Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 18 Tháng Tư, 2024, 09:32:08 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Hồi ký Trường Sơn  (Đọc 111444 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #190 vào lúc: 24 Tháng Tư, 2010, 11:21:40 am »

*
*   *

Mùa khô. Những tảng đất sụp lở sục bùn khô nhanh rồi lan ra thành bụi. Bụi ngụt lên. Bụi đỏ. Đi suốt mùa mưa với dự cảm chất chứa. Dự cảm bốc cháy trong mùa khô. Nắng lau nhanh ướt át trên khuôn mặt của rừng. Các mắt lá ngước nhìn xanh hy vọng. Gió. Gió lồng lên phóng khoáng.

Câu chuyện của người mẹ chính uỷ Nguyễn Ngọc Chi ở miền Hội An bao năm chờ đợi con, mắt đã mờ loà, mùa này tự nhiên sáng trở lại, đã loang khắp đoàn. Má có biết con má đang cùng toàn đoàn tiến vào Tây Nguyên không?

Băng qua thung lũng Khâu Đức ngút ngàn ngô xanh, đường dây cắt "cua, hai đỏ". Men dốc tức "lò xo" đường dây xuyên chiều dài một rừng thông ẩn dật. Đi qua đây ngỡ như biển rất gần. Thông reo xao xác.

Nhịp độ thi công đơn vị vô cùng khẩn trương. Vừa qua Đắc Pék, mũi tên ghi dấu trên tiến độ thi công đã chỉ đến Đắc Ong. Đường dây xuyên qua bát ngát nương sắn, cách sân bay S... và đi tiếp. Các xe thông tin chuyển vào sâu hơn. Các đơn vị dây bọc cũng cùng một lúc triển khai khiến mạng thông tin càng dầy đặc. Lên Tây Nguyên, ta gặp bầu trời bao la mà bấy nhiêu năm với rừng già, ta không sao gặp nổi. Trên cao nguyên bằng bặn này, con đường thẳng như kẻ chỉ. Không khí huyên náo không ngớt đêm ngày trên Tây Nguyên.

Lúc này, anh Bàn, Phong, Quy đã theo đường giao liên Trường Sơn Tây tới Đắc Công. Tất cả chuẩn bị gấp. Tất cả tiểu ban kỹ thuật tung lên tuyến. Số thì vượt sông Pô Cô đến với đơn vị đang thi công tới Đắc Tô - Tân Cảnh. Số thì vượt đỉnh N... theo đơn vị làm tuyến cột gỗ vào đến Sở chỉ huy chiến dịch. Mặc máy bay ngày đêm tuôn bom trút đạn, toàn đoàn rạo rực thi công trong khí thế bừng lửa mùa khô.

Mùa xuân qua nhanh bởi khí thế sục sôi trên công trình. Sau đêm cả tiểu đoàn 86 đốt đuốc căng bám những thước dây cuối cùng, đúng ngày N + 1, đường dây xuyên Tây Nguyên hoàn thành. Cả tiểu ban kỹ thuật lại lao vào tổ chức nghiệm thu cùng đơn vị.

Đoàn cán bộ cùng đoàn trưởng Võ Xuân Lam gấp rút bám sát đợt nghiệm thu. Chiếc com măng ca lao vùn vụt qua gầm sông Pô Cô. Nước Pô Cô mùa này cạn trong vắt nhìn thấy đá lô nhô dưới dòng sông. Con sông cùng người lái đò A Sanh đã chảy vào bài hát suốt thời sinh viên, bây giờ tôi mới gặp. Càng đi, càng thấy yêu vô cùng đất nước. Trường Sơn quen thuộc đã ngấm vào máu thịt người lính chiến trường.

Mát ga thế nào mà người lái xe đưa chúng tôi vượt qua Cống Ba Lỗ, nơi đường dây tạm dừng lúc nào không hay. Nếu không có người gác đường đơn vị bộ binh ngăn lại, có khi xe đã lao vào thị xã Kon Tum rồi. Từ đây vào Kon Tum còn bao xa đâu.

Dọc đường, anh Lam phấn khởi nói chuyện suốt. Từ phòng công trình, anh Lam được điều xuống làm trưởng đoàn Lam Sơn khoảng hơn nửa năm nay. Anh chỉ huy đoàn đúng vào giai đoạn cuối cùng lịch sử. Anh là người biết tận dụng và nhìn khá rõ khả năng của lựclượng kỹ thuật hơn cả. Điều gì nắm chưa chắc, anh đều hỏi chúng tôi. Xông xáo, táo bạo, quyết đoán, thương yêu và tin cấp dưới, đó là tính cách chỉ huy của anh.

Đứng dưới cột trung kế, chúng tôi nghẹn ngào khi nghe chuông máy lẻ báo thông mạch trên các đôi dây. Đêm ấy, tôi không sao ngủ được. Sự kiện đường dây và vẻ đẹp của nó đã khiến tôi thao thức, muốn hát lên điều gì. Chớm sáng, tôi đã bừng tỉnh. Tiếng bầy chim két ríu rít gợi lên một âm hình đẹp đẽ. Cảm xúc như một trái chín ngắt được. Mê mẩn một mình, tôi đã viết xong bài hát "Mùa xuân đường dây qua Tây Nguyên".

Chỉ sau đó ít ngày, ta bắt đầu đánh Gia Nghĩa. Bất ngờ, ngày 12-3-1975 ta tấn công Buôn Mê Thuột. Đòn thảm bại của kẻ thù năm 1975 bắt đầu.
(Rút trong tập Đường Hồ Chí Minh)
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #191 vào lúc: 27 Tháng Tư, 2010, 01:22:01 pm »

Thượng tướng Hoàng Minh Thảo
SUY NGHĨ TỪ NGÀY HỘI

Sân bay Buôn Ma Thuột rực rỡ nắng vàng. Từ trên cao, khi máy bay bắt đầu lượn những vòng hẹp để chuẩn bị hạ cánh, qua ô cửa kính, tôi đã nhìn rõ những khu phố đông đúc của thị xã, những khu rừng cà phê hoa nở trắng xoá, những dải đất mới vỡ đỏ au phơi dưới nắng trời.

Buôn Ma Thuột đó, vạm vỡ trẻ trung như một chàng trai Ê Đê để lộ những bắp thịt nở nang, rắn chắc đầy sức sống. Và dĩ nhiên rạng rỡ nụ cười, dang rộng đôi tay cởi mở chân tình đón bè bạn từ khắp nơi về dự hội.

Ngày hội tháng ba. Ngày hội mừng giải phóng. Mười năm nay, lịch lễ hội của các dân tộc Tây Nguyên đều có thêm một ngày hội mới, đó là ngày quê hương được giải phóng. Ngày mà sau hai cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ, đồng bào các dân tộc Tây Nguyên đã giải phóng quê hương mình và trở về đoàn tụ một quốc gia thống nhất, xã hội chủ nghĩa - Tổ quốc Việt Nam quang vinh.

Đoàn chúng tôi tới Buôn Ma Thuột với tư cách là khách mời của Tỉnh uỷ, ủy ban nhân dân và Mặt trận Tổ quốc tỉnh Đắk Lắc về dự lễ kỷ niệm mười năm chiến thắng Buôn Ma Thuột, mười năm tỉnh Đắk Lắc hoàn toàn được giải phóng. Thành viên của đoàn phần lớn là cán bộ, chiến sĩ thuộc các thế hệ bộ đội Tây Nguyên đã tham gia cầm súng đánh giặc cùng đồng bào các dân tộc Tây Nguyên trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ như các anh Phan Hàm, Đinh Đức Thiện, Đặng Vũ Hiệp, Nguyễn Năng, Trương Cao Dũng...

Cùng đi với chúng tôi còn có đồng chí thiếu tướng Bùi Quang Toản và đại tá Tần, đại diện cho cán bộ, chiến sĩ binh đoàn Tây Nguyên, một binh đoàn chủ lực, con đẻ của mảnh đất Tây Nguyên bất khuất kiên cường này.

Từ trên độ cao ngàn thước ngắm nhìn Buôn Ma Thuột phơi mình trong nắng xuân rực rỡ lòng tôi rưng rưng xúc động. Lại nhớ ngày nào từ đài quan sát của Sở chỉ huy chiến dịch Buôn Ma Thuột, chiếu ống nhòm nhìn vào thị xã trong khi những mũi đột kích của ta đang chiến đấu quyết liệt, giành giật với địch từng khu vườn, góc phố.

Lúc đó tôi và các đồng chí trong Bộ chỉ huy chiến dịch đều tin chắc ở thắng lợi, tin rằng có thể chỉ vài giờ đồng hồ nữa thôi bộ đội ta sẽ làm chủ thị xã, sẽ treo lá cờ bách chiến bách thắng của mình lên Sở chỉ huy sư đoàn 23 ngụy và trên những trụ sở hành chính của nguỵ quyền tỉnh Đắc Lắc. Nhưng nhìn thấy những cột khói đùn lên trong các khu phố lòng tôi vẫn bồi hồi xao xuyến.

Thị xã Buôn Ma Thuột xanh tươi như một đoá hoa trên cao nguyên đã ít nhiều bị làn phá. Tuy vậy, tôi vẫn tin rồi một ngày mai, khi miền Nam hoàn toàn được giải phóng, Buôn Ma Thuột nhất định sẽ hồi sinh, trở nên một thị xã tươi đẹp trên cao nguyên đất đỏ này. Điều mơ ước ấy của chúng tôi hôm nay đã trở thành sự thật.

Đón chúng tôi, ở sân bay là các đồng chí đại diện cho tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắc Lắc, là các cán bộ chủ chốt của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh.

Hầu hết là những gương mặt bạn bè, đồng chí thân quen từ những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tay bắt, mặt mừng. Niềm vui trào dâng trong từng khoé mát. Mười năm đã trôi qua. Đắc Lắc đang cùng các tỉnh Tây Nguyên vững bước đi lên trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, những người bạn chiến đấu năm xưa của chúng tôi bây giờ đã trở thành những đồng chí cán bộ tỉnh già dặn, nhiều kinh nghiệm "làm ăn". Tuy vậy vẫn giản dị và chân tình như xưa. Đồng chí Văn Cần hiện nay là bí thư tỉnh uỷ vui vẻ nói với chúng tôi:

- Nghe tin các thủ trưởng B3 (Bê ba) vào dự lễ với bà con Đắc Lắc, nhiều đồng chí muốn ra đón nhưng công việc bận quá, bận ngập đầu, nên chúng tôi đành phải cử đại biểu. Bà con vùng căn cứ đều mong các anh sau khi dự lễ, bố trí thời gian về thăm bà con.

- Nhất định là như vậy - Anh Hiệp hồ hởi nói - Đã vào tới đây mà chỉ ngồi ở nhà khách của tỉnh thì bà con vùng căn cứ họ chửi chết. Mười năm mới có một lần, anh em bọn mình sẽ cố gắng tranh thủ đi một vài nơi đến xem mười năm giải phóng, Tây Nguyên đã thay đổi đến đâu rồi.

Chủ và khách cùng lên xe rời khỏi sân bay hoà nhập vào không khí sôi nổi, nhộn nhịp của Buôn Ma Thuột trước ngày hội lớn. Quảng trường mang tên ngày 10-3 đang được sửa sang và mở rộng thêm để làm nơi tổ chức cuộc mít tinh có diễu binh diễu hành lớn vào ngày 10-3. Ở ngã 6, trung tâm thành phố các nhà điêu khắc đang gấp rút hoàn thành những đường nét cuối cùng của tượng đài chiến thắng.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #192 vào lúc: 27 Tháng Tư, 2010, 01:22:41 pm »

Trên bục cao là chiếc xe tăng mang số hiệu 945 đang trong tư thế hành tiến. Chiếc xe tăng đầu tiên tiến vào Sở chỉ huy sư đoàn 23 nguỵ đã trở thành biểu tượng của chiến thắng. Nhìn thấy chiếc xe tăng oai hùng ấy lòng chúng tôi đều nao nao xúc động trước sự trân trọng chiến công, trân trọng lịch sử, trân trọng hình ảnh ngời chói của người chiến sĩ Tây Nguyên, của đổng bào các dân tộc Tây Nguyên.

Chúng tôi dành phần lớn thời gian rỗi rãi trước khi bước vào ngày lễ lớn để đi thăm bạn bè đồng chí. Những cuộc gặp gỡ cảm động đã diễn ra. Mỗi gương mặt bạn bè đồng đội đều gợi lại trong tôi biết bao kỷ niệm của những năm tháng chiến đấu đầy gian khổ trên chiến trường Tây Nguyên này. Tôi có cái may mắn được có mặt trên chiến trường này từ năm 1966 đến tháng 3/1975 - Quãng thời gian thật ngắn ngủi so với quá trình đấu tranh để đi đến chiến thắng trọn vẹn của đồng bào và chiến sĩ Tây Nguyên. Có thể nói, với tôi, Tây Nguyên đã là một mảng đời.

Sáng ngày 9-3, cùng với các vị khách, đoàn cán bộ chiến sĩ "bê ba" đã tới đặt vòng hoa trước đài tưởng niệm các liệt sĩ đã hy sinh trong trận Buôn Ma Thuột. Hương trầm nghi ngút, tiếng nhạc thiết tha, chúng tôi kính cẩn nghiêng mình trước linh hồn những người chiến sĩ hữu danh và vô danh dã hy sinh trong trận đánh lớn giải phóng Buôn Ma Thuột nói riêng và trong hàng ngàn vạn trận đánh quyết liệt lớn nhỏ đã diễn ra trong suốt mấy chục năm chiến đấu trên dải đất Tây Nguyên tươi đẹp này.

Lòng rưng rưng xúc động, tôi muốn nói với những người đã khuất rằng xương máu của các anh đã đổ xuống đất này đã đơm hoa kết trái. Tây Nguyên sau mười năm giải phóng đã và đang chuyển mình để đi lên trên con đường xây dựng chiến hào đánh Mỹ thì hôm nay đã là những nông trường mới, những khu dân cư đông đúc, nhộn nhịp.

Những đứa trẻ sinh ra trong những năm cuối cùng của cuộc chiến tranh máu lửa này, hôm nay đã cắp sách đến trường. Một thế hệ mới đã lớn lên. Thế hệ con đẻ của chủ nghĩa xã hội trên vùng đất cao nguyên bất khuất kiên cường này. Chính thế hệ đó sẽ tiếp tục thực hiện những điều mà các anh hằng ấp ủ, ước mơ trong suốt những năm dài đánh giặc.

Rời đài liệt sĩ, chúng tôi hoà vào dòng người náo nức, tất bật trước một ngày hội lớn. Ngày mai, ngày 10-3, cả thị xã Buôn Ma Thuột sẽ xuống đường. Nhân dân các buôn làng xa xôi cũng đã lục tục kéo về thị xã dự ngày hội lớn. Vẫn những bà mẹ địu con trước ngực và đeo gùi sau lưng như năm nào đi làm nương cách mạng, đi tải đạn, tải gạo cho bộ đội giải phóng. Đó là những chủ nhân của đất nước, của rừng núi Tây Nguyên hôm nay. Nhìn gương mặt rạng rỡ niềm vui của họ, tôi bỗng hiểu ra ý nghĩa sâu xa của hai chữ giải phóng.

Hôm nay chúng tôi hiểu một cách đầy đủ rằng, giải phóng và làm chủ cuộc đời mình, làm chủ đất nước mình là hai vấn đề không thể tách rời nhau. Mười năm được giải phóng cũng là mười năm người dân Tây Nguyên thực sự làm chủ quê hương rừng núi, làm chủ cuộc đời mình. Cuộc biểu dương lực lượng hôm nay đã chứng minh thành quả to lớn đó của cách mạng Việt Nam.

Tôi bỗng nhớ đến những buôn làng, vùng căn cứ Tây Nguyên ở phía bắc tỉnh Kon Tum. Khi bọn Mỹ nguỵ bắt đầu thực hiện chương trình bình định ở các tỉnh Tây Nguyên họ là những người đầu tiên rời bỏ buôn làng cũ của mình, rời bỏ nơi thờ cúng, chôn cất ông bà để vào sâu trong rừng, lập làng buôn mới. Thà sống giữa rừng sâu núi thẳm mà tự do, mà làm chủ cuộc sống của mình còn hơn là sống trong các ấp chiến lược của Mỹ nguỵ. Lý tưởng tự do của họ đã thúc đẩy họ đến với cách mạng một cách tự nguyện và nhanh chóng trở thành một lực lượng quan trọng của vùng căn cứ kháng chiến.

Những buôn làng ấy đã trở thành những điểm đỏ giữa rừng xanh, thành nơi đi về gần gũi của anh lính bê ba. Cá đã gặp nước, bộ đội và nhân dân Tây Nguyên đã gắn bó với nhau trên cơ sở lý tưởng giải phóng đã trở thành máu thịt. Qua hàng chục năm gắn bó với nhân dân được nhân dân và núi rừng che chở, bộ đội chủ lực Tây Nguyên đã lớn mạnh đủ sức đánh bại kẻ thù trên vùng đất chiến lược quan trọng này.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #193 vào lúc: 27 Tháng Tư, 2010, 01:23:18 pm »

Binh đoàn Tây nguyên đã ra đời và trở thành niềm tự hào của nhân dân các dân tộc Tây Nguyên. Các chiến sĩ Binh đoàn Tây Nguyên, mặc dù phần đông là con em nhân dân các tỉnh trong cả nước, vẫn tự hào về cội nguồn của binh đoàn, vẫn tự coi mình là con em các dân tộc Tây Nguyên.

Ở khu căn cứ mới của binh đoàn ở một tỉnh phía Bắc vừa khánh thành một khu nhà truyền thống của binh đoàn có sự đóng góp tiền của và công sức của đồng bào hai tỉnh Gia Lai - Kon Tum và Đắc Lắc. Hai mái nhà rông đồ sộ bằng các loại gỗ quý của núi rừng Tây Nguyên đã được dựng lên. Nhìn lại mái nhà rông sừng sững ấy, những người chiến sĩ mới nhập ngũ vào binh đoàn ngày hôm nay đều tự hào khi nhớ về cội nguồn, nhớ về Tây Nguyên bất khuất nơi binh đoàn đã được khai sinh.

Ngày hội mười năm giải phóng đã diễn ra trong không khí tưng bừng. Một ngày hội lớn chưa từng có trên đất. Tây Nguyên. Gần hai chục ngàn đồng bào đã tham gia diễu hành qua lễ đài gồm đủ đại diện cho các ngành, các giới, các địa phương các dân tộc của tỉnh Đắc Lắc. Đứng trên lễ đài, lòng tôi bỗng nao nao khi nhìn thấy khối nữ dân quân du kích của các dân tộc Tây Nguyên tiến vào lễ đài. Một khối diễu binh thật là độc đáo mặc dù năm 1954 đã có khối duyệt binh của nữ tự vệ Thủ Đô.

Khối diễu binh của chị em nữ du kích các dân tộc Tây Nguyên gợi cho tôi nhớ tới hình ảnh của các cô du kích, năm xưa từng sát cánh chiến đấu với bộ đội chủ lực Tây Nguyên. Gần một ngàn cô gái Tây Nguyên mặc quần áo sắc tộc, tiểu liên đeo trước ngực, bước đều rầm rập qua lễ đài kia sao giống với những Y Xuân, Y Leng, Rơ Chăm Pheng.. mà tôi vẫn thường gặp ở những căn cứ của các huyện vùng sâu năm xưa đến thế?

Sức mạnh của chiến tranh nhân dân đến hôm nay vẫn còn là một điều khó hiểu đối với các nhà nghiên cứu quân sự phương Tây. Nhưng đối với chúng ta, sự ý thức về sức mạnh ấy đã hình thành ngay từ khi Đảng ra ra đời và định ra đường lối đấu tranh cách mạng của mình. Nó được hoàn thiện và ngày càng phong phú sáng tạo trong quá trình tiến hành hai cuộc kháng chiến thần thánh tạo nên sức mạnh tổng hợp để đi tới thắng lợi cuối cùng.

Lễ đài cuộc mít tinh lại rền lên tiếng hoan hô khi đoàn thiếu niên nhi đồng con em của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên diễu qua lễ đài. Các em mặc quần áo đồng phục, tay vẫy hoa và tung những trái bóng màu lên bầu trời xanh thẳm. Chân bước theo nhịp trống cà rình, màu đỏ khăn quàng rực lên trong nắng cao nguyên.

Phút chốc, tôi muốn bước xuống lễ đài, ôm nắng cao nguyên vào lòng mà thốt lên: "Các em thật hạnh phúc vì được sinh ra và lớn lên trong vòng tay ôm áp của xã hội xã hội chủ nghĩa. Nhưng, khi lớn lên, dù ở đâu, làm gì, các em cũng đừng quên mảnh đất này, đừng quên quá khứ khổ đau của nhân dân Tây Nguyên và đừng quên biết bao máu xương đã đổ trên vùng cao nguyên đất đỏ này để cho cuộc sống sẽ mãi mãi xanh tươi".

Sẽ là người có lỗi nếu chúng tôi không giành lấy một ít thời gian để đi thăm đồng bào các vùng căn cứ kháng chiến của Tây Nguyên. Dĩ nhiên, chúng tôi không thể có điều kiện mà đi thăm lại tất cả bạn bè và đồng bào đồng chí đã từng cưu mang, giúp đỡ, kề vai sát cánh với mình, trong suốt một chặng đường đánh giặc. Những cuộc gặp gỡ với các đồng chí ở tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân các tỉnh Tây Nguyên đã gợi lại trong lòng chúng tôi biết bao kỷ niệm và thúc giục chúng tôi hãy lên đường trở về những suối nguồn trong mát của tình đồng bào, đồng chí thiêng liêng.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #194 vào lúc: 27 Tháng Tư, 2010, 01:23:53 pm »

Những người hăng hái nhất trong đoàn chúng tôi là trung tướng Đặng Vũ Hiệp, nguyên chính uỷ Bộ tư lệnh B3, bác Trương Cao Dũng, một "lão tướng" có mặt ở Tây Nguyên từ sau những ngày ta vừa mới giành chính quyền Tổng cách mạng tháng Tám 1945. Tuy đã về nghỉ hưu, nhưng khi nhận được lời mời của tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân các tỉnh Tây Nguyên vào dự lễ kỷ niệm mười năm ngày giải phóng Buôn Ma Thuột bác đã gặp gỡ cảm động giữa người cựu chiến binh này với bạn bè cũ nay đều đã phơ phơ đầu bạc. Có người hiện đang còn giữ những trọng trách ở các cơ quan lãnh đạo các tỉnh, có người đã về nghỉ hưu ở các buôn làng, nhưng khi gặp nhau họ vẫn giữ nguyên vẹn tình thân mật.

Anh hùng Núp đã khẩn khoản mời đoàn chúng tôi và đặc biệt là "Book Dũng" về buôn làng và lưu lại ít ngày để dự lễ đâm trâu đón mừng huân chương Hồ Chí Minh mà chính phủ vừa quyết định tặng cho đồng chí. Chúng tôi đành bỏ lỡ một dịp vui hiếm có vì công việc ở nhà không cho phép chúng tôi nấn ná lâu với đồng bào đồng chí trong này. Nhưng, dù sao chúng tôi cũng phải đi một vài nơi chứ. Nếu không biết ăn nói ra sao đồng bào đồng chí ở những vùng căn cứ?

Và chúng tôi đã lên đường. Hầu như suốt một tuần lễ dong duổi trên đường, với những cuộc họp mặt ồn ào, sôi nổi, qua mỗi chặng đường, chúng tôi đều như sống lại cả một chuỗi những kỷ niệm của một thời đánh giặc.

Con đường 14 xuyên cao nguyên năm xưa quá đỗi quen thuộc với chúng tôi trên bản đồ tác chiến, trong báo cáo các trận đánh và cả trong sự ghi nhận những tổn thất, hy sinh. Ngày nay, con đường 14 đã thực sự là con đường phồn vinh, con đường huyết mạch của cao nguyên. Dọc hai bên đường, nơi năm xưa cứ bình quân mỗi ngày diễn ra vài ba trận đánh lớn nhỏ, những khu dân cư mới mọc lên san sát. Đồi núi đã được quy hoạch. Đất đá vỡ hoang. Những khu rừng thông, rừng cà phê, cao su mới trồng đã lên xanh...

Tây Nguyên đang chứng minh sự tiềm tàng của mình để xứng đáng là một vùng kinh tế chiến lược như năm xưa đã từng chứng minh sự kiên cường bất khuất của mình vậy. Dọc hai bên đường, thỉnh thoảng chúng tôi lại gặp một vài nghĩa trang lớn. Đồng đội của chúng tôi còn nằm đó. Tôi tin rằng cứ ghé vào bất kỳ một nghĩa trang nào cũng sẽ đếm được những cán bộ, chiến sĩ của các đơn vị quen thuộc trong lực lượng vũ trang Tây Nguyên. Các anh vẫn nằm đó để hàng ngày chứng kiến sự thay da đổi thịt của cao nguyên và hẳn các anh hiểu rằng máu của mình đổ ra đã không hề uổng phí.

Thung lũng Sa Thầy đã ở trước mặt. Đỉnh Chư Mom Ray cao ngất đàn sừng sững ở trước mặt. Lòng chúng tôi bỗng rưng rưng. Đây chính là một trong những địa danh đã trở nên thiêng liêng đối với bộ đội Tây Nguyên. Ngày nào, anh lính B3 đã từng hát “Đường lên Chư Mon Ray, gặp mây bay con nhớ tóc Bác". Dọc hai bên bờ sông Sa Thầy biết bao nhiêu căn hầm đã được đào, biết bao nhiêu căn nhà, biết bao nương sắn? Và thung lũng Sa Thầy này, biết bao mùa khô đã rền vang tiếng súng? Bọn "kỵ binh bay" đã từng bị "đo ván" ở đây?

Chiến dịch Sa Thầy mùa khô 1966 - 1967 đối với tôi cũng là bài học đầu tiên về đánh Mỹ trên chiến trường Tây Nguyên. Ngày ấy, tôi vừa chân ướt chân ráo vào chiến trường, kinh nghiệm đánh Mỹ ở vùng núi hiểm trở như thế này chưa có bao nhiêu nên vô cùng băn khoăn khi một chiến dịch lớn đã diễn ra. Nhưng, các đồng chí đi trước, với những kinh nghiệm chiến thắng kỵ binh bay Mỹ ở Plây-me của mình đã nhanh chóng giúp tôi yên tâm, tôi vui mừng xiết bao khi hiểu ra rằng, Tây Nguyên hoàn toàn có điều kiện xây dựng bộ đội chủ lực tại chỗ, để tiến tới khả năng mở những chiến dịch tiêu diệt lớn.

Còn bây giờ, trước mắt chúng tôi thung lũng Sa Thầy hiện lên rực rỡ trong nắng vàng. Và, kỳ lạ thay, một thị trấn mới đã mọc lên ngay giữa thung lũng, nơi đã từng diễn ra những trận đánh quyết liệt giữa bộ đội ta với bọn lính Mỹ và lính Nguỵ Sài Gòn là huyện lỵ Sa Thầy. Điều đó thật vượt xa trí tưởng tượng của mỗi chúng tôi. Sa Thầy là cái nôi của bộ đội B3 - mọi chiến sĩ và cán bộ B3 đều biết cái tên đó. Trước kia thung lũng Sa Thầy là thuộc huyện 67 của tỉnh Kon Tum nay đổi lại là huyện Sa Thầy, mang đúng ý nghĩa địa lý và lịch sử của nó.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #195 vào lúc: 27 Tháng Tư, 2010, 01:24:30 pm »

Đồng chí Tư Gùm, bí thư huyện uỷ Sa Thầy đón chúng tôi ngay trước khu nhà mới xây của huyện uỷ. Dĩ nhiên, chúng tôi không bao giờ quên một Tư Gùm đã bao năm lăn lộn với phong trào vùng Bắc Kon Tum này. Một Tư Gùm mà hầu như mỗi làng, buôn ở vùng này, từ người già đến trẻ em đều biết tên. Tư Gùm hôm nay vẫn hoàn toàn như xưa, chỉ có điều tóc đã bạc thêm nhiều. Đó là điều không thể tránh khỏi nhưng tôi vẫn ngạc nhiên, không ngờ mười năm qua anh lại già đi nhanh hơn cả những ngày quyết liệt nhất của những năm chiến tranh.

Nhưng khi nhìn toàn bộ các "cơ ngơi mới" của huyện thung lũng Sa Thầy, tôi cũng hiểu ra một phần. Các anh đã phải gian nan vất vả bao nhiêu để dựng nên một thị trấn mới ở cái vùng heo hút gần biên giới này? Một thị trấn mới xây dựng mà không kém các thị trấn miền xuôi, có đường xe ô tô trải nhựa - có nhà máy thuỷ điện, v.v...

Thật may mắn cho chúng tôi, huyện uỷ đang có cuộc họp với cán bộ Đảng cơ sở. Chúng tôi có một cơ hội để gặp mặt đại diện hầu hết các buôn làng vùng căn cứ. Nhìn khắp hội trường, chúng tôi không nhận ra một đồng chí cũ nào. Tất cả đều là những cán bộ trẻ, mới trưởng thành, có lẽ không mấy người trên ba mươi tuổi. Sự nghiệp xây dựng dân sinh, đấu tranh với cái nghèo, cái lạc hậu của ngày hôm nay dĩ nhiên phải dựa vào lực lượng chủ lực này.

Tư Gùm say sưa kể cho chúng tôi nghe về những dự kiến tương lai, không ngờ anh bạn già này của chúng tôi vẫn còn sôi nổi, lãng mạn đến thế. Anh nói rằng các anh đang nghĩ đến việc xây dựng một thị trấn ở ngay vùng ba biên giới, nơi ngày xưa là căn cứ của Bộ tư lệnh mặt trận. Tôi tin ở điều đó và bỗng cảm thấy bồi hồi xao xuyến khi nhớ đến những làng buôn ở những vùng hẻo lánh xa xôi nơi ngã ba biên giới ấy với những căn nhà dựng tạm xác xơ, những đứa trẻ thiếu dinh dưỡng bụng ỏng đít vòn, những người mẹ nước mắt lưng tròng vì thiếu sữa cho con bú, thiếu ăn người gầy guộc ngồi tựa gốc cây trong khi trên lưng bà là gùi gạo mang cho bộ đội đánh giặc. Nhân dân ta đã hy sinh biết bao nhiêu để có ngày hôm nay.

Sau khi dự bữa cơm thân mật với huyện uỷ Sa Thầy và đại biểu các làng buôn vùng căn cứ chúng tôi lại hối hả lên đường tiếp tục cuộc "hành hương" trên quê hương chiến đấu của mình. Mỗi chặng đường qua trong tâm trí tôi lại gợi lên bao kỷ niệm ký ức như một dòng suối mát róc rách chảy trong tôi. Những tên đất, tên từng đỉnh núi, con sông, tên người nghiên cứu chiến dịch, những trận đánh, những cuộc họp hành thâu đêm suốt sáng. Những cuộc liên hoan mừng thắng lợi có thịt thú rừng và rượu cần, có kể khan và nhẩy múa của đồng bào các làng buôn... Tất cả như những dòng phù sa cứ mỗi ngày một bồi đắp thêm trong lòng tôi.

*
*   *

Ngày tháng trôi qua trí nhớ của tôi có lẽ không còn được minh mẫn như xưa, âu cũng là lẽ tự nhiên. Nhưng, tôi biết chắc chắn rằng ở mỗi con người bình thường đều có những khu vực nào đó của ký ức mãi mãi không thể phai mờ. Đó là những ấn tượng đậm đặc, những kỷ niệm máu thịt, những suy ngẫm chiêm nghiệm khi ta trải qua mỗi chặng đường đời.

Người Việt Nam chúng ta có một câu ngạn ngữ rất giản dị mà sâu sắc: ấy là câu "ăn cơm mới nói chuyện cũ”. Cái được coi là chuyện cũ ở đây không chỉ là cái đã qua, mà trong nội hàm của nó, còn có ý nghĩa là cái nguồn gốc tạo ra cái mới, tạo ra thành quả cho ngày hôm nay, đồng thời nó cũng có nghĩa là cái đã được gạn lọc, được chắt chiu suy ngẫm để truyền lại cho con cháu muôn đời.

Đứng ở góc độ này, tôi muốn nghĩ rằng những câu chuyện cũ mà tôi kể ở đây không phải là chuyện của riêng tôi. Đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ vĩ đại mà dân tộc vừa trải qua, bất kể sự đóng góp nào của cá nhân đều hết sức nhỏ bé. Ở đây, tôi muốn là một người kể chuyện một người kể chuyện có cái may mắn được chứng kiến những sự kiện lịch sử diễn ra trong phạm vi một chiến trường. Vả lại, những câu chuyện tôi kể đây đâu phải là chuyện cũ
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #196 vào lúc: 27 Tháng Tư, 2010, 01:25:07 pm »

Cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài hơn hai mươi năm mới chỉ chấm dứt cách đây mười năm. Những vết thương, những di hại của nó để lại vẫn còn nhức nhối cả những người có lương tri trên toàn thế giới. Riêng đối với nước Mỹ thì “cơn ác mộng" Việt Nam vẫn còn sờ sờ ra đó. Nhiều cựu chiến binh Mỹ từng chiến đấu ở Việt Nam đến nay vẫn còn bị lương tâm cắn dứt, vẫn còn bị "chứng mất ngủ bắt đầu từ Việt Nam” hành hạ, nhiều tướng lĩnh Mỹ, nhà học giả Mỹ và phương Tây vẫn đang bị dày vò, băn khoăn về nguyên nhân thất bại của một nước đế quốc hùng mạnh nhất, trước một nước nhỏ, kinh tế chậm phát triển. Những đứa trẻ mồ côi ở cả Việt Nam và Mỹ cũng đã đến tuổi trưởng thành và bắt đầu suy nghĩ về nỗi bất hạnh của chúng do cuộc chiến tranh "đã từng là vô đạo đức" (Giô Dep Amtơ - Lời phán quyết về Việt Nam. - Wel den A Baown - "Chiếc trực thăng cuối cùng kết thúc vai trò của Mv ở Việt Nam".) mà đế quốc Mỹ đã tiến hành ở Việt Nam.

Có lẽ vì cuộc chiến tranh Việt Nam đến nay mới thật "ngấm" vào lục phủ ngũ tạng của xã hội Mỹ, trở thành niềm khắc khoải không chỉ đối với nước Mỹ mà đối với cả thế giới phương Tây, nên những năm gần đây đã xuất hiện hơn năm trăm cuốn sách viết về cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam và Đông Dương. Người ta ước tính rằng trong vòng dăm mười năm nữa sách viết về Việt Nam có thể sẽ gấp đôi con số ấy.

Thế đấy! Đối với những kẻ gây chiến và nạn nhân của họ ở Mỹ, cuộc chiến tranh Việt Nam cũng chưa hề là chuyện cũ.

Đối với chúng ta, cuộc kháng chiến chống Mỹ vĩ đại như một đỉnh cao vòi vọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước mà độ lùi thời gian càng giúp ta có điều kiện để nhân ra sự hùng vĩ của nó. Mỗi ngày qua chúng ta lại phát hiện thêm những vẻ đẹp oai hùng của nó. Ngược lại đối với kẻ thù của chúng ta "những kết luận cuối cùng về thảm hoạ này (cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam) còn phải tranh cãi lâu dài". Bởi vì "sau buổi nhẹ nhõm ban đầu của cả những kẻ diều hâu và giới bồ câu sau khi cuộc chiến tranh kết thúc, hai bên đều bắt đầu buộc tội lẫn nhau. Hầu như người nào cũng có cách giải thích riêng về thất bại của chúng ta ở Việt Nam”

Ở bên kia đại dương, nước Mỹ đang chiêm nghiệm, cãi vã để tìm ra câu trả lời về sự thất bại thảm hại của mình trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Còn chúng ta, chúng ta cũng đã có thời gian để nhìn lại mình, tìm ra những bài học bổ ích, đặng đóng góp vào kho tàng phong phú về nghệ thuật đánh giặc giữ nước của cha ông ta.

Khi chúng tôi lên đường trở lại chiến trường cũ để cùng đồng bào các dân tộc Tây Nguyên tổ chức lễ kỷ niệm mười năm giải phóng Tây Nguyên thì tiếng súng ở biên giới phía Bắc Tổ quốc vẫn nổ rền. Công cuộc bảo vệ độc lập thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Đảng ta, dân ta đang đứng trước những thử thách lớn lao. Có lẽ nào những câu chuyện tôi sắp kể đây đã là chuyện cũ khi trong chiến hào chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở những vùng biên giới phía Bắc vẫn còn khá đông những đồng chí, đồng đội đã cùng chúng tôi kề vai sát cánh chiến đấu năm xưa trên những chiến hào đánh Mỹ.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #197 vào lúc: 27 Tháng Tư, 2010, 01:25:51 pm »

TIẾNG GỌI CỦA CHIẾN TRƯỜNG


Những năm đầu của thập kỷ sáu mươi (1960 - 1965) nước Mỹ phạm một sai lầm nghiêm trọng mà sau này tất cả các nhà nghiên cứu lịch sử và các nhà lý luận quân sự các chính khách và tướng lĩnh Hoa Kỳ đều xác nhận. Đó là việc để cho Lin Đơn Giôn Xơn bước vào Nhà Trắng sau cái chết của Ken-nơ-đi (11 - 1963 ) và việc quốc hội Mỹ đã thông qua "nghị quyết Vịnh Bắc Bộ", cho phép Giôn Xơn leo thang chiến tranh trên toàn cõi Việt Nam. 

Bằng thủ đoạn lừa bịp mà sau này đã được phơi bầy nhân vụ công bố tài liệu mật của Lầu Năm Góc (ngày 13-6-1971) do một quan chức cao cấp Mỹ là Đa-ni-en En-xbe tiến hành, Giôn Xơn đã thao túng các cơ quan lập pháp của Hoa Kỳ, buộc quốc hội Mỹ thông qua "bản nghị quyết tai hại" mà sau này được coi là "một sai lầm lớn nhất có tính chất lịch sử đối với ngành lập pháp Hoa Kỳ" như một chính khách Mỹ sau này đã nhận xét.

Với chính sách hiếu chiến của Giôn Xơn, cuộc chiến tranh Việt Nam bắt đầu bước vào một giai đoạn mới, ngày một quyết liệt hơn. Sau khi quốc hội Mỹ thông qua nghị quyết về sự kiện Vịnh Bắc Bộ, Giôn Xơn đã giành được đặc quyền tiến hành mở rộng chiến tranh trên cả hai miền Việt Nam.

Một mặt, Giôn Xơn liên tục cho không quân và hải quân Mỹ "leo thang" chiến tranh liền Bắc, một mặt ông ta bắt đầu nghĩ đến chiến lược mở rộng phạm vi hoạt động trên bộ của quân đội Mỹ ở Việt Nam song song với việc củng cố chính phủ Sài Gòn đang trong cơn khủng hoảng nặng nề sau một loạt cuộc đảo chính của giới quân sự. Tướng Nguyễn Khánh đang loay hoay trong cái mớ bòng bong của một chính phủ mọt ruỗng, chia rẽ xâu xé lẫn nhau.

Chiến lược của Giôn Xơn không có gì khác hơn là việc đẩy mạnh cường độ chiến tranh trên cả hai miền Nam Bắc Việt Nam mà mục tiêu của nó là hòng đánh gục ý chí của "Bắc Việt" và dập tắt mọi hy vọng thắng lợi của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam. Nhưng phải đến tháng 11 - 1964 khi Giôn Xơn được bầu lại làm tổng thống nước Mỹ thì những âm mưu đó bắt đầu được thực hiện với một tốc độ ngày một ráo riết hơn.

Cuộc chiến đấu của nhân dân ta đứng trước những thử thách mới. Lời kêu gọi kháng chiến chống Mỹ của Chủ tịch Hồ Chí Minh vang lên như một hồi kèn xung trận. 

“Dân tộc ta là một dân tộc anh hùng. Chúng ta đã từng đánh đổ phát xít Nhật, đánh bại thực dân Pháp, và hiện nay đang kiên quyết đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược

Chúng ta quyết tâm giành độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc, giành tự do hoàn toàn cho nhân dân.

Đứng trước nguy cơ giặc Mỹ cướp nước, đồng bào miền Bắc và đồng bào miền Nam đoàn kết một lòng, kiên quyết chiên đấu, dù phải chiên đấu 5 năm, 10 năm,20 năm hoặc lâu hơn nữa chúng ta cũng kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn".

(Lời kêu gọi thi đua sản xuất và chiến đấu chống Mỹ của Hồ Chủ Tịch ngày 20/7/1965).

Trong những ngày tháng sôi sục đó, tôi đang công tác ở Học Viện Quân Sự. Đối với một người đã từ lâu có ham thích học hỏi nghiên cứu nghệ thuật quân sự thì Học viện là nơi lý tưởng. Đây là nơi quy tụ những cán bộ chỉ huy, những nhà nghiên cứu chiến thuật, nghệ thuật chiến dịch có nhiều năng lực của quân đội ta.

Nhiều người được phân công về đây làm cán bộ giảng dậy, nhiều người từ các chiến trường về để tham gia nghiên cứu học tập những vấn đề mới mà thực tiễn chiến đấu đang đặt ra. Chính họ đã mang tới Học viện không khí náo nức sôi sục của các chiến trường, chính họ luôn đặt ra cho những người làm công tác giảng dạy nghiên cứu những vấn đề ngày càng trở nên bức thiết với cuộc chiến đấu ngoài mặt trận.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #198 vào lúc: 27 Tháng Tư, 2010, 01:26:31 pm »

Mỗi khi có những đồng chí mới từ các chiến trường về Học viện để học tập nghiên cứu hay phổ biến kinh nghiệm, thì chúng tôi thường tổ chức những cuộc gặp gỡ, trao đổi để qua đó nhận được từ họ hơi thở nóng ấm và những điều sục sôi của mặt trận. Sau mỗi cuộc gặp gỡ như vậy, những ấn tượng trong tôi thật sống động và thường thường kéo theo sau đó là những ngày trăn trở, những đêm mất ngủ về những câu hỏi vừa mới đặt ra.

Và, rồi trong học viện của chúng tôi đã lác đác có người được ra trận. Những cuộc tiễn đưa đó để lại trong tôi những băn khoăn, trăn trở mới... “Liệu rồi có đến lượt mình được ra mặt trận hay không? Liệu với độ tuổi như thế này, sức khoẻ như thế này mình còn có thể vượt Trường Sơn được hay không?!"

Vào một ngày đầu tháng 7-1966 tói được mời lên gặp đồng chí Song Hào. Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị để nhận nhiệm vụ mới. Vừa bước vào tới cửa anh Song Hào đã vừa cười vừa tiến lại. bắt tay tôi:

- Chúc mừng anh! Thế là anh toại nguyện rồi đó. Tôi muốn được chia xẻ niềm vui với anh nên mời anh lên đây. Những chi tiết của nhiệm vụ cấp trên sẽ thông báo với anh.

Thế là rõ. Tôi đã được cấp trên phân công vào công tác tại chiến trường Tây Nguyên với cương vị là Phó tư lệnh. Lúc đó đồng chí Chu Huy Mân là tư lệnh kiêm chính uỷ mặt trận Tây Nguyên. Tôi được biết trong Bộ chỉ huy mặt trận Tây Nguyên (B.3) trước đó có các anh Huỳnh Đắc Hương, Nguyễn Chánh, Đoàn Khuê, Cao Văn Khánh. Toàn là những đồng chí dầy dạn kinh nghiệm và giầu năng lực cả.

Rõ ràng Đảng ta và Bộ tổng tư lệnh đã nhận rõ tầm quan trọng chiến lược của chiến trường Tây Nguyên nên dã bố trí ở đó những cán bộ có năng lực của quân đội ta. Được sự giúp đỡ của các đồng chí ấy tôi có thể yên tâm vượt qua những khó khăn của buổi ban đầu... nhưng... dù sao đứng trước một nhiệm vụ vô cùng to lớn như vậy tôi vẫn rất lo lắng. Ngồi trên xe trở về Học viện, tôi phác nhanh trong dầu người kế hoạch làm việc của mình trong những ngày tới.

- Làm việc với Bộ tổng tham mưu để tìm hiểu tình hình chiến trường.

- Đặc biệt chú ý về địch ở chiến trường này.

- Đọc một số tài liệu về địa lý, xã hội phong tục tập quán của các dân tộc Tây Nguyên.

- Gặp gỡ một vài đồng chí ở Tây Nguyên để tham khảo ý kiến.

- Thu xếp bàn giao các công việc ở Học viện.

- Giải quyết một số việc gia đình, con cái trước khi lên đường.

Tóm lại trước mặt tôi là một loạt các công việc phải làm nhưng tôi không hề cảm thấy bối rối. Các đồng chí, đồng đội xung quanh tôi và cả gia đình tôi chắc chắn sẽ tìm mọi cách giúp đỡ tôi để tôi có thể hoàn thành mọi công việc chuẩn bị thật nhanh, gọn để sớm có thể lên đường ra trận.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #199 vào lúc: 27 Tháng Tư, 2010, 01:27:14 pm »

*
*   *

Mấy ngày sau tôi được mời lên gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp Bộ trưởng Bộ quốc phòng. Đại tướng Bộ trưởng đã dành phần lớn thời gian để nói về vị trí chiến lược của chiến trường Tây Nguyên và vai trò của bộ đội chủ lực Tây nguyên. Đại tướng nhấn mạnh:

"Muốn giành được thế chủ động chiến lược tại chiến trường này thì vấn đề sống còn là phải xây dựng cho được một lực lượng chủ lực tại chỗ đủ mạnh để đánh những trận tiêu diệt lớn tiến tới đủ sức chủ động mở những chiến dịch tiêu diệt lớn, đến giai đoạn nào đó của chiến tranh, bộ đội chủ lực đứng chlân trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên sẽ có những vai trò đặc biệt rất lớn đến cục diện chiến tranh. Rất có thể từ đất này ta sẽ tạo nên những bước ngoặt lớn của vùng chiến tranh”.

Gần chục năm sau năm 1975, diễn biến của chiến tranh đã hoàn toàn xác nhận lời tiên đoán đó của Đại tướng. Còn trong những ngày này, tôi xúc động khi được Đảng và quân đội giao cho nhiệm vụ quan trọng trên địa bàn chiến lược đó. Trước đồng chí Đại tướng Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, tôi đã hứa khi vào chiến trường sẽ dựa chắc vào các đồng chí đi trước để nắm tình hình chiến trường. Tích cực tham gia vào việc xây dựng bộ đội chủ lực Tây Nguyên, mở rộng địa bàn, tạo ra thế trận vững chắc để bám trụ chiến trường tiến tới đánh to thắng lớn.

Đại tướng còn nhắc nhở tôi rằng, muốn tạo được điều kiện để bộ đội chủ lực có thể rảnh rang xây dựng và tổ chức những chiến dịch lớn, phải xây dựng cho được những lực lượng vũ trang nhân dân địa phương vững mạnh và rộng khắp. Trách nhiệm này của bộ đội chủ lực Tây nguyên rất nặng nề vì những vấn đề về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân địa phương ở các tỉnh Tây Nguyên có những đòi hỏi đặc biệt và có nhiều đặc thù cần phải luôn luôn vận dụng sáng tạo đường lối quân sự, đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng để luôn luôn đáp ứng đúng với tình hình ở từng khu vực, từng địa phương và từng dân tộc khác nhau trong những thời kỳ cách mạng khác nhau.
Tôi ghi nhớ những lời căn dặn sâu sắc đó của Đại tướng và sau này trong quá trình chỉ huy chiến đấu ở mặt trận Tây nguyên, tôi đã có dịp để tìm hiểu, thể nghiệm và dần dần nhận ra sự sáng suốt của luận điểm đó.

Trước khi lên đường tôi còn làm việc vài lần với đồng chí Đại tướng Văn Tiến Dũng. Với tư cách là Tổng tham mưu trưởng, Đại tướng Văn Tiến Dũng đã giúp tôi tìm hiểu toàn bộ tình hình chiến trường và cũng luôn nhắc nhở tôi về tầm quan trọng chiến lược của Tây Nguyên. Trong một lần trao đổi về nhiệm vụ của tôi, đồng chí Đại tướng Tổng tham mưu trưởng đã nói: "Nếu muốn đi đến thắng lợi lớn thì trước hết phải xây dựng căn cứ địa Tây nguyên, phải nắm chắc địa bàn Tây Nguyên". Trong lần gặp gỡ cuối cùng, Đại tướng Tổng tham mưu trưởng đặc biệt quan tâm tới cuộc hành quân sắp tới của tôi. Rõ ràng đồng chí lo cho sức khoẻ của tôi khi tiễn tôi ra về, đại tướng nắm chặt tay tôi, im lặng một lát rồi nói:

- Ở vào tuổi chúng ta mà phải hành quân vượt Trường Sơn thì không phải là chuyện đơn giản nữa rồi. Tôi đã liên lạc với các đơn vị tuyến trong yêu cầu họ giúp đỡ anh. Nhưng trong cuộc ra trận này có lẽ anh phải tự lo lấy sức khoẻ của mình là chính anh Thảo ạ. Chúng tôi sẽ rất vui mừng khi nhận được tin anh vào chiến trường an toàn.

Những ngày còn lại trôi đi rất nhanh. Tôi đã cố gắng hết sức nhưng vẫn chưa hoàn toàn thu xếp xong những công việc riêng tư. Khác hẳn những cuộc ra trận năm xưa, lần này tôi không còn hồi hộp thấp thỏm nữa nhưng lại có nhiều điều cần phải quan tâm hơn. Vậy mà rốt cuộc tôi cũng không có thời gian để về thăm lại quê hương trước ngày ra đi. Đành rằng, phần lớn gia đình con cái của tôi đều đã chuyển ra Hà Nội từ nhiều năm nay, nhưng đối với tôi làng xóm quê hương nơi chôn rau cắt rốn vẫn có cái gì đó thật thiêng liêng.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM