Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 01:52:14 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Đường vào Phnom-Pênh  (Đọc 48062 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Bodoibucket
Thành viên
*
Bài viết: 913


« Trả lời #10 vào lúc: 05 Tháng Ba, 2010, 12:10:37 pm »

Tôi đi bộ lên cầu Tra-béc với anh Hồ Nam công binh, anh Phùng tác chiến, anh tám Danh quân báo, anh Bộ thông tin và một số anh em cán bộ chiến sĩ vệ binh trong Sở chỉ huy tiền phương. Chúng tôi muốn quan sát để xem, một trong những nỗi lo lắng đè nặng chúng tôi mấy hôm nay đã được anh em thiết giáp giải quyết như thế nào. Chiếc cầu sắt dài hơn trăm mét làm từ đời Pháp thuộc đã bị lún võng xuống hơn một gang tay, mặt gỗ bị băm nát. Chiều hôm qua năm chiếc T54, hai PT85 và chín chiếc M113 đã dũng cảm táo bạo vượt qua cầu này. Thế thì các cầu khác trên đường số 1 cũng sẽ qua được. Tôi hình dung theo anh em cơ quan tác chiến kể lại: chiều hôm qua một chiến sĩ lái xe tăng đã tình nguyện lái chiếc T54 đi đầu qua cầu này. Để làm cho cán bộ an tâm và cũng để tự động viên mình, đồng chí ấy lý luận rằng: “Cầu sắt nếu có sập thì cũng sập từ từ, có gì ta lùi xe lại”. Khi được chấp thuận, một mình một xe, đồng chí cho xe lăn từ từ đặt phân nửa thân xe lên cầu, rồi nhích lên cho toàn thân xe nằm trên cầu. Anh nhảy xuống đất quan sát, rồi lại lên xe. Bằng một tốc độ chậm và đều, anh cho xe chạy qua cầu. Móng cầu chuyển động rúc rắc, thân cầu đung đưa, làm đứng tim anh em xung quanh. Xong đồng chí ấy lần lượt lái bốn chiếc T54 còn lại qua cầu. Nếu chỉ tính toán theo công thức thông thường, mà không có kinh nghiệm đưa xe tăng qua cầu gỗ bắc ngang sông Sài Gòn ở Võ Tùng, qua cầu sắt Biên Hòa có tấm bảng tròn vẽ chữ 12 tấn to tướng, thì không thể nào dám đưa T54 qua cầu Tra-béc.

Còn mở đường vòng tránh ở khu vực đàm lầy này thì phải mất năm ngày chưa chắc đã xong. Tôi nhìn anh Hồ Nam cười, có lẽ ba hôm nay chúng tôi đều quên cười. Anh Hồ Nam cũng nhoẻn miệng vừa nói vừa chúm năm ngón tay ra dấu: “Như vậy là xe tăng nó nện, những chỗ hở bị nén chặt hơn, bảo đảm cho hàng chục xe tăng nữa qua không sao”.

Tuy biết rằng ý kiến anh Hồ Nam chưa đủ chứng cứ khoa học, nhưng cũng không ai tranh luận vấn đề ấy trong lúc này.

Đoàn xe của chúng tôi sốt ruột rú còi inh ỏi, xin đường vượt từng chiếc xe tải lác đác chạy chậm như rùa. Qua khỏi cầu Tra-béc vài cây số đã gặp dân đi ngược chiều rất đông, nào gồng gánh, xe bò, xe trâu, xe do người kéo. Lẫn lộn trong đó biết bao nhiêu là lính PônPốt. Họ mặc bộ đồ đen hoặc áo vàng vải Tô Châu may cùng một kiểu, trông là biết ngay. Nhân dân đã quen với bộ đội phía trước rồi, nên không còn ngỡ ngàng như bà con ở Đôn-so ngày hôm qua. Trên gương mặt của bà con chỉ có đôi mắt là còn sức sống.Họ gày gò phù thũng lê từng bước một. Các cụ già chỉ còn manh vải rách lủng lẳng trên ngực trên lưng gọi là áo, quần đùi vá đụp buộc túm phơi cặp giò gày nhom xiêu vẹo. Đàn bà thì áo túi ngắn cũn cỡn, xà rông bẩn cũ đến không còn thấy mặt vải, tóc tai rối bời, hoe hoét như mớ rễ lộc bình. Chúng tôi tươi cười vẫy tay nói với bà con hai bên đường:
-Xóc xa bai tà ơi, dầy ơi, boong ôn ơi!
(mạnh giỏi ông ơi, bà ơi, anh chị em ơi!)
Anh em đi xe sau cùng làm như vậy. Nhân dân cười cởi mở đưa tay vẫy mãi. Các em bé đầu trọc lóc, áo dài thùng thình quá gối, có đứa trần truồng, tấm lưng cong trên hai bàn đít chai đen trũi. Có bao nhiêu mì tôm, lương khô mang theo, chúng tôi phân phát hết cho các em. Có một em mím miệng nhìn tôi phập phồng cánh mũi nhỏ xíu, trông sao nhớ thằng cu Đức nhà tôi quá đỗi. Mỗi người chỉ đội trên đầu một ít gạo muối, vài thứ đồ dùng gia đình đơn sơ như nồi niêu, thúng mủng. Có em nhỏ ôm trum trũm chú chó con.
Thấy thế, quân y sĩ Mười Vàng cười khì khì.

Chả là hôm qua khi đến Đôn-so Prây-nhây, chúng tôi bảo nhân dân lấy lúa gạo, gà, heo của công xã chia nhau mà ăn, nhất là cho người già, trẻ em, người bệnh. Nhân dân nói: “Của Ăng-ka đấy, lấy Ăng-ka đập chết”. Chúng tôi bảo “Ăng-ka chạy hết rồi, sợ gì “. Nhân dân bảo: “Mấy ông đi rồi Ăng-ka về đập chết”.

Hai bên đường thỉnh thoảng gặp chiếc xe khẩu pháo còn mới tinh đâm đầu xuống ruộng. Cảm giác sau gần bốn năm trên đường từ Dầu Giây đấn Biên Hòa sống lại trong lòng tôi như đâu mới hôm qua, hôm kia đây vậy.

Thành phần trên chiếc xe Jeep của tôi, nếu có một nhà văn giỏi tán nhuyễn ra thì cũng đầy một quyển sách hấp dẫn. Chú Mười Vàng quê xứ dừa, ra trường Quân y sĩ từ trước trận chống càn Jan-xơn xi-ti và bắt đầu về công tác chung với tôi từ Tết Mậu Thân cho đến nay. Ôm vô lăng là cậu Biên, con cả đồng chí Trung người lái xe đi với tôi thừ thuở còn dùng Hon-da 90 đến khi có Gaz 69 rồi Jeep. Còn cậu Nguyện thì cũng nối nghiệp của bố. Bố Nguyện đã từng đánh nhau với Mỹ trên chiến trường miền Đông Nam bộ và Đông Bắc Kampu-chia. Biên với Nguyện rất lạ cảnh này, nên tôi cứ nhắc Biên vững tay lái, đừng làm cho nhân dân sợ. Còn Nguyện thì tôi nhắc mím kín môi lại kẻo bụi bám vào răng. Bụi bám vào lông mày, mi bạc như ông già, thế mà cậu ta cứ há hốc mồm.

Đoàn xe chúng tôi gào thét van xin mãi rồi cũng tới được cầu Tôn-lê-tút. Ở đây còn cách bến phà Neak-lương ba cây số. Xe của các binh chủng đỗ nối đuôi thành một chuỗi dài mấy cây số, khít như nêm. Riêng xe tăng và M113 thì không thấy. Đoàn xe chở phà và thuyền ghép của Lữ 25 Công binh tăng cường cho Đoàn 7 vẫn còn nghẽn ở tít phía sau.Trên cầu, hai bên dốc cầu, nhân dân chen chúc nhau đen nghịt, lộn nhèo với xe bò xe trận. Có những con trâu trợn tròn mắt trắng vặn nài bẻ ách không chịu đi. Chúng tôi gặp anh Dũng và mấy cán bộ tác chiến Đoàn 7 đang nhăn nhó điều khiển túi bụi trên đều cầu bên này. Đầu cầu bên kia thì anh Giáp, chủ nhiệm Công binh cùng làm việc ấy. Tôi hơi chột dạ vì vị trí anh Dũng lúc này là ở Sở chỉ huy mới đúng hơn. Nhưng nghĩ lại nếu anh không đi giải quyết một việc cụ thể như thế này thì có khi hỏng việc lớn. Hơn nữa, Sở chỉ huy Đoàn 7 cách cầu có ba trăm mét thì làm thế nào anh Dũng có thể ngồi yên trước tình huống như thế này. Trong chiến tranh nhiều khi về mặt chiến lược, chiến dịch rất thuận lợi nhưng để trục trặc mà không giải quyết kịp thời một khâu quan trọng nào đó trong chiến đấu thì bị thất bại là thường. Ở Sở chỉ huy đã có anh Thẩm chính ủy và chủ nhiệm các cơ quan.

Đêm qua sau cuộc họp ở ngã tư Pra-sát,chúng tôi đã phân công anh Ba Bì, anh Ngọc Ánh, anh Vịnh, anh Triệu, anh Tuất công binh Binh đoàn đi ra Neak-lương để chỉ huy chiến đấu mở rộng bãi đổ bộ và tìm mọi phương tiện tại chỗ để đưa hai Tiểu đoàn bạn và Trung đoàn 12 vượt sông đánh chiếm bến phà trong đêm. Đến ba giờ sáng, anh Ngọc Anh báo cáo về là không tìm ra một chiếc ghe chiếc xuồng nào cả. Tôi bảo làm phao bơi và kết bè bằng mọi vật nổi mà vượt. Đến bốn giờ các anh báo là sông rộng sóng to, đêm tối như mực, phao bè không bảo đảm vượt sông an toàn. Tôi bảo cố gắng khắc phục mọi cách để đưa bộ phận trinh sát sang, các anh cũng không giải quyết được.
Logged
Bodoibucket
Thành viên
*
Bài viết: 913


« Trả lời #11 vào lúc: 05 Tháng Ba, 2010, 12:10:57 pm »

Từ hai hôm nay, tôi không rời anh Hồ Nam, chủ nhiệm công binh Binh đoàn. Hồi hai giờ khuya tôi còn phái anh đi gặp anh Biểu, Lữ đoàn 25 Công binh ở Prây-nhây để xem phà máy đẩy có điều thêm được gì nữa không, dù tôi chắc đến giờ này chỉ có ngần ấy thôi: hai bộ phà nặng và hai mươi bốn xuồng gấp. Cầu Đôn-So bị xe tăng qua sập nên lực lượng còn lại của Lữ 25 Công binh vòng trở lại ngả Chi-Phu, đường sình lầy dài hơn trăm ki-lô-mét làm thế nào đến kịp.
Nhìn anh Hồ Nam hai vai xương xẩu, tóc hớt cao đã hoa râm, mắt thâm quầng vì mấy đêm rồi không ngủ, tôi nhớ những ngày Công binh mở đường bí mật đưa pháo bắn thẳng vào Bù-đăng, mở đường bao vây bốn phía Chi-Phu  Đồng Xoài, Phước Long, mở đường rừng núi chập chùng đưa pháo 130 ly vào lót sẵn ở phía Tây bắc Tiểu khu Lâm Đồng … Với những cây tre, những thùng xăng, thùng nhôm kết phà, công binh ta đã đưa xe vượt sông Sài Gòn, sông Bé, sông Đồng Nai, sông Vàm Cỏ. Và mới cách đây mười ba ngày với những thùng phuy, ta đã bắc cầu nổi qua sông Vàm Cỏ cho toàn bộ Đoàn 341 bí mật vượt sông để cùng với Đoàn 2 bao vây tiêu diệt gọn ba Trung đoàn nòng cốt đi đầu của ba sư đoàn địch ở Bến Sỏi Tây Ninh.
Nhưng ta chưa từng vượt sông lớn mà bên kia bờ địch đã có hệ thống phòng ngự kiên cố mà học thuật quân sự gọi là “Vượt sông bằng sức mạnh”.Ta chiếm bờ bên này rồi, chậm giờ nào là địch củng cố thêm bờ bên kia giờ ấy.
Vì thế mà chúng ta chạy vạy lo lắng biết bao nhiêu từ hôm qua đến nay và thực sự là ta đã lo việc này từ trước đây hai tháng rồi cơ mà. Thế nhưng đến giờ này thì chỉ có được ngần ấy thôi anh Hồ Nam à: Hai bộ phà đẩy, mỗi chuyến 45 phút, chuyển suốt 12 giờ không trục trặc gì thì được 64 xe tải. Nếu xe tăng thì bằng một nửa số đó. Biết làm sao bây giờ! Thời gian là thế, là lực, thời gian là xương, là máu.
              *
             * *
Mê-Kông! Dòng sông thân thiết đã tưới mát tâm hồn thơ trẻ, hôm nay sao Mê-Kông lại thiêu đốt lòng tôi.
Logged
Bodoibucket
Thành viên
*
Bài viết: 913


« Trả lời #12 vào lúc: 05 Tháng Ba, 2010, 12:11:45 pm »

IV
VƯỢT SÔNG


Sau khi dặn dò thứ tự ưu tiên xe cộ cho anh Giáp, chúng tôi lao ra bến phà Neak-Lương.
Còn cách bến độ một ki-lô-mét, tôi dừng lại dãy nhà bên phải, gọi anh Hựu, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 12, lên xe cùng đi xuống bến phà. Vừa đi anh Hựu vừa báo cáo tình hình.

Neak-lương đây rồi! Trên bãi xe rải nhựa, rộng bằng cỡ bến xe các tỉnh, ngổn ngang nào xe nào pháo. Một vài xác lính địch còn kẹt trong đó. Trận chiến đấu đêm qua và cuộc tháo chạy hỗn loạn của quân Pôn-Pốt còn để lại cảnh tượng tàn phá gớm ghiếc.

Từ phía bên kia sông tiếng trọng liên, đại liên của địch chĩa nòng bắn sang nghe rất gần, thỉnh thoảng xen lẫn tiếng đạn súng cối lớn nhỏ đủ cỡ. Tiếng súng nhỏ ở hai phía hạ lưu vAF thượng lưu chốc chốc lại nổ rộ lên từng chập một. Những đám khói còn nghi ngút thỉnh thoảng bốc cao. Mùi vải cháy, mùi thuốc súng, mùi dầu mỡ, mùi mắm bò hóc xông lên làm nhức đầu chóng mặt. Rải rác đó đây, còn một vài xác địch nằm sóng xoài sau gốc cây, bờ tre. Anh em nói đã làm vệ sinh chiến trường rồi nhưng vẫn còn sót. Tôi nhắc anh em đừng vứt xác địch xuống sông làm ô nhiễm nguồn nước.

Thấy tôi nhìn vào đống xe cộ ngổn ngang lấp mất đường xuống bến, anh Hựu báo ngay :
- Xe pháo của địch đấy anh ạ!
Nhưng thật ra thì cũng có mấy chiếc xe của ta. Anh Cẩm,Tham mưu trưởng Đoàn 9 chạy đến gặp tôi mừng rỡ. Anh bảo là anh mượn đường hành quân đi xuống Piêm-Cho cho nhanh.

Tôi hỏi Sở chỉ huy Đoàn 9 hiện ở đâu, anh bảo: anh Ba Hồng tư lệnh đoàn 9, đã lên Trà-béc, Đoàn 9 đang đuổi địch hướng Nam đường 1, nhưng sợ chậm nên muốn đưa một bộ phận đi cơ giới theo đường bờ sông để nhanh chóng xuống chặn địch không cho chúng chạy qua sông về phía Tây, vừa kịp thời bảo đảm sườn trái cho Đoàn 7 kịp thời vượt sông như nhiệm vụ Đoàn 9 đã nhận ở Binh Đoàn. Tôi bảo anh Cẩm: Không được đi đường này làm trở ngại Đoàn 7. Bộ phận xe trinh sát đã vào tới đây rồi thì có thể đi tiếp, còn các xe khác thì quay lại ngay.

Vừa lúc ấy cũng gặp anh Ba Bì tham mưu phó Binh đoàn và anh Thuyết trung đoàn trưởng 14 đến bãi xe. Anh Thuyết khoe ngay một thôi, nào là xe, nào là pháo, nào kho đạn, kho xăng, khí tài thông tin, công binh, xe ủi đất, nào kho vải, kho máy may, toàn của Trung Quốc mới tinh. Trong kế hoạch tác chiến ai cũng biết đây là hậu phương của Quân khu Đông và là vị trí phòng thủ của một trung đoàn địch. Anh Ba Bì ngắt ngang lời anh Thuyết:
- Biết rồi, nói mãi. Tôi đã giao cho hậu cần và công binh canh gác bảo quản.
Anh Ba Bì vừa đi vừa báo cáo qua tình hình và phân trần tại sao đêm qua không thể nào vượt được sông, dù ít nhất cũng một bộ phận trinh sát.

Chúng tôi đi xuôi theo bờ sông xuống phía Nam. Ở đây là chỗ chính của thị trấn, có nhiều phố xá, nhà lầu trước đây là cửa hàng của Hoa kiều, nay địch lấy làm kho chứa hàng chiến tranh, xưởng may quân trang, trạm sửa chữa xe pháo … Anh Ba Bì đưa tôi vào một nhà lầu ba tầng, trên đó ta đặt đài quan sát pháo binh. Vào trong rào sắt của ngôi nhà tôi thấy mấy chiến sĩ ta đang dỡ vải và bàn máy may từ trên ba chiếc xe tải xuống sân xi-măng. Tôi bực mình hỏi như quát:
- Các đồng chí làm cái gì thế?
Anh Ba Bì đỡ lời ngay là anh em chất hàng xuống để lấy xe cơ động.

Chúng tôi theo thang gác lên đến sân thượng thì gặp anh Thạnh trung đoàn trưởng Trung đoàn 210 pháo binh thuộc Đoàn 7 và anh Minh lữ trưởng Lữ 24 pháo binh của Binh đoàn đang lúi húi với tổ trinh sát đánh dấu các hỏa điểm và công sự địch.

Lúc ấy là 8 giờ 35 phút.
Logged
Bodoibucket
Thành viên
*
Bài viết: 913


« Trả lời #13 vào lúc: 05 Tháng Ba, 2010, 12:12:04 pm »

Qua ống nhòm các anh hướng dẫn tôi quan sát phía bên kia sông. Địa hình không khác hơn như hình dung trên bản đồ bao nhiêu. Bờ sông đất bồi thoai thoải, cách mép nước độ 100 mét là bãi hoa màu, có hai tầng công sự có nắp hẳn hoi, thấy địch rọ rạy trong đó. Kế đến là xóm làng có dừa cau và cây ăn quả. Nhà cửa thưa thớt, có chỗ mỏng nhìn thấy ruộng, bờ đê và con rạch phía sau phum. Từ Quốc lộ số 1 mọc ra một con đường đá đỏ chạy dọc xuống phía Nam vòng ra sau làng, thấy rõ cây cầu gỗ bắc qua rạch. Quốc lộ 1 từ bờ sông phía Bắc ngoặc ra bến phà, chạy giữa hai khu vực doanh trại đủ chứa hai tiểu đoàn, còn trơ những lô cốt xi-măng cốt sắt thời Pháp, bên ngoài có rào thép gai. Bến phà bên ấy chếch về phía Nam so với bến phà bên này độ 300 mét. Bờ bên ấy không có nhà tầng, phố xá như bên này. Đối diện với phà bên này là chót mũi Cù lao lớn từ phía Bắc thò xuống. Từ bờ sông bên ấy, nếu địch trèo cây thốt nốt, cây dầu như chúng thường làm thì có thể nhìn thấy dọc bờ sông bên này, nhưng bị che khuất bởi phố xá và cây cối nên không nhìn rõ bãi xe và con đường 1. Bờ bên này ưu thế hơn bờ bên kia nhiều.

Tôi mừng lắm. Kế hoạch vượt sông như vậy là chính xác. Theo kế hoạch dự kiến thì Trung đoàn 12 cùng với Tiểu đoàn 3 bạn được pháo binh yểm hộ mạnh mẽ, đổ bộ phía hạ lưu, vòng qua phía Tây vào sâu trong ruộng bao vây hai tiểu đoàn địch phòng thủ ở khu vực bến phà, đánh hất chúng ra sông. Sau đó phát triển tấn công mở rộng đường 1 vào chiều sâu từ 8-10 ki-lô-mét, để đẩy trận địa pháo 105,122 của địch ra khỏi tầm bắn đến bến phà. Kế đó Tiểu đoàn 2, Tiểu đoàn 7 của bạn và Trung đoàn 14 tiếp tục vượt sông thay cho Tiểu đoàn 3 bạn và Trung đoàn 12 chiếm giữ và mở rộng bến phía bờ Tây. Còn Trung đoàn 209 thì ở cách Đông phà Neak-lương 10 kilômét, chuẩn bị các mặt làm mũi nhọn thọc sâu với xe tăng. Căn cứ vào địa hình địa thế bên ấy, địch chỉ có thể bố trí từ mép nước vào làng đến bờ đê phía sau chiều sâu không quá 300 mét. Còn chiều rộng nếu chiếm hết cái làng bao gồm Nam Bắc bến phà thì không quá 800 mét. Với hỏa lực của ta, cộng thêm pháo đạn chiến lợi phẩm của địch để lại dọc theo bờ sông, ta chỉ cần xoay nòng lại tạo thành mật độ mười mét một khẩu pháo cối, thì địch không thể nào chịu nổi.

Chúng tôi phân cho anh Thạch lo củng cố lại hệ thống hỏa lực bắn thẳng và súng cối, còn anh Minh tổ chức hệ thống hỏa lực pháo vòng cầu .Hai anh cùng lên một kế hoạch hỏa lực thống nhất, một giờ nữa phải hoàn chỉnh.

Chúng tôi vừa xuống tầng dưới thì pháo địch từ hướng đường 1 bắt đầu bắn đến, đạn nổ rất gần, mảnh bay rào rào. Anh Phùng, trưởng ban tác chiến Binh đoàn, trước đây vốn là cán bộ pháo binh, buột miệng:
-Pháo ta đâu, không trị tụi nó, coi chừng nó bắn cháy bãi xe mình.
Anh Thạnh, giọng móc ngoéo:
- Báo cáo đồng chí phó phòng tác chiến, lệnh của Binh đoàn khi chiếm bến phà Neak-lương chỉ được dùng súng nhỏ và cối 82 trở lại, không được dùng pháo, không được nổ các loại súng để báo cho địch là ta có cấp trung đoàn, sư đoàn ở đây.
Thật thế, từ lúc chúng tôi đến bến phà Neak-lương, địch bên kia sông bắn qua đủ các loại súng, nhưng ta chưa bắn trả.

Ở phía Nam và phía Bắc thỉnh thoảng nở rộ các loại súng bộ binh, khi ta đánh địch phản kích. Chỉ có xa xa về hướng Đông nam, hướng Đoàn 9 truy đuổi Sư đoàn 805 của địch là súng pháo nổ nhiều.
Một phát pháo nổ phía sau ruộng cách nhà ba tầng chúng tôi chừng 200mét, phát thứ hai nổ ngoài bờ sông. Anh Thạnh bảo:
- Tụi nó bắn bao bọc chiếc bán, chính hiệu Trung Quốc đấy, coi chừng nó bắn hiệu lực.

Chúng tôi không ai bảo ai cứ ở lại trong ngôi nhà. Đúng như anh Thạnh nói, một loạt đạn pháo rơi nổ phía sau, nhà bếp bốc cháy khói lùa vào nhà lầu. Anh Hồ Nam phát hiện sau nhà có con đê, giữa con đê có xẻ giao thông hào. Chúng tôi đi ra đó. Con đê này chạy song song cách đường 1 độ hai trăm mét. Nhiều đoạn giao thông hà có nắp và thiết bị bắn cho các loại hỏa lực ra phía đường 1. Chúng lót cả chiếu ván để nằm ngủ tại chỗ. Nhiều xác địch còn nắm cong queo bên khẩu ĐKZ, loại đại liên. Quan sát kỹ dấu vết, chúng tôi tấm tắc khen anh em trung đoàn 12 và 3 tiểu đoàn bạn đêm qua đánh rất khôn ngoan. Các vết đạn và vết chân của ta đều đi từ hướng Nam lên, đánh vào phía sau lưng địch. Nếu cứ lông ngông đi trên đường 1, thì dù là xe tăng cũng phải phơi xác.
Logged
Bodoibucket
Thành viên
*
Bài viết: 913


« Trả lời #14 vào lúc: 05 Tháng Ba, 2010, 12:15:18 pm »

Ngồi trong giao thông hào chúng tôi phân công nhau: Anh Hồ nam đi về hướng cầu Tôn-Lê-Tút đưa cho được phà lên, làm gì cũng phải đưa cho bằng được Đại đội 12 thuyền ghép lên trước. Anh Hựu đi tổ chức cho trung đoàn 12 vượt sông. Anh Phùng về Sở chỉ huy báo lại tình hình và ý định của tôi ở bến vượt cho Bộ tư lệnh Đoàn 7, chặn tuyệt đối không cho xe xuống bến và báo cáo về Sở chỉ huy cơ bản Binh đoàn. Tôi và anh Ba Bì, anh Tám Danh đi chuẩn bị bến vượt.

10 giờ 30 phút anh Hồ Nam đưa được ba xe chở hai mươi thuyền ghép xuống. Đội thuyền này mới được điều từ hậu phương đến, anh em chưa chiến đấu lần nào. Tôi thì chưa thấy mặt mũi chiếc thuyền ra sao. Đồng chí đại đội trưởng cho biết mỗi thuyền cần 6 người ghép trong năm phút là xong, nhưng anh em chỉ có hai người mỗi thuyền, ì ạch lắp ráp mất hai mươi phút. Pháo cối địch vẫn bắn mạnh dọc theo bờ sông. Đạn pháo 130 ly bay vun vút qua đầu, rơi nổ dọc theo đường 1. Chiến sĩ đại đội thuyền thỉnh thoảng lại nằm xuống tránh mảnh đạn nên đã chậm lại chậm thêm. Tôi vừa làm thợ vịn, vừa hụ hợ động viên chung chung, vừa hỏi tính năng tác dụng của thuyền. Lắp xong một chiếc tôi hiểu rồi, tôi cho vệ binh đi gọi Tiểu đoàn 6, Trung đoàn 12 và Trinh sát xuống phụ.

Đội thuyền ghép chia thành hai bến do anh Hựu chỉ huy một bến và anh ba Bì phụ trách một bến.

Bến của anh Hựu cách cầu phà Neak-lương độ 600mét, còn bến anh Ba Bì thì cách 1000m về phía hạ lưu. Ở trên đài quan sát pháo binh tôi nhìn rõ hai bến vượt sông. Bãi đổ bộ bên kia là phía đuôi làng, cây cối lưa thưa, nơi địch không thể bố trí lực lượng lớn được. Sức chở mỗi thuyền được một trung đội, nhưng chuyến đầu chỉ cho đi phân nửa số thuyền và mỗi thuyền chở một tiểu đội trinh sát.

Lúc ấy là 11 giờ 45 phút. Một trận hợp đồng đơn giản nhưng rất đẹp. Bằng một hiệu cờ ở bãi đổ bộ. Sở chỉ huy pháo binh trên nhà lầu phát tín hiệu cho pháo ta bắn đồng loạt. Một tràng tiếng nổ động đất, một bức tường lửa dựng lên suốt chiều dài một cây số bên kia bờ sông. Hai đội thuyền, mỗi đội năm chiếc thành đội hình chữ A, mở hết tốc độ. Thuyền đang lướt băng băng thì đại liên địch quét, đạn cày trên mặt nước, các loại đạn cối rơi lụp ụp quanh thuyền. Đội hình thuyền chỗ anh Hựu rối loạn quay mũi trở lại. Anh ba Bì vừa thét vừa phất cờ ra hiệu cho anh em phải tiến. Đội thuyền vòng lại một trăm tám mươi độ tiếp tục tiến. Được một chốc đội thuyền lần lượt tắt máy dừng lại. Năm chiếc chỗ anh Ba Bì không bị địch bắn bao nhiêu cũng tắt máy trôi lềnh bềnh. Trong ống dòm tôi nhìn thấy anh em kẻ chèo người bơi. Lúc này quân địch bị pháo ta đánh mạnh và bắn trúng nên chúng bắn ít đi và phần nhiều là đạn bay lên trời. Một số địch bỏ bãi sông chạy vào làng. Thuyền cặp bờ, pháo ta chuyển làn, các chiến sĩ trinh sát nhảy lên bờ lợi dụng địa hình vừa chạy vừa bắn trên bãi màu thoai thoải, trong làn khói vừa tan.

Hỏa lực của ta tiếp tục chế áp để cho anh em chèo thuyền về bờ bên này mất hơn mười lăm phút. Thì ra hồi nãy đoàn thuyền muốn quay lại là vì máy nổ đã có triệu chứng hỏng hóc đồng loạt chứ không phải anh em sợ trúng đạn địch. Trong lúc chúng tôi động viên anh em cất máy nổ dùng chèo bơi đưa tiếp bộ đội sang sông thì anh em kỹ thuật đã phát hiện được máy nổ hỏng vì máy mới chưa rà trơn mà anh em mở ga nhỏ quá.

Lúc bờ bên kia trinh sát ta đã chiếm được đuôi làng, và đang đánh ép vào sườn địch phía Bắc để mở rộng bãi đổ bộ, thì đội thuyền thứ hai gồm mười hai chiếc xuất phát, mỗi chiếc chở một trung đội đủ. Mười hai chiếc máy nổ rộ lên như một cuộc đua mô tô, chỉ mất bảy phút một chuyến đi về.

Đến 13 giờ hoàn thành đổ bộ Trung đoàn 12 và Tiểu đoàn 3 bạn. Đến 14 giờ 20 phút Trung đoàn 12 và Tiểu đoàn 3 bạn phối hợp với hỏa lực sấm sét, chiếm xong đường số 1 và bến phà phía Tây, bắt nhiều tù binh, phát hiện nhiều xe pháo, kho tàng của địch.

Tiếp theo, Trung đoàn 14 rồi Tiểu đoàn 2 Tiểu đoàn 7 bạn lần lượt vượt sông để chiếm lĩnh bến phà phía Tây cho Trung đoàn 12 và Tiểu đoàn 3 bạn phát triển tấn công theo đường 1.

Vừa lúc ấy, anh Hồ Nam và anh Biểu đến báo cáo là Tiểu đoàn 17 Công binh đã lắp xong hai bộ phà nặng, đề nghị cho chạy thử. Tôi đi lên bến phà với hai anh. Pháo địch từ đường 1 phía thượng nguồn bắn khá dày lên bến phà, có cả pháo 130 ly. Hai khoang thuyền bị lủng. Pháo ta được lệnh kiềm mạnh, nhưng không dập tắt được. Chúng tôi cho một phà chạy thử, chúng bắn khá chính xác làm hai đồng chí công binh bị thương. Vốn liếng chỉ có hai bộ phà, nên tôi đồng ý với đề nghị của anh Hồ Nam và Biểu cho dở phà phân tán dọc theo sông, chờ Trung đoàn 12 trục xuất được pháo cối địch rồi sẽ lắp lại để đưa xe pháo vượt sông.

Trung đoàn 12 và Tiểu đoàn 3 của Xát Tha báo cáo về: theo cung tù binh thì bọn địch phòng ngự ở bến phà phía Tây gồm có đủ các thành phần các sư đoàn 805, 703, 340 và bộ đội tỉnh Kandal do tên Ren Tổng tham mưu phó Khơ me Đỏ trực tiếp chỉ huy. Ren có thể đã chết rồi. Chúng cho biết rằng ở dọc đường số 1 có lực lượng mới điều đến, hòng ngăn chặn đường vào Phnom - Penh.

Lúc bấy giờ là 15giờ 30 ngày 6-1-1979.
Logged
Bodoibucket
Thành viên
*
Bài viết: 913


« Trả lời #15 vào lúc: 05 Tháng Ba, 2010, 12:15:50 pm »

V
MỆNH LỆNH SAU CÙNG


Chúng tôi trở về Sở chỉ huy Tiền phương đóng trong một ngôi chùa gần cầu Ton-Lê-Tút. Pháo 130 ly của địch vẫn bắn cầm canh. Trên đường số 1 nhân dân đã đi hết, chỉ còn xe là xe. Trực ban tác chiến báo cho biết ở nhà thông báo là Đoàn 341 đã đến núi Sơ-cách, đang tấn công về hướng Ba-nam bảo đảm sườn phải cho Đoàn 7. Núi Sơ-cách không có kho tàng và căn cứ địch như tin tình báo trước đây. Phía trái thì Đoàn 9 đã đến Piêm-cho, bắt nhiều địch, đang tiến xuống phía bắc An Giang bắt liên lạc với Trung đoàn 320 Đồng tháp để đảm bảo cho Trung đoàn 962 Hải quân lên sông Mê Kông theo mhư kế hoạch. Đoàn 2 được tăng cường cho Binh đoàn chúng tôi trong những ngày khó khăn, sau khi đánh thắng giòn giã ở Xầm-rông đang tiến lên phía Tây bắc, chiếm Prey-veng, sau đó phát triển lên bờ sông đối diện Phnom-Penh, nơi mà chúng tôi gọi là “Bầu diều” (vì trên bản đồ chỗ này giống bầu diều gà). Tôi rất mừng vì như vậy là kế hoạch hợp đồng của Binh đoàn được thực hiện hoàn chỉnh nhịp nhàng. Bốn Đoàn đều là đơn vị anh hùng, không có sức mạnh nào của địch có thể ngăn nổi bước tiến của Binh đoàn.

Uống cạn một ca nước trà nóng xong, tôi ra bờ đê chui vào chiếc xe thông tin tiếp sức báo cáo tình hình về Sở chỉ huy cơ bản cho Tư lệnh Binh đoàn. Thường những lúc như thế này tôi thường tự mình báo cáo. Ngoài nguyên tắc quân sự, còn một mối tình thiêng liêng được xây đắp khá lâu rồi, một sự tin cậy, một niềm tin tưởng lẫn nhau.

Anh Năm Thạch (là anh Hoàng Cầm) giọng mừng rỡ và đầy thân mật hỏi tôi:
- Tôi đây, Năm Thạch đây. Anh Ba khỏe không?
Thường, dù tình huống có nước sôi lửa bỏng thế nào anh cũng nói điện thoại với tôi như thế.
- Báo cáo anh, tôi mạnh.
- Cố gắng tranh thủ nghỉ, cố rán đừng để ngã ông nhé.

Những lúc như vậy tôi thường hay chảy nước mắt, giọng lạc đi. Tật ấy tôi sửa mãi chưa được. Tôi báo cáo tình hình vượt sông và kế hoạch tiếp tục chiều và đêm nay. Tôi đề nghị làm thế nào cho đội tàu 962 lên sớm, và có thứ trực thăng nào cẩu xe qua sông được thì chi viện, chớ chỉ có hai bộ phà mà đã thủng hai khoang thì trong 12 giờ giỏi lắm cũng chỉ qua được 64 xe.

Anh hiểu nỗi lo lắng của tôi. Anh hứa giục đội tàu 962 lên nhanh. Anh cho biết tình hình các hướng khác của quân bạn và các đơn vị của Binh đoàn ta đều thuận lợi. Anh dặn khi qua sông rồi, thì tổ chức sẵn sàng chờ lệnh mới.

Thế thì vẫn y như anh dặn tôi đêm hôm qua, khi tôi báo cáo ta đã chiếm Neak-lương. Tôi đề nghị:
- Đêm nay qua sông xong thì mai cho đi luôn, chứ chờ ngày N cũ (N cũ là ngày 8/1) thêm một ngày thì địch củng cố ngăn chặn hay phá hủy thành phố gây khó khăn cho ta và cho bạn lâu dài về sau. Anh ôn tồn giải thích cho tôi rằng đây là cuộc tiến công hiệp đồng nhiều hướng. Bộ chỉ huy tiền phương nắm chung và quyết định chung. Nhưng ở nhà anh sẽ đề nghị ý kiến ấy lên Bộ chỉ huy tiền phương, còn tôi tất nhiên là phải chuẩn bị sẵn sàng cơ động.

Anh dặn tôi thêm về cách cơ động, cách đánh, anh nhấn mạnh phải giáo dục anh em về kỷ luật chính sách. Anh nhắc phải giành thắng lợi trọn vẹn cả về chính trị và quân sự, phải nhớ những bài học cũ. Các chính ủy phải chịu trách nhiệm chính về việc này.

Anh vui mừng báo cho tôi biết là anh Khang-Sa-Rin, tổng tham mưu phó Quân đội Nhân dân Cách mạng Kampuchia kiêm tư lệnh Binh đoàn 1, bí hiệu là Mê Kông, hiện đang ở Sở chỉ huy cơ bản của Binh đoàn ta, cùng chỉ huy hướng của chúng tôi. Anh nhắc tôi quan tâm đầy đủ đến các đơn vị bạn (Quân đội Nhân dân Cách mạng Kampuchia). Anh cho biết ngoài ba Tiểu đoàn 2, 3, 7 bạn đang đi với tôi, còn bốn Tiểu đoàn nữa là 6, 9, 10, 11 sẽ đưa lên ngay sau khi đã truy quét tàn quân địch và ổn định tình hình xung quanh Svai-Riêng. Ngoài bốn đội công tác đã có, sẽ tăng cường thêm sáu đội nữa. Anh nhắc tôi cố gắng tránh những chỗ ác liệt, tránh thương vong cho đơn vị bạn, tạo điều kiện cho anh em hoàn thành nhiệm vụ.

Cuối cùng anh vẫn hỏi lại:
- Cố gắng giữ gìn sức khỏe anh Ba nhé! Gan ruột có thấy gì lạ không? Phải lấy thiết giáp mà đi. Chúc thắng lợi. Anh đến là tôi đến ngay đấy. Khỏe nhé! Thăm hết anh em Đoàn 7 và các binh chủng.

Giọng anh khàn khàn phát ra rất rõ từ máy tăng âm, rõ từng tiếng thở. Tôi thấy sao giống ngày vào giải phóng Phước Long quá; giống lúc vào Lâm Đồng, Long Khánh và Sài Gòn quá. Tôi cũng đốc chiến tiền phương, anh cũng ở cơ bản. Anh phát hiện những tình huống then chốt, chỉ đạo cho chúng tôi thực hiện để giành thắng lợi. Trong lúc đi chuẩn bị chiến trường cũng như trong quá trình diễn biến chiến đấu, anh tìm cách tránh cho tôi xông pha vào chỗ nguy hiểm. Ngược lại anh giành những chỗ ấy cho anh, như trong trận Bù-đăng anh đã bò vào tận rào thép gai, bị phục kích, suýt nữa thì hy sinh. Tôi đang sống lại với biết bao nhiêu kỷ niệm chiến đấu, và tình bạn, tình đông chí, không phải chỉ với anh Năm Thạch mà còn với bao nhiêu bạn bè khác, thì bỗng nghe hình như có tiếng phi cơ trực thăng. Tháng này ngày ngắn quá, mới bốn giờ chiều mà không gian đã ngả màu xám. Ngoài đường xe cộ rục rịch ầm ĩ. Khi ở trong Sở chỉ huy nghe tiếng gì như tiếng trực thăng thì nó đã đến ở trên đầu. Không kịp bảo ai, tôi chụp cái khăn mặt chạy ra ruộng quơ lia lịa. Chiếc UH-1 vừa đáp, người bước xuống té ra là anh Lâm Hà, phái viên tác chiến của Bộ chỉ huy tiền phương. Chúng tôi ôm chặt nhau. Trực thăng vẫn nổ máy, tôi kéo anh Lâm Hà ngồi xuống gốc cây bên bờ ruộng. Tôi báo cáo gọn tình hình trong mấy phút. Tôi bảo nỗi lo lắng lớn của tôi là vượt sông cho cơ giới. Tôi đề nghị ngày mai cho đi luôn. Sang sông được bao nhiêu xe, chúng tôi đi bấy nhiêu, còn thì đi bộ. Hễ gặp địch phía trước bộ đội nhảy xuống đánh, thì quay xe lại chuyển tải anh em đi bộ lên tiếp. Nếu qua sông dừng lại thì mất thời cơ.

Anh Lâm Hà chỉ ừ ừ rồi đứng dậy. Tôi đứng lên theo, anh ghé tai tôi bảo:
- Hướng Đông bắc anh em đã chiếm Krochê, Stưng-treng đêm qua và đã vượt sông. Hướng Binh đoàn 3 đã có bộ phận qua Kompong-chàm và đang tổ chức vượt sông. Còn hướng Tây nam thì ta đã áp sát Tà Keo vòng qua Tà Ni. Hướng này xa hơn hướng của anh 20km, nhưng có hai trục đường số 2 và số 3 lại không phải qua sông ...

Do dự một chút xem có nên nói thêm gì không, rồi anh tiếp:
- Đội biệt động 367 đã đến Bầu Diều, đêm nay vượt sông qua mục tiêu. Ủy ban Trung ương Mặt trận bạn cũng cho biết là các cán bộ phái vào vùng sâu cũng đã báo cáo về là đã chuẩn bị nhân dân sẵn sàng nổi dậy ở các mục tiêu ta sẽ đến … Như vậy anh nhanh chân thì anh có thể đến mục tiêu trước. Bộ cân nhắc kỹ lắm, các đồng chí Hêng-som-rin, Pen-sô-van, Chia-Sim, Xoai-Keo đều có đủ mặt hết, các đồng chí ấy quyết định đấy.

Anh vẫn chưa trả lời đề nghị của tôi, tôi hỏi lại:
- Như vậy là ngày mai cho đi luôn chứ còn chờ gì nữa.
Anh Lâm Hà vẫn tươi cười như thường lệ đáp chậm rãi:
- Trên phái tôi đi để nắm tình hình, hãy chờ tôi về báo cáo lại đã.
Vừa nói anh vừa về lại chiếc trực thăng. Tôi đi theo, nói to:
- Bây giờ tôi chỉ mong đoàn tàu 962, đề nghị cho trực thăng võ trang đi hộ tống và giục cho nó lên mau mau.

Anh Lâm Hà gật đầu lia lịa, xong bắt tay tôi thật mạnh rồi bước lên cửa trực thăng. Chiếc UH-1 quạt cát bụi mịt mù, cất lên đảo một vòng rồi bay thẳng về hướng đông.

Chưa đến một giờ sau, trong khi chúng tôi đang thông qua kế hoạch thọc sâu của xe tăng và Trung đoàn 209 do anh Dũng trình bày, thì trực thăng trở lại. Nó chưa kịp chạm đất thì anh Lâm Hà nhảy xuống chạy lại chỗ gốc cây lúc nãy, nơi tôi đang đứng. Anh truyền đạt rành mạch mệnh …
lệnh của Bộ chỉ huy tiền phương hai bên: “một là cánh quân chúng tôi chiếm toàn bộ thủ đô Phnom-Pênh, bao gồm cả sân bay Pô-chen-tông, chứ không phải từ cầu Mô-ni-vông lên đến Bộ Tổng Tham Mưu Pôn-Pốt phía nam Hoàng cung như đã qui định cũ; Hai là: N là ngày mai 7/1, chứ không phải là ngày 8/1”. Anh chỉ nói miệng chứ không có bản đồ văn kiện, có lẽ vì gấp và cũng vì giao trọn thành phố thì cũng không cần bản đồ nữa. Anh cho biết ngày mai bạn sẽ đánh chiếm cảng Kôm-pông-som.

Tôi hỏi: Bộ đã thông báo cho anh Năm Thạch chưa?
Anh bảo là: Chính bộ đã trao đổi với anh Năm Thạch trước khi hạ quyết tâm, và phái anh đi truyền đạt trực tiếp cho nhanh. Tôi nhắc lại đoàn tàu 962. anh Lâm Hà cho biết là đã kiểm tra lại là tàu xuất phát từ hồi 10 giờ sáng. Vì theo kế hoạch cũ nên tàu lên đường chậm. Đang giục đấy, may thì nó đến kịp trong đêm nay, nhưng không sớm được đâu.

Lần này thì anh Lâm Hà không vội như lần trước, dù chiếc UH -1 vẫn mở máy chờ. Anh nấn ná xem tôi còn hỏi gì nữa không. Nhưng tôi thì lại vội, nên bắt tay anh trở vào Sở chỉ huy. Tôi hội ý với Bộ tư lệnh Đoàn 7 về nhiệm vụ trên vừa giao và đề nghị các anh triệu tập ngay một cuộc họp toàn đoàn cả các tiểu đoàn trưởng bạn và các binh chủng tăng cường.

Thế là mồng bảy, ngày mai. Mọi công việc phải hoàn thành nội chỉ trong đêm nay.
Logged
Bodoibucket
Thành viên
*
Bài viết: 913


« Trả lời #16 vào lúc: 05 Tháng Ba, 2010, 12:16:29 pm »

BA NGƯỜI TIỂU ĐOÀN TRƯỞNG

Sau cuộc họp phổ biến mệnh lệnh sau cùng, tôi gặp riêng ba đồng chí tiểu đoàn trưởng bạn Miasa Xáttha, Meo Sầm-tô và Soc-khon. Ba anh đều còn rất trẻ, chưa ai đến ba mươi. Mỗi anh trở thành cán bộ quân đội Nhân dân Cách mạng Kampuchia bằng những con đường khác nhau. Xáttha, tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3, quê ở Svai-Riêng. Năm 1971 Xáttha tham gia quân đội Khơme đỏ. Lúc mới xây dựng, đại đội của Xáttha cùng ở chung với một đơn vị quân giải phóng Việt Nam thuộc Sư đoàn 9 cùng nhau đi đánh Lon-Nol và ngụy Sài Gòn ở Preksăng Đekviasua. Năm 1972 có chủ trương tách các đại đội Kampuchia ra để thành lập các trung đoàn Khơme đỏ, nhiều chiến sĩ Kampuchia không đồng ý, trong đó có Xáttha. Nhưng sau đó bộ tư lệnh Sư đoàn 9 giải thích là các đồng chí Kampuchia, đã giải phóng xong đất nước thì phải có quân đội riêng, quân đội giải phóng Kampuchia ở đây cũng do đồng chí Năm Sang, Mười Xu chỉ huy chứ không phải ai xa lạ. Chừng đó Xáttha mới đồng ý trở lại quân đội Khơme đỏ. Đến năm 1977, Xáttha làm tiểu đoàn phó bộ đội địa phương Svairiêng. Một hôm học nghị quyết của Trung ương Pôn-Pốt, Xáttha hết sức ngạc nhiên vì nghị quyết nói: “Việt Nam là kẻ thù số một, kẻ thù truyền kiếp” Xáttha không thể nào tin được, nhưng không dám nói với ai. Cho đến một ngày, tháng 10 năm 1977, quân Pôn-Pốt mở một trận tấn công xâm lược sang huyện Bến Cầu tỉnh Tây Ninh có tiểu đoàn của Xattha tham gia. Bọn chỉ huy tuyên truyền là sang tiêu diệt Sư đoàn 9 của Việt Nam. Tên Sư đoàn 9 làm cho Xattha nhớ lại biết bao kỷ niệm thân thiết. Xáttha đã lừa bọn chỉ huy bằng cách tình nguyện đưa một bộ phận trinh sát đi trước qua Bến Cầu. Khi đến đất Việt Nam, Xáttha bảo anh em giấu súng và vào tìm ta. Khi gặp bộ đội Việt Nam, Xáttha hỏi ngay tên chú Ba Hồng, chú Tám Tùng, chú Năm Tích, là những người chỉ huy Sư đoàn 9 mà Xáttha còn nhớ rất rõ.

Còn đồng chí Meo Sầm-Tô và Sockhon đều ở trong lực lượng nổi dậy thuộc sư đoàn 4 của đồng chí Hêng Somrin.

Trong không khí trang nghiêm mà rất đỗi thân mật như trong gia đình, tôi nói với ba đồng chí tiểu đoàn trưởng:
- Các đồng chí ạ! như các đồng chí đã biết trong cuộc họp vừa rồi. Theo lệnh của Ủy ban trung ương mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Kampuchia, ngày mai chúng ta vào giải phóng Phnôm Pênh.

Tôi ngừng, nhìn các anh, tìm lại hình ảnh xúc động của chính mình khi được lệnh vào giải phóng Sài Gòn năm trước. Các anh đều nhìn xuống im lặng, hàng lông mi dài đập nhanh trên vành mắt ửng đỏ. Tôi tiếp:
- Đồng chí Khang Sà-rin, binh đoàn trưởng Binh đoàn 1, giao nhiệm vụ cho các đồng chí cùng chúng tôi giải phóng

Phhom-Pênh, sau đó Binh đoàn 1 vào đủ và hoàn toàn đảm nhiệm quân quản thành phõ Phnom-Pênh. Chốc nữa các đồng chí sẽ nghe trực tiếp chỉ thị của đồng chí Khang Sa-rin qua máy tăng âm. Nhưng vì bí mật nên đồng chí Khang sẽ không nói cụ thể được mà đồng chí giao cho tôi phổ biến kế hoạch và tôi được cấp trên của hai bên giao cho phụ trách chỉ huy cánh liên quân Việt Nam - Kampuchia này.

Các đồng chí đều không nói gì cả.

Tôi hỏi có đồng chí nào biết Phnom-Pênh không? Soc-Khon chỉ Sầm-Tô, người đã từng tham gia giải phóng Phnom-Pênh ngày 17-4-1975. Thì ra lịch sử quay một vòng tròn trở về chỗ cũ mang theo biết bao tang tóc cho một dân tộc. Cách đây gần bốn năm Sầm-Tô tham gia giải phóng Phnom-Pênh ... ngày nay Sầm-Tô lại đi giải phóng Phnom-Pênh lần thứ hai để lật đổ kẻ đã lợi dụng xương máu của mình bốn năm về trước.

Tôi hỏi:
- Cảm tưởng của đồng chí lần giải phóng Phnom-Pênh nầy như thế nào?
Sầm-Tô rất đẹp trai, một vẻ đẹp rắn rỏi mặn mà, chắc nịch trong bộ quân phục Quân đội Nhân dân cách mạng Kampuchia. Anh đằng hắng lên giọng nói trầm trầm đều đều:
- Thưa đồng chí, ngày 17-4-1975 chúng tôi đổ xương máu nhiều lắm mới giải phóng được Phnom Pênh, cũng nhờ có anh em Việt Nam. Bọn Pôn-Pốt phản bội nhân dân, phản bội Tổ quốc, phản bội xương máu anh em chúng tôi. Do đó chúng tôi phải làm lại cuộc cách mạng Kampuchia. Chúng tôi thề không tiếc xương máu.

Được đồng chí Sầm-Tô vào đề rồi, Xáttha mới nói:
- Đồng chí! Tiểu đoàn 3 chúng tôi là tiểu đoàn mồ côi, vì tất cả anh em trong tiểu đoàn đều bị Pôn-Pốt - Iêng-Xari

giết hết cha mẹ. Chúng tôi muốn được trả mối thù nầy. Các bạn Việt Nam giúp chúng tôi lần nữa. Các bạn Việt Nam hy sinh cho chúng tôi lần nữa ... Nói đến đây anh sụt sùi. Chúng tôi đều rớt nước mắt.

Biết các anh đều nghiện rất nặng nhưng không ai đụng đến bao thuốc lá Vàm Cỏ và mấy ly nước trà bốc khói trước mặt.

Tôi hỏi các anh biết mặt Pôn-Pốt - lêng-Xari không. Các anh bảo là nó không bao giờ dám vác mặt xuống Quân khu 203, nên các anh chưa biết. Tôi lục xắc-cốt đưa cho các anh một xấp ảnh Pôn-Pốt, lêng-Xari, Tà-Mốc, Son-Sen và một số nhân vật khác. Các anh xem ảnh từng tên. Sockhon bảo: “Chúng nó béo phị còn nhân dân Kampuchia chúng tôi thì ốm đói như người sắp chết”.

Sockhon bỗng ngẩng đầu lên hỏi tôi:
- Chúng ta chỉ giải phóng Phnom-Pênh thôi sao? Tôi chợt nhớ Sockhon là người quê ở Battambang. Tôi nói:
- Tới Phnom-Pênh chưa phải là xong, chúng ta còn đi xa nữa ... Hơn nữa ở Xiêm-Rệp, Battambang và nói chung là trên toàn bộ đất nước các đồng chí đã có những cánh quân bạn và lực lượng nổi dậy của quần chúng đã chuẩn bị sẵn sàng.

Tôi nhận thấy trong ánh đèn điện đôi mắt của Sockhon bỗng sáng rực lên một cách lạ kỳ.

Trước lúc ra đi Xáttha móc túi áo đưa cho tôi một bản tài liệu của Pôn-Pốt mà tiểu đoàn anh đã tìm thấy trong Sở chỉ huy của tên Ren ở Svai-Riêng.

Các đồng chí tiểu đoàn trưởng đã khuất mình trong đêm tối, mà hình ảnh và giọng nói của các đồng chí còn vương vấn mãi bên tôi.
Logged
Bodoibucket
Thành viên
*
Bài viết: 913


« Trả lời #17 vào lúc: 05 Tháng Ba, 2010, 12:17:13 pm »

VI
MƯỜI NGÀY, MỘT BƯỚC NGOẶT


Đọc xong bản nghị quyết của Trung ương Pôn-Pốt đề tháng 6 năm 1977, do Xáttha vừa trao cho, tôi nghĩ: Chủ quan dẫn đến sai lầm là cố tật của mọi kẻ xâm lược không có chính nghĩa.

Xin trích dịch nguyên văn nghị quyết đó của Trung ương Ăng-Ka: “Duôl (An-nam) sau chiến tranh còn gặp nhiều khó khăn chồng chất, kinh tế kiệt quệ, chính trị thì nội bộ mâu thuẫn, ở miền Nam chính quyền chưa vững, tàn quân và tổ chức chính trị chống đối của Thiệu còn nhiều, đang hoạt động phá hoại ... ... ...

Về quân sự, Duôl (An-nam) có quân đội mạnh, có kinh nghiệm chiến đấu, trang bị phương tiện nhiều, song sau khi thống nhất thì tinh thần quân đội sút kém ... ... ... Tuy mạnh về quân sự nhưng yếu về chính trị, đang gặp nhiều khó khăn nên không đủ sức mạnh đánh lại chúng ta ... ... ...

Về chiến lược thì bị kềm chế, không dám tấn công sâu qua đất nước Kampuchia ... ... ...

Ta phải lấy tư tưởng tấn công là chính, và đưa chiến tranh sang Việt Nam. Phải tấn công trước, tấn công dồn dập để Duôl (An-nam) không kịp trở tay ... ... ...”

Tôi nhớ lại:
Xuất phát từ quan điểm đó, suốt mùa mưa 1978 chúng huy động đến tám sư đoàn tấn công vào binh đoàn ta, đồng thời bu bám đánh tiêu hao liên tục hòng làm cho ta mệt mỏi, bị động không củng cố được để mùa khô chúng ra tay.

Khi nước bắt đầu rút, tháng 10/1978 chúng đã đưa lên mặt trận biên giới Miên-Việt mười chín trong số hai mươi hai sư đoàn bộ binh và hầu hết các sư đoàn binh chủng pháo binh, thiết giáp, hải quân, không quân. Tập trung mười hai sư đoàn trên hướng chủ yếu đối diện với Tây Ninh, Sông Bé và một phần Long An mà chúng gọi là quân khu Đông. Bốn sư đoàn trên hướng thứ yếu đối diện với An Gíang, Đồng Tháp, Kiên Giang mà chúng tôi gọi là quân khu Tây nam. Hướng giáp các tỉnh Tây Nguyên của ta, chúng gọi là quân khu Đông Bắc có ba sư đoàn. Còn lại toàn bộ đất nước Kampuchia đến biên giới Thái Lan ra biển chúng chỉ để ba sư đoàn để chống bạo loạn nổi dậy của dân chúng ở các quân khu Bắc, Tây bắc và Tây.

Như vậy là chúng không có dự bị chiến lược. Tổ chức chỉ huy mặt trận phía đông do tên Khiêu (Son Sen) bộ trưởng quốc phòng kiêm Tổng tham mưu trưởng phụ trách. Mặt trận đường 1 (Svai-Riêng) do tên Ren, Tổng tham mưu phó; Mặt trận Tây nam do tên Tà Mốc, phó bí thư Trung ương Ăng-ka chỉ huy.

Cuối tháng 10/1978 chúng cho các bộ phận ác ôn của các sư đoàn luồn sâu sang đất Việt Nam đến ba mươi, bốn mươi ki-lô-mét để giết dân, đánh phá kho tàng, giao thông,, cơ sở hậu cần của ta, hòng gây khó khăn cho ta, buộc ta bị động đối phó phía sau để chúng ra tay trong mùa khô sắp đến. Cũng trong lúc ấy Trung Quốc ráo riết tăng quân gây sức ép ở biên giới phía Bắc, bày đặt ra và làm rùm beng chuyện người Hoa.

Tháng 11 năm 1978 chúng dùng pháo các Ioại kể cả 130 ly, D-74, hỏa tiễn H-12 bắn phá liên tục các thị xã Tây Ninh, Châu Đốc, các thị trấn Hồng Ngự, Tân Châu, Tịnh Biên, Mộc Hóa, Gò Dầu ... và nhiều nơi đông dân cư khác.

Đến tháng 12, thấy ta chưa hành động gì đáng kể, chúng cho là hoạt động phá hoại của chúng có kết quả, ta bị động đối phó lúng túng trong nội địa. Chúng tung hỏa mù định che mắt ta và thế giới.

Ngày 13 tháng 2 năm 1978 tại Phnorn-Pênh, Pôn-Pốt trả lời phỏng vấn Tân Hoa xã rằng: “Trường hợp Việt Nam tấn công lớn vào Kampuchia thì tạm thời bỏ một vài vùng, chúng ta sẵn sàng đánh bại Việt Nam. Quân đội Kampuchia dân chủ đang đánh thắng ở khu vực biên giới và trên các đường tiếp tế của Việt Nam” (trên đất Việt Nam).

Bắc Kinh cũng ra rả hàng ngày luận điệu ấy: “Việt Nam sẽ bị sa lầy nếu tấn công sâu vào Kampuchia”.

Chúng ra sức xuyên tạc hiệp ước hữu nghị Việt- Xô và sau khi Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Kampuchia ra đời thì chúng bôi nhọ xuyên tạc đủ điều. Mặt khác, chúng la lên: “Đây là Việt Nam chuẩn bị xâm lược Kampuchia và Đông Nam Á”.

Từ 10 đến 20 tháng 12 Năm 1978 chúng đưa một số nhà báo Nhật, Mỹ đến quay phim chụp ảnh, cho Tân Hoa Xã đưa tin là âm mưu tổng tấn công trong ngày 22 tháng 12-1978 của ta đã bị bại. Chúng cho Son-Sen trả lời phỏng vấn Tân Hoa Xã (lại Tân Hoa Xã) ngày 16-12-1978 tại thị trấn Suông rằng: “Kampuchia sẽ đánh bại bất cứ một cuộc tấn công nào của Việt Nam”, và chúng đưa tin thắng lợi giả tạo của chúng ở biên giới.

Thật ra trong thâm tâm, chúng nhận định rằng lực lượng cách mạng không đủ sức và cũng không dám tấn công toàn diện. Mà nếu chỉ giải phóng đến bờ đông sông Mêkông để lập căn cứ cho Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Kampuchia thì lực lượng cách mạng sẽ sa lầy đến ngực, vì vùng này toàn là rừng ít dân. Nếu chúng lùa dân đi nữa, thì là vùng không dân, kinh tế không có gì, đường xá rất ít, phạm vi rộng, hậu phương xa.Ta sẽ tiêu tốn rất nhiều sức người, sức của, không thể nào chịu nổi trong cuộc chiến tranh lâu dài. Chừng ấy chúng tha hồ giành chủ động ở biên giới phía Bắc, phá hoại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Trung tuần tháng 12 năm 1978 coi như mọi mặt chuẩn bị xong, ngày 20, 21-12-1978 chúng phát động tấn công mùa khô trên toàn tuyến. Chúng tung ba sư đoàn vào đánh chiếm Bến Sỏi, Hảo Đước, Hòa Hội thuộc huyện Châu Thành trong kế hoạch bước đầu đánh chiếm toàn tỉnh Tây Ninh. Dùng ba sư đoàn đánh từ Mi-mốt xuống Kà-tum bắc Tây Ninh để phối hợp với cánh trên chiếm Tây Ninh rồi sau đó tăng thêm lực lượng tiến xuống Bắc Sài Gòn. Ném ba sư đoàn vào đánh Bảy Núi (An Giang), và Trà Phố, Trà Tiên đến nhà máy xi măng Kiên Lương (Kiên Giang). Đưa thành phần hai sư đoàn vào Đôn Phục (Đồng Tháp) và Hương Điền (Long An).

Về phía Cách mạng, Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước ra đời lãnh đạo cuộc cách mạng Kampuchia. Bộ chỉ huy tiền phương hai bên được thành lập để chỉ huy thống nhất các lực lượng vũ trang hai bên.

Dùng kế địch để thực hiện kế ta, ngày 23-12-1978, không thể để cho quân địch phá hoại lúa mùa vừa chín tới dọc bờ sông Vàm Cỏ, binh đoàn Cửu Long được lệnh tấn công tiêu diệt quân địch đã vào sâu bên đất ta, sớm hơn thời gian dự định.

Ngày 28-12 liên quân Việt Nam - Kampuchia trên hướng Bắc cũng bắt đầu phản công đánh chiếm Kro-chê, Stưng-teng, Sơ-lông, Đầm-Be, Suông, Chúp dọc theo bờ trái sông Mê-kông, cắt đường rút lui của chín sư đoàn địch đang triển khai tấn công sang đất ta.

Như vậy là ta làm theo dự kiến của Bắc Kinh và tay sai Pôn-Pốt-Iêng Sa-ri là chiếm vùng rừng núi Đông Bắc đến bờ trái sông Mê-kông. Sa vào kế “dụ địch vào sâu” của chúng, chúng ra lệnh cho tất cả các đơn vị của chúng luồn lại đánh phá phía sau ta.

Về binh đoàn ta từ 23 đến 28-12-1978 Đoàn 341 và Đoàn 2, cùng với hai trung đoàn của tỉnh Tây Ninh và lực lượng địa phương dân quân du kích huyện Châu Thành, được một số bộ phận pháo binh, xe tăng thiết giáp chi viện đã bao vây chặt và tiêu diệt gọn thành phần nòng cốt của ba sư đoàn 707, 221, 340 địch, gồm cả ba Sở chỉ huy nhẹ sư đoàn. Bộ phận còn lại của ba sư đoàn nầy quay ra lập phòng tuyến đường 10 từ Kông-pông-trạch đến Svai-riêng để ngăn chặn ta.

Ngày 01-01-1979, sau khi điều chỉnh lực lượng, Binh đoàn tiến hành đột phá tuyến đường 10. Do ta chưa tích cực vòng sâu vào phía sau lưng địch nên ngày ấy ta chưa giải quyết được. Ngày 02-1 ta tấn công thì địch bị vỡ. Cũng trong ngày 2-1-1979, có một máy bay BOEING của Trung Quốc từ Bắc Kinh đến Nông Pênh trong một chuyến bay bất thường. Và ngay đêm 2 rạng 03-01-1979 chúng ra lệnh cho lực lượng ở Svai-riêng rút về phía sau để bảo toàn lực lượng và phòng thủ từ phía Sơ-cách đến Prây-veng dọc bờ sông Mê-kông.

Ở hướng Bắc và Đông Bắc cũng thế, sau khi ta tiêu diệt một số, địch tan tác hốt hoảng, chúng cũng được lệnh rút lui vào ngày 03-01-1979 về phòng thủ hai bên bờ sông Mê-kông.

Sau khi phá vỡ tuyến đường 10, Binh đoàn ta được lệnh phát triển tấn công đến bờ sông Mê-kông dọc theo trục đường 1. Đêm 3 rạng 4, Đoàn 7 đã cắt địch ở Prêy-Nhây, trên quốc lộ 1 đông Svai-riêng hai mươi cây số, ba sư đoàn địch ở đường 10 bị cắt mất đường chạy, bằng cơ giới. Lực lượng địch ở đường 1 phía Đông tây (?) Svai-riêng là Sư đoàn 460, Sư đoàn 805 và Trung đoàn độc lập 804 bị Đoàn 9 và Đoàn 2 của ta chia cắt truy đuổi, cũng tháo chạy tan tác.

Thế là chúng bỏ xe, bỏ pháo từng tốp chừng vài ba chục tên đạp rừng, đạp ruộng, chặt chuối lội sang sông. Tên Ren nắm một bộ phận Sư 805 và gom góp tàn quân các sư khác tổ chức ngăn chặn đường đến Nek-lương.

Ngày 03-01-1979 cánh Liên quân hướng Tây nam của ta mới bắt đầu nổ súng, mở cửa vào dãy núi Xom, Tà Keo.

Thế là trong vòng mười ngày, trên toàn bộ tuyến biên giới ta xóa gần hết mười sư đoàn mạnh, xương sống của quân đội Pôn-Pốt_Iêng xa-ri. Binh lính địch trong các sư đoàn này một phần lớn tan rã vào trong dân. Đó cũng là hậu quả tất nhiên của chế độ diệt chủng Pôn-Pốt - Iiêng Xa-ri áp dụng trong quân đội của chúng.

Tuy vậy trong lúc tôi ghi chép vào sổ tay những dòng trên đây thì tôi cũng nghĩ rằng quân đội Pôn-Pốt chỉ mới tan rã một bộ phận quan trọng. Chúng đang rút về phía Tây sông Mê-kông để phòng thủ Kongpong-Chàm, Phnom-Pênh và các tỉnh phía tây, Tây bắc, Tây nam. Rừng núi phía tây bát ngát với những dãy núi Tượng, núi Các-đa-môn, rừng núi phía bắc giáp với Thái Lan là chỗ dựa lâu dài cho chiến tranh du kích trường kỳ theo quan điểm của chúng. Nếu ngày mai đây, giải phóng được Phnom-Pênh đó là điều chắc chắn rồi - thì cuộc chiến đấu tiếp theo vẫn còn gay go, ác liệt.
Logged
Bodoibucket
Thành viên
*
Bài viết: 913


« Trả lời #18 vào lúc: 05 Tháng Ba, 2010, 12:17:38 pm »

VII
BẾN NEAK-LƯƠNG


Đêm 06 rạng 7 tháng 01-1979.

Đã khuya mà ở Sở chỉ huy tiền phương binh đoàn người vẫn ra vào tấp nập. Đêm nay đèn điện sẽ thắp đến sáng. Anh Vũ Thành, chủ nhiệm hậu cần binh đoàn, đích thân đưa xuống ba mươi xe tải của cấp trên mới tăng cường chở theo lương thực, quân trang mới, sữa đủ bồi dưỡng cho mỗi chiến sĩ một hộp. Anh Tiến, trưởng phòng tuyên huấn, cũng đưa xuống mấy xe, băng cờ biểu ngữ, truyền đơn, quyển cương lĩnh, máy phóng thanh, loa điện, cùng đi có các nhân viên báo chí, nhiếp ảnh, quay phim Việt Nam và SPK và các đội công tác Kampuchia. Bốn tiểu đoàn thuộc binh đoàn 1 của bạn cũng lần lượt đến. Các cán bộ, nhân viên cơ quan binh đoàn nhập làm một với cơ quan đoàn 7, gồm toàn anh em năng nổ thạo việc, nhưng lắm lúc cũng ngớ người ra không biết giải quyết việc nào trước việc nào sau.

Trong lúc ấy dù bên ngoài vẫn ừ hử với các câu hỏi của anh em cơ quan nhưng tâm trí tôi lại dồn hết về phía bờ sông.

Bỗng về phía tôi đang mong đợi rộ lên tiếng súng đủ loại. Chuông điện thoại reo, tôi chạy vào giằng ống nghe trên tay đồng chí trực máy. Đồng chí nào đó không xưng tên, báo cáo là đoàn tàu ta lên, bắn cháy tàu địch, ở đây cũng trông thấy ngọn lửa. Mừng quá chúng tôi reo lên như vỡ chợ. Nhưng sau một hồi yên lặng, không thấy ở bến báo gì thêm, tôi sinh nghi quay máy đòi gặp anh Ba Bì. Chờ một lát anh Ba Bì mới cầm máy trả lời là bộ binh ta bắn cháy tàu địch, chứ không phải là tàu ta lên tới. Thế là mừng hụt.

Cho đến lúc 20 giờ 40 phút, tôi đang nuốt vội bát mì tôm để trừ bữa ăn chiều, thì phía hạ lưu, chỗ lúc nãy súng lại nổ. Chạy ra sân xem, thấy đạn tín hiệu xanh, đỏ, trắng bay lên như những đóa hoa sen lẫn trong những chùm tia nhỏ rứt đỏ thẫm của đạn lửa AK. Mọi người xung quanh từ đồng chí vệ binh, đến anh nuôi, lái xe đều biết sự mong đợi của chúng tôi, reo inh ỏi:
- Tàu mình rồi!
- Lần này chắc rồi!
- Anh em bắn tín hiệu đấy.
- Không, anh em bắn dọa địch đấy chứ.
- Không, bắn chào mừng đấy.
- Ồ thích quá, đẹp quá, y như là pháo hoa ...

Tôi nhắc anh Ba Bì cho anh em bắn tín hiệu, coi chừng đêm tối chập choạng lại choảng nhau thì nguy. Độ 20 phút sau anh Ba Bì báo về là đoàn tàu 962 đã lên tới. Tôi hỏi có chắc không? Anh ấy bảo là anh Huỳnh, Trung đoàn phó Trung đoàn 960 Hải quân đi chiếc PCF đã đến chỗ anh ấy. Anh hỏi tôi có cần gặp anh Huỳnh trong điện thoại không?

Tôi ra bờ đê, chui vào xe thông tin báo cáo về Sở chỉ huy cơ bản. Đầu dây bên kia là anh Nam Phong, Tham mưu trưởng Binh đoàn. Anh Nam Phong rất mừng, anh báo cáo cho biết bạn ở hướng Bắc đang đổ bộ sang Kông-pông-chàm, bạn hướng Nam đã chiếm được Tà-Keo, Tà-Ni. Anh cười bảo