Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 07:35:55 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Nguyễn Trường Tộ - Con người và di thảo  (Đọc 146052 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #150 vào lúc: 22 Tháng Mười Hai, 2010, 07:51:50 pm »


Xưa từ đất Ngũ Linh trở vào Nam vốn là vùng đồng hoang nước đọng. Tần Hoàng, Hán Vũ đưa tù tội đến đó khai khẩn, nay trở thành miền đất phì nhiêu thu lợi vô kể.

Các nước phương Tây cũng dùng cách này mà làm cho Tây Châu ngày nay trở thành giàu có sung sướng. Những việc đó là đày đọa tù mà cũng là làm phước cho tù vậy. Hiện nay người Anh vẫn còn di cư những đám dân nghèo đến các vùng hoang vu cho khai khẩn, nhằm thu lợi trăm năm sau.

Những chỗ sát biên giới phía Tây nước ta cũng nên dần dần chỉnh đốn lại. Những làng xã nào có dân nghèo không kế sinh nhai thường bỏ đi làng khác và những bọn vô lại đầu gành xó chợ đều phải lùa đi hết ra khỏi làng. Tôi thấy trong dân có những hạng người làng xóm không ưa, do từ mặc cảm đó họ gây nhiều tội lỗi. Nếu những người này chết hoặc đi đâu cho khuất mắt thì ai cũng mừng. Lại có nhiều bọn ăn cắp móc túi. Phố chợ nào cũng có bọn này, bọn nào có địa phận ấy. Có bọn còn cấu kết ăn chia với hương hào làm cho dân chợ khổ mà dân những chỗ buôn bán càng khổ hơn. Những bọn người bất nhân này đã là giặc dã man đối với dân chúng, sao không dẹp yên đi, đưa hết bọn chúng ra ngoài biên giới cho hợp với ý muốn của dân? Hãy lựa trong chúng những tay quá quắt nhất mà không nhà cửa, tập trung quản thúc bắt đi làm các dịch vụ công cộng như đào kênh, vỡ đất, trồng cây... Đó là phương pháp hay nhất. Đối với bản thân chúng, được lợi ích vì cải tạo tư tưởng hành động, dân chúng thì được yên ổn và quốc gia thì được lợi ích không thể kể hết. Nay xin nêu một số dễ thấy nhất như sau: Một là dân khỏi bị hao tổn ám hại, hai là khỏi nạn trộm cắp, ba là khỏi kết bè đảng làm tội ác giữa bọn này bọn kia, bốn là khỏi bị cướp giật giữa đường giữa chợ, năm là khỏi tụ tập chuyện nhỏ làm ra to, sáu là khỏi lây xấu sang người khác, bảy là tránh cho dân khỏi tội vì tức giận chửi rủa chúng, tám là tránh cho dân khỏi bị bọn chúng vu oan giá họa, chín là bọn nhà giàu ác độc không còn bọn này để mướn chúng đi hành hung con nợ để đòi nợ như quan nha quyền thế, mười là bọn giặc không còn đâu để giả dạng thông tin tức cho nhau, mười một là giúp chúng có cách làm ăn sinh sống, mười hai là có thể làm cho chúng tuyệt đường hung ác, mười ba là có thể qua thử thách đó chúng tỉnh ngộ hối lỗi trở về nẻo lành, mười bốn là bị bắt buộc làm việc mỗi ngày sẽ bỏ được tật lười biếng, mười lăm là do bị bắt buộc làm việc mãi mà quen nghề, mười sáu là đã có bọn này làm các tạp dịch khỏi cần bắt dân, mười bảy là từ Kinh đô đến tỉnh có bọn này quét đường, trồng cây tưới nước, đổ rác, đường sá sạch sẽ không khí trong lành dân ít bệnh, mười tám là cỏ rác gạch ngói xà bần có bọn này đem đi lấp những chỗ sình lầy biến thành ruộng tốt, mười chín là có khai mỏ đã có bọn này khiêng vác chuyên chở khỏi mướn nhân công, hai mươi là những nơi rừng sâu hoang vu đã có bọn này khai phá dần dần trở thành khang trang. Vài mươi điều kể trên đem lại lợi ích lớn cho quốc dân và cả cho chúng nữa. Tuy nhiên trong đó cũng không khỏi có điều tệ Nếu khéo dùng chúng thì tệ ít mà lợi nhiều. Bọn chúng được đưa đến đâu thì quan quyền ở đó quản thúc chúng lại để đề phòng những chuyện không hay xảy ra. Sau đó cho phép các linh mục và đạo đồ đến các điểm tập trung, như ở các vùng biên giới các châu, sách xa xôi, để giảng đạo giúp đỡ giáo dục chúng. Bởi vì các giáo sĩ có nhiều phương pháp hay giàu thiện chí, nhẫn nại và chịu cực giỏi mới có thể ở với chúng được.

Phương Tây xưa có nhiều giống dân hung dữ chưa khai hóa, như dân Bồn Man, Vạn Tượng ngày nay, phần nhiều đều nhờ các giáo sĩ chịu khó mở mang giáo hóa mà về sau dần dần trở nên thịnh lợi. Chuyện ấy sử sách các nước phương Tây còn ghi và sách Doanh hoàn chí lược của Trung Quốc cũng nói đến chứ không phải tôi dám bịa ra hùa theo nói tốt cho họ đâu.

Phàm những người chỉ mới gây những tội ác nhỏ chưa đến nỗi nào, nhưng nếu không sớm xử trí, dần dần sẽ trở thành tội ác lớn. Tội ác nhỏ mà chất chứa suốt đời cũng bằng một tội ác lớn. Ví như nước làm đắm thuyền vậy. Nước vào thuyền bằng lỗ lớn hay rịn vào khe nhỏ cũng thế. Nếu không nhét sẽ làm đắm thuyền như nhau. Xưa nay những vụ loạn nghịch khởi đầu tuy chỉ do những bọn ham giàu sang xướng xuất lên, sau mới tụ tập những bọn lưu manh mà xúi giục chúng. Thế mà bảo những cái xấu ác nhỏ không có hại sao? Hơn nữa, những người này vốn cũng là dân làng, cùng nhau chung sống, lẽ nào không có tình tương thân tương ái. Thế mà nay chúng đã làm cho mọi người không chịu nổi chúng, thì sao gọi là không có tội được? Phạt chúng là hợp lẽ công bằng. Nay tách chúng riêng ra là phải. Như thế tuy nói là phạt mà thực ra là để giáo dục chúng. Có gì mà phải tội nghiệp? Diệt cỏ xấu để khỏi làm hại lúa. Bọn lưu manh du đãng trong làng giống như ôn dịch phải sớm dùng thuốc chữa trị, không sẽ truyền nhiễm lan tràn, không thể trì hoãn được. Nếu bảo rằng gom chúng lại một chỗ chúng lại càng gây nhiều tội ác hơn. Thế là chưa hiểu. Sở dĩ chúng dám ngang tàng là vì đám người bình dân lương thiện không muốn hơn thua những chuyện nhỏ mọn với chúng. Hoặc giả có người nghĩ rằng nhổ cỏ không nhổ hết rễ sẽ bị bọn chúng trả thù. Có người nghĩ rằng giải nộp một tên trộm phải mất công chờ chực hầu tòa khai báo phiền phức, không bao lâu chúng lại được tha về làng trở lại. Vì vậy mà người ta bỏ qua nên chúng không kiêng sợ gì cả. Có chỗ dung túng để làm điều ác, càng lúc chúng càng lộng hành. Nếu giữa bọn chúng với nhau thì đứa nào như đứa nấy sẽ kìm chế lẫn nhau không thể trổ ngón ngang tàng với ai được. Không làm ác được, tức tự nó đã có cái thiện trong đó rồi. Còn đứa nào hung dữ quá thì xiềng lại, bắt làm khổ sai, như con ngựa chứng đã có dây cương hàm thiếc, không cắn đá vào đâu được (Ở phương Tây những người tội nặng không bị xử trảm hay xử giảo mà chỉ xử khổ sai chung thân, trừ trường hợp phạm tội ác nhiều lần đáng chết mới xử giảo). Đây là điều quan trọng đối với việc trừ tệ làm phước. Trong đó có nhiều chi tiết rất quan hệ với nhau. Xin quan sát dân gian ngày nay và suy nghĩ kỹ mới thấy bọn này là mối tai hại lớn của nhân dân. Ở phương Tây người ta đày những bọn này qua Tây Châu và qua các đảo xa xôi cho chúng khai hoang. Nhờ vậy trong nước ít trộm cướp, nhân dân yên ổn làm ăn. Nay ta cũng nên phân loại ra thi hành dần dần, sẽ thấy có kết quả.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #151 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2010, 05:51:22 pm »


Điều thứ tám: Lập Viện Dục Anh và Trại Tế Bần.

Vua Văn Vương thi hành chính sách nhân đức trước hết là đối với hạng người cô độc. Vua Nghiêu vua Thuấn thương người trước hết là hạng nghèo khổ. Đó là thể theo cái đức lớn của trời đất mà bù đắp chỗ thiếu sót của loài người. Bởi vì trong thế gian có người nghèo khổ mới tỏ rõ được cái đức bố thí, có kẻ mồ côi mới có cái ơn dạy dỗ. Đó là tạo vật chữa chỗ thiếu sót cho loài người tạo ơn đức. Nếu không, Nghiêu, Thuấn, Văn Vương không làm sao sáng tỏ cái đạo đức của mình được.

Con người ta mang ơn nặng của cha mẹ là ở chỗ nuôi nấng dạy dỗ, che chở, xây dựng nên người. Nếu chỉ có công sinh ra mà thôi, thì chẳng khác nào loài vật. Vì đó là tính tự nhiên. Bởi vậy loài vật không có đạo hiếu thảo. Loài vật thành được loài vật hoàn toàn do sức tự nhiên của tạo hóa, không quan hệ mảy may gì đến ơn dạy dỗ xây dựng. Cho nên đối với loài vật cái ơn ấy thuộc về tạo hóa. Chúng được sinh sống trong điều kiện tự nhiên mà không hề biết đến. Chúng không thể làm sáng tỏ cái chủ trương có tính linh sáng suốt như con người. Vì thế tạo hóa mới dùng con người để hoàn thành cái đức dạy dỗ nuôi nấng của trời.

Nay thử bắt một đứa nhỏ rời vú mẹ đem bỏ ở chỗ hẻo lánh không người. Không cha mẹ nuôi nấng che chở chắc phải chết, làm sao khôn lớn nên người được? Vậy thì cái ơn sinh ra đó cũng như không sinh. Nếu sinh ra mà để cho khổ não đến chết là không làm hết cái đạo làm người, thế chi bằng đừng sinh còn hơn. Nói về công sinh đẻ, dĩ nhiên không thể phủ nhận ơn, nhưng kỳ thật đó vốn là lẽ tự nhiên của tạo hóa, không sinh không được. Vậy cái quyền sinh ra không thuộc về cha mẹ. Cho nên chỉ nói “sinh” mà chưa nói đến “thành”. Đến lúc sinh ra rồi, muốn nuôi hay muốn bỏ là quyền của cha mẹ. Như Trung Quốc sinh con gái thì bỏ, như man rợ ăn con. Những đứa trẻ ấy nếu biết, chúng sẽ oán hận vô cùng kẻ đã sinh ra chúng, còn nói gì đến ơn nghĩa? Vậy cái công bảo toàn đó không thuộc về tạo hóa mà thuộc quyền chủ trương của cha mẹ, nên mới gọi là sinh thành. Tôi nói như thế không có ý khinh bạc cái công sinh đẻ, nhưng bàn về cái công nuôi dạy so với sinh đẻ thấy nặng hơn nhiều. Nếu vậy thì những kẻ mồ côi không nơi nương tựa bị vứt ngoài bụi ngoài bờ mà được người nuôi dạy lớn khôn nên người, thử hỏi công ấy có hơn công cha mẹ đã sinh ra không?

Phàm con người có lập ra vua, nước, luân thường, uy quyền, chính sự, luật lệ, công thủ, trừng phạt, v.v... Tóm lại mọi sự cũng chỉ để hoàn thành con người, sao cho sống chết không có điều ân hận mà thôi. Cho nên cái đức của trời đất là bảo toàn nuôi dưỡng muôn vật còn bổn phận của loài vật là tự bảo vệ gìn giữ lấy mình. Chính vì vậy tạo hóa sinh ra muôn vật đều ban cho cái bản năng bảo vệ. Riêng loài người hình như còn thiếu. Không phải tạo hóa cố ý làm thiếu, kỳ thật là để cho ta có cái đức giúp đỡ nhau, hoàn thành cho nhau đó thôi. Như trong sách đạo có nói: Trong con người gồm đủ tất cả những cái tốt xấu của muôn vật.

Hiện nay trong nước có một hạng người không khôn lớn nên người được, không sống trọn đời được. Làm kẻ bề trên có quyền hành trong tay, nếu không giúp đỡ chăm nom họ tức thiếu sót cái đức hoàn thành cho nhau. Cho nên bên phương Tây, nhà nước đặc biệt ủng hộ khuyến khích việc nuôi trẻ mồ côi và giúp đỡ người nghèo khổ. Ở Anh có đạo luật nói rằng nếu trong làng có người nào nghèo khổ không thể tự nuôi sống được thì giao cho những người giàu có trong làng nuôi. Cả nước những người có tiền của, hàng năm đều xuất tiền giúp người nghèo trong làng, ít nhất cũng năm trăm quan. Đó là luật nước bắt buộc, ai cũng phải làm, trừ những người có lòng tốt thường đứng ra xuất tiền phát chẩn. Ngoài ra còn có những trường dạy trẻ miễn phí, nhà trọ, nhà dưỡng lão, nơi phục hồi nhân phẩm cho gái mãi dâm, nhà thương, nhà nuôi trẻ mồ côi, nơi nuôi chữa người tàn tật. Những cơ sở từ thiện này ở đâu cũng có, không những do nhân dân vì lòng thương xót tiết giảm lãng phí quyên góp làm ra, mà cũng do nhà nước khéo biểu dương khuyến khích nữa. Cũng bởi vì đạo nhân ái, việc cần kíp trước hết là nuôi trẻ mồ côi, thứ đến là cứu giúp kẻ nghèo. Còn đối với những người đã trưởng thành, những gia đình sung túc, tự họ đã gần chu toàn rồi đâu cần cứu giúp nữa? Viện dục anh tế bần là làm cho những kẻ sắp chết được sống lại. Công đức ấy thật vô lượng!
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #152 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2010, 05:52:11 pm »


Người ta thường nói: Người chết không thể sống lại, vật hư không thể lành lại. Đó là luật thành hoại của tạo vật. Nhưng đối với con người, điều đó chưa làm thỏa mãn. Nay có người chưa đến nỗi phải chết mà sắp chết, người ta có thể làm cho sống, vật chưa đến lúc hư mà hư, người ta có thể làm cho nguyên lành được. Như thế không hơn luật nhất định của tạo vật hay sao? Cho nên trong sách có câu: “Ca ngợi sự giáo hóa nuôi nấng của trời đất thì cũng có thể tham dự được với trời đất”. Ai là người để ý đến cái đức của trời không thể không để ý sâu vào câu nói này.

Về công việc cứu tế, bất luận nước nào, đạo nào, đã là người không ai không cho đó là việc đạo đức tốt đẹp. Biết vậy nhưng ít ai làm. Tại sao vậy? Nếu nói khó với dễ thì tế bần còn dễ hơn dục anh. Dễ còn không làm huống gì chuyện khó. Như Trung Quốc xưa nay xưng là nước lễ nghĩa thế mà chưa hề nghe việc này được nói đến trong chính sách nhà nước! Thỉnh thoảng tuy có nhắc đến, nhưng đó chỉ là một sự xúc động lương tâm nhất thời mà thôi, chưa có một chính sách thi hành nhất định như luật pháp phương Tây. Đó là chưa nói đến những kẻ thừa hành ở dưới chẳng xem những lời nhắc nhở ấy có giá trị. Nói chung, tuy ở trên không thể làm hết mọi việc, nhưng trong dân gian chưa nghe có ai họp nhau lại, đem lòng nhân ái ra mà bàn luận việc lập hội từ thiện cứu tế như ở phương Tây. Tôi thấy hiện nay ở Trung Quốc cũng như nước ta, người ta thường dán nhiều tờ kêu gọi ở ngoài đường. Đứng đầu phần nhiều là những người danh vọng nho nhã. Nhưng nội dung thì kêu gọi lập đàn cúng tế, hoặc hát tạ thần, hoặc đúc tượng Phật, hoặc lập bài vị thần, hoặc đúc chuông, sửa chùa, hoặc hội họp văn chương, hoặc làm đình làm mộ, dùng văn chương lời lẽ hay ho để vui lòng đẹp mắt, hy vọng lôi cuốn được nhiều người. Những người này ai quyên góp được nhiều thì bảo là háo thiện! Chẳng biết những việc ấy có thiện gì mà gọi là háo? Chỉ có háo danh mà thôi! Ngoài đường có người đói xin miếng cơm thừa canh cặn mà còn nhẫn tâm không cho. Gần nhà có trẻ mồ côi ngồi khóc bên vách còn nỡ nhắm mắt bỏ đi. Vậy mà bảo là háo thiện? Tôi đã mục kích không biết bao nhiêu những chuyện giả đạo đức để cầu danh, còn cái đạo đức chân thật hợp với tạo hóa thì bỏ nó đi như đồ ô uế. Thế thì đừng lấy làm lạ tại sao tai ương hoạn nạn lan tràn khắp xứ. Đó là vì uổng dùng của đời mà không biết khéo dùng cái phúc ở đời tạo vật đã ban cho ta, chia sớt cho người bất hạnh.

Tôi thấy hiện nay Triều đình có xuất công quỹ lập viện tế bần để nuôi người nghèo khổ. Nhưng vì người thừa hành không làm hết nhiệm vụ, nên chỉ có danh nghĩa mà thực tế những người nghèo khổ không được hưởng sự cứu giúp bao nhiêu.

Không bằng phương Tây người ta tự mở đồn điền, cất nhà lớn, nhiều người hảo tâm bỏ tiền ra giúp. Ở các nhà thờ, trường học tư, nhà chung v.v... đều có đặt hòm cứu tế. Ai muốn giúp đỡ bao nhiêu thì cứ bỏ tiền vào hòm. Mỗi ngày mở hòm lấy tiền chia ra các nơi. Hội thánh thâu hết những người nghèo về nuôi, chữa bệnh. Người nào khỏe mạnh thì dạy cho làm ruộng và các nghề vặt. Người tàn tật thì có công việc tàn tật, không ai ở không. Ngoài ra còn dạy họ làm các nghề thủ công để bán lấy tiền phụ thêm vào việc chi phí sửa sang trong viện. Nếu còn dư thì mua ruộng vườn chăn nuôi sinh lợi thêm nữa. Còn rất nhiều cách làm hay khác không thể kể hết.

Về mặt nhà nước thì cấm tuyệt không cho kẻ đi ăn xin. Nếu ai vô cớ đi ăn xin dọc đường, đó rõ ràng là kẻ gian trá hình, bất cứ ở đâu hễ gặp là bắt ngay đem về tra xét rồi xiềng lại sung vào công dịch. Làm được thế người nghèo có nơi nương tựa mà bọn côn đồ bất lương khó đường trốn tránh. Việc ấy có lẽ chúng ta cũng làm được chứ?

Còn việc nuôi trẻ rất khó kiếm người. Chắc chắn phải như những phụ nữ phương Tây tình nguyện vào ở trong viện với trẻ mới làm được việc và chắc chắn có hiệu quả tốt. Ví dụ như ở Gia Định, người ta sẵn tiền lại có người thực tâm làm việc mới có thể làm mẹ đám trẻ mồ côi được. Bất cứ trẻ nào người ta đều nuôi dạy. Trai học theo trai, gái học theo gái. Đến tuổi trưởng thành người ta đứng ra dựng vợ gả chồng và chia cho của cải. Tôi thấy họ thương yêu nuôi nấng các trẻ mồ côi như con đẻ của họ vậy. Các trẻ mồ côi lúc còn nhỏ, trai gái đều có phòng riêng. Chỗ nghỉ ngơi cũng phân biệt. Từ mười tuổi trở lên, con trai con gái đều có nhà riêng và chỗ ở riêng biệt. Những phụ nữ phương Tây này đều độc thân không lập gia đình, nên nhờ bản tính làm mẹ họ chịu đựng được mọi sự ô uế. Nếu ai cho con nít mới sinh, họ sẽ thuê vú nuôi trong một năm rưỡi. Ngoài ra họ còn chữa bệnh phát thuốc không lấy tiền.

Nếu Triều đình cho rằng việc này nên làm thì sẽ nhờ các giám mục mời người đến, mở mỗi tỉnh một nhà nuôi trẻ, không bao lâu sẽ thấy kết quả ngay. Giả như các giám mục có giao ước trước một cách rõ ràng rằng: “Nếu các trẻ mồ côi lớn khôn sẽ được mang về Tây làm dân bên ấy”. Tôi nghĩ những trẻ mồ côi của ta không người nuôi nấng sớm muộn cũng chết thì để họ nuôi lấy cũng được. Huống chi nhà nuôi trẻ dù lập ở đâu, bọn trẻ con khi lớn khôn cũng sẽ phân tán tại các nơi đó. Dân là dân của ta, có người bỏ tiền bỏ công ra xin nuôi dạy. Xưa chúng là người bỏ rơi mà sau được nên người. Những người làm mẹ nuôi chúng nhiều người ở mãi đến già chết trên xứ ta. Như thế đủ chứng tỏ tấm lòng từ thiện của họ như thế nào.

Phàm đã là việc từ thiện thì bất cứ Đông Tây Nam Bắc đều xuất phát từ cái đức của trời mà ra cả. Vì vậy cái gì bắt chước được cứ bắt chước, cái gì làm theo được cứ làm, không ngại gì cả. Đừng cho rằng hợp tác làm như vậy sợ người ta dị nghị. Làm công việc từ thiện như thế mà còn có người chê bai chống báng, tôi không hiểu những hạng người ấy lòng dạ như thế nào?

Ở phương Tây, tiền nuôi trẻ mồ côi phần nhiều là của trẻ con cho. Vì khi vào trường học, thầy giáo cắt nghĩa cho các em hiểu rằng trên đời còn có nhiều trẻ em nghèo khổ không nơi ăn học. Chúng cũng là anh em của các em. Ngày nay các em nhờ cha mẹ được cho ăn no mặc ấm lại có tiền dư mua bánh trái, đồ chơi, tiêu phí vô ích, chi bằng các em chia sớt chút ít cho các anh em của các em đang đói rét sắp chết đó có hơn không?

Nhờ lời giảng giải của thầy giáo, các em đua nhau bỏ tiền vào hòm cứu tế. Mỗi trường mỗi tháng thu được hai ba trăm quan. Cách dạy người làm việc thiện của họ thật là khéo! Ta không phải không có người hảo tâm chỉ tại chưa có ai đề xướng đó thôi.

Đối với các kế sách, điều này hình như chưa cần kíp lắm, nhưng đứng trên đạo làm người và về phương diện cải thiện quốc gia, thật cũng vô cùng khẩn cấp, nếu không bắt tay vào việc ngay, không biết đến bao giờ mới làm được?
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #153 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2010, 05:53:58 pm »


*

Tám điều trên đây, trích trong bài Tế cấp luận, đều là những việc cần phải làm trước hết đối với tình thế nước ta. Còn về thế tung hoành sẽ có một tập khác suy diễn rộng rãi hơn, ở đây không thể nói rõ hết được. Trong tập này cũng có một vài điều khoản nhỏ mới thêm vào. Cho nên tám điều này tên tuy cũ nhưng các việc điều mới, phát sinh từ tình thế nước ta hiện nay. Nếu làm đúng như thế sẽ bằng được như người ta hoặc hơn người ta. Nếu không làm, nhất định phải thua sút thiên hạ. Trước kia ta làm các việc trị nước đều có tính cách làm qua loa cho xong chuyện. Giờ đây mới là lúc những việc làm của ta không những chỉ nhằm thi hành trong nước mà còn phải đối phó với thiên hạ. Tình thế nay đã khác xưa lắm rồi.

Trong đoạn đầu, tôi có trình bày tình hình cấp bách uy hiếp chung quanh ta, mặc dầu cơ hội có thay đổi bất thường, trước sau, sớm muộn có khác, nhưng đại thể nhất định sẽ không thay đổi. Nếu việc làm của ta không theo việc người, chắc chắn sự hệ trọng sẽ không nhỏ.

Xưa Câu Tiễn, vua nước Việt, bị nhục ở Cối Kê mới gắng sức trỗi dậy mà làm bá chủ được thiên hạ. Thế Tổ Cao Hoàng Đế nước ta mắc nạn lưu vong mới ẩn nhẫn nuôi chí lớn thống nhất đất nước. Câu Tiễn bị giữ làm con tin, không còn thế lực nương tựa, chỉ một niềm quyết tâm mà gây dựng được cơ nghiệp, huống chi nước ta ngày nay đã sẵn ba nghìn dặm đất với hai chục triệu dân!

Tôi thấy nước ta từ lâu dân thì mỗi người một ý không hợp nhất với nhau, Triều đình thì bận rộn đối phó không chút rảnh rang để mưu đồ việc khác. Còn chúng thì thôn tính thêm phần đất lớn của ta để củng cố thế lực mạnh thêm, âm thầm mưu tính, thong thả sắp đặt. Tương lai nước ta sẽ ra sao, cứ nhìn việc đã qua cũng có thể tưởng tượng được.

Tôi đã biết chắc điều đó, suy tính kỹ và thấy rõ ràng, nên trước đây trong đoạn cuối bài Lục Lợi từ tôi có thưa rằng cứ thực hành, dần dần sẽ thấy hiệu quả. Nếu trì hoãn thì dù trì hoãn đến bao giờ cũng không thể bỏ những kế sách ấy mà có thể chống lại chúng được. Nếu không làm để cho càng lúc càng suy yếu khác nào bệnh đau lâu không gấp tìm phương chữa trị, bệnh tình sẽ mỗi ngày một trầm trọng. Nếu làm dù có khi được khi hỏng không vẹn toàn, nhưng hết sức mình thì sau sẽ không ân hận.

Xưa Khổng Minh lo tính kế hoạch đánh Ngụy suốt ngày lẫn đêm ngay cả trong giấc ngủ mơ màng (Câu này tôi ghi sâu trong lòng và thường nhắc luôn miệng). Tôi tuy tài kém nhưng lòng dạ có thừa, không có phận nhưng có chí, cho nên mắt thấy tai nghe được gì, lo nghĩ suy tính được gì, thì cứ tưởng như là mình có thể làm được việc lớn vậy. Tôi quyết không vì thời thế mà thay đổi chí hướng hay dám để cho lòng nguội lạnh. Cho nên lâu nay tôi đã trình bày dông dài mà không ngờ rằng những chuyện đó ngoài phận sự của mình!

Những điều trên đây, khẩn cấp nhất là việc “Chấn chỉnh vũ bị”. Bổ sung vào đó là việc “Dẹp trừ tệ đoan, gây tài chánh”. Việc “Chỉnh đốn học thuật” là cái gốc lớn của quốc gia. Còn “Kiểm tra số đinh”, “Kiểm tra điền thổ”, “Sửa sang cương giới” là những việc cần gấp để làm cho nước mạnh. Tôi chỉ nêu lên lý lẽ và đề ra những nét đại cương mà thôi. Còn việc thực thi phải châm chước như thế nào cho thỏa đáng là quyền của Triều đình. Nhưng nếu muốn thi hành triệt để thì phải tính toán liệu lý tỉ mỉ. Việc đó tôi cũng có thể đóng góp một ít tài hèn.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #154 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2010, 05:54:54 pm »


Xin trình bày thêm về khoản sử dụng sắt.

Tôi với Giám mục Hậu, linh mục Điều có đi thăm một xưởng đúc sắt lớn ở Ba Lê. Đường xa bằng từ Kinh đô đến Nghệ An. Chúng tôi ở đó hơn một tuần xem hết tất cả cái cách đúc sắt mới biết cái lối làm cho nước giàu mạnh của họ khác ta nhiều. Xưởng có khoảng hai vạn công nhân (Xưởng này của hội tư không phải của nhà nước) và hơn một ngàn giàn máy khác nhau để đúc máy tàu thủy, tàu hỏa và nhiều dụng cụ khác (mỗi giàn lớn bằng một chiếc tàu thủy). Mỗi giàn máy trị giá vào khoảng năm mươi vạn quan. Xưởng có mười lăm lò nấu lớn. Mỗi lò một ngày một đêm nấu được chừng ba vạn cân sắt (Bảy năm mới xây lại một lần). Các nước đều đến đây mua máy móc, sắt tấm và những loại khí cụ bằng sắt. Sắt tấm sau khi đúc xong, mỗi tấm dài từ hai mươi thước trở xuống (Muốn dài một trăm thước cũng được) Miếng hình vuông mỗi bên từ nửa phân đến năm tấc. Miếng mỏng từ nửa phân đến một tấc. Có ba loại có góc: Loại hình như T, loại hình như L, và loại hình như U. Có đủ kiểu vuông, tròn, khía, góc. Lại có những lá sắt mỏng như tờ giấy, dày từ một đến hai ba phân rộng từ một thước đến ba bốn thước, dầy, ngắn, rộng hẹp đủ thứ, thứ nào có giá nấy. Bất luận kiểu nào, giá tiền căn cứ vào chất sắt tốt xấu. Giá thấp nhất, một trăm kí lô (hơn 166 cân ta) là mười tám quan. Thứ tốt nhất một trăm kí lô ba mươi lăm quan. Nếu mua chủ hãng sẽ chở đến cửa biển Mã Sa giao hàng. Còn muốn gởi đến Gia Định thì mỗi trăm kí lô phải trả cước phí từ bốn quan trở xuống. Ngoài ra còn đóng tiền bảo hiểm (Như đã đóng tiền bảo hiểm cho hãng rồi mà mất hàng, họ sẽ bồi thường) mỗi một trăm quan là ba quan.

Theo tôi sắt là một vật cần dụng nhất cho quốc gia và nhân dân. Nước ta tuy có nhiều mỏ sắt nhưng chưa biết cách đúc sắt như họ và cũng chưa có máy móc để chế tạo ra các dạng hợp với nhu cầu sử dựng. Như các xã phải nộp sắt, thường họ không mua đủ sắt được để nộp. Nếu có nộp đủ số thì sắt cũng chẳng ra hình dạng gì lại phải thuê thợ rèn đánh ra tổn phí thật nhiều. Như việc làm đinh chẳng hạn, nếu dùng sắt của họ, một sợi dài hoặc vuông hoặc tròn một ngày làm được một ngàn cái đinh thì sắt ta làm không tới một trăm cái mà đinh cũng chẳng tốt (Có máy dập đinh giá vào khoảng bốn ngàn năm trăm quan, một tiếng đồng hồ dập ra sáu ngàn cây đinh thật đẹp). Như vậy thì dùng sắt của họ đỡ tốn công gấp bội. Và như loại sắt âm dương để xỏ bánh lái trên những thuyền lớn của ta giá đến cả trăm quan vì to và khó rèn. Còn như những sắt tấm bề mặt ba bốn thước dài ba bốn chục thước, thợ ta không có cách nào làm được. Tôi xem kỹ các loại sắt của họ rất tiện dụng. Bất luận kiểu nào đều có làm sẵn khỏi mất công rèn lại đỡ tốn biết bao nhiêu. Vả lại các loại sắt ấy còn dùng để chế tạo các loại vũ khí, làm những đồ máy móc to nặng hoặc dùng vào những việc khác cho binh pháp cũng tiện mà thợ ta không tài nào làm được. Đã không được các kiểu sắt ấy thì không thể nào kiến thiết được theo các phương pháp mới. Nay ta dù muốn nấu sắt đúc sắt như xưởng của họ (Tôi có mua một bộ sách dạy cách nấu sắt đúc sắt rất đầy đủ đã đệ nạp rồi) cũng chưa đủ tiền đủ sức để làm. Chờ sau sẽ thong thả làm dần. Nay xin sức các xã từ trước nộp sắt được nộp bằng tiền. Như vậy rất tiện cho dân. Rồi mỗi năm quốc gia dùng bao nhiêu sắt cứ viết thư đặt hàng cho chủ hãng bên ấy, người ta sẽ lo liệu tất cả. Khi nào sắt về đến Gia Định, ta đến đó nhận hàng và trả tiền, không có gì đáng ngại cả. Như vậy tiện cho nhà nước mà cũng tiện cho dân nữa. Hơn nữa so giá tiền mua với giá của ta còn lợi hơn nhiều vì sắt đã làm thành đồ vật cả rồi. Vả lại giá tiền như thế nào lâu nay người ta cũng biết cả rồi. Nếu mua dùng sau sẽ thấy rõ. Họ có phát đơn đặt hàng tại các nước, trong đó ghi rõ sắt tên gì, kiểu loại nào, giá bao nhiêu, có thể so sánh biết được (Hiện nay các nước Xiêm La, Nhật Bản mua sắt của xưởng đó rất nhiều). Sắt Tây hiện đã có bán ở Gia Định giá một trăm cân Tàu là tám đồng. Như thế mua sắt chở đến bán ở Gia Định cũng đã lời nhiều rồi.

Nếu triều đình cho là phải, hãy mua thử một lần, mỗi thứ một ít đem về dùng thử rồi so sánh. Nếu quả thấy tiện lợi mới đặt mua nhiều cũng được.

Còn về việc lập xưởng sắt đợi khi nào tôi về Kinh trình bày rồi sẽ tính sau.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #155 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2010, 05:55:55 pm »


Xin trình bày thêm về khoản làm súng hỏa mai.

Ngày trước, khi chúng tôi mới đến Ba Lê, linh mục Điều đã đi dò hỏi các nơi về việc này. Ông biết được có một gia đình chế tạo súng hỏa mai ở ngoại ô xa thành phố và đã điều đình với họ về việc học làm súng. Chờ khi nào hai phái viên đến, linh mục Điều sẽ giới thiệu cho hai bên giao ước với nhau. Hôm nay, hai phái viên với Nguyễn Hoằng đáp tàu hỏa đến xưởng này để quan sát xem liệu có học được không. Chủ xưởng nói nếu chịu mua súng của họ năm sáu chục vạn đồng (Thứ đắt nhất giá mỗi cây một trăm lẻ một quan, hai bách) họ sẽ cho ở tại xưởng ba tháng tận tâm chỉ dạy cho học mà không lấy tiền công dạy, cũng không tính tiền ăn. Nếu không mua mà chỉ học không thì học phí đôi ba trăm quan đối với họ chẳng nhằm nhỏ gì họ chẳng thèm dạy đâu, mà lấy đôi ba ngàn quan thì hai phái viên không chịu. Xem lời lẽ của chủ xưởng thì học phí hai ba nghìn quan có vẻ họ chịu dạy. Hai phái viên muốn học lắm nhưng vì học phí quá nặng nên chần chừ không quyết định.

Họ còn hướng dẫn cho xem các cách làm súng, các giàn máy. Công trình rất là đồ sộ. Mỗi ngày xưởng có thể sản xuất mười vạn cây súng. Công nhân trên ba trăm (Người Nhật hiện đến mua của xưởng một trăm vạn cây súng, mua các giàn máy và thuê hai công nhân về Nhật Bản lập xưởng). Họ còn cho hai phái viên biết nếu muốn học làm súng phải học hóa học trước cho giỏi, sau chỉ học ba tháng là rành nghề. Do đó hai phái viên không thể quyết định được, phải trở về. Hơn nữa khi ra đi, hai phái viên chưa được Triều đình dặn dò rõ ràng việc này, còn chúng tôi cũng không có tiền để có thể giải quyết được. Nên phải đợi về trình lại rõ ràng. Nếu quyết định làm cũng có cách khác có thể làm được.

Xin trình bày thêm về việc đào kênh.

Đào kênh là một việc làm quan trọng đem lại lợi ích lâu dài cho đất nước. Nước ta là một trong ba nơi trên địa cầu bị bão thổi qua (Một ở biển Đông Nam, hai ở biển Ấn Độ bên phía Tây Châu). Hơn nữa bờ biển nước ta kéo dài từ Tây Bắc xiên xuống Đông Nam mà luồng bão thường nổi lên ở Đông Bắc tạt ngay vào bờ biển làm người lái tàu khó tránh được. Thật đúng như lời người xưa nói: Tàu biển không sợ gió chỉ sợ mắc cạn. Và đối diện ngoài biển xa có đảo Hải Nam và Bà La Châu đều là những ổ của bọn cướp biển. Thuyền quan thuyền dân qua lại nơi đây không bị cướp cũng bị bão. Thoát khỏi hai nạn này là điều may mắn lắm. Đó là đường biển thiếu an toàn. Nước ta Kinh đô như cái bụng, Bắc kỳ như cái đầu. Mọi cái gì cũng do từ miệng vào bụng. Nếu qua cổ bị nghẽn thì thật là một bệnh nặng. Còn về lâu về dài, một khi có sự cố xảy ra thì bọn chúa cướp các nước phương Tây sẽ lợi dụng cơ hội bắt chẹt ta. Chuyện đó không thể không đề phòng trước (Câu này có một ý nghĩa đặc biệt. Đợi khi tôi về Kinh sẽ làm một tờ trình riêng trình bày rõ ràng). Như về việc vận chuyển lương thực, Triều đình đã hết sức lo liệu mà vẫn chưa ổn. Phần nhiều một thạch lương thực đến được Kinh đô đã phải hao hụt dọc đường mất năm sáu đấu. Đó là chưa nói đến nhiều vụ bị chìm ghe, bị đánh cướp. Các sản vật khác cũng vậy. Còn ghe buôn của dân mỗi năm chìm không biết bao nhiêu mà kể. Dân nghèo thì nước cũng nghèo. Cái hại lớn ấy đều do đường biển gây ra. Nay xin xem xét kỹ địa thế từ Hải Dương đến Kinh đô, đào một con kênh lớn có thể lưu thông được tất cả các ghe lớn ghe nhỏ thuyền quan thuyền dân, rồi cất trạm thu thuế. Xong đóng thuyền chuyên chở theo kiểu phương Tây (Tôi biết việc này) thuyền nhỏ mà chuyên chở được rất nhiều. Hai bên bờ kênh nơi nào có thể đắp đường được thì đắp đường cho trâu ngựa kéo, đỡ nhọc sức người. Ngoài ra còn sử dụng dân binh (Như điều trước tôi đã trình bày về vấn đề dân binh) ở vùng nào tiếp cận vùng ấy. Làm thế thì ít tốn kém, an toàn và tiện lợi. Có chỗ nào kênh đi quanh (Tôi biết cách chia dẫn thế nước) cứ việc đào thẳng. Như vậy không những quốc gia và các tỉnh được lợi lớn và lâu dài mà dân gian buôn bán làm ăn, đi Nam về Bắc, dầu ít vốn cũng làm được. Lợi ích rất lớn. Hễ ghe thuyền nhiều thì thuế nhiều, nhà nước có lợi.

Còn những chỗ trở ngại và cát đá khó đào xin cứ giao cho tôi. Tận dụng đủ cách thì núi cũng xuyên qua được huống gì những nơi bế tắc. Lúc trước tôi có xem qua chỗ Nhà Hồ ở Quảng Trị thấy cũng có thể xuyên qua được. Chỉ có hoành Sơn là tôi chưa xem kỹ. Nếu quan sát nghiên cứu kỹ hai nơi này mà thấy có thể đào được là đào liền. Sau khi đào kênh xong đã khỏi lo bão và cướp biển gì nữa mà còn có một kế hay. Số là chúng muốn dòm ngó Bắc kỳ vì ở đó có nhiều nguồn lợi. Nhưng chúng cũng sợ biển nhiều bão. Bờ biển từ Kinh đô ra Bắc ít vịnh nào thuyền lớn có thể vào đậu được, cửa biển lại cạn. Nếu thuyền của chúng chiếm lấy cửa biển làm căn cứ, chúng mới dám đi sâu vào nội địa của ta. Nếu nay trong nội địa ta đào được con kênh sâu rộng thì mọi dịch vụ về thuyền bè ít cần đến đường biển nữa. Lúc bấy giờ ở các cửa biển sâu từ bảy trăm thước trở xuống, dùng đá xây cho chắc và xây quanh co khó cho thuyền lạ đột nhập thình lình. Ngoài ra ta còn xây đồn lũy kiên cố như các nước phương Tây để phòng ngự. Chúng sẽ thấy lúc bình thường ra vào còn khó khăn thay, huống chi một khi chuyện gì xảy ra. Trên đồn lại có quân ta chống giữ, đã khó còn khó hơn. Còn như sợ ta khó vào ra thì quan và dân ta đã có những thuyền con qua lại, không dùng đường biển cũng chẳng hại gì. Nếu thuyền đồng lớn của quan muốn lui tới nước ngoài thì từ Kinh đô vào Nam có nhiều vũng sâu và cửa Quảng Yên, Thái Bình có thể neo đậu được. Thuyền quan các nước phương Tây không phải cửa nào cũng vô ra được đâu. Một nước có chừng năm sáu cửa biển cho thuyền quan ghé đậu là đủ rồi.

Nếu thuyền lớn của dân muốn đi buôn bán nước ngoài thì ra vào đều có hạn định, mỗi năm chỉ vài ba chuyến thôi, đâu phải như ghe nhỏ ra vào thường xuyên mà sợ rằng khó. Còn ghe đánh cá thì lại không có gì trở ngại.

Khi chưa đi sâu vào nội địa của ta thì chúng cậy có đường biển. Nay đã có thiên thời gây bất trắc, lại có sức người kiên cố nữa thì chúng cũng khó thỏa mãn ý đồ trong một sớm một chiều được.

Nếu Triều đình muốn thực hiện lợi ích lâu dài này, trước hết phải cho người đi xem xét kỹ địa thế về trình bày đầy đủ và trù tính xem như thế nào. Nếu thấy được, nên hết sức thực hiện. Còn thấy không thể làm được thì tôi xin trình bày một kế hoạch khác sao lợi cho dân, chống giặc giữ nước. Tuy nhiên việc đào kênh này dễ làm hơn. Hãy làm thử xem sao!

Kính trình quý quan Lục bộ đại thần suy xét.

Nguyễn Trường Tộ ký

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #156 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2010, 09:54:23 pm »


DI THẢO SỐ 28

Biểu tạ ơn vua*

(Đầu tháng 3-1868).

Chúng tôi1 kính cẩn làm bài biểu tạ ơn trời2.

Thiết tha xin các đại thần Bộ Binh, Bộ Hình, Bộ Lại đệ đạt lên cho chúng tôi biểu văn lạy tạ ơn trời.

Phục dĩ3. Vẻ trời rực rỡ, chiếu khắp nơi ngõ hẻm hang cùng. Lượng bể bao hàm, không bỏ sót phương kia cõi nọ. Lòng quỳ hướng mãi, niềm bộc khôn đền.
_____________________________________
*. Bản văn chữ Hán của bài này: Hv 189/4 tờ 1-2.
Không ghi rõ ngày tháng, nhưng chắc được viết vào giữa tháng 3-1868, lúc Nguyễn Trường Tộ và phái đoàn Giám mục Gauthier đi Pháp về được vua ân thưởng. Sự tích ông Tộ có nói là: “Đức Cha, ông Tộ có làm sớ dâng lên tạ ơn vua” (Xem phụ lục 1)

1. Chúng tôi: Đây là Nguyễn Trường Tộ và Ngô Gia Hậu.
2. Đây nghĩa là tạ ơn vua.
3. Hai chữ mở đầu của văn khấn vái trình thưa điều gì với trời thần thánh thiêng liêng. Ở đây ám xưng vua là trời nên dùng hai chữ này.
    Phục nghĩa là nép, nằm rạp xuống, tượng trưng cho ý nghĩa quá sợ sệt kính trọng. Dĩ nghĩa là đem ra, đưa ra, đưa lên.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #157 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2010, 09:58:36 pm »


Chúng tôi trộm nghĩ:

Núi Thái Sơn chẳng tự vì cao mà bỏ tấc đất. Bậc thánh nhân chưa từng tự mãn mà bỏ tài hèn. Gốc tình người thì ba đạo1 chín dòng2 lưu hành không trái. Rộng đường hiền thì tấc nhánh phân chồi nhặt nhạnh không rơi. Xưa nay đãi ngộ hơn thường, thì gặp việc muốn từ không thể được. Nếu đã không xem kẻ bỏ, thì mây bay vô định cũng là vinh. Dùng khách dịch lời, Khang Hy chẳng nề giáo sĩ3. Tài nhung phục bá, Mục Công cũng lấy Dư Do4. Một lối từ xưa, ngày nay lại thấy.

Kính cẩn nghĩ rằng:

Hoàng đế bệ hạ: Thông minh quyết đoán. Thao túng theo thời. Năm xưa phạt nhẹ5 ra uy, thử lòng vàng đá. Lần này lòng nhân cũng vậy, đón khách mở đường. Giúp nước nhà đã sẵn nhu hoài6 mà đạo giáo cũng hưởng đồng lợi lạc. Ơn đồng tái tạo. Đức cả ba không7.

Chúng tôi đây: Một dân thừa phương ngoại8. Một tiện sĩ Tây bang9. Ngưu Sửu10 chất tồi, khôn sánh Sâm Linh11 nơi cõi thọ. Tài hèn vá dép, hổ dám đâu tay thước giúp đời. Khách du may mắn, thuyền bè đã có nam châm12. Phụng phái cùng đi, vượt biển sẵn chờ chén gỗ13. Mới mong nối chí cả đàn anh, xẻ sóng cỡi gió. Để ngứa đáp mưu sâu Triều đình, theo đuổi dài lâu. Tự thấy chưa tròn, làm sao xứng được!
______________________________________
1. Ba đạo do chữ Tam giáo: Nho, Phật, Lão.
2. Chín dòng do chữ Cửu lưu. Theo Hán thư nghệ văn chí thì xã hội được phân chia, phân loại làm 9 dòng phái: Nho gia, Đạo gia, Âm dương gia, Pháp gia, Danh gia, Mặc gia, Tung hoành gia, Tạp gia và Nông gia.
3. Khang Hy nhà Thanh dùng giáo sĩ thông dịch cho những cuộc triều kiến với người phương Tây.
4. Dư Do vốn không phải người đồng tộc với Mục Công, Mục Công dùng vì Do có tài giúp việc xây dựng được nghiệp bá.
5. Ám chỉ việc cấm đạo.
6. Lòng nhu hòa dịu dàng mềm dẻo.
7. Do chữ Tam vô. Kinh Lễ, Khổng Tử nói: “Vô thanh chi nhạc, vô thể chi lễ, vô phục chi tang. Thử chi vị tam vô”, nghĩa là cái âm nhạc không có tiếng, cái lễ không có hình thức, cái tang mà không để chế. Đó là 3 cái lớn không có gì bằng.
8. Trường Tộ tự ám chỉ mình, so với Kinh đô thì ông là người xứ miền ngoài.
9. Chỉ Ngô Gia Hậu, người Pháp.
10. Ngưu tất và Sửu lưu một thứ thuộc loại cỏ và một thứ thuộc loại cây hoang dại. Cả hai đều là vị thuốc Bắc.
11. Thuốc Bắc có nhiều loại sâm đều là vị thuốc quý cả. Phục linh cũng là vị thuốc Bắc quý.
12. Ý nói đã có sự chỉ đạo của vua và Triều đình.
13. Sách Truyền đăng lục có nói sự tích một nhà sư thường dùng cái chén bằng gỗ thả xuống mặt nước mà qua sông. Không biết tên gì, người đời gọi ông là Bôi Độ thiền sư. Bôi nghĩa là chén, Độ nghĩa là qua sông. Đây ý nói thuận đường đi một lèo không trở ngại.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #158 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2010, 10:02:34 pm »


Không ngờ ơn vua rộng khắp, không sót tên đánh cờ bên vệ đường nước Tống. Ai hay tù trưởng khốn cùng cũng được lạm xen vào hàng quan trật triều Đường. Ban cho áo mão. Ngân hà bảy lượt đổi ngôi1. Nuôi tặng bạc vàng. Lệ thủy trăm lần đi lại2. Nghĩ mình hổ thẹn, chẳng biết tính sao. Trước đây hai hốt3 xa ban, Hiệp biện đại thần thay tạ. Nay lại bách bằng4 ân tứ, Bộ đường quý chức mang sang. Lạy nhận tự thấy kinh hoàng, nhờ đức xiết bao vui sướng.

Trộm nghĩ hãy nhường là tốt, dẫu không theo Tử Cống thói kiêu xa5. Nhưng nghĩ nên từ là phải, lòng như thể Đồ Dương không nhận tước6. Kính xin gởi lại nghìn vàng, nộp về chín phủ7. Tuy ơn trên cho chẳng dám từ, lòng mong thổ lộ. Duy chỉ nguyện mặc sắc phục rõ ràng, để mưa móc trời Tây không thấm đượm. Ngửa mong sao trên uy linh bủa xuống, cho hai bên biển cả lặng ba đào. Cúi vâng tơ tóc đinh ninh, lòng đã quyết sân Tần không khuất phục8. Ghi khắc mưu mô trù trướng, chí những toan thu ngọc Triệu đem về9. Đấy thiệt ba sinh10 may mắn. Dẫu cho chín chết11 không từ. Nay được ơn sâu nhờ biển đượm, giọt nước tý teo sao đặng báo đền. Ngày nào dấu sóng đuổi mây bay, non nước mênh mông ai không cảm kích. Ngày này đời này, chỉ trời chỉ thánh.
______________________________________
1. Do chữ Thất tương trong Kinh Thi, là nói bảy lần đổi ngôi của sao Chức Nữ.
2. Theo sách Hàn Phi Tử thì sông Lệ Thủy sinh ra vàng, người đến đó lấy cắp đem ra chợ bán rất nhiều, sau ngăn nước lại đắp cạn sông mà người đến đó tìm vàng vẫn nườm nượp.
3. Nhà vua ban cho hai cái hốt.
4. Chữ trong Kinh Thi nghĩa là rất nhiều lộc.
5. Tử Cống, người nước Vệ thời Xuân Thu học trò Khổng Tử giỏi khoa ngôn ngữ có tài kinh doanh, giàu có nhất trong số 70 đệ tử của Khổng Tử, kết giao hậu tình, đến nước nào vua xuống sân mà đón.
6. Đồ Dương một họ kép. Sách Trang Tử nói: Sở Chiêu Vương thất quốc có người Đồ Dương nguyện theo vua. Sau Chiêu Vương phục quốc gọi thưởng tước lộc. Đồ Dương từ chối rằng vua mất nước Đồ Dương cũng mất, vua được nước Đồ Dương cũng được, có gì mà thưởng.
7. Do chữ Cửu phủ là 9 kho chứa của cải của Triều đình. Nhà Chu lập 9 phủ cử chức quan để bảo quản của cải của Triều đình theo 9 loại riêng.
8. Đã vâng lệnh vua dù gặp bạo lực như Tần cũng không khuất phục để khỏi nhục mệnh vua.
9. Nước Triệu có sản xuất thứ ngọc bích rất tốt. Đây ý nói thu hồi sáu tỉnh về cho đất nước.
10. Do chữ Tam sinh nghĩa là chuyển sinh đến ba đời. Sách Truyền đăng lục kể chuyện có một người nằm mơ thấy đến một hang động có vị thiền sư bên trước có cây nhang còn đang cháy. Thiền sư chỉ vào cây nhang bảo rằng cây nhang này do người thắp cúng, nhang cháy chưa hết mà người đã chuyển sinh ba lần rồi.
11. Do chữ Cửu Tử. Có hai nghĩa. Theo Sở Từ là 9 lần chết, đó là một lối nói quá thuyết. Nghĩa thứ hai, theo Hán Thư, là trong 10 phần hết chín phần chết chỉ có một phần sống, ý nói cực kỳ nguy hiểm.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #159 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2010, 10:05:03 pm »

DI THẢO SỐ 29

Tổ chức gấp việc khai mỏ và đào tạo chuyên viên*

(Ngày 12 tháng 2 năm Tự Đức 21, tức 5-3 năm 1868).

Tôi Nguyễn Trường Tộ kính bẩm.

Đối với nước ta hiện nay nguồn lợi là điều rất cấp bách không thể không tiến hành khai thác. Trong đó có hai đường lối: Một là bán thời hạn cho họ, mặc họ tự làm lấy như kiểu Tây Châu. Hai là hai bên cùng làm. Về phân biệt hai đường lối ấy, năm trước tôi đã bẩm rõ. Nhưng về khoản bán thời hạn cho họ, thì Triều đình còn nghi ngại, chưa thi hành được, hãy xin đình chỉ. Còn khoản hai bên làm chung và khoản thuê mướn nhân công, nếu thương lượng ổn thỏa, thì làm cũng không có gì đáng ngại lắm.

Tôi lâu nay cũng hết lòng trù tính kỹ đường lối, nên cũng có thể phân tích rõ sự lý, như trong các tờ bẩm trước đã nói. Chuyến đi lần này, tuy chưa thành công, nhưng cũng không phải vô ích. Tôi đã suy nghĩ, dò biết sự lý tâm tính của họ, thì thấy cũng có thể tạm khởi sự được. Có điều Triều đình sở dĩ chần chừ chưa quyết là sợ họ sinh lôi thôi, nhưng tôi cho rằng nếu làm được lợi, họ cũng có một phần. Vả đã buộc vào văn pháp, thì không thể sinh sự được, chắc họ cũng không sinh sự.

Nếu sau khi thương thuyết đã thành rồi, Triều đình cứ theo phương pháp phương Tây, làm tờ giao kèo, rồi trình Tây soái ký chứng, sau đó mới bắt đầu làm. Thế thì về sau dù có muốn sinh sự, cũng chẳng qua lặt vặt mà thôi, không đến việc gì to lớn lắm.

Cho nên đối với hai khoản sau, tôi chưa bao giờ nản. Nếu tiện xin sai một phái viên và một người thông ngôn (như Nguyễn Hoằng mới được) cùng đi với tôi lần nữa. Một lần chưa trúng, làm lần nữa có sao đâu. Nếu lần thứ hai mà vẫn chưa trúng, bất đắc dĩ sẽ nghĩ cách khác. Lúc đó mới phái người đi học tập gấp. Một mặt chọn hàng mỏ nào dễ làm, rồi mua dần đồ nghề về khai quật lấy, làm dần từ dễ đến khó, như tôi đã bẩm trong tờ trước (lúc ở Gia Định). Tuy như thế khó thu được lợi lớn ngay, nhưng có điều hay là người mình tự làm lấy, khỏi sinh nghi ngại. Nếu cần đồ dùng gì để giúp sức ứng dụng lúc lâm thời ta sẽ gởi mua dần. Còn phải dùng đồ gì, thì tôi đã biết rõ hết, khi cần gởi mua cũng chẳng khó gì (Gửi mua sẽ có nhiều cái không vừa ý, vì không thể tự mình phân biệt được đồ xấu, đồ tốt)

Còn về khoản dạy học, hiện nay tuy đã có người phân biệt được kim loại nhưng chưa có ai thuyết minh được công dụng rộng lớn của nó. Phải có nhiều phương pháp như các nước phương Tây, mới giúp nhau mà thành được. Đây chẳng qua mới tạm phân biệt được nhiều ít, khó dễ mà thôi.

Đến như việc khai quật, ắt phải có nhiều người chỉ vẽ, nhiều dụng cụ đúc luyện, nhiều công nhiều của, mới được lợi lớn. Việc ấy phải có các quan to đi qua Tây, đến xem chỗ khai mỏ, mới thấy tác dụng của nó, không phải nói miệng mà đủ được.

Còn như các khoản học tập, như đã nói trong tờ bẩm của giám mục, chẳng qua mới mở bước đầu, để khiến cho người nước ta sinh lòng ham muốn, cầu tiến dần vào thực dụng, mở dần con đường từ nhỏ đến lớn về sau, làm kế ném gạch ra để được ngọc mà thôi. Nếu buộc phải có hiệu quả mau chóng như phương Tây, thì chúng tôi quyết không dám làm.

Thế nhưng đã học tất phải có ích. Như chúng tôi lâu nay học các môn học mới, cũng có sở đắc ít nhiều, tuy chưa thi thố được gì, nhưng đã có căn bản. Nếu gặp việc có thể làm được, từ thô đến tinh, tuy trong đó cũng còn có một hai chỗ chưa hiểu rõ hết, nhưng theo chỗ đã hiểu mà suy rộng cũng sẽ biết được, chẳng hơn không học hay sao?

Nếu nay học sinh gia tâm học tập, cũng phải mất một số năm mới biết được như chúng tôi ngày nay. Bây giờ nếu giáo sư mở lớp giảng dạy mà không có chúng tôi thay giáo sư giảng lại cho học sinh những chỗ khúc mắc chưa hiểu, thì cũng khó bề tiến ích.

Đấy là đại lược đường lối dạy dỗ phải như thế.

Nay xin: Một mặt dần dần phân biệt đất mỏ, một mặt có người đi Tây nên chọn mua một ít khí cụ, như những đồ đào mỏ, đúc sắt, luyện kim, dệt vải, nấu đường, đúc súng lớn, súng nhỏ, dập đinh, đúc hỏa mai theo lối Tây v.v... và các đồ dùng thường ngày, dễ làm và có thề dùng làm mẫu (Các đồ đó, tôi đã mua sách bẩm nạp rồi, và đã xem xét ở các phố bên Tây. Những đồ dùng ấy, bất luận đồ gì trông qua tôi có thể phân biệt được cái tốt cái xấu, nguyên lý và công dụng của chúng. Tuy có cái chưa từng trông thấy, nhưng chỉ hỏi họ một vài lần, cũng có thể thông hiểu. Lần các phái viên đi với tôi cũng đã biết tôi có thể phân biệt được các đồ cơ khí) đem về để dùng ngay vào việc khai thác nguồn lợi.

Một mặt, nên đi thuê thợ, để tìm công dụng lớn.

Ba mặt ấy, hiện nay đáng lẽ phải khởi hành ngay trong một lúc. Nếu không làm, thì một ngày lại một ngày, một năm lại một năm, người ta tiến thì mình lùi, quyết không thể đứng yên được.

Kính bẩm Lục bộ đại thần quý liệt vị soi xét.
_____________________________________
*. Bản văn chữ Hán của bài này: Hv 189/3 trang 19 - 21.
Hv 634/4 trang 127 - 132.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM