Tây Trường Sơn, mở toang cánh cửa biên giới ba nước Đông Dương để mở đường 128.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #59 vào lúc: 15 Tháng Sáu, 2008, 08:00:17 am »

-Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, Trung tướng giữ nhiệm vụ gì?

-Tôi là tư lệnh bộ đội Trường Sơn kiêm phó tư lệnh cánh quân phía Đông mà anh Lê Trọng Tấn là tư lệnh. Tấn công Sài Gòn ta huy động gần năm quân đoàn cộng các mũi phối hợp. Đây là lần đầu dùng binh qui mô lớn nhất trong lịch sử các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm của dân tộc. Thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh nằm trong quá trình chiến đấu và chiến thắng từng bước cộng lại của suốt cuộc chiến tranh. Do đó, khi đánh vào Sài Gòn thế và lực quân ta đã trở nên áp đảo. Đặc biệt, sau khi thất thủ Buôn Mê Thuột, tan rã Tây Nguyên, Huế, Đà nặng… tư tưởng và ý chí của Mỹ nguỵ hoàn toàn sụp đổ. Trên đường tiến vào Sài Gòn tuy có đánh một số trận ác liệt ở ngoại vi, nhưng khi đại quân tấn công vào trung tâm thì đối phương hầu như ngồi chờ đầu hàng.


-Trung tướng có mặt ở trung tâm Sài Gòn lúc nào? Ấn tượng của Trung tướng vào thời điểm lịch sử này?

-Tôi có mặt ở Sài Gòn trưa ngày 1 tháng 5 năm 1975. Khi đi ngang dinh Độc Lập và lướt qua trung tâm thành phố, tôi thầm khâm phục tài thao lược của Bộ thống soái tối cao mà trực tiếp là Bộ chỉ huy chiến dịch. Cuộc tổng tấn công to lớn như vậy mà ta vẫn giữ được trọn vẹn tính mạng và tài sản của nhân dân, thành phố hầu như còn nguyên vẹn, có chăng chỉ một cánh cổng sắt ở dinh Độc Lập bị xe tăng húc đổ.


Sài Gòn bị chiếm đóng lâu đến thế, nhưng khi quân ta vào tiếp quản thành phố, quân dân hoà hợp rất nhanh chóng, trật tự trị an được lập lại ngay từ đầu. Các tầng lớp nhân dân hồ hởi đón nhận thắng lợi vĩ đại như chính bản thân họ. Gp Sài Gòn là một bức tranh đẹp!


-Trong tình hình khu vực và thế hiện nay, theo Trung tướng nguy cư chiến tranh xâm lược đối với nước ta có thật sự bị đẩy lùi?

-Thế giới ngày nay, tuy đa cực nhưng cuộc chiến cục bộ dưới nhiều hình thức vẫn âm ỉ nơi này nơi khác. Cuộc chạy đua vũ trang dưới nhiều hình thức vẫn không ngừng. Trước mắt, nguy cơ chiến tranh lớn có hạn chế, nhưng tương lai thế giới vẫn chưa loại trừ nguy cơ chiến tranh. Nước ta có một vị thế địa-chính trị đặc biệt nên phải coi tọng cả hai nhiệm vụ kinh tế và quốc phòng. Có thể khẳng định ta không đánh ai chứ không dám chắc không ai đánh ta. Tuy nhiên với thế và lực hiện nay, chúng ta đủ khả năng giữ được ổn định để xây dựng đất nước, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá.


-Từ người lính trở thành tướng lĩnh cao cấp, từ cán bộ cơ sở trở thành nhà lãnh đạo hàng đầu của Đảng và Chính phủ, từ chiến trường đến công nông trường, có thể nói cuộc đời và sự nghiệp phong phú của Trung tướng thật hiếm có. Đó cũng là một trong những hình ảnh đặc trưng của con người Việt Nam ở thế kỷ XX. Bằng kinh nghiệm sống dày dặn của mình, Trung tướng hình dung ra sao về đất nước trong khoảng ba đến năm mươi năm nữa?

-Giở lại lịch sử, chúng ta vô cùng tự hào lớp lớp kế thừa truyền thống cha ông từ thời này sang thời khác, một lòng một dạ vì độc lập, tự do, chủ quyền dân tộc. Thời đại Hồ Chí Minh là thời đại vinh quang nhất trong mọi thời đại. Hiện đất nước ta đang tiến bước trên con ngường công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy về kinh tế, trang bị quân sự, khoa học ta còn kém xa các nước tiên tiến, nhưng với đường lối đối nội đối ngoại đúng đắn của Đảng, nền chính trị ổn định, với sự thừa kế son sắt của lớp trẻ, chúng ta tin rằng trong nửa thế kỷ tới đất nước vẫn vững bước đi lên mạnh mẽ. Tuy vậy, chúng ta không thể không cảnh giác với mọi cuồng vọng, bằng mọi hình thức tấn công vào sự ổn định của đất nước.



Câu chuyện càng lúc càng cuốn hút. Đã hơn năm giờ chiều. Nắng tắt hẳn trên bầu trời Hà Nội. Còn nhiều điều chúng tôi muốn hỏi. Và ông như cũng còn nhiều điều muốn tỏ bày. Chụp chung mấy tấm ảnh kỷ niệm, tiễn chúng tôi ra cổng, vị tướng nắm chặt tay nhắn nhủ: “Anh trở về Nam, qua tạp chí Kiến thức ngày nay, cho tôi gửi lời chào thân thiết nhất đến những chiến sĩ Trường Sơn và gia đình, nhất là gia đình những đồng chí đã hy sinh!”.


Hà Nội-TP.Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 1998
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM