q.trung
Cựu chiến binh
Bài viết: 450
|
|
« Trả lời #107 vào lúc: 09 Tháng Tư, 2010, 10:44:50 am » |
|
Tamus: Dù màu xanh mà bố cháu lấy được là dù hàng, loại dù địch dùng để thả lương thực đạn dược, lọai này rất bền, các dây đai dù cũng được tháo ra lấy dây đan võng ,đan làn tặng chị em, dù pháo sáng màu trắng, không tốt bằng, các loại này dùng làm vỏ chăn bền nhẹ nhưng hay bị tuột vì trơn. anh Miên đã có một thời gian chuyển sang đặc công pháo binh, dùng H12 luồn sâu đánh giặc, nếu TM khai thác được rồi kể thì sẽ rất hay, có gì tôi sẽ bổ sung cho.
Tiếp theo phần tư liệu:
Chiến tranh bí mật bị báo chí tiết lộ.
Giữa tháng Hai năm 1970, Bắc Việt chiếm hầu hết Cánh Đồng Chum và lập những bộ chỉ huy sư đoàn trên mép Đông Cánh Đồng. Từ đấy, Cộng Quân tung quân về hướng Đông , Tây, Nam thăm dò sức phòng thủ của Vang Pao. Trong một cuộc đột kích táo bạo, một toán đặc công thâm nhập Long Cheng, đánh nổ 2 T-28 và một Cessna của Raven (phi đội săn mồi, làm nhiệm vụ tiền sát không lưu.) Xa hơn về phía Đông, xe tăng Bắc Việt lấn sâu vào thị xã Xiêng Khouang, đánh đuổi binh sĩ phòng thủ gồm những tân binh Hmong nhỏ tuổi, thiếu kinh nghiệm chiến đấu. Một tuần sau, Cộng quân chiếm Muong Soui, chế ngự con đường 7 dẫn ra khỏi Cánh Đồng Chum. Không còn gì ngăn chận Bắc Việt tiến thẳng đến Vientaine.
Godley gởi một công điện khẩn đến Washington xin B-52 dội bom vào một lực lượng khoảng 4000 quân Bắc Việt, đang di chuyển từ Muong Soui đến thủ đô. Kissinger cho rằng Bắc Việt đã vi phạm cái mà ông đã mô tả như là một "cân bằng mong manh", và khuyên Nixon cho lịnh sử dụng B-52.
Vào buổi chiều ngày 17 tháng Hai, pháo đài bay Mỹ thực hiện 36 phi xuất oanh tạc vào những cánh quân phía Nam Muong Soui và bộ tư lịnh sư đoàn ở phía Đông Cánh Đồng Chum.
Những phi cơ B-52 bay quá cao đến nỗi Bắc Quân không hề thấy. Đối với họ, các tiếng nổ có vẻ tự phát, như thể Trái Đất tự dưng nổ bùng lên hàng ngàn chỗ. Bầu trời đêm bốc cháyvới những tiếng nổ phụ. Dù con số không hề được chính thức xác nhận, Không Quân Mỹ ước tính rằng cuộc oanh tạc đã tiêu diệt hàng trăm quân địch. Vài ngày sau cuộc oanh tạc, Bắc Quân không dám ra khỏi Cánh Đồng Chum.
Một viên chức toà Đại Sứ tiết lộ tin tức cho báo chí. Hai ngày sau, một phúc trình về việc sử dụng B-52 xuất hiện trên tờ New York Thời Báo, mô tả cuộc dội bom như một hành động leo thang chiến tranh quan trọng chiến tranh Lào. Cuộc chiến bí mật đột nhiên trở nên tin tức nóng hổi. Hàng trăm ký giả, phóng viênở Sài Gòn ùn ùn kéo nhau qua Vientaine để săn tin.
Trong một nỗ lực nhằm che giấu, tòa Đại Sứ tổ chức một cuộc hướng dẫn du lịch, đưa các phóng viên đến những nơi xa chiến trường, đầu tiên đến Nam Paksé, và rồi Bắc Luang Prabang để tham quan văn hóa địa phương. Chẳng được mấy chốc, các phóng viên chán những đình chùa, lăng tẩm Phật Giáo và đòi hỏi được đến tiền tuyến, đặc biệt từ khi Kissinger mới đây nói rằng Mỹ có thể xét đến việc tung quân bộ chiến sang Lào nếu Bắc Việt thọc sâu hơn về hướng Nam về phía thủ đô. Các phóng viên muốn thấy các chứng cớ cuộc tấn công của bắc Việt, mục kích cảnh tàn phá, gặp các binh sĩ Lào thua trận và chụp hình các thương vong.
Để nhượng bộ, tòa Đại Sứ đưa các nhà báo đến Sam Thông để họ có thể ít nhất cập nhật công tác của họ từ Cánh Đồng Chum. Họ được gặp Edgar Buell, giám đốc trại tị nạn. Ông ta dẫn phái đoàn đi thăm các nhà thương, trường học trong trại và diễn thuyết về cái phạm vi khổng lồ của chương trình cứu trợ tị nạn bằng ngân sách rút ra từ thuế của người Mỹ.
Buell cũng làm như thế với các dân biểu, kẻ chưa từng được thấy Long Cheng. Chỉ một ngoại lệ xảy ra vào giữa năm 1967, khi phi trường Sam Thông đang phải tu bổ. Một phi công USAID bay 2 dân biểu đến Long Cheng, nơi các nhân viên CIA đeo kính râm đưa các vị khách này lên trực thăng chở họ đến Sam Thong như thường lệ. Các vị dân biểu này không hề nhận ra rằng họ đã đặt chân đến Long Cheng, đại bản doanh của quân đội bí mật CIA.
Cuộc tiếp dẫn (hướng dẫn du lịch) của Buell là một thất vọng to lớn. Không có bằng chứng chiến tranh ở bất cứ đâu. Ba ký giả quyết định tự thám hiểm bằng cách đi bộ trên một con đường mòn đầy vết bánh xe nhà binh. Dọc con đường là một lối mòn nhỏ khác do chân người tạo ra. các nhà báo tin rằng lối mòn này chắc chắn dẫn đến một nơi quan trọng nào đó. Có lẽ họ chẳng bao giờ đến được nếu không có một binh sĩ Hmong cho họ quá giang đến Long Cheng vì tưởng họ là CIA, người chỉ huy tối cao của họ.
Khi xe jeep vào căn cứ, các nhà báo lấy máy chụp hình chụp đủ mọi thứ: Máy bay trên phi đạo, các dẫy quân xa, hệ thống truyền tin, phi công và cố vấn quân sự Mỹ và hàng ngàn binh sĩ Hmong. Một nhân viên CIA thấy các nhà báo, tịch thu máy chụp hình và cho họ biết sẽ có người từ tòa Đại Sứ đến chở họ bay về Vientaine.
Vang Pao vô cùng giận dữ về sơ hở an ninh. Ông ta cho rằng các ký giả nguy hiểm không kém quân địch. Ông định đưa họ lên xe jeep và cho nổ tung rồi đổ cho trọng pháo địch. CIA khuyến cáo ông rằng bất cứ một nguy hại nàm đến báo chí của một trong ba nước Anh, Pháp, Mỹ thì báo chí khắp thế giới sẽ công khai thành kẻ thù của Lào. Cuối cùng, Vang Pao nuốt giận, cho phép các nhà báo về Vientaine ngoại trừ máy ảnh và phim.
Vài ngày sau, vài bài báo viết về Long Cheng xuất hiện trên Bangkok nhật báo. Những câu chuyện này được các thông tấn ngoại quốc thu nhận và đăng tải trên tờ New York, Washington , mang lại lần đầu tiên hình ảnh thực sự về mức can thiệp của Mỹ trong chiến tranh Lào. Những bài báo kể lại những đoàn máy bay trinh sát, trực thăng đậu ở căn cứ, các oanh tạc cơ cất cánh, hạ cánh từng phút, các phi hành đoàn trong quân phục không lực Mỹ, các công thự dành cho nhân viên Mỹ dễ nhận ra bởi máy điều hòa không khí ló ra trên các cửa sổ và các hệ thống truyền tin khổng lồ của CIA.
Báo chí đòi hỏi Nixon thêm về thông tin các can thiệp Mỹ tại Lào. Nixon vẫn tránh né cho đến khi có người tiết lộ những phần trong điều trần của cựu Đại Sứ Lào, ông William Sullivan trước Ủy Ban Đối Ngoại Thượng Viện. Từng miếng từng miếng, các ký giả bắt đầu chắp nối lại với nhau thành khung cảnh đầy đủ của sự can thiệp Mỹ tại Lào. Ngày 8 tháng Ba năm 1970, Nixon thú nhận có 200 người Mỹ tử trận tại Lào và 200 người khác mất tích.
|