Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 06:29:22 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Phong thủy và hào khí Thăng Long  (Đọc 18576 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
meolangthang
Thành viên
*
Bài viết: 28


« Trả lời #10 vào lúc: 31 Tháng Tám, 2010, 12:37:09 am »

Chuyện của bác nếu nhìn từ khía cạnh khoa học thì có thể nói là chưa có căn cứ thật,nhưng nếu nhìn từ khía cạnh tâm linh thì cũng đáng quan tâm lắm đây.theo em cái vụ trấn yểm này là có thật,chúng ta cần quan tâm đến vấn đề này nhiều hơn,mặc dù nó chưa có cơ sở nào gọi là khoa học cả.dã tâm của bọn cướp nước TQ là muốn cho nước Nam ta không còn người tài mà,chúng muốn cai trị nước ta nên những việc làm này không thể không có.Và rất mong các bác giúp đỡ em hiểu rõ hơn về cái thế" rồng chầu " của thủ đô ta nhé!em chưa được tiếp cận với những tài liệu trên.
Logged
lonesome
Moderator
*
Bài viết: 1244


« Trả lời #11 vào lúc: 31 Tháng Tám, 2010, 08:00:52 pm »

Chẹp, lại thêm vụ trấn yểm sông Tô Lịch nữa hả các bác? Em mời các bác sang khai quật mộ cổ với em:
- http://dev.ttvnol.com/f_533/621654

- http://dev.ttvnol.com/f_69/858131
(Còn 1 cái mộ nữa em tìm chưa ra, sẽ cập nhật sau vậy)
Logged
meolangthang
Thành viên
*
Bài viết: 28


« Trả lời #12 vào lúc: 01 Tháng Chín, 2010, 02:08:50 am »

cảm ơn sự giúp đỡ của bác!!!.còn thông tin nào nữa bác giúp em nốt luôn nhá Grin
Logged
ChimViet
Thành viên
*
Bài viết: 58


« Trả lời #13 vào lúc: 10 Tháng Chín, 2010, 05:11:39 pm »

Cái Link bác Lonesome cho tôi ko vào được ( server error)
Gần 1000 năm ThăngLong cũng nghe khối chuyện vui. Trên báo thì có chuyện "Khổng Minh" đoán 10 ngày sẽ mưa liền. Ngoài lề thì nghe nói có "cuộc chiến" tâm linh đấy.
Chắc chắn ít nhiều cũng phải có chuyện.
Logged
minh91
Thành viên

Bài viết: 2


« Trả lời #14 vào lúc: 11 Tháng Chín, 2010, 02:21:08 pm »

Chuyện thầy Thích Viên Thành thì mình được người em mình kể như sau: Hắn chính là phóng viên ở tòa báo in cái bài báo Thánh vật ấy (hình như là báo Pháp luật thủ đô thì phải). Tất cả các bài viết đấy (trừ bài cuối cùng) là do người khác viết bên tòa báo chỉ kiểm tra morat và thông tin trên báo rồi đăng thôi tiền trả cho mỗi bài cũng là khá lớn vào thời điểm ấy. Bên tòa báo trước khi đăng thì đều phải đi xác minh lại các thông tin mà báo mình đăng vì bài viết không phải do phóng viên nhà mình viết ra, nhỡ mà đăng bậy dễ ăn đòn lắm.
Chuyện về hòa thượng Thích Viên Thành thì bản thân bên ban VHTT có xuống làm việc là có việc thầy xuống đấy làm lễ hay không (ý là không có mà dám đăng bậy phải xử lý mấy chú này ..hehe), thì chính bọn hắn đã đi xác minh rồi và trưng ra băng ghi âm lời của bà thủ từ đền Đô. Bà này xác nhận là thầy Thích Viên Thành có đến đấy, gửi đồ ở chỗ bà ý và còn đọc vanh vách danh sách đồ mà thầy gửi chỗ bà ý. Tuy nhiên, bà này không xác nhận là thầy Thích Viên Thành có làm lễ hay không.
Về phong thủy Hà Nội mình cũng sưu tầm được bài viết hay hay post cho mọi người cùng xem:
ÐỊA THẾ PHONG-THỦY CỦA HÀ-NỘI, HUẾ, SÀI-GÒN VÀ VẬN MỆNH CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM.
Từ xưa đến nay, việc lựa chọn một khu vực thích hợp và thuận tiện làm thủ đô bao giờ cũng là một vấn đề vô cùng quan trọng, có liên quan đến sự sống còn của một chế độ hay có khi của cả một dân tộc. Bởi thế nên từ hơn 3, 000 năm về trước, các vua chúa Trung Hoa đã biết dựa vào thuật Phong thủy để tìm kiếm những vùng đất tốt đẹp cho việc đóng đô lập quốc. Có lẽ điều nầy giải thích lý do tại sao các triều đại phong kiến Trung Hoa thường tồn tại rất lâu dài, bền bỉ. Và mặc dù cũng phải trải qua những giai đoạn suy tàn, ly loạn, nhưng sức mạnh và nền văn minh của họ vẫn tiếp tục được duy trì và phát triển cho tới bây giờ, chứ không bị tàn lụi hẳn như những đế quốc cổ đại và trung đại khác như Ai Cập, Hy Lạp, La Mã, Mông Cổ, Ả Rập.....  Riêng đối với dân tộc Việt Nam của chúng ta, từ lúc sơ khai của thời kỳ Hùng Vương cho tới nay, thủ đô của đất nước đã được dời đi, đổi lại nhiều lần, và vận mệnh của dân tộc cũng vì thế biến đổi theo. Từ Phong Châu (kinh đô của các vua Hùng) đến Cổ Loa, Phiên Ngung, Hoa Lư, rồi tới Thăng Long (tức Hà Nội), Phú Xuân (tức Huế) và Sài Gòn. Tùy theo địa thế và vận khí riêng biệt của mỗi thành phố trên, đất nước ta đã từng trải qua biết bao nhiêu giai đoạn thăng trầm. Khi thì vươn lên với một nền văn minh rực rỡ của trống đồng Ngọc Lũ, Ðông Sơn; khi thì tàn tạ, yếu kém phải chịu đựng 1,000 năm Bắc thuộc. Rồi đến những lúc cường thịnh đủ sức phá Tàu, bình Chiêm Thành, Chân Lạp; lại có những lúc suy yếu phải chịu sự đô hộ, sai khiến của ngoại bang...

 Giờ đây, trong số những địa danh ấy, chỉ còn có Hà Nội, Huế và Sài Gòn là vẫn tiếp tục nắm giữ những vai trò quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội và giao thương, mậu dịch của đất nước. Bởi thế hôm nay, người viết muốn được trình bày về địa thế Phong thủy của 3 thành phố nầy, với hy vọng sẽ giúp bạn đọc thấy được sự liên quan mật thiết giữa địa hình của thủ đô với vận số của dân tộc. Ðồng thời, dựa vào những quy luật biến hóa tự nhiên của vũ trụ để xác định nhũng giai đoạn hưng vượng hoặc suy vong của đất nước trong quá khứ, hiện tại cũng như trong tương lai sắp tới.  Nhưng trước khi đi sâu vào vấn đề, người viết xin được đề cập sơ qua 2 chi tiết quan trọng của Phong thủy là Lạc Thư và Tam Nguyên- Cửu Vận. Những chi tiết nầy đã được trình bày tương đối đầy đủ trong bài " Phong thủy của vụ 9/11" trước đây (được đăng trên số xuân Nhâm Ngọ của báo Việt Tide và Chicago Việt báo), nên ở đây chỉ xin nói vắn tắt như sau:


* Tam Nguyên-Cửu Vận: là1 chu kỳ 180 năm, được lập đi, lập lại không ngừng. Mỗi một chu kỳ nầy được chia ra làm 3 (Tam) Nguyên, mỗi Nguyên là một giai đoạn dài 60 năm, và được đặt theo thứ tự là Thượng Nguyên, Trung Nguyên và Hạ Nguyên.
Mỗi Nguyên lại được chia làm 3 Vận: các Vận 1, 2, 3 thuộc về Thượng Nguyên; các Vận 4, 5, 6 thuộc về Trung Nguyên; và các Vận 7, 8, 9 thuộc về Hạ Nguyên.
Mỗi Vận như thế là 1 giai đoạn dài 20 năm.   
Ở đây, để tiện theo dõi những diễn biến lịch sử trong từng giai đoạn, người viết xin được giới thiệu với bạn đọc bảng Tam Nguyên-Cửu Vận của hơn 1,000 năm trở lại đây.  THƯỢNG NGUYÊN TRUNG NGUYÊN HẠ NGUYÊN 
Vận 1   Vận 2   Vận 3  Vận 4    Vận 5   Vận 6   Vận 7   Vận 8   Vận 9
964   984   1004   1024   1044   1064   1084   1104   1124
1144   1164   1184   1204   1224   1244   1264   1284   1304
1324   1344   1364   1384   1404   1424   1444   1464   1484
1504   1524   1544   1564   1584   1604   1624   1644   1664
1684   1704   1724   1744   1764   1784   1804   1824   1844
1864   1884   1904   1924   1944   1964   1984   2004   2024
2044   2064   2084   2104   2124   2144   2164   2184   2204
2224   2244   2264   2284   2304   2324   2344   2364   2384
2404   2424   2444   2464   2484   2504   2524   2544   2564
Những năm trong bảng đều là những năm khởi đầu của 1 vận. Ví dụ năm 964 là năm khởi đầu của vận 1, từ năm đó đến năm 983 đều nằm trong vận 1. Đến năm 984 mới bước vào vận 2.
Lạc thư:
                           B

                  6        1        8

            T    7        5        3     Đ

                  2        9        4

                            N
* Lạc Thư: là một đồ bàn hình vuông, bên trong có 9 số (còn được gọi là Cửu tinh), mỗi số tương ứng với mỗi Vận, đồng thời chiếm 1 vị trí và phương hướng nhất định như hình bên cạnh.
Như vậy, muốn biết được sự hưng, suy của một thành phố trong Vận nào, ta chỉ cần quan sát những khu vực tương ứng trong Lạc Thư là sẽ tìm ra được lời giải đáp.
Chẳng hạn như muốn biết khí số của Hà Nội trong Vận 7 như thế nào, trước hết ta cần nhìn vào Lạc Thư, sẽ thấy số 7 nằm ở phía Tây. Như vậy, chỉ cần quan sát địa thế sông, núi ở khu vực phía Tây Hà Nội, đồng thời đối chiếu với khu vực đối diện tức là phía Ðông thì sẽ tìm ra được kết quả chính xác.
 
Trên đây chỉ là chút khái niệm về Lạc Thư và Tam Nguyên-Cửu Vận, ngoài ra, bạn đọc cũng cần biết hai yếu tố căn bản để định quẻ là Nước và Núi qua ba điểm dưới đây:
a/ Phục Ngâm: là khu vực của chính Vận mà lại có Thủy, như Vận 7, số 7 nằm ở phía Tây, nên phía Tây được coi là khu vực của chính Vận, mà ở đó lại có Thủy (nước) tức là bị Phục Ngâm.


b/ Phản Ngâm: là khu vực đối diện với chính Vận mà lại có núi, như Vận 7, số 7 nằm ở phía Tây, mà phía Ðông lại có núi tức là bị Phản Ngâm.


c/ Chính Thủy: là Thủy nằm ở khu vực đối diện với chính Vận, như Vận 7, số 7 nằm ở hướng Tây, mà phía Ðông lại có Thủy tức là có Chính thủy.
Trong những cách kể trên, chỗ nào có Phục Ngâm, Phản Ngâm là có sát khí chiếu tới, nên sẽ mang nhiều tai ương, hoạn nạn đến cho thành phố. Còn chỗ nào có Chính thủy tức là được vượng khí chiếu tới, nên sẽ đem đến nhiều may mắn, thuận lợi.


Sau khi đã nắm được những diều cơ bản trên, mời bạn đọc hãy nhìn vào địa thế của 3 thành phố Hà Nội, Huế và Sài Gòn, để tìm hiểu những nguyên nhân đã tạo ra những chặng đường vinh - nhục cho đất nước ta trong suốt gần 1,000 qua.


Bản Ðồ Hà Nội 1/ HÀ NỘI: là thành phố nằm gần như ngay tại trung tâm của đồng bằng Bắc Việt, trên dải đất hẹp giữa con sông Hồng ở phía Ðông và sông Tô Lịch ở phía Tây. Ðối với Phong thủy, dải đất nầy chính là chân long, là nơi kết tụ được nhiều nguyên khí của địa hình sông, núi ở chung quanh.
Nhờ vậy, Hà Nội sẽ luôn luôn nắm được những vai trò quan trọng về chính trị và kinh tế đối với đất nước, chẳng những thế, trong các thời kỳ hưng vượng còn sản sinh ra những lãnh tụ tài ba, những anh hùng kiệt xuất.
 
Nếu nhìn lên bản đồ miền Bắc, ta sẽ thấy những con sông lớn như sông Cầu, sông Gầm, sông Lô ở phía Bắc; sông Ðà, ở phía Tây, sau khi chảy qua nhiều nơi cuối cùng đều nhập vào sông Nhị Hà chảy về Hà Nội.
Xa xa, dọc theo biên giới Việt-Hoa, những dãy núi trùng trùng, điệp điệp xuất phát từ miền Nam Trung Hoa đâm thẳng xuống dọc theo các phía Tây Bắc, Bắc và Ðông Bắc, tất cả cũng đều như muốn hướng về.
Ðây chính là thế "núi sông chầu phục" của Hà Nội, một địa thế Phong thủy tuyệt đẹp đến nỗi không một thủ đô nào của các nước trong vùng Ðông Nam Á Châu, (kể cả thành Bắc Kinh của Trung Hoa) có thể so sánh được. Không những thế, ngoài xa nơi phía Ðông và Ðông Nam, Hà Nội còn được đại thủy của vịnh Bắc Việt và Thái Bình Dương chiếu tới nên thần lực rất lớn, xứng đáng là thủ đô muôn đời của một quốc gia văn hiến hùng mạnh.
 
Nếu đem địa thế núi, sông, biển cả vừa kể trên đối chiếu với Lạc Thư, ta sẽ thấy Vận 1 chỉ là giai đoạn trung bình của Hà Nội. Vì mặc dù khu vực phía Bắc có nhiều sông ngòi tức là phạm phải cách "Phục Ngâm", bị sát khí xâm phạm, nên sẽ đem đến nhiều tai ương, loạn lạc. Nhưng tại đây cũng có nhiều dãy núi đâm thẳng xuống đem theo nhiều vượng khí nên chưa đến nỗi, vẫn còn nhân tài có khả năng ổn định, xoay chuyển được thời cuộc.
Bước sang Vận 2, tình thế mỗi lúc một suy thoái hơn, vì khu vực phía Tây Nam của Hà Nội tuy chỉ có sông Mã tức là bị "Phục Ngâm" trong trường hợp nhẹ. Nhưng phía đối diện (Ðông Bắc) lại có núi đồi trùng điệp tức là bị "Phản Ngâm", sát khí từ nơi đó sẽ tràn tới, khiến cho đất nước ngày càng trở nên hỗn loạn. May mà tại đây (khu vực phía Ðông Bắc) cũng có nhiều sông ngòi chằng chịt tức là đắc "Chính thủy", vượng khí vẫn còn đến với Hà Nội nên chưa đến nỗi bị suy vong.
Qua các Vận 3, 4, đại thủy của vịnh Bắc bộ và Thái bình Dương nơi phía Ðông và Ðông Nam sẽ tạo ra cách "Phục Ngâm", sát khí quá nặng nề, nên sẽ đưa đất nước ta vào tình trạng yếu kém, tàn tạ hơn bao giờ hết.
Phải đến khi bước vào Vận 5, nhờ địa thế "núi sông chầu phục", vượng khí của Hà Nội mới bắt đầu bùng lên mãnh liệt, và cùng với nó là sức mạnh và tinh thần quật khởi của dân tộc.
Qua Vận 6, Hà Nội sẽ phải đương đầu với những cuộc chiến tranh cực kỳ ác liệt, do các sông lớn như Nhị Hà, sông Ðà đều bắt nguồn từ phía Tây Bắc, nguồn nước lại rất lớn nên phạm phải cách "Phục Ngâm" rất nặng. May là cũng tại phía Tây Bắc lại có những mạch núi rất dài, rất cao tiến xuống, cuốn theo vượng khí ngút trời, đủ sức để trấn áp sát khí nên Hà Nội sẽ vượt qua được mọi thử thách để đi đến chiến thắng.
Nói chung là trong Vận 6, ngay cả những thế lực hùng mạnh bậc nhất trên thế giới mà đụng đến Hà Nội cũng đều sẽ rước lấy những thất bại thảm hại, ê chề.
Ðến Vận 7, những con sông Ðà, sông Mã ở phía Tây Hà Nội sẽ tạo ra nhiều sát khí (bị "Phục Ngâm"). Nhưng ngoài xa nơi phía Ðông lại có vượng khí của đại thủy mênh mông chiếu tới, lấn át được sát khí, nên tuy hay bị những biến động về chính trị, nhưng là một giai đoạn tương đối yên lành, sung túc.
Sang Vận 8, Hà Nội sẽ bước vào giai đoạn cực thịnh, sản sinh ra những lãnh tụ tài ba đem lại thanh bình và vinh quang cho đất nước.?
Trong giai đoạn nầy tuy cũng có chiến tranh xảy ra, do khu vực phiá Ðông Bắc có rất nhiều sông ngòi chằng chịt. Nhưng cảnh thái bình, thịnh trị, sẽ nhanh chóng được tái lập vì vượng khí của các dãy núi trong khu vực Ðông Triều-Cẩm Phả sẽ đem đến cho Hà Nội rất nhiều may mắn, thuận lợi. Sang tới Vận 9, thời kỳ hưng vượng vẫn tiếp tục được duy trì, cho tới khi bước sang Vận 1 thì những mầm mống loạn lạc mới bắt đầu tái diễn trở lại.
Nếu nhìn lại lịch sử thì ngay từ thời Bắc thuộc, một số tướng lãnh cai trị Trung Hoa có tầm hiểu biết sâu rộng về Phong thủy như Cao Biền đã bắt đầu để ý tới địa thế tốt đẹp của Hà Nội. Bởi thế nên ngay từ thời đó, họ đã cho xây thành ở khu vực nầy và đặt tên là thành Ðại La, nhưng ngôi thành nầy thường bị bỏ trống, ít khi được chú ý tới. Phải đến khi vua Lý Thái Tổ lên ngôi, ngài thấy Hoa Lư có địa thế quá nhỏ hẹp nên mới dời đô về đây và đổi tên là thành Thăng Long. Lúc đó là năm 1010, thuộc Vận 3 Thượng Nguyên, xét về vận khí thì đây chính là lúc suy vong của Hà Nội.
Nhưng cũng may cho nhà Lý là Hà Nội khi trước đã bị bỏ trống từ lâu, đến lúc đó mới được chọn làm đế đô nên vận khí chưa thể ảnh hưởng mạnh mẽ ngay đến cục diện của đất nước. Mặc dù vậy, trong suốt thời gian cai trị của Ngài (1010- 1028), giặc giã nổi lên khắp nơi, khiến cho nhà vua và các hoàng tử phải luân phiên nhau đi đánh dẹp mới giữ vững được quốc gia và bảo tồn được ngôi báu cho nhà Lý.
 
Khi vua Thái Tổ qua đời, Thái tử Phật Mã lên nối ngôi (1028), hiệu là Lý Thái Tông, lúc đó đang ở trong Vận 4 Trung Nguyên. Ngay lúc đó, Ngài đã phải lo đối phó với cuộc tranh dành ngôi báu của các hoàng tử khác, nhờ có danh tướng Lê phụng-Hiểu phò tá nên Ngài mới dẹp yên được cuộc nổi loạn đó.
 
Năm 1038, cũng trong Vận 4, Nùng tồn Phúc nổi loạn ở Lạng Sơn, tự xưng là Hoàng đế, thanh thế rất lớn, khiến vua Thái Tông phải thân đi chinh phạt mới dẹp yên được.
 
Năm 1044, bước sang Vận 5, vượng khí đã bắt đầu dến với Hà Nội, vua Thái Tông đem quân đi đánh Chiêm Thành. Quân ta đại thắng, chiếm được kinh đô Phật Thệ của nước Chiêm.
 
Năm 1048, cũng trong Vận 5, Nùng trí Cao (con Nùng tồn Phúc) lại nổi loạn ở Lạng Sơn, âm mưu dựa vào nhà Tống bên Tàu để chống lại nhà Lý. Nhưng vì lúc đó nhà Tống đang suy yếu, chưa muốn sinh sự với Ðại Việt, nên âm mưu nầy bị thất bại. Sau đó, Nùng trí Cao bị nhà Lý đánh phải chạy sang Tàu cướp phá, rồi bị tướng nhà Tống là Ðịch Thanh dẹp tan.
 
Năm 1068, trong Vận 6 Trung Nguyên, biết được Chiêm Thành bí mật liên kết với nhà Tống, không chịu thần phục nước ta, vua Lý Thánh Tông cùng với Lý thường Kiệt bèn cất quân đi chinh phạt. Quân ta đại phá quân Chiêm, bắt được Chiêm vương là Chế Củ. Sau cuộc chiến nầy, Chiêm Thành không những bị bắt buộc phải thần phục nước ta, mà còn phải cắt 3 châu (hay 3 tỉnh) dâng nạp để tạ tội. ?
 
Vào cuối năm 1075, cũng trong Vận 6, thấy nhà Tống có ý muốn đánh nước ta, Lý thường Kiệt liền dẫn quân sang đánh chiếm Khâm châu, Ung châu và Liêm châu của nhà Tống, phá hủy mọi căn cứ và những kho tàng quân sự rồi rút về.
Ðầu năm sau, vẫn trong Vận 6, vua Tống cử Quách Quỳ làm đại tướng, ồ ạt dẫn quân sang đánh nước ta báo thù, nhưng bị Lý thường Kiệt chận đánh kịch liệt bên bờ sông Như Nguyệt, suốt mấy tháng trời không tiến binh nổi. Thấy lực lượng bị hao mòn nhiều và biết không thể thắng nổi nước ta, Quách Quỳ bèn chấp nhận giảng hòa rồi rút hết quân trở về.
 
Năm 1103, vào cuối Vận 7, Lý Giác khởi loạn ở vùng Nghệ An, rồi liên kết với cả Chiêm Thành, Lý thường Kiệt phải tự đem quân vào đánh mới dẹp yên được.
 
Trong suốt Vận 8 (1104 - 1123), nước ta sống trong cảnh thái bình thịnh trị.
 
Bước sang Vận 9, vào những năm 1128, 1132, 1135, Chân Lạp nhiều lần cho quân ra quấy phá Nghệ An, nhưng đều bị nhà Lý dẹp tan nên cuối cùng lại xin thần phục.
 
Năm 1138, vào cuối Vận 9, vua Lý anh Tông mới có 3 tuổi lên ngôi, nhưng nhờ có ông Tô hiến Thành là một trung thần tài ba phò tá nên trong suốt thời gian cai trị của ngài (1138 - 1175, tức là từ cuối Vận 9 qua tới giữa Vận 2), đất nước vẫn tương đối được ổn định. Ðến khi Tô hiến Thành qua đời (1179), nhà Lý bắt đầu bước vào thời kỳ suy vong.
Dưới thời vua Lý cao Tông (1176 - 1210, tức là từ giữa Vận 2 cho đến giai đoạn đầu của Vận 4), giặc giã nổi lên như ong, trong triều đình từ vua tới quan đều bất tài, không đối phó nổi với tình thế.
Năm 1208, Quách Bốc nổi loạn, rồi đem quân về đốt phá kinh thành, khiến vua Cao Tông phải dẫn Thái tử Sam bỏ chạy. Sau phải nhờ Trần Lý đem quân về dẹp loạn mới lấy lại được kinh đô, nhưng quyền bính lại lọt hết về tay họ Trần. Trong suốt thời gian còn lại của Vận 4 (1210 - 1223), vương quyền của nhà Lý mỗi lúc một suy yếu, tàn tạ.
Ðể rồi vào năm 1225, Trần thủ Ðộ diệt nhà Lý, đặt cháu là Trần Cảnh lên làm vua và lập ra nhà Trần.
 
Khi nhà Trần được sáng lập thì cũng là lúc mới bước vào Vận 5, vượng khí bắt đầu đến với Thăng Long (Hà Nội), nên đây là lúc mà sức mạnh của đất nước được bộc phát trở lại. Nhưng triều đình nhà Lý đã quá suy nhược, hèn yếu, do đó phải nhường chỗ cho một thế lực chính trị khác, có đầy đủ khả năng và nghị lực, để dẫn dắt dân tộc tiến lên.
Rồi ngay từ những ngày đầu, Trần thủ Ðộ đã tiến hành nhiều cuộc canh tân, cải cách, diệt trừ nội loạn (kể cả việc giết hại con cháu họ Lý).
Nhờ thế nên chẳng bao lâu, các nền chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội trên đất nước ta đều được khôi phục và phát triển trở lại. Nhưng trong lúc đó, xứ Mông Cổ cũng đang nổi lên thành một thế lực đế quốc hùng mạnh bậc nhất trong lịch sử thế giới, đánh chiếm được hầu hết Á Châu rồi tràn sang đến tận vùng Ðông Âu. Sau khi đã chiếm được phần lớn đất đai của Trung Hoa, Mông Cổ bắt đầu dòm ngó tới Việt Nam.
 
Năm 1257, trong Vận 6 Trung Nguyên, chúa Mông Cổ là Hốt tất Liệt phái danh tướng Ngột-lương-hợp-Thai đem quân đánh chiếm nước Ðại Lý (Thuộc tỉnh Vân Nam bây giờ), rồi sau đó tiến xuống chiếm luôn Việt Nam. Ngột-lương-hợp-Thai tiến binh rất nhanh, chỉ trong 1 tháng đã diệt được nước Ðại Lý, rồi thừa thắng tiến vào nước ta.
Trước sức mạnh của quân địch, vua tôi nhà Trần phải bỏ Thăng Long rút về Hưng Yên, áp dụng chiến lược "vườn không nhà trống" để đối phó. Chẳng bao lâu sau, khi thấy quân Mông Cổ suy yếu vì không được tiếp tế lương thực, thuốc men đầy đủ, nhà Trần mở cuộc tổng phản công, đánh bại quân địch ở Ðông bộ Ðầu, khiến cho Ngột-lương-hợp-Thai phải rút quân tháo chạy về Vân Nam.
 
Sau chiến thắng nầy và cho đến hết năm 1283, tức là từ giữa Vận 6 cho đến hết Vận 7, nhà Trần phải trải qua cuộc đấu tranh đầy cam go và thử thách về ngoại giao với nhà Nguyên (tức đế quốc Mông Cổ).
 
Ðầu năm 1285, thuộc Vận 8 Hạ Nguyên, Hốt tất Liệt sai thái tử Thoát Hoan đem 50 vạn quân sang đánh nước ta lần thứ hai. Ðây chính là lúc vận khí của Hà Nội đang trong giai đoạn cực thịnh, nên mặc dù quân Mông Cổ tinh nhuệ và đông đảo chưa từng có, nhưng chỉ sau 5 tháng giao tranh, bọn chúng đã bắt đầu nao núng. Trước tình hình đó, quân ta phản công, đại thắng quân địch trong các trận Hàm Tử, Chương Dương, Tây Kết, Vạn Kiếp, giết Lý Hằng, chém Toa Ðô, còn Thoát Hoan phải chui vào ống đồng chạy về Tàu.
Quá căm tức vì cuộc thất trận nầy, vào cuối năm 1287, cũng trong Vận 8, Hốt tất Liệt lại sai Thoát Hoan đem 30 vạn quân sang đánh nước ta lần thứ ba. Nhưng lần nầy thì quân địch còn bị thảm bại nhanh chóng hơn, vì sau khi đoàn thuyền lương của chúng bị ta phá tan ở Vân Ðồn, Thoát Hoan đành phải chia quân thành 2 đường thủy-bộ rút lui. Ðạo thủy quân của địch bị ta chận đánh tan tành trên sông Bạch Ðằng, những danh tướng như Ô-mã-Nhi, Phàn Tiếp đều bị bắt sống. Còn đạo quân dưới sự chỉ huy của Thoát Hoan theo đường bộ rút về cũng bị chận đánh kịch liệt, các đại tướng như A-bát-Xích, Trương Ngọc đều bị tử trận, Thoát Hoan phải vất vả lắm mới vượt qua được ải Nam Quan trốn thoát.
 Xét về 2 cuộc đại thắng quân Mông Cổ của nhà Trần sau nầy đều xảy ra trong Vận 8, giữa lúc vận khí của Hà Nội đang đi đến giai đoạn cực thịnh. Lúc nầy, nhờ những dãy núi dài hàng ngàn dặm ở phía Ðông Bắc hướng tới, thần lực của Hà Nội thật vô cùng mãnh liệt, nên không một thế lực hùng mạnh nào có thể lay chuyển được. Bởi thế nên chẳng những tinh thần quật cường, bất khuất của cả dân tộc ta lúc đó đang bùng lên đến mức tột độ, mà những anh hùng tài ba lỗi lạc cũng xuất hiện rất nhiều.
Từ những vị vua như Trần thái Tông, Trần Nhân Tông, đến những danh tướng như Trần quang Khải, Trần khánh Dư, Trần nhật Duật, Phạm ngũ Lão....và đặc biệt là vị đại anh hùng dân tộc Hưng đạo Vương Trần quốc Tuấn. Chính vì thế nên dù cho đế quốc Mông Cổ có hùng mạnh đến đâu, quân đội của chúng có đông đảo, thiện chiến, tinh nhuệ tới mức nào đi nữa, khi bước đến Việt Nam cũng không thể tránh được sự thảm bại.


 Sau 2 cuộc đại thắng nầy, nhà Trần hưởng cảnh thanh bình, thịnh vượng được hơn 40 năm (1288-1233), tức là từ những năm còn lại của Vận 8 (16 năm) qua hết Vận 9 vào đến giữa Vận 1. Duy chỉ có việc vua Trần gả công chúa Huyền Trân cho vua nước Chiêm, nhưng sau đó lại bắt về làm nảy sinh ra sự hiềm khích giữa 2 nước. Năm 1307, đầu Vận 9, Chiêm Thành đem quân sang quấy rối nước ta, nhưng bị nhà Trần đánh cho đại bại, Chiêm Vương Chế Chí bị bắt đem về giam ở Hà Nội.
Logged
lonesome
Moderator
*
Bài viết: 1244


« Trả lời #15 vào lúc: 02 Tháng Mười, 2010, 11:42:22 pm »

Cái Link bác Lonesome cho tôi ko vào được ( server error)
Gần 1000 năm ThăngLong cũng nghe khối chuyện vui. Trên báo thì có chuyện "Khổng Minh" đoán 10 ngày sẽ mưa liền. Ngoài lề thì nghe nói có "cuộc chiến" tâm linh đấy.
Chắc chắn ít nhiều cũng phải có chuyện.

Em mời bác:

- http://www.ttvnol.com/f_533/621654

- http://www.ttvnol.com/f_69/858131

- http://ttvnol.com/f_533/621654
@Bác minh91: bài của bác nó không mới bác ạ. Bác đợi em đào mộ 1 tý nhé.

Đât rồi bác ạ: "ÐỊA THẾ PHONG-THỦY CỦA HÀ-NỘI, HUẾ, SÀI-GÒN VÀ VẬN MỆNH CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM" http://ttvnol.com/hocthuat/598930
« Sửa lần cuối: 03 Tháng Mười, 2010, 12:08:51 am gửi bởi lonesome » Logged
Trang: « 1 2   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM