chuongxedap
Đại tá
Bài viết: 13138
|
|
« Trả lời #40 vào lúc: 24 Tháng Tám, 2010, 10:41:42 pm » |
|
Trong bài Hòa từ năm 1861, ông đã nói:
“Hiện nay quân Pháp đã chỉnh cư Gia Định và các phủ huyện, họ đào kinh đắp lũy trù kế lâu dài để tỏ ra không chịu đi, như hổ đã về rừng, rồng đã xuống biển. Bây giờ như ta muốn cố thủ thành trì đợi cho họ tê liệt thì thật chẳng khác nào muốn quét sạch lá rừng, tát cạn nước biển. Không hòa mà chiến, khác nào cứu lửa đổ thêm dầu, không những không cứu được mà còn cháy nhanh hơn nữa.
(…)
“Nước ta tựa núi kề biển, địa thế như một con rắn dài. Nếu họ dùng hỏa thuyền chia nhau đánh cắt các tỉnh dọc bờ biển, lại cho các tàu đậu ngoài cửa sông lớn để triệt sự vận chuyển đường biển của ta, lại cho một đạo quân đóng giữ ở Hoành Sơn để chặn đường tiếp tế bằng đường bộ và cắt đường qua lại của đội quân Cần Vương, rồi lại đổ bộ tiến đánh các chỗ xung yếu, gấp rút truyền hịch khắp Nam Bắc, chiêu mộ bọn giặc cướp ẩn náu dùng làm bọn dẫn đường, thì thủy binh của ta sẽ thành vô dụng. Bộ binh thì đài lộ không thông. Chỉ còn đường Vạn Tượng, Ai Lao, Trấn Ninh và đất Cao Miên thì lại hiểm trở khó đi, mất nhiều ngày tháng, đầu đuôi không liên lạc được với nhau. Nếu họ đánh một trận thì ta đã bị cái thế chia năm xẻ bảy. Dù cho có trí dũng cũng không kịp ra mưu. Đại thế đã mất, lòng quân sĩ đã lìa thì còn ai đánh giặc nữa? Địa lợi như thế thì không thể trông cậy vào đâu được”. (Xem di thảo số 1).
Qua một bức thư tâm sự gởi cho Trần Tiễn Thành, viết từ Nghệ An, ngày 15-6-1866 (Di thảo số 15), chúng ta thấy là Nguyễn Trường Tộ đánh giá rất đúng về tình hình nước ta lúc bấy giờ. Ông than phiền rằng: “Những tình thế đất nước như vậy ở các nước khác người ta đã lo liệu hàng trăm năm rồi, mà nước ta mới thấy một ngày. Các nước làm thực sự mà ta thì chỉ nói suông”.
Trong một bản văn viết trước lúc lên đường vào Sài Gòn, đi công cán ở Pháp (Di thảo số 19, ngày 3-9-1866), Nguyễn Trường Tộ nói: “Ngày nay, nước ta đang bị ở vào cái thế xung đột Đông Tây tranh đoạt lẫn nhau nên có hai cái lợi là ở Nam thì Gia Định, ở Bắc thì Tứ Tuyên; nhưng lại có ba cái hại là Bắc thì Vân Nam, Nam thì nước địch, Trung thì có bọn bất mãn chạy Đông chạy Tây rồi lại tụ tập về một chỗ là như thế. Hiện nay ta chưa vội dùng thuật tung hoành để lập cái thế con rết trăm chân được, nên phải tùy thời giao thiệp thân mật với người Tây để tạm mượn thế lực của họ, để chống lại ba cái hại trên, để thu cái lợi bên phía Tây để dần dần lo kế sau này hoặc là khi gặp việc gì thì có thể cứu độ”.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
chuongxedap
Đại tá
Bài viết: 13138
|
|
« Trả lời #41 vào lúc: 24 Tháng Tám, 2010, 10:44:04 pm » |
|
THIẾT LẬP BANG GIAO VỚI CÁC NƯỚC Nguyễn Trường Tộ chủ trương tạm hòa với Pháp, tạm nhượng bộ Pháp, nhưng đồng thời cũng chủ trương phải mở rộng bang giao để không chỉ một mình đối đầu với Pháp. Trong bài Trần tình (Di thảo số 3), Nguyễn Trường Tộ đã nói: “ Tôi nghĩ rằng thời kỳ khôi phục nước nhà đã có xác chứng ở bốn bể dự tính được ở tương lai. Đi theo con đường nào mới được? Con đường phải theo không thể tìm ở trong nước, mà phải tìm ở trong thiên hạ. Như trong tờ bàn về việc hòa năm xưa, tôi đã mật trình với Nguyễn đại nhân rằng: Một là mình phải khéo léo ngăn chặn đừng để họ tìm cớ sinh sự làm lan rộng ra; hai là hãy thong thả sắp đặt đợi lúc họ sơ hở; ba là để dân thư thái củng cố sức lực”. Đầu năm 1864, khi phái bộ Phan Thanh Giản đi sứ ở Pháp về mang theo dự thảo Hòa ước mới. Trong bản dự thảo này cũng như trong bản Hòa ước cũ (5-6-1862) có khoản nói rằng: “ Nếu nước Việt Nam có ký kết một hiệp ước với một nước ngoài và trong hiệp ước đó có bao gồm việc nhượng đất đai, thì vua nước Pháp có đồng ý cho làm mới được làm (doãn hành tắc hành)”. Trong một bức thư gởi cho Phan Thanh Giản, tháng 3-1864 (Di thảo số 4), Nguyễn Trường Tộ cho đây là một điều khoản trói buộc Việt Nam, không khác gì áp đặt một hình thức bảo hộ. Sau này khi nói về thương thuyết một hòa ước mới với Pháp, ông đề nghị là phải xóa bỏ cho bằng được điều khoản này (Xem di thảo số 35, 36). Trong văn thư gởi cho Phan Thanh Giản nêu trên, ông đề nghị là “ cần phải tìm người giúp, bủa lưới bốn mặt, để họ không được hoành hành, thì bản minh ước mới được lâu dài (...) Cứ bủa vây bốn mặt rồi chờ khi có tệ (tệ này tôi đã dự đoán không sai, 10 năm sau sẽ thấy) mới có thể mưu đồ được”. Trong văn bản này cũng như trong bài Lục lợi từ, một hai tháng sau đó, Nguyễn Trường Tộ đề nghị tìm cách khai thác mâu thuẫn giữa người Anh và người Pháp để tìm cách giao dịch với người Anh, trông nhờ vào sự giúp đỡ của người Anh. Trong lúc vào Sài Gòn chờ tàu đi Pháp (cuối 1866), Nguyễn Trường Tộ đã tìm cách liên lạc với lãnh sự Tây Ban Nha và báo cáo với Triều đình là nên tìm cách mở quan hệ ngoại giao với Tây Ban Nha (Xem di thảo số 22). Sau này trong những lần Triều đình dự định cử sứ bộ sang Pháp (đầu năm 1868 và đầu năm 1871) để xin chuộc lại 6 tỉnh Nam kỳ, Nguyễn Trường Tộ đều đề nghị là phải tìm cách mở rộng bang giao với Anh, với Tây Ban Nha, với Nga... để rồi làm áp lực với Pháp, chứ không xin xỏ với Pháp. Đối với Nguyễn Trường Tộ, mở rộng bang giao với các nước quan trọng hơn việc đòi lại đất đai. Bởi vì không dễ gì mà Pháp trả lại đất đai cho mình, mà phải tạo thế bắt buộc chúng phải trả mà thôi (Xem di thảo số 36). Nhưng Triều đình vua Tự Đức không quyết định được gì cả. Nguyễn Trường Tộ đã phải đau xót nhìn các nước chung quanh mà thương cho nước mình. Trong một văn bản có lẽ là một trong những văn bản cuối đời của mình, Nguyễn Trường Tộ nói: “Xem Nhật Ban xưa là một lũ người lùn, từ Trung Diệp nhà Minh mới bắt đầu giao hảo với Hà Lan, làm bạn với Bồ Đào Nha, kế đến mời Hợp Chủng Quốc giúp vào việc nước, mở mắt nhìn rộng ra thiên hạ mới có được chí hướng lớn như vậy. Từ đó, họ đóng tàu bè, luyện tập võ bị, ưu tiên phát triển thương nghiệp, công nghiệp đất nước mỗi ngày một mạnh, được khen với mỹ danh là Tiểu Tây và Trung Quốc khó bắt được Nhật Bản phải thần phục. Tuy gần đây, Anh, Pháp thường hay quấy nhiễu nhưng nhờ có nền nội trị ngoại giao vững vàng mà họ không chịu hạ mình. Như trước đây ba năm, Anh, Pháp đem binh thuyền đến toan đàn áp, nhưng nhờ có Hợp Chủng Quốc, Hà Lan phân giải mà việc đã không xảy ra. Đó không phải là công dụng của sự giúp đỡ của các nước hay sao? Còn như ngày nay nước ấy có những kế hoạch giao thiệp rộng rãi, những mưu cơ tân tiến thì đâu đâu người ta cũng đã nghe thấy rõ ràng, gương ấy không xa, không cần phải nêu ra nữa.
“Còn như đối diện với nước ta là Xiêm La. Nước ấy trước đây chẳng có thế lực hùng mạnh gì. Nhưng từ khi người phương Tây quấy động khiến họ chợt tỉnh thức, bèn lấy Anh, Pháp làm bạn, lấy Ý, Bồ làm khách, mời hết tất cả các nước trên thế giới tới buôn bán, du lịch, còn nước ấy thì nghiễm nhiên thành một ông chủ nhà lớn đàng hoàng (...) Hiện nay nước ấy nhờ ngoại giao mà được lợi ích, ngày một nhanh chóng trở nên giàu mạnh, nội loạn không sinh, kẻ địch bên ngoài không đến, thuyền buôn qua lại trên mặt biển như mắc cửi, quan chức phân bố khắp các nước, dần dần đã lập được cái thế con rết trăm chân. Họ giàu có thịnh vượng thì họ hưởng, hà tất phải bàn bạc làm gì? Nhưng nước ta có một nước mạnh như vậy ở bên cạnh cũng rất đáng lo!” (Di thảo số 55).
|
|
|
Logged
|
|
|
|
chuongxedap
Đại tá
Bài viết: 13138
|
|
« Trả lời #42 vào lúc: 24 Tháng Tám, 2010, 10:48:08 pm » |
|
NHỮNG KẾ HOẠCH CỤ THỂ Chủ trương tạm hòa với Pháp, tạm nhượng bộ Pháp, nhưng Nguyễn Trường Tộ luôn luôn nghĩ đến cánh đánh đuổi Pháp. Trong cuối bài Tế cấp bát điều và sau này trong di thảo số 52, Nguyễn Trường Tộ đã nhắc lại: “ Khổng Minh trong những lúc nằm mơ chưa bao giờ không lập kế đánh địch. Tôi tuy thiếu tài ấy, nhưng thừa tâm huyết, không có bổn phận ấy, nhưng có chí ấy”. Trong các kế hoạch như đào kinh, xây cảng nói là để giao thông, để trừ giặc biển, nhưng trong thâm ý của Nguyễn Trường Tộ vẫn là tổ chức phòng thủ để ngăn ngừa sự lấn chiếm của Pháp. Trong các văn bản của mình, Nguyễn Trường Tộ thường nói đến thời thế, thời cơ. Ông biết chắc thế nào nước Pháp cũng có loạn, cũng sẽ gặp sự cố. Vì thế mà ông luôn luôn nghĩ tới việc chuẩn bị để chờ thời cơ. Ở đoạn cuối về tu chỉnh võ bị trong Tế cấp bát điều, Nguyễn Trường Tộ đề nghị: “ Giờ đây trong số các quan viên văn võ, có vị nào quê ở Lục tỉnh Nam kỳ, Triều đình phải đặc biệt ưu ái họ. Cho họ thường xuyên về thăm anh em họ hàng. Phải đãi ngộ họ thân mật nồng nàn hơn trước, khuyên bà con họ hàng của họ không nên dời nhà cửa đi nơi khác, đừng lánh đi xa (...) Đoạn chót thứ bảy này rất quan hệ đến đại thế lâu dài của quốc gia. Trong đó còn có chỗ phải kiêng dè chưa tiện nói hết. Đợi khi nào có thể nói được hoặc tình thế có thể tiến hành được, tôi sẽ trình bày rõ”. Ngày nay, chúng ta biết là Nguyễn Trường Tộ muốn nói gì trong sự việc còn kiêng dè nêu trên. Bởi vì khi biết là Pháp đã bị bại trận trong cuộc chiến tranh Pháp - Đức tháng 9-1870 và vua nước Pháp bị truất phế, Nguyễn Trường Tộ cho là thời cơ đã đến. Ông liền gởi lên Triều đình nhiều kế hoạch cụ thể thu hồi chủ quyền trên phần đất đã bị chiếm đóng. 1. Nguyễn Trường Tộ đề nghị thương lượng và làm áp lực với Pháp để họ gom quân đội lại một vài điểm để làm nơi qua lại buôn bán và trao trả phần đất còn lại cho Việt Nam. 2. Nguyễn Trường Tộ xin đứng ra tổ chức đánh úp để đánh đuổi Pháp ra khỏi Nam kỳ. 3. Nguyễn Trường Tộ đề nghị lập phái bộ sang Pháp và sang các nước châu Âu như Anh, Đức, Áo, Tây Ban Nha... để mở rộng quan hệ ngoại giao.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
chuongxedap
Đại tá
Bài viết: 13138
|
|
« Trả lời #43 vào lúc: 24 Tháng Tám, 2010, 10:49:57 pm » |
|
Trong mỗi kế hoạch, ông đều thảo ra những điểm rất cụ thể để Triều đình sử dụng. Sau đây là kế hoạch đánh úp được trình bày trong di thảo số 40, ngày 9-2-1871:
“Nay xin Triều đình dùng kế đi Tây trước, nếu việc không xong; xin tạm giả vờ bổ tôi làm một chức quan lớn trong Bộ Công, nói rằng: Nay nước ta muốn thực hành canh tân, mà tôi là người đủ sức cáng đáng công việc đầu tiên. Nếu không đề bạt cho vượt bực thì không khuyến khích được người sau. Sau khi nhận chức, tôi liền xin về làng một hai tháng để yên ủi mẹ già rồi mới đi nhận việc. Khi tôi trở về, những người đồng đạo sẽ đến hỏi tôi sao lập trường trước sau bất nhất, sao lại ra làm quan? Tôi sẽ trả lời rằng tôi vốn không có lòng cầu đi làm quan, nhưng vì có làm quan thì mới dễ bề tâu thưa để giúp cho đạo giáo. Sau khi lên kinh làm việc, tôi sẽ tâu trình nhiều khoản về đạo giáo. Như thế những người đồng đạo của tôi chắc vui mừng mà khen ngợi ý tốt của tôi.
“Sau khi lên kinh, tôi sẽ tâu bày một tập, cố ý nói những điều không nên nói, mà còn can phạm đến phép nước nữa. Bấy giờ Bộ sẽ nghị bàn buộc cho tôi là mới nhận chức quan, chưa làm được gì đã nói càn trái phép, đáng lẽ phải nghiêm trị, nhưng nghĩ đến tình trước, nên cho đày đi Bình Thuận để trị tội. Lúc bấy giờ tôi mới ngầm viết thư cho Giám mục Hậu nói rằng: “Tôi vốn có lòng vì nước vì đạo, mới trình xin như thế, không ngờ lại bị trách phạt, tâm sự không làm sao bày tỏ được. Khi đến Bình Thuận, tôi sẽ đút tiền hối lộ cho quan coi tù rồi trốn vào Gia Định giúp Tây, để lo trả thù, mong giám mục bí mật viết thư ngay cho nguyên soái Gia Định biết thâm ý ấy. Trong thư nói rằng: “Nếu trọng dụng hắn, nước Tây sẽ được một tay giúp việc đắc lực vì hắn đã hiểu rõ tình thế nước Nam. Nguyên soái trước đã từng tìm hắn, nay may lại được Nam triều đuổi đến cho, giờ đây hắn mới dứt tình đất cũ, mà hết lòng giúp việc v.v...”
“Tây soái, được thư, thấy tôi đã là quan lớn của Triều đình, đã có danh vọng, có thể thu phục được lòng dân 6 tỉnh. Vả lại vì đạo mà bị tội mới đến đây thì một là y sẽ đem lòng thương xót, hai là sẽ trọng tư cách làm người của tôi mà tin lắm không nghi ngờ gì mà lại trọng dụng thêm. Tôi liền nói: “Nếu vội nhận chức quan to, sợ Triều đình ghét mà bắt tội anh em. Tôi hãy xin tạm ở ngoài giúp việc, đợi khi nào bí mật đem được người nhà vào Nam, sẽ nhận chức. Nay chỉ xin tạm nhận chức quan suông mà thôi, còn bổng lộc thì quyết chưa dám nhận (Nếu nhận bổng lộc của họ mà lại ôm kế độc đối với họ thì hại nghĩa tôi không yên lòng). Lúc bấy giờ tôi sẽ giúp việc cho họ đôi chút. Chẳng bao lâu, tôi sẽ mật báo với họ rằng: “Nghe nói nước Nam, việc ngoài Bắc đã yên, rất giận việc nước Tây không trả đất đai lại, muốn ngấm ngầm xúi dân làm loạn để phá rối ta, chưa biết có quả như thế không? Nhưng tình hình này không thể không có. Tôi xin đi khắp sáu tỉnh để bí mật thăm dò. Nếu có quan Nam triều ẩn núp, tôi tất biết và mật báo về. Tôi còn xin đi lại những nhà có thế lực và các lương dân chịu chức sắc của Tây, dò xem tình ý như thế nào để chuẩn bị. Tôi lại đem đạo giáo dụ họ, xem ý họ thế nào. Tôi lại lấy mưu làm loạn thử họ, mới biết được đích xác. Như nói rằng: Ta tuy bị Triều đình trách phạt, nhưng mối tình đất cũ khó quên. Vả lại với người Tây chỉ có thể chung hoạn nạn, chớ không thể chung hưởng yêu vui. Như các nước trên thế giới đã bị người Tây v.v... Nay tôi nghĩ, nếu được sáu tỉnh phản Tây, thì chẳng những ta chuộc được tội mà còn có công lớn. Các người cũng vậy, nếu quả không quên lòng trung nghĩa thì có thể cùng tôi mật định làm việc nghĩa. Nếu việc thành được Triều đình sẽ thưởng công to. Dụ dỗ như thế, nếu người nào quả có lòng tất đồng ý với tôi. Lúc đó tôi bí mật ghi hết, bẩm lên đại soái biết để phòng bị. Rồi kiếm cớ khác mà buộc tội chúng.
