Ôi, không ngờ em lại chọn toàn bài hát mà bác Simon thích, bởi vì em cũng thích.
Sưu tầm những bài theo ý nghĩa của topic thật khó, vì những lời hát hiện nay có trên mạng thường được sửa lại, ít còn nguyên bản của thời trước 1975, em sẽ bổ xung thêm thông tin về những nhạc sỹ VNCH phổ nhạc cho thơ VNDCCH.
Cũng mong mỏi các bác lớn tuổi từng lớn lên ở miền Nam góp sức!
Xin cảm ơn!
Và sau đây là 2 bản nhạc phổ từ bài thơ "Bao giờ trở lại" của Nhà thơ Hoàng Trung Thông.
“Các anh đi/ Ngày ấy đã lâu rồi/Xóm làng tôi còn nhớ mãi”…
…“Các anh về mái ấm nhà vui/Tiếng hát câu cười/Rộn ràng xóm nhỏ/
Các anh về tưng bừng trước ngõ/ Lớp lớp đàn em hớn hở chạy theo sau/ Mẹ già bịn rịn áo nâu/ Vui đàn con ở rừng sâu mới về”…
Đó là những câu thơ trong bài thơ “Bao giờ trở lại” của Hoàng Trung Thông (1925-1993) và ấy cũng là câu hát trong ca khúc “Bộ đội về làng” của Lê Yên. Bài thơ được Hoàng Trung Thông viết sau ngày toàn quốc kháng chiến chống Pháp. Sức thu hút và lan tỏa của bài thơ thật sâu rộng.
Nhà thơ Hoàng Trung Thông còn có những bút danh khác như Đặc Công, Bút Châm, quê quán xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, nguyên là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Viện trưởng Viện Văn học (Việt Nam).
Nhà thơ Hoàng Trung Thông tham gia cách mạng từ trước 1945 trong phong trào Việt Minh, từng đảm nhiệm các chức trách: cán bộ văn nghệ của khu ủy Liên khu IV, tỉnh ủy viên tỉnh ủy Nghệ An, ủy viên Tiểu ban Văn nghệ Trung ương; thư ký tòa soạn tạp chí Văn nghệ thuộc Hội Văn nghệ Việt Nam; tổng biên tập báo Văn nghệ, báo Tác phẩm mới của Hội Nhà văn Việt Nam; Giám đốc Nhà xuất bản Văn học, Vụ trưởng Vụ Văn nghệ thuộc Ban Tuyên huấn Trung ương; Viện trưởng Viện Văn học (1976-1985).
Năm 1952, nhạc sĩ Lê Yên đã hình thành bản hợp xướng hoành tráng, nổi tiếng “Bộ đội về làng”. Nhạc sĩ Phạm Duy, Văn Phụng… cũng đã phổ nhạc bài thơ này của Hoàng Trung Thông. Có thể nói, đây là bài thơ hay nhất của Hoàng Trung Thông và là ca khúc thành công nhất của Lê Yên.
Nói đến bộ đội Cụ Hồ là chúng ta nghe vang rền giai điệu hành quân. Ấy là “Hành quân xa” (Đỗ Nhuận), “Hành khúc ngày và đêm” (Phan Huỳnh Điểu), “Hành quân đêm” (Xuân Hồng-Trí Thanh), “Đường ra trận mùa xuân” (Cẩm La), “Cùng anh tiến quân trên đường dài” (Huy Du-Xuân Sách), “Bác đang cùng chúng cháu hành quân” (Huy Thục), “Hát mãi khúc quân hành” (Diệp Minh Tuyền)…
Nhưng với Hoàng Trung Thông, anh chọn khoảnh khắc “Bộ đội về làng” trong nỗi chờ mong “Bao giờ trở lại”. Rõ ràng, để có “nỗi chờ mong” ấy, các anh bộ đội Cụ Hồ trước đó đã để lại ấn tượng rất đẹp đối với người dân. Bài thơ đầm ấm tình quân dân, ân tình chuyện hậu phương tiền tuyến mà mỗi làng quê Việt Nam là “quê hương anh bộ đội”. Thông thường khi chọn thơ để phổ nhạc, các nhạc sĩ chọn tư tưởng chủ đề của thơ trước yêu cầu của thời đại và hợp điệu với tâm hồn nhạc sĩ.
Bên cạnh đó, thể thơ cũng có yêu cầu của công việc phổ nhạc. Hoàng Trung Thông viết “Bao giờ trở lại” theo thể thơ tự do. Ấy là một thử thách đối với nhạc sĩ phổ nhạc. Vốn là nhạc sĩ có tài và đậm chất dân ca truyền thống, Lê Yên đã thành công khi sáng tác “Bao giờ trở lại” thành hợp xướng “Bộ đội về làng”.
Bao giờ trở lại?Các anh đi
Ngày ấy đã lâu rồi
Xóm làng tôi còn nhớ mãi
Các anh đi
Bao giờ trở lại
Xóm làng tôi trai gái vẫn chờ mong
Làng tôi nghèo
Nho nhỏ bên sông
Gió bắc lạnh lùng
Thổi vào mái rạ
Làng tôi nghèo
Gió mưa tơi tả
Trai gái trong làng vất vả ngược xuôi
Các anh về mái ấm nhà vui
Tiếng hát câu cười
Rộn ràng xóm nhỏ
Các anh về tưng bừng trước ngõ
Lớp đàn em hớn hở theo sau
Mẹ già bịn rịn áo nâu
Vui đàn con nhỏ rừng sâu mới về
Từ lưng đèo
Dốc núi mù che
Các anh về
Xôn xao làng tôi bé nhỏ
Nhà lá đơn sơ
Nhưng tấm lòng rộng mở
Nồi cơm nấu dở
Bát nước chè xanh
Ngồi vui kể chuyện tâm tình bên nhau
Anh giờ đánh giặc nơi đâu
Chiềng Vàng, Vụ Bản, hay vào Trị Thiên
Làng tôi thắng lợi vụ chiêm
Lúa thêm xanh ngọn, khoai lên thắm vồng
Giảm tô hai vụ vừa xong
Đêm đêm ánh đuốc dân công rực đường
Dẫu rằng núi gió đèo sương
So anh máu nhuộn chiến trường thấm chi
Bấm tay tính buổi anh đi
Mẹ thường vẫn nhắc: biết khi nào về?
Lúa xanh xanh ngắt chân đê
Anh đi là để giữ quê quán mình
Cây đa, bến nước, sân đình
Lời thề nhớ buổi mít tinh lên đường
Hoa cau thơm ngát đầu nương
Anh đi là giữ tình thương dạt dào
Các anh đi
Khi nào trở lại
Xóm làng tôi
Trai gái vẫn chờ mong
Chờ mong chiến dịch thành công
Xác thù chất núi bên sông đỏ cờ
Anh đi chín đợi mười chờ
Tin thường thắng trận, bao giờ về anh?
Bộ đội về làng Lê Yên - Hoàng Trung Thông
Các anh đi ngày ấy đã lâu rồi
xóm làng tôi còn nhớ mãi
Ước mong sao đến khi trở lại .
Đón mừng anh vui chiến thắng về qua
Các anh về mái ấm nhà vui
A tiếng hát câu cười rộn ràng trong xóm nhỏ ( ơ .. ơ )
Các anh về tưng bừng trước ngõ
Lớp lớp đàn em hớn hở chạy theo sau
mẹ già bịn rịn áo nâu
vui đàn con ở rừng sâu mới về
Từ lưng đèo dốc đá mù che
Các anh về xôn xao làng tôi bé nhỏ ( ơ )
Nhà lá đơn sơ nhưng tấm lòng rộng mở ( ơ ơ ơ ơ ơ )
Nồi cơm nấu dở , bát nước chè xanh
ngồi vui ( ơ ơ ) ta kể chuyện tâm tình bên ( ơ ) nhau
Nhớ lời xưa xóm cũ dân nghèo
Sống thầm đêm dài tăm tối
Mấy năm qua , ấm no mừng cuộc đời
Cấy hái tốt tươi , vườn đất nhà vun xới. Hơ ơ!
Các anh về đây quê minh nay hớn hở
Ruộng đất quê ta như sóng dềnh biển cả ( ơ ơ ơ ơ ơ ơ ơ )
Giờ đây phấn khởi cuốc bẫm cày sâu
niềm tin thiết tha
Ơn cụ Hồ muôn đời bao la (ư ..... la la )
http://www.youtube.com/watch?v=SIKVqk05s_I&feature=player_embeddedNhạc sĩ Văn Phụng tên thật là Nguyễn Văn Phụng, sinh năm 1930 tại Hà Nội, trong một gia đình có 8 người con mà ông là thứ hai. Thuở ấy, phong trào âm nhạc cải cách (tân nhạc) mới du nhập vào Việt Nam và được giới trẻ nhiệt tình hưởng ứng. Văn Phụng đặc biệt có năng khiếu về tân nhạc nên được các giáo sư dương cầm là bà Perrier và bà Vượng dìu dắt rất tận tình. 15 tuổi, ông đã nổi đình đám khi đoạt giải nhất độc tấu dương cầm với bản La Pirière d'une Viege tại Nhà hát Lớn Hà Nội, 16 tuổi ông đã thi đậu tú tài. Ngặt nỗi ông bố (vốn là thông phán) lại quá nghiêm khắc, ông cấm không cho cậu con trai đi theo phường "xướng ca vô loài" mà chỉ muốn con mình làm... bác sĩ, nhưng Văn Phụng theo học ngành y chỉ được một năm rồi bỏ học đi theo tiếng gọi của âm nhạc.
Năm 1948, Văn Phụng cho ra đời tác phẩm đầu tay Ô mê ly với tiết tấu sôi động, phấn chấn yêu đời Ô mê ly đời sống với cây đàn tình tình tang... Ô mê ly, mê ly đời ta. Ông thường cùng các bạn bè nam, nữ tụ tập đàn hát với nhau. Nếu như trong đám bạn trai, Văn Phụng như là một "chủ súy" bởi ngón đàn tài hoa thì trong đám bạn nữ vút lên một giọng hát rất đỗi "liêu trai" của Châu Hà, người thiếu nữ Hà Nội có mái tóc dài vẫn thường thả lỏng như một dòng suối. "Trai tài, gái sắc" cứ quấn quýt bên nhau, thế nhưng ông thông phán lại rất ác cảm với nghề xướng ca vô loài nên tìm đủ cách để ly gián tình yêu của con trai mình. Biết rằng gia đình Văn Phụng không chấp nhận mình, Châu Hà phẫn uất đi lấy chồng và theo chồng vào Sài Gòn để xa hẳn một quá khứ đẹp mà... buồn.
Châu Hà đi rồi, một thời gian sau Văn Phụng cũng được bố mẹ cưới vợ. Ông chấp nhận như là để khỏa lấp những trống vắng mà Châu Hà đã để lại cho mình. Vợ ông cũng là người Hà Nội nổi tiếng "đẹp người, đẹp nết" rất được bố mẹ chồng thương quý. Đến khoảng đầu thập niên 1950, vợ chồng Văn Phụng đã có 2 người con gái. Những tưởng mọi sự đã an bài, nhưng tình xưa đâu dễ quên... Tất cả những nỗi nhớ thương đều được ông đưa vào các ca khúc của mình Tìm đâu thấy liễu xanh xanh lả lơi. Hay đi tìm dòng suối tóc trên vai. Ghi trong khóe mắt u hoài hình bóng ai. Tôi thấy em một đêm thu êm ái... Người em gái đứng im trong hồi lâu. Tôi ngập ngừng lòng muốn nói đôi câu. Xin cho suối nước non ngàn tìm đến nhau. Như chúng ta đôi đời hàn gắn thương yêu... (Suối tóc - 1954).
Rồi không ngăn được tiếng gọi của con tim, Văn Phụng vào Nam. Châu Hà lúc này đã trở thành ca sĩ chuyên hát ở đài phát thanh và các phòng trà cùng thời với những Mộc Lan, Linh Sơn, Ánh Tuyết... Văn Phụng cũng mau chóng hòa nhập vào làng ca nhạc miền Nam. Không chỉ sáng tác ca khúc, ông còn thành lập ban tam ca nam đầu tiên ở Việt Nam với Văn Phụng - Anh Ngọc - Nhật Bằng (1953-1954). "Tình cũ không rủ cũng tới" nhưng... không phải dễ dàng gì bởi còn đó những trói buộc gia đình, còn những lời đàm tiếu, dị nghị chung quanh.
Chính những lúc buồn nản nhất, Văn Phụng đã viết Tôi đi giữa hoàng hôn (1962) với điệu slow rock: Tôi đi giữa hoàng hôn, khi ánh chiều buông, khi nắng còn vương. Một mình tôi ngắm cánh chim lạc loài mà lòng thấy u hoài... Tôi thương nhớ ngày qua, trên bến Hoàng Hoa, trên những đường xa, thường thường hai đứa nắm tay nhau tươi cười, như thầm hẹn nhau mùa sau.... Ở Tôi đi giữa hoàng hôn không hề có sự yếm thế, bi thảm mà là một nỗi buồn lâng lâng, siêu thoát. nhẹ nhàng và trầm ấm đầy chất phương Đông: ...Dù cho mưa gió bên mái tranh nghèo. Dù cho nắng, dù cho sương khói mịt mờ, niềm tin yêu hằng xin mãi mãi không hề phai. Nhớ... Nhớ... Nhớ đêm nao trên bến Hoàng Hoa, hai đứa nhìn nhau, không nói một câu...
Chính tình yêu đó, cuối cùng, vượt qua mọi trở ngại, "Kim - Kiều" đã lại tái hợp, tạo nên một đôi uyên ương nổi tiếng trong làng ca nhạc Sài Gòn một thời. Văn Phụng - Châu Hà có với nhau 2 người con gái (với người vợ trước ông có 5 gái, 1 trai).
Sau 1975, Văn Phụng định cư tại Mỹ, ở đường Baclick, Springfield, Virginia . Văn Phụng mất ngày 17/12/1999, để lại khoảng 60 ca khúc.
Các Anh ĐiVăn Phụng
Khuyết Danh
Các anh đi, ngày ấy đã lâu rồi
Các anh đi, đến bao giờ trở lại
Xóm làng tôi trai gái vẫn chờ trông
Làng tôi nghèo nho nhỏ ven sông
Gió bấc lạnh lùng thổi vào mái rạ
Làng tôi nghèo gió mưa tơi tả
Trai gái trong làng vất vả ngược xuôi
Các anh đi, mái ấm nhà êm
Câu hát tiếng cười rộn ràng trong xóm nhỏ
Các anh về, tưng bừng trước ngõ
Lớp lớp đàn em hớn hở theo sau
Mẹ già bịn rịn áo nâu
Vui đàn con ở rừng sâu mới về
Làng tôi nghèo xóm nhà tre
Các anh về không chê làng tôi bé nhỏ
Nhà lá đơn sơ nhưng tấm lòng rộng mở
Nồi cơm nấu đỗ
Bát nước chè xanh
Ngồi vui kể chuyện tâm tình xa xôi
Các anh đi ngày ấy đã lâu rồi
Xóm làng tôi còn nhớ mãi
Hỡi đoàn người trai trẻ đấu tranh
Các anh đi, ngày ấy đã lâu rồi
Các anh đi, đến bao giờ trở lại
Xóm làng tôi trai gái vẫn chờ trông
Xóm làng tôi trai gái vẫn chờ trông
Xóm làng tôi trai gái vẫn chờ trông
Tài liệu tham khảo: Tình Yêu & Quê Hương - Nhạc Tuyển 2
(Văn Phụng - Đan Thọ - Nhật Bằng - Nguyễn Túc / Virginia 1996)