“Ở trước mặt Tây soái tôi đã mật mưu như thế, thì ngày sau tôi đi dụ dỗ khắp nơi, nếu có người biết mà mách lại sẽ bị Tây soái cười thầm. Như thế những người đồng lòng với tôi sẽ giữ được vô sự. Tôi đã họp được nhiều người, ở đâu chuẩn bị ở đó như các khoản đã nói trong các tờ bẩm trước. Lúc bấy giờ tôi lại nói với Tây soái rằng: “Tôi rất oán ghét nước Nam, ý muốn nhóm họp nhiều người đợi ngày nào nước Tây gây việc với nước Nam, sẽ xin ra giúp sức để hả cơn giận. Tôi đã dò được những người giỏi trong 6 tỉnh, phần nhiều có lòng bất bình với nước Nam, nhưng chỉ vì quan Tây nghi ngờ quá chừng mà không dùng họ giúp việc. Họ đã yên cư lạc nghiệp ở đây, cũng muốn có một phen bày tỏ tâm tình, để cởi mở lòng nghi mà chưa có cơ hội. Nay nghe tôi có sự bất bình với nước Nam, muốn đi chiêu tập báo thù, cho nên bọn họ cũng muốn hợp sức làm với tôi, để tỏ rõ là đã dứt tình với nước Nam rồi. Vả nếu tôi nhóm họp được bọn họ tại chỗ, bọn họ lại nhóm họp được thủ hạ tại chỗ rồi ghép thành đội ngũ, mượn lãnh khí giới, để tùy lúc mà luyện tập, còn tôi thì đi lại các nơi để đốc thúc công việc. Đến ngày ra đánh Bắc, có thể dùng họ làm quân tiên phong cho người Tây. Việc thành chẳng những tôi hả được cơn giận, mà bọn họ cũng tỏ ra được tâm tình. Lúc đó đại soái tùy theo tài năng cất dùng họ để trả công lao, như vậy người sáu tỉnh mới yêu mến quý soái.
“Như thế chúng tôi tập hợp người tại chỗ dể chuẩn bị mà người Tây không thể nghi ngờ gì cả. Tôi lại nói với Tây soái rằng: “Lúc trước tôi ở Bắc kỳ, tất cả những người có thầm ôm chí khác từ Quảng Nam trở ra Bắc, đều đi lại với tôi, những người có tài năng dùng được, ước chừng bốn, năm trăm người, trong đó có chừng 100 người rất là kiệt hiệu, đã từng nói với tôi là muốn vào Gia Định, nhờ thanh thế người Tây, để lo mưu Bắc tiến, nhưng chỉ ngại không người giới thiệu, sợ Tây không tin. Nay nghe tôi vào Gia Định làm việc giúp Tây, đầu đảng của họ có bí mật gửi thư vào, nhờ tôi giới thiệu để được cùng vào trong này làm việc với Tây, số này hơn người sáu tỉnh nhiều lắm. Đến khi lông cánh đã thành, sẽ xin ra Bắc gây việc. Nếu được họ xin hứa vĩnh viễn trung thành với quan Tây v.v... Nay xin đại soái viết cho một số mật hiệu, mỗi miếng giấy cắt vuông một tấc, có ám hiệu bằng chữ Tây, chừng 400 cái giao cho tôi, để tôi gởi ra cho đầu đảng, hễ ai lén vào Gia Định, trình xét mật hiệu, rồi tôi mới tùy chỗ, giao cho ở chung với những người đồng lòng với tôi ở sáu tỉnh.
“Còn các phủ huyện, nếu quan Tây muốn dùng chúng để sai khiến, thì cũng tùy theo đó mà phân bố. Cách sắp xếp đều y như lời đã nói trong tờ bẩm trước. Như thế chắc chắn người Tây không làm sao biết được, mà còn dễ cử sự hơn là cách đưa người Bắc vào, như tôi đã nói trong tờ bẩm trước.
“Còn mật hiệu của Tây tôi sẽ xin gởi ra, để cất giữ tại Bộ. Bấy giờ Triều đình, sẽ phái vào nhiều người dòng Tôn Thất, các quan võ và những người tình nguyện vào ngũ như tôi đã nói trong tờ bẩm trước, và sẽ trao mật hiệu của Tây cho họ.
“Ngoài ra lại xin sai một viên quan thân tín, giả làm đầu đảng vào trước, để trông coi việc ấy. Còn ngoài ra, có quan nào vào, tôi chỉ nói với nguyên soái rằng đấy là hạng kiệt hiệu. Còn những người tình nguyện vào ngũ có lén vào, tôi sẽ bảo đều là hạng thủ hạ của đảng ấy, có thể sai khiến được. Rồi sau mỗi phủ huyện dùng kế, cho năm sáu người được thân cận với họ, kết hợp với người sở tại Nam kỳ, như thế cũng đủ đánh úp được.
“Và trước gần ngày cử sự, tôi sẽ tìm một nhà người có đạo (phải người có đạo Pháp mới không nghi) ở huyện Tân Hòa, một nhà ở Gia Định, chuẩn bị thật chu đáo bí mật. Rồi quan Tổng binh đại thần giả làm người buôn đến ở huyện Tân Hòa, quan phó đại thần đến trú ở Gia Định để chỉ thị phương lược, bố trí vòng lưới. Còn tôi thì qua lại truyền báo cách bài trí.
“Đến đêm khởi sự, một mặt tôi dùng kế (khoản này các tờ bẩm trước chưa nói đến) phá đê ngăn nước thì các thuyền Tây ở mặt dưới, không kể lớn nhỏ, đều bị chìm hoặc bị vùi xuống dưới bùn, hoặc trôi xuống ngã ba mà tan rã hết. Còn việc bố trí trên đường bộ, cũng giống như các tờ bẩm trước đã nói, nay không bẩm lại nữa.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
chuongxedap
Đại tá
Bài viết: 13138
|
|
« Trả lời #44 vào lúc: 24 Tháng Tám, 2010, 10:50:41 pm » |
|
“Trong khi việc đã tạm định, Triều đình giả sai quan viên thường thường qua lại vấn an Tây soái, mà lại dùng lời nói ngọt khiến hắn thích ý hả lòng, rồi giả vờ đem tin đồn nghe được những việc hiện tại ra mà trách hắn chắc chắn sẽ đem việc đó báo với các quan mưu sự của ta.
“Lúc bấy giờ quan nào đã định phái cử sự ở Gia Định đều đến Gia Định, giả bí mật bàn tính với hắn kiếm cách che giấu Nam triều. Vả lại nói rằng cơ mưu đã tiết lộ, chúng ta cần phải gấp rút soạn sửa biến động, sợ để lâu ngày Nam triều sẽ chuẩn bị đầy đủ, những người cộng sự đều đã gọi về Gia Định cả rồi, xin nguyên soái nghiên cứu việc binh để quyết định xem có dùng được không? Nhân đấy để tiện khởi sự.
“Vả lại khi việc đã gần được phân nửa, tôi sẽ nói với hắn rằng: “Tất cả những người tiềm phục ở Bắc kỳ, một nửa đã vào Nam giúp việc cho Tây, như cọp mọc cánh. Nếu ngày sau Tây triều muốn hoành hành nước Nam, theo đà ấy cũng không khó, chỉ thiếu một điều là các quan võ nước Tây không khéo trị dân, vì thế mà ân đức chưa thấm vào lòng dân. Nếu được quan văn đến cai trị dân, như nước Tây thì rất tốt”. Như thế Tây soái tất sẽ đổi hết quan võ, rút hết lính chiến đấu về để làm công trạng cho mình, mà xin quan văn sang ngồi một chỗ mà cai trị, thì thế lực họ lại bị cô lập thêm.
“Tôi lại nói rằng (khoản này cũng ở lúc công việc đã làm được phân nửa): “Tất cả những người ở miền Bắc vào, đều mong chờ nước Nam có biến cố. Vả lại đợi thu thập được một nửa người Bắc kỳ để làm nội ứng, mới hành động. Nếu chưa có cơ hội, thì còn làm việc với Tây. Bọn họ đều đã mang tiếng bỏ nước, quyết không dám trở về làng xóm. Chỉ khi nào thành sự mới dám về. Nếu không thì chết già ở sáu tỉnh mà thôi”. Bọn họ lại giả xây dựng gia đình, để vững lòng Tây soái.
“Tôi lại nói rằng: “Bắc kỳ đất xấu dân nghèo, nếu quan Tây có lòng chiêu mộ, tôi xin viết thư mật gởi về cho những người quen, mời vào ăn ở, như thế thì phàm những người chuộng lạ đều không quản xa xôi mà vào. Đấy là: Trong cửa có người tốt thì ngoài cửa người tốt sẽ đến vậy. Lúc đó đại soái tùy nghi xếp đặt, khiến cho bọn họ yên ở hòa hợp với người miền Nam, thì tiến lên có thể lấy, lui về có thể giữ, không phiền phải phái nhiều lính Tây để tốn nhiều của công”.
“Như thế Tây soái mừng lắm, lại tin là tôi có lòng vì hắn, có thể tin dùng được như thế tôi mới thi hành được kế hoạch. Còn các kế hoạch khác bồi bổ cho kế này, tôi đã nói rõ trong các tờ bẩm trước.
“Làm được như thế, mới là mười phần ổn định và Tây soái phải tin phục, không mảy may nghi ngờ nữa.
“Còn tôi sau khi đã trốn vào được, Triều đình cũng nên sai một viên quan thân tín vào theo để cùng bàn bạc phải chăng với tôi, làm chỗ trông ngóng trước cho những người đồng lòng. Nhưng ở trước mặt quan Tây, tôi nhận làm người thân trong khi đi chơi nói chuyện với mọi người; tôi lại nói kín với quan Tây xin đem người ấy giả làm quan triều mang đủ ấn tín, khiến các nhà quyền quý được thấy, thì địa phương mới tin là thật. Như thế mà họ không theo, cự tuyệt không nhận, thì mới tin là thật lòng theo Tây. Như thế quan Tây sẽ cho là mưu kế tuyệt diệu, mà vị quan to ấy cũng được công nhiên không quan ngại gì nữa.
“Tôi lấy các sự lý trình bày trong tờ bẩm trước, mà suy ra kế trong tờ này, mới biết thật là vạn toàn. Nhưng kế này phải đòi hỏi khoảng hai năm mới thành. Phải đến dần dần Tây soái mới không nghi. Nếu đến một cách gấp rút đột ngột, không khỏi khiến họ ngạc nhiên, suy nghĩ. Vì thế mà phải hai năm. Nhưng cũng phải tìm người giúp ngoài thi hành song song với kế này, để ngăn chặn việc họ sẽ báo thù thì mới được hoàn toàn tốt đẹp. Mà tìm người giúp tay cũng phải nhân lúc họ có việc, mới dễ giao thiệp rộng rãi. Kế này dù khi việc nước họ bình yên rồi, dùng cũng vẫn được. Cho nên không cần vội vàng. Nếu Triều đình dùng kế đi Tây trước mà thành công được, thì đấy là ở ngay nơi miếu đường mà đánh được giặc. Nếu không xong thì làm kế này, mới hả lòng. Đến lúc đó, các quan lớn Triều đình sai đi cũng biết là lúc núi cùng sông hết rồi.
“Chỉ có một kế ấy mà thôi (kế ấy chỉ thi hành được một lần, không thể thi hành thêm lần thứ hai. Nếu sai trật quyết không thể làm lại lần nữa. Xin suy nghĩ cho kỹ), đều phải nuốt giận mà vào, thừa lúc họ đương buông lỏng không phòng bị mới có thể đuổi giết họ được.
“Nếu tôi có thể phục vụ được gì, nhất nhất tôi xin theo sự sai khiến của Triều đình, quyết không có sự gì ân hận về sau. Vì vốn đã sẵn có bụng ấy mới dám nói ra, chứ hối hận thì có ai ép buộc tôi phải nói ra đâu!
“Nhưng có một việc chưa an tâm, là sau khi tôi bị đày, mẹ già tôi tất là đau thương, khiến tôi trái với đạo hiếu. Việc đó thật không có kế gì gỡ ra được. Nhưng tôi đã nhận quan chức Triều đình, thì phải làm việc công mà quên việc riêng, không thể vẹn toàn cả hai được.
“Tôi lại có việc tâm sự xin trần tình một lời lên rằng: Nếu được Triều đình tin dùng thì trên đội đức Hoàng đế, uy quyền Triều đình, giữa nhờ các quan tổng binh chỉ vẽ phương lược, dưới nhờ tướng sĩ đồng lòng, may mà quét sạch quân thù, khi trở về, tôi xin từ chức về vườn ngay để phụng dưỡng mẹ già mà thôi. Khi nào Triều đình có việc cần đến, tôi lại vâng lệnh, việc xong lại xin về như trước, còn tước lộc quyết không dám nhận.
“Đấy là tâm sự của tôi, muốn trông Triều đình hứa trước cho, tôi mới dám nhận chức. Nếu không thì tôi xin mình trần cam chịu sai phái mà thôi. Tấc lòng mọn mạy, kính xin bày tỏ”.
Tất cả những kế hoạch cụ thể và khẩn cấp mà Nguyễn Trường Tộ trình bày trong các văn bản từ cuối năm 1870 cho tới tháng 9-10 năm 1871, đã được Triều đình vua Tự Đức bàn đi tính lại, nhưng cuối cùng vẫn không đem đến một quyết định nào cả. Trong một văn bản cũng có thể là một trong những văn bản cuối cùng của đời mình, Nguyễn Trường Tộ còn nói là mọi sự như chưa có gì được bắt đầu:
“Nay xin gấp rút đi giao thông các nơi để tìm kế chống lại họ, một mặt hãy sang gấp nước họ ở lâu bên ấy dùng tình dùng lý để vãn hồi sáu tỉnh (nếu cơ hội có thế tiến hành đánh úp được, tôi quyết không phụ những lời tôi đã nói); một mặt làm rõ vật gì cũng đều có chủ và giữ đúng lễ chủ khách để ngăn chặn lòng tham của họ; một mặt gấp rút tìm người mở rộng việc khai thác nguồn lợi để giúp giải quyết các cấp bách lúc mới đầu; một mặt đem những nguồn lợi dư bán cho bọn họ để giúp giải quyết những tình trạng khẩn cấp, một mặt chấn chỉnh học thuật khiến dân chúng xu hướng theo đường thực dụng, dứt bỏ thói phù hu vô dụng. Đó là căn bản lớn, muôn sự từ đó mà thành. Một mặt chia nhau đi chấn chỉnh công việc trong nước trừ bỏ các tệ đoan làm hại dân để làm lợi cho nước; một mặt mở rộng đường thương mãi để giàu có của cải; một mặt cần người giúp đỡ để dẹp sạch những cái xấu nhỏ cho dân được yên vui để thi hành đường lối chính trị mới; một mặt tu chỉnh các hình thế trong nước cho phù hợp với địa lý binh pháp mà trước đây chưa chuẩn bị được để tạo thế thành trì vững chắc; một mặt chiêu dụ các dân tộc man mọi phía sau núi, khai phá các vùng đất hoang để mở rộng lợi ích trong nước để thu nguồn lợi phía Tây; một mặt gấp rút lưu tâm việc tơ tằm dệt vải cho dân đủ dùng; một mặt gấp rút mở hội chợ trưng bày đấu xảo cho dân hứng thú chuộng những việc làm cơ bản để cho đời sống phong phú; một mặt gấp rút mở thêm một Bộ Tân pháp quan chức và dùng một vị đại thần thông hiểu tình hình thế giới đứng đầu để trách nhiệm việc thành lập Bộ ấy; một mặt tháo gỡ những sự hạn chế để cho những người thừa hành nền chính trị mới triển khai thi thố ý kiến của mình, thì mới hy vọng thành tựu được; một mặt hãy làm tiêu tan hết những gì trước đây đã làm cho người ta nghi ngờ mình hẹp hòi không rộng rãi, để cho người ta thấy mình đã quyết định thay đổi đường lối, đua đuổi cùng thiên hạ, khó lòng dùng quỷ thuật gì gây rối ta được, như vậy lòng khinh khi của họ mới dần dần tiêu tan, ta mới được vô sự.
“Các khoản lớn trình bày trên đây hiện nay hết sức khẩn cấp, hãy đứng dậy nhảy xổ ra bắt tay thực hiện ngay. Thời đã đến rồi. Thời khó được mà dễ mất, chớ nên nói hãy để sang năm” (Di thảo số 54).
|
|
|
Logged
|
|
|
|
chuongxedap
Đại tá
Bài viết: 13138
|
|
« Trả lời #45 vào lúc: 09 Tháng Chín, 2010, 10:54:16 pm » |
|
VI. TẠI SAO NGUYỄN TRƯỜNG TỘ THẤT BẠI? Nguyễn Trường Tộ là một người muốn hiến trọn cả cuộc đời cho đất nước. Ông đã nói lên tất cả tâm tư và ý nguyện của mình trong bài Trần tình (Di thảo số 3). Sau này trong những lần tâm sự với Trần Tiễn Thành (Di thảo số 11 và 15), ông cũng nói lên ý chí của ông là không màng công danh, chỉ mong làm được việc gì để giúp nước. Đối với ông, việc nước là trên hết. Ông thường nói trong các văn bản là phải coi việc nước như việc nhà (Xem di thảo số 27); nhưng riêng bản thân ông thì luôn luôn coi việc nước trọng hơn việc nhà (Xem cuối di thảo 40). Là người công giáo, dĩ nhiên ông không đồng tình với việc cấm đạo bởi vì như vậy là vơ đũa cả nắm: Coi mọi người công giáo đều là theo Tây, như vậy là xô đẩy người công giáo vào chân tường, bắt buộc họ phải trông chờ người ngoài cứu giúp (Xem đi thảo số 2). Nhưng ông hiểu được biện pháp “Phân tháp” là một biện pháp gây đau thương và mất mát nhất cho đồng bào công giáo lúc bấy giờ. Trong di thảo số 14 (4-6-1866), ông nói: “Trước đây, nhân chuyện người Tây đột nhiên đến, Triều đình chưa rõ vì ý gì, nên tiến hành việc phân tháp để tạm thời giải tỏa sự nghi ngờ. Nhưng việc làm của Triều đình là do ý muốn yên dân, chứ không như việc làm của bọn ngoại gian, lửa đổ thêm dầu, làm điều ác độc ngoài pháp luật”. Có nhiều sự việc quan trọng, Nguyễn Trường Tộ báo cáo với Triều đình và xin là không nói cho Giám mục Gauthier biết (Xem di thảo số 17). Trong số các linh mục Việt Nam mà Nguyễn Trường Tộ tiến cử với Triều đình, ông chỉ tin một mình linh mục Nguyễn Hoằng trong nhưng sự việc cẩn mật. Nguyễn Trường Tộ là một người nhìn xa thấy rộng, nhưng đồng thời cũng là người rất thực tế. Những đề nghị cải cách của ông trong mọi lãnh vực, không có gì là quá cao xa, đòi hỏi những điều kiện quá mức, mà trái lại tất cả đều có thể đem ra từng bước thực hiện, phần nhiều với những phương tiện trong tầm tay của chúng ta thời đó. Thế nhưng tại sao nhiệt tình và tài năng của Nguyễn Trường Tộ đã không được sử dụng? LÀ NGƯỜI CÔNG GIÁO ĐÃ CỘNG TÁC VỚI PHÁP? Nguyễn Trường Tộ rất ý thức về vấn đề này. Ông đã phân giải dài dòng trong bài Trần tình (Di thảo số 3), là sở dĩ ông nhận làm phiên dịch các tài liệu cho Pháp là để giúp vào việc hòa đàm. Chứ khi thấy việc hòa đàm giữa Charner và Nguyễn Bá Nghi không thành, ông liền xin thôi không làm cho Pháp nữa. Trước kia và sau này Pháp đã muốn mời ông hợp tác mà ông nhất định không nhận. Đọc tất cả các văn bản của Nguyễn Trường Tộ, chúng ta cũng thấy được điều đó. Tuy nhiên, đối với Nguyễn Trường Tộ, việc làm phiên dịch cho Pháp, mặc dầu với dụng ý tốt, là một sai lầm lớn. Ông đã nói lên điều này rất nhiều lần trong các văn bản của ông. Ông đã tìm đủ mọi cách để đánh tan sự nghi ngờ của nhà vua và Triều đình. Ở đầu bài “ Vua là quý, quan là trọng” (Di thảo số 13), ông nói: “Tôi sở dĩ khinh bỏ danh lợi cốt để Triều đình tin nghe, vì thâm ý của tôi là đi sang các nước xin nắm tình hình, không những nôn nóng để chửng tỏ mình là người không có hại, có thể làm được những việc chính nghĩa cho vua, mà còn để trở thành một kẻ mưu trí gấp lo chống đỡ hoạn nạn cho nước nhà nữa”.Theo “ Sự tích ông Nguyễn Trường Tộ” của Nguyễn Trường Cửu thì trước khi chết, Nguyễn Trường Tộ có làm một câu thơ rằng: “ Nhất thất túc thành thiên cố hận” (một lần sa chân làm cho suốt đời phải ân hận), dĩ nhiên là để nói về sự cố đó. Tuy nhiên, sự nghi ngờ của vua Tự Đức và một số quan đầu triều, đối với Nguyễn Trường Tộ là người công giáo, là người đã cộng tác với Pháp, nếu có thì cũng chỉ là trong những năm đầu. Chứ từ giữa năm 1866 trở đi, tức là từ lúc vua và Triều đình quyết định cử Nguyễn Trường Tộ và Giám mục Gauthier đi Pháp để thuê thầy và mua dụng cụ máy móc về để mở trường bách nghệ tại Huế, thì sự nghi ngờ đó không còn là một trở ngại đáng kể nữa. Hơn nữa thái độ của vua Tự Đức, đối với người công giáo nói chung, từ những năm 1867-1868 trở đi cũng đã có khác. Chẳng vì thế mà Giám mục Sohier, giáo phận Huế, và Giám mục Gauthier, giáo phận Vinh đã long trọng cử hành thánh lễ trong nhà thờ để cầu nguyện cho sức khỏe của vua Tự Đức năm 1870, nhân lễ tứ tuần của nhà vua 1. _______________________________________ 1. Xem thư của Giám thục Gauthier gởi Hội Truyền giáo, Annales de la Propagation de la Foi tập 43 trang 259.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
chuongxedap
Đại tá
Bài viết: 13138
|
|
« Trả lời #46 vào lúc: 09 Tháng Chín, 2010, 11:01:23 pm » |
|
THIẾU TÍNH GIAI CẤP? Có người nói rằng những đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ thiếu tính giai cấp, nghĩa là không đặt những vấn đề như: chia ruộng đất cho nông dân, giảm tô cho tá điền, miễn thuế cho người nghèo... nên không được nhân dân ủng hộ. Sự thực thì Nguyễn Trường Tộ chỉ có một chủ trương là làm cho dân giàu, nước mạnh, bằng cách canh tân, hiện đại hóa đất nước. Dĩ nhiên là ông cũng mong muốn cho tất cả mọi người dân đều được giàu có và được ấm no hạnh phúc; ông cũng chống việc người giàu cứ giàu thêm và người nghèo cứ nghèo mạt. Trong vấn đề xã hội, ông cũng nghĩ tới những người xấu số trong nhân dân. Nhưng chắc chắn là ông đã không phân tích cấu trúc của xã hội và nguồn gốc của sự giàu nghèo. Ông chỉ là một nhà cải cách, chứ không phải là một nhà cách mạng. Tuy nhiên những đề nghị cải cách của ông có thể làm cho dân giàu nước mạnh, có thể được nhiều người đồng tình ủng hộ. Nhưng có một điều chắc chắn là những đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ chỉ được gởi lên Triều đình vua Tự Đức và chỉ có nhà vua với một số rất ít quan lại cao cấp mới được đọc. Chứ tuyệt đối nhân dân không ai được biết. Thời đó hình như chỉ có một người là Nguyễn Lộ Trạch, con rể của Trần Tiễn Thành, đã đọc được một số văn bản của Nguyễn Trường Tộ và đã hưởng ứng bằng cách cũng viết những đề nghị tiếp theo gởi lên Triều đình Huế, dẫu rằng kiến thức và quy mô cải cách của Nguyễn Lộ Trạch không sao so sánh được với kiến thức và quy mô cải cách của Nguyễn Trường Tộ. Sau này, khi những di thảo của Nguyễn Trường Tộ được đóng tập và trưng bày ở Thư viện Bảo Đại trước năm 1945, thì những ai đã có dịp đọc, đều tiếc cho Tổ quốc Việt Nam là đã bỏ mất một cơ hội canh tân và hiện đại hóa như nước Nhật. TRƯỜNG HỢP CỦA NHẬT BẢN Có người muốn so sánh nước ta thời Tự Đức với nước Nhật thời Minh Trị. Nhưng Nhật Bản trước lúc cải cách canh tân có một chế độ chính trị hoàn toàn khác. Thực vậy, từ thời lập quốc Tây lịch, nước Nhật chỉ có một dòng họ làm Thiên Hoàng (Mikađo). Từ thế kỷ 17, Thiên Hoàng vẫn đứng đầu quốc gia, nhưng chỉ làm vì; thực quyền nằm trong tay Mạc Phủ (Bakufu), đứng đầu là Tướng quân (Shogun). Tướng quân cai trị thông qua các lãnh chúa và các lãnh chúa có toàn quyền về sinh mạng và tài sản của dân chúng trong lãnh địa của mình. Cũng từ đầu thế kỷ 17, do muốn tránh họa ngoại xâm, Mạc Phủ đã chủ trương bế quan tỏa cảng. Nhưng vào những năm 50, 60 của thế kỷ 19, do áp lực của các nước thực dân phương Tây muốn dòm ngó Nhật Bản, Mạc Phủ đã phải nhượng bộ, ký các hiệp ước bất bình đẳng - Một phong trào bài ngoại và đòi Mạc Phủ trả lại quyền hành cho Thiên Hoàng nổi lên rầm rộ. Cuối cùng Tướng quân Khánh Hỷ (Keiki) ngày 3-11-1867 đã viết biểu xin trả lại quyền hành cho Thiên Hoàng. Thiên Hoàng lúc đó là Mục Nhân (Mutsuhito), lên ngôi ngày 3-2-1867 lấy hiệu là Minh Trị (Meiji) mới 15 tuổi. Ngày 6-4-1868, Thiên Hoàng cùng với quần thần văn võ làm lễ tuyên thệ duy tân mở rộng dân chủ, (lập chế độ đại nghị, ban hành quyền bình đẳng trong nhân dân); mở rộng cửa bang giao; canh tân và phát triển đất nước. Ngày 6-4-1868 quả đã mở ra cho Nhật Bản một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên Minh Trị, duy tân, đem đất nước lên ngang tầm với các cường quốc trên thế giới. Công cuộc duy tân của nước Nhật rõ ràng không phải là sáng kiến của Minh trị Thiên Hoàng, một ông vua mới 15, 16 tuổi. Cũng không do một Nguyễn Trường Tộ mà do rất nhiều Nguyễn Trường Tộ. Bởi vì người Nhật tiếp xúc với người Tây phương rất sớm, từ thế kỷ 15, 16. Nhưng do sợ ảnh hưởng của người nước ngoài nhất là các giáo sĩ châu Âu, đầu thế kỷ 17, Mạc Phủ cho lệnh đóng cửa, không giao thiệp với bên ngoài. Tuy nhiên chính trong thời gian đóng cửa đó sách vở Tây phương vẫn được lén lút đưa vào và dịch ra tiếng Nhật; nhiều người Nhật vẫn tìm cách học tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Đức; chính Tướng quân và các lãnh chúa vẫn âm thầm cho sinh viên “trốn” sang châu Âu học tập; chính Tướng quân và các lãnh chúa vẫn có những cơ sở làm ăn với người nước ngoài. Từ những năm 1850, Tướng quân và các lãnh chúa đã có xưởng đúc súng bằng sắt thay cho những khẩu thần công lỗi thời; từ năm 1852, Tướng quân và các lãnh chúa đã có xưởng đóng tàu. Vào lúc Minh Trị tuyên thệ duy tân, ở Nhật đã có tất cả 138 tàu theo kiểu Tây phương, hoặc tự đóng lấy hoặc mua bên ngoài đem về; từ năm 1857, Tướng quân đã có nhà máy luyện kim do người Hà Lan điều khiển... Nguyễn Trường Tộ vẫn quan tâm theo dõi Nhật Bản. Ông đã nói nhiều lần đến nước Nhật trong các văn bản của ông. Có người nói là đã có một cuộc gặp gỡ và bút đàm 1 giữa Nguyễn Trường Tộ và Y Đằng Bác Văn (Ito Hirobumi). Nhưng đó có lẽ chỉ là một giả thuyết, chưa thấy có cơ sở nào cả. Bởi vì Nguyễn Trường Tộ, theo chỗ chúng tôi biết, chỉ đi ra nước ngoài hai lần vào những năm 1859-1860 và 1867-1868. Riêng Ito Hirobumi (1841-1909) thì được lãnh chúa Choshu gởi sang Anh học năm 1863 và cuối năm 1864 chúng ta đã thấy có mặt ông ở Nhật Bản để làm thông dịch cho Tướng quân thương thuyết với các nước đồng minh. Trong Tế cấp bát điều (Di thảo số 27, 15-11-1867), Nguyễn Trường Tộ nói là “ hiện có 1 hoàng tử và 35 người cùng đi với một linh mục mới đến Ba Lê và đã thiết lập ở đó một đại học xá để phái người sang học”. Trong số những người Nhật mà Nguyễn Trường Tộ nói trên đây, có Ito Hirobumi hay không, thì chúng ta chưa xác minh được. Nhưng từ khoảng tháng 10-1871, Nguyễn Trường Tộ đã thấy rõ tương lai xán lạn của nước Nhật và cũng tỏ ra buồn cho nước ta (Xem di thảo số 55). VIỆT NAM THỜI NGUYỄN TRƯỜNG TỘ Nước ta, thời Nguyễn Trường Tộ cũng có vua, có quan lại, có Triều đình. Nhưng tất cả quyền hành là ở trong tay vua, các quan lại chỉ là bầy tôi, hiểu theo đúng nghĩa đen của từ đó. Bởi vì vua muốn thăng ai, giáng ai thì đều trọn quyền và lắm lúc rất tự tiện. Đọc chính sử nhà Nguyễn, khi thấy những quan đại thần, đầu triều như Phan Thanh Giản, Trần Tiễn Thành... mỗi lần đi thương thuyết xin đòi lại ba tỉnh, sáu tỉnh Nam kỳ không được đều bị giáng ba bốn cấp, ai mà chẳng buồn cười. Trong một chế độ chính trị tập trung quyền hành như thế, nếu vua không quyết định làm, thì chẳng ai dám quyết định cả. Vua Tự Đức, theo như nhiều tác giả bình luận, cũng là một con người thông minh, có thể hiểu được nhiều việc, mặc dầu bị đóng khung trong nội cấm. Từ đầu năm 1866, hình như nhà vua bắt đầu để ý đến Nguyễn Trường Tộ, giao cho Nguyễn Trường Tộ đi tìm mỏ than, rồi lại sai Nguyễn Trường Tộ cùng với Giám mục Gauthier đi Pháp thuê thầy và mua sắm dụng cụ mở trường kỹ thuật theo phương pháp Tây phương ở Huế. Đầu năm 1868, khi phái đoàn Nguyễn Trường Tộ và giám mục đem các dụng cụ máy móc và sách kỹ thuật về, nhà vua rất vui mừng và săn đón, việc mở trường coi như đã sắp hình thành. Nhưng do phản ứng của sĩ phu khắp nơi, sợ ảnh hưởng của Tây phương, sợ ảnh hưởng của công giáo, nhà vua lại chùn bước, việc mở trường bị bỏ dở, các sách vở và máy móc dụng cụ, tốn hàng chục ngàn quan Pháp mua về chỉ để chất đống trong kho cho tới hư hỏng. Vua Tự Đức là ông vua nhu nhược, sợ sự chống đối của sĩ phu, không bao giờ dám quyết định một điều gì nữa, chỉ để cho thời cuộc trôi qua, dẫn đưa đất nước từ thảm họa này tới thảm họa khác. Sĩ phu nước ta lúc bấy giờ là những nhà nho chỉ biết nho học, chỉ biết Trung Quốc cũ, chứ không biết gì về thế giới bên ngoài, không biết gì về khoa học kỹ thuật Tây phương. “Các nhà nho ta đời bấy giờ, theo nhận định của cụ Cao Xuân Huy, nhìn cái hiện thực tư bản chủ nghĩa mới xuất hiện bằng những cái khung cố định, tức là những phạm trù phong kiến đã có hơn hai ngàn năm sinh mệnh... Do đó họ thấy trong cái hiện thực mới những hiện trạng phi chính thường và quái gở, nhất là họ có những nhận định rất sai lầm về văn minh khoa học kỹ thuật của Tây chương. Đó chính là môi trường tư tưởng trong đó sản sinh ra tư tưởng của Nguyễn Trường Tộ. Trong khi chung quanh người ta nhìn hiện thực mới bằng những cái khung cũ kỹ, do đó nhìn sai, nhìn lệch, thì chỉ có Nguyễn Trường Tộ có đủ nhãn lực để nhìn đúng hiện thực ấy”2. Điều không may cho Nguyễn Trường Tộ chính là đã ở vào một thời đại với một ông vua nhu nhược, với những quan lại vô trách nhiệm, với một tầng lớp sĩ phu lỗi thời, lạc hậu. TRƯƠNG BÁ CẦN ______________________________________ 1. Xem Đào Đăng Vỹ: “Nguyễn Trường Tộ và Y Đằng Bác Văn”. Văn Đàn số 30-11-1961 trang 11. 2. Cao Xuân Huy: “Tình hình xã hội và tư tưởng Việt Nam thời Tự Đức”, tài liệu giảng dạy ở Đại học Tổng hợp Hà Nội, chưa in.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
chuongxedap
Đại tá
Bài viết: 13138
|
|
« Trả lời #47 vào lúc: 09 Tháng Chín, 2010, 11:15:16 pm » |
|
NGUYỄN TRƯỜNG TỘdi thảo DI THẢO của Nguyễn Trường Tộ, chủ yếu, là những văn bản, quen gọi là các điều trần, được gởi lên Triều đình vua Tự Đức từ 1861 đến 1871. Hai chữ điều trần, để nói về các văn bản của Nguyễn Trường Tộ, có lẽ đã được sử dụng lần đầu tiên trong Tạp chí NAM PHONG số 100, số đăng tải văn bản đầu tiên của Nguyễn Trường Tộ với đầu đề: “ Nguyễn Trường Tộ điều trần, thiên hạ đại thế nguyên tập”. Còn trong chính các văn bản của Nguyễn Trường Tộ, chúng ta không bao giờ thấy có hai chữ điều trần. Có thể là, theo thông lệ, khi viết các văn bản gởi lên Triều đình, Nguyễn Trường Tộ không đặt đầu đề cho chúng. Nhưng khi nhắc lại các văn bản cũ của mình, Nguyễn Trường Tộ dùng chữ luận cho ba văn bản đầu tiên của mình là: Thiên hạ phân hợp đến thế luận, Tế cấp luận, Giáo môn luận. Còn khi nói vc các văn bản này, Nguyễn Trường Tộ thường dùng chữ từ, như: Lục lợi từ, Khai hoang từ, hoặc nói chung “ bẩm từ”, “ trần từ”… Hai chữ điều trần thực ra, theo đúng nghĩa của chúng, chỉ là: Trình bày rõ ràng theo từng điểm, từng việc. Nhưng hai chữ điều trần, do được sử dụng để nói về các văn bản của Nguyễn Trường Tộ, đã được thông dụng đến độ trở thành một thuật ngữ để chỉ các văn bản gởi lên nhà cầm quyền. Trong TỰ ĐIỂN TIẾNG VIỆT của Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1967, điều trần có hai nghĩa. Một nghĩa thông thường và một nghĩa chuyên dùng. Theo nghĩa thứ hai này, thì điều trần là “Bản trình bày ý kiến đưa lên nhà cầm quyền (cũ): “ Điều trần của Nguyễn Trường Tộ” (trang 374, cột 1). Tuy nhiên, theo chúng tôi, điều trần như thế phải là một văn bản trình bày vấn đề một cách quy mô và có độ dày của nó. Còn như các văn bản của Nguyễn Trường Tộ gởi cho Triều đình Huế, thì có những bản là cả một bài luận văn dài như Thiên hạ đại thế luận, Dụ tài tế cấp bẩm từ, Khai hoang từ, Tế cấp bát điều... ; có bài vỏn vẹn chỉ một hai trang, trả lời hay góp ý cho một vấn đề nào đó, như mua thuyền máy, các vật dụng sứ bộ phải mang theo... * Tất cả các văn bản của Nguyễn Trường Tộ gởi lên Triều đình vua Tự Đức đều bằng chữ Hán: Có những văn bản chính thức được lưu giữ trong thư viện của Triều đình, có bản với lời châu phê (ghi bằng chữ đỏ) của nhà vua; có những văn bản chỉ là bản sao hoặc bản thảo được cất giữ trong gia đình của tiên sinh ở Bùi Chu, Hưng Nguyên, Nghệ Tĩnh. Những văn bản lưu giữ ở Thư viện của Triều đình Huế trước đây đã được đóng thành tập và trước Cách mạng Tháng 8-1945, có nhiều người đã tới Thư viện Bảo Đại để tham khảo hoặc sao chép các văn bản đó. Theo ông Dào Duy Anh, trong một bài viết trên CÔNG GIÁO VÀ DÂN TỘC số đề ngày 12-7-1983 (Xem phụ lục số XI), thì vào khoảng năm 1938, ông có tới gia đình ông Nguyễn Trường Cửu là con trai Nguyễn Trường Tộ ở Bùi Chu, Hưng Nguyên, Nghệ Tĩnh và xin được các bản văn, bút tích của Nguyễn Trường Tộ, cùng với một quyển sổ tay của Nguyễn Trường Tộ ghi chép trong chuyến đi Pháp với Giám mục Gauthier năm 1867 – 1868 (sau ông Đào Duy Anh có cho chép lại các văn bản này để gởi lại cho gia đình ông Nguyễn Trường Cửu). Ông Đào Duy Anh cũng thuê người vào Thư viện Bảo Đại sao chép các văn bản chính thức của Nguyễn Trường Tộ, rồi đem đối chiếu với các bản sao hoặc bản thảo lưu giữ trong gia đình ông Nguyễn Trường Cửu, để làm thành bốn quyển; bốn quyển này, ông Đào Duy Anh đã đề tặng cho ông Tôn Quang Phiệt một bản và ông Lê Thọ Xuân, ở Sài Gòn một bản. Sau Cách mạng Tháng 8-1945, do việc di chuyển các tài liệu từ Thư viện Bảo Đại sang một nơi khác, một số tài liệu bằng chữ Hán đã bị mất cắp và đem bán ở chợ Đông Ba làm giấy cuốn thuốc lá, trong số đó có các bản văn chính thức của Nguyễn Trường Tộ, do ông Thân Trọng Bính mua được và đem tặng cho ông Đào Duy Anh: tất cả các sách vở và tài liệu của ông Đào Duy Anh, trong đó có những tài liệu quý về Nguyễn Trường Tộ, đều bị mất và có thể bị hủy hoại trên chuyến xe lửa cuối cùng từ ga Hàng Cỏ Hà Nội đi Vinh trước lúc cuộc toàn quốc kháng chiến bùng nổ ngày 19-12-1946; sau này ông Đào Duy Anh đã xin lại được 4 tập đã tặng cho ông Tôn Quang Phiệt để đem ra chiến khu Việt Bắc, cho Ban Sư Địa, sau này là Viện Sử học. Như thế là, theo ông Đào Duy Anh, những văn bản chính thức của Nguyễn Trường Tộ gởi lên Triều đình vua Tự Đức, với châu phê của nhà vua, đã bị mất trên đường hỏa xa từ Hà Nội đi Vinh. Những tài liệu quý này, hoặc đã bị hư mất hoặc đã được cất giữ một nơi nào đó mà chúng ta chưa biết. Nhưng khả năng trở thành hư vô là rất lớn. Có một điều chắc chắn là tại kho Lưu trữ Khu vực II, ở thành phố Hồ Chí Minh, trong CHÂU BẢN TRIỀU NGUYỄN, không thấy có một văn bản nào của Nguyễn Trường Tộ. Những văn bản của Nguyễn Trường Tộ mà chúng ta có hiện nay đều là những bản đã được sao chép lại. 1. Ở Thư viện Viện Sử học, 38 phố Hàng Chuối, Hà Nội hiện có: - Bốn quyển ký hiệu Hv 189 từ 1 đến 4, có thể là 4 quyển do ông Đào Duy Anh sao chép tổng hợp từ các văn bản lưu giữ ở Thư Viện Bảo Đại và trong gia đình ông Nguyễn Trường Cửu ở Bùi Chu, Nghệ Tĩnh. Bốn quyển này ông Đào Duy Anh sao tặng ông Tôn Quang Phiệt, sau giao lại cho Ban Nghiên cứu Văn Sử Địa, tiền thân của Viện Sử học. - Bốn quyển ký hiệu Hv 634 từ 1 đến 4, do Mặc Si Nguyễn Huy Nhu sao lại từ các bản chép tay mượn của ông Đào Đăng Vỹ. - Một quyển mang ký hiệu Hv 135, gồm 9 văn bản. Trong số 9 văn bản này, có 8 văn bản đã được đăng tải trên tạp chí NAM PHONG. Tất cả 9 văn bản này đều có trong Hv 189 và Hv 634. 2. Ở Thư viện Hán Nôm, đường Lý Thường Kiệt, Hà Nội, hầu hết các văn bản về Nguyễn Trường Tộ mang ký hiệu VHv đều là sao chép lại từ các văn bản của Thư viện Viện Sử học, như: VHv 2620/1-4 chép lại Hv 189/1-4 VHv 2620/5 chép lại Hv 135 VHv 1153 chép lại Hv 189/3 VHv 1431 chép lại Hv 189/2 Chỉ riêng VHv 170 gồm 5 văn bản không phải là sao chép y nguyên từ một bản nào của Viện Sử học, nhưng các văn bản này đều có cả trong Hv 189 và Hv 634. Nói tóm lại, là hầu như toàn bộ di thảo của Nguyễn Trường Tộ mà chúng ta hiện có được đều nằm trong hai bản Hv 189/1-4 và Hv 634/1-4. Duy chỉ có văn bản về “Cải cách phong tục” (Di thảo số 47), do XTT dịch, đăng trên báo TIẾNG DÂN từ số tháng 1-1940 là không có trong Hv 189 và Hv 634. Bản dịch này cũng như một số bản dịch của VĂN ĐÀN - Di thảo số 18, 44, 46 - chứng tỏ là còn có những bản sao chép về di thảo của Nguyễn Trường Tộ mà chúng tôi hiện chưa biết đang nằm ở đâu, khác với các bản sao chép mà Thư viện Viện Sử học và Thư viện Hán Nôm ở Hà Nội đang lưu giữ.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
chuongxedap
Đại tá
Bài viết: 13138
|
|
« Trả lời #48 vào lúc: 13 Tháng Mười, 2010, 10:58:22 pm » |
|
DI THẢO SỐ 1 Bàn về những tình thế lớn trong thiên hạ* ( Thiên hạ đại thế luận) ( Tháng 2-3 năm Tự Đức 16 tức tháng 3-4 năm 1863) Tôi là Nguyễn Trường Tộ, bề tôi nước Đại Nam đã từng trốn ra nước ngoài xin đem những điều mà tôi đã biết và thấy một cách chính xác về sự thế trong thiên hạ, mạo tội kính bẩm. Trộm nghĩ việc trong thiên hạ chỉ có “thế” mà thôi. Chữ “thế” là nói bao gồm cả thiên thời nhân sự. Cho nên người biết rõ “thế” thì không trái trời, không mất thời, không hại người, không hỏng việc. Hãy nói về thiên đạo trước. Khí đất là từ Bắc đến Nam, vận trời từ Tây sang Đông, theo Hà đồ 1 thì thủy ở về phương Bắc, hỏa ở về phương Nam, kim ở về phương Tây, mộc ở về phương Đông. Thủy thì diệt hỏa, kim diệt mộc, ấy là lẽ tự nhiên của trời đất luôn luôn như vậy. Ngày nay các nước phương Tây, đã bao chiếm suốt từ Tây Nam cho đến Đông Bắc, toàn lãnh thổ châu Phi cho tới Thiên Phương, Thiên Trúc, Miến Điện, Xiêm La, Tô Môn Đáp Lạp, Trảo Oa, Lữ Tống, Cao Ly, Nhật Bản, Trung Quốc và các đảo ở ngoài biển, kể cả Tây châu, không đâu là không bị họ chẹn họng bám lưng. Nước Nga thì từ Tây Bắc đến Đông Nam gồm tất cả các nước Đại Uyển, Cốt Lợi Cán, Mông Cổ và các xứ ở phía Bắc Mãn Châu, không đâu là không chiếm đất và nô dịch dân những nơi đó. Ở trên lục địa, tất cả những chỗ nào có xe thuyền đi đến, con người đi qua, mặt trời mặt trăng soi chiếu, sương mù thấm đọng thì người Âu đều đặt chân tới, như tằm ăn cá nuốt, ở đâu thuận với họ thì phúc, chỗ nào trái với họ thì họa; ai hòa với họ thì được yên, ai cự lại thì dùng binh lực giao tranh; trong thiên hạ không ai dám kháng cự lại họ. Như thế, nếu đó không phải là ý trời định, địa thế xoay vần, thì sao không lấy số đông của bốn đại châu mà kháng cự lại người Tây phương? Huống hồ nước Việt ta là một nước bé nhỏ, tại sao lại muốn trái đạo trời mà làm những việc thiên hạ khó làm được? Đến như địa thế Trung Hoa chiếm 1 phần 3 Đông phương 2 nhân số đến 360 triệu, uy thế lẫy lừng, ai cũng phải thần phục họ cả, thế mà từ thời Minh về sau, người Tây phương vượt biển sang Đông, hai bên đánh nhau, thây chất thành đống, sau phải giảng hòa không biết bao nhiêu lần. Còn như ta là một xứ nóng, gần kề Quế Hải 3, là trạm nghỉ chân của người Tây phương trên đường sang Đông. Con giao long khi thấy đầm vực thì nghĩ cách đầm mình chứ không thể chịu bỏ mà đi. ______________________________________ * Nguyên văn chữ Hán: Hv 189/1 tờ 34 - 45; Hv 634/1 tờ 40 - 58; Hv 135 tờ 38 - 50; NAM PHONG (N.P) số 100 trang 47 - 58. - Về nội dung, bản NAM PHONG, trong chi tiết, có những lời lẽ dài dòng và không chính xác bằng ba bản kia. - Về ngày tháng năm, thì chỉ có Hv 189/1 là ghi “Tự Đức thập lục niên, nguyệt..., nhật...); còn ba bản kia thì không ghi ngày tháng. Từ Ngọc Nguyễn Lân, sđd, có trích nhiều đoạn của Thiên hạ đại thế và nói: Không rõ ngày tháng. - Về đầu đề thì NAM PHONG ghi: “Nguyễn Trường Tộ điều trần thiên hạ đại thế nguyên tập (nguyên danh quốc tế thượng giao thông chi chính sách)”. Hv 634/1 ghi: “Điều trần thỉnh hứa đại Pháp quốc khai phụ thông thương”, còn Hv 189/1 và Hv 135 không có đầu đề. Chính Nguyễn Trường Tộ, trong Trần tình, nói: “Thiên hạ phân hợp đại thế luận” và trong các bài viết sau này, nhiều lần nói đến “Luận phân hợp”. Ông Nguyễn Lân nói: “Thiên hạ đại thế”; ông Đào Duy Anh nói: “Thiên hạ đại thế luận”. Từ những dữ kiện nêu trên, chúng ta có thể tạm kết luận là Nguyễn Trường Tộ đã viết, để thuyết phục Triều đình Huế phải hòa với Pháp, vào hai thời điểm khác nhau: a. Theo bài Trần tình, thì năm 1861, Nguyễn Trường Tộ đã có gởi cho Nguyễn Bá Nghi một bài Bàn về việc hòa (Hòa từ) và trong Trần tình có trích một đoạn của Hòa từ, lời lẽ hoàn toàn giống như trong bản N.P và các bản Hv. Bản văn đăng trong N. P có thể là bài Bàn về việc hòa của năm 1861. Bởi vì bản N. P so với các bản Hv, lời lẽ không chỉnh và không khúc chiết bằng. Hơn nữa bài Bàn về việc hòa hình như được viết để cho nhà vua đọc, nên tác giả nói: “Phục vọng chuẩn thần sở kiến”: kính mong các ý kiến của thần được chấp thuận, trong lúc các bản Hv nói: “đại nhân cụ đề chuyển tấu”: kính xin đại nhân tâu lại đầy đủ. Bản N.P lại có phụ đề: “Nguyên danh: Quốc tế thượng giao thông chi chính sách”. b. Cũng theo bài Trần tình, thì năm 1863, Nguyễn Trường Tộ còn có bài Thiên hạ phân hợp đại thế luận. Để viết bài này, Nguyễn Trường Tộ chỉ lấy bài Hòa từ sửa chữa lại cho chỉnh và gọn gàng. Lúc đầu, hình như Nguyễn Trường Tộ định viết như một thư văn có mào đầu, có niên hiệu; nhưng sau có thể đã sửa chữa để gởi kèm theo bài Trần tình như một bài nghị luận, nên không có mào đề, không có niên hiệu. Đây là bản đã được sao chép lại trong Hv 135 và Hv 634/1 mà các tác giả như Nguyễn Lân, Đào Đăng Vĩ đều đã tham khảo và nói là “không rõ ngày tháng”. Bản được sao chép trong Hv 189/1 có lẽ là bản thảo ban đầu được sao chép lại gởi cho Phạm Phú Thứ. Ở đầu bài có ghi: “Giá tập ký dữ thần Phạm Phú Thứ (Bản này gởi thần Phạm Phú Thứ”). Đây có thể là lời của Nội Các hay Viện Cơ Mật. 1. Hà đồ: Thời ông Phục Hy làm vua thiên hạ, có con Long mã đội bức “đồ” (tức là bức vẽ) hiện ra ở sông Hà, ông Phục Hy theo cái văn bản ở trong bức đồ ấy vạch ra 8 quẻ ứng với 5 điều thủy, hỏa, kim, mộc và thổ là ở giữa bức đồ. 2. NAM PHONG nói: 2/3 Á Đông, Nguyễn Lân sđd trang 129 cũng nói: “một phần ba Á đông”. 3. Nam Hải.
|
|
« Sửa lần cuối: 13 Tháng Mười, 2010, 11:04:48 pm gửi bởi chuongxedap »
|
Logged
|
|
|
|
chuongxedap
Đại tá
Bài viết: 13138
|
|
« Trả lời #49 vào lúc: 13 Tháng Mười, 2010, 11:08:11 pm » |
|
Mới đây, người Pháp thừa thế đánh xong tỉnh Quảng Đông, đã đưa quân tinh nhuệ xuống phía Nam, làm Đà Nẵng thất thủ. Khi ấy giả sử ta có 10 vạn quân, cũng không đánh nhau được với họ. Phàm việc binh cốt ở thần tốc, họ đã biết rõ rằng quân ta mới nghe thanh thế họ đã phách lạc hồn xiêu rồi, hơn nữa cảng Đà Nẵng cách các doanh trại1 ta chẳng bao xa thế tại sao họ không thừa thế chẻ tre, xua quân tinh nhuệ tiến tới mà lại thôi? Sao cứ thong dong nhàn hạ không cần lợi dụng thế tốc chiến? Hay vì họ nghĩ rằng ta phòng bị chưa kiên cố. Bởi lẽ ta càng phòng bị kiên cố chừng nào thì càng tỏ rõ được cái năng lực công phá của họ chừng ấy. Họ không cần thừa chỗ sơ hở mà đánh xuất kỳ bất ý như đối với nước địch có thế lực ngang ngửa với họ. Hơn nữa, người Pháp đến đây, một là hỏi ta vì sao giết hại giáo sĩ, hai là hỏi vì sao không chịu giao thiệp, ba là xin ta cắt cho một vài chỗ để làm đường giao thương như các nước thường làm. Lúc đầu họ không có ý đi cướp nước người. Nếu những yêu sách của họ được thỏa mãn, họ sẽ chấm dứt những hành động gây hấn như đã ước định chứ đâu đến nỗi dây dưa lan rộng như thế. Cũng ví như nước lụt, người hiểu biết thì thuận theo thế nước mà cho chảy xuôi, để nước chảy về sông về biển thì hết, nếu ngăn đọng lại thì úng núi ngập gò, tắc lại thì trôi nhà trôi cửa. Cho nên người khéo trị lụt, thì việc làm hết sức đơn giản.
Hiện nay quân Pháp đã chỉnh cư thành Gia Định và các phủ huyện thuộc hạt, họ đào kinh đắp lũy trù kế lâu dài để tỏ ra không chịu đi, như hổ đã về rừng, rồng đã xuống biển. Bây giờ như ta muốn cố thủ thành trì đợi cho họ tê liệt thì thật chẳng khác nào muốn quét sạch lá rừng, tát cạn nước biển. Không hòa mà chiến, khác nào cứu lửa đổ thêm dầu, không những không cứu được mà còn cháy nhanh hơn nữa.
Tôi thường nghiên cứu sự thế trong thiên hạ mà biết rằng hòa với Pháp là thượng sách. Hơn nữa ở châu Âu việc võ bị chỉ có nước Pháp là đứng hạng nhất, hùng mạnh nhất không thua ai cả. Họ lại có tính khẳng khái, hiếu chiến, với uy phong của một quân đội có xe sắt. Tuy dụng binh nhưng cũng biết trọng nghĩa giữ lời, không như các nước chỉ chuyên thủ lợi. Khi kéo quân đi đánh thì khí thế hiên ngang, thái độ hân hoan. Khi lâm trận thì xông pha tới trước, không chịu tụt lùi. Khi thắng trận thì cả nước hoan hô, dù tổn thất nghìn muôn người cũng chẳng tiếc, chỉ sao cho uy danh hùng tráng, quốc thể được bảo toàn làm trọng. Các tướng thì gan dạ, nhiều mưu trí, thạo binh pháp, thủy chiến, lục chiến đều rất giỏi. Thật đúng như sách DOANH HOÀN CHÍ LƯỢC đã chép vậy.
Nếu như ngày kia Pháp đưa quân đến thì việc vượt biển cũng như đi trên đất bằng, trèo non như đi trên đường bộ. Nước ta tựa núi kề biển, địa thế như một con rắn dài. Nếu họ dùng hỏa thuyền chia nhau đánh cắt các tỉnh dọc bờ biển, lại cho các tàu đậu ngoài cửa sông lớn để triệt sự vận tải đường biển của ta, lại cho một đạo quân đóng giữ ở Hoành Sơn để chặn đường tiếp tế bằng đường bộ và cắt đường qua lại của đội quân Cần Vương, rồi lại đổ bộ tiến đánh các chỗ xung yếu, gấp rút truyền hịch khắp Nam Bắc, chiêu mộ bọn giặc cướp ẩn náu dùng làm bọn dẫn đường, thì thủy binh của ta sẽ trở thành vô dụng. Bộ binh thì đại lộ không thông. Chỉ còn đường Vạn Tượng, Ai Lao, Trấn Ninh, và đất Cao Miên thì lại hiểm trở khó đi mất nhiều ngày tháng đầu đuôi không liên lạc được với nhau. Nếu họ đánh một trận thì ta đã bị cái thế chia năm xẻ bảy2. Dù cho có trí dũng cũng không kịp ra mưu. Đại thế đã mất, lòng quân sĩ đã lìa thì còn ai đánh giặc nữa? Địa lợi như thế thì không thể trông cậy vào đâu được.
Quân lính của ta lại chuyên dùng gươm dao gậy gộc, không thạo súng ống, dù phục binh cài bẫy, nhưng trận đồ như vậy chỉ hợp cho những tình thế không cấp bách, chỉ đánh được gần chứ không đánh được xa. Nếu họ dùng súng trường từ xa bắn suốt tới, thì quân ta chưa giáp trận mà gươm giáo đã tan tành. Khi họ đến gần thì dùng lưỡi lê xung phong một người đương được cả 100 người, xông lên như nước sông chảy xiết. Lúc ngừng lại thì như núi dựng, xông vào chẳng qua cũng như chuồn chuồn lay cột đá mà thôi.
Hơn nữa, họ đã lão luyện chiến trận những phương pháp của Đông phương như dụ địch, kiêu binh, địa lôi, hỏa công, sập hầm, thuốc độc họ đều biết cả, dù có người trí xảo đến mấy cũng không nhử được họ. Huống chi việc thắng bại lại do ở nhuệ khí. Họ từ xa đến, dấn thân vào chỗ chết với khí thế một ra đi là không trở về3. Còn quân lính ta xưa nay vốn nhát gan, lại chưa quen đánh trận với nước khác, một ngày kia gặp phải quân địch mạnh mẽ, tuy có lòng dũng cảm nhưng khí thế đã suy lại đánh đâu thua đó, vừa mới nghe bóng nghe gió đã mất hết hồn vía, tham sống sợ chết là lẽ thường tình. Chỉ trước khi ra trận mà có lòng quyết thắng địch thì mới khỏi chết. Nay đã biết họ có thể tất thắng, ta có cơ dễ thua, lại không biết phép ra quân của họ biến hóa như thế nào mà đem quân nhút nhát của mình ra đánh lại quân vô địch của họ thật chẳng khác nào như bắt muỗi đội núi, đem dê đấu hổ, rõ ràng là lối tấn công như vậy không dùng được nữa. _____________________________________ 1. NAM PHONG nói: “Đà Nẵng đi kinh đô” (Đà Nẵng khứ Kinh). Nhưng nói như vậy là lúc Nguyễn Trường Tộ đánh giá chưa đúng lý do tại sao quân Pháp đầu năm 1858 không tiến đánh Huế mà lại hướng vào Nam bộ. 2. Những chữ xiên không có trong Nam Phong. 3. Nguyên văn là Phá phủ trầm chu chi thế. Do tích: Ngày xưa Hạng Vũ đem quân đi đánh Tần, lúc đã đến gần chiến trường ông bắt đập vỡ hết cả nồi chảo nấu cơm, đánh đắm thuyền, chỉ mang lương thực vừa đủ ăn trong ba ngày, để tỏ ý cho quân sĩ biết rằng nhất định phải quyết chiến, nên ai nấy phải liều chết.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
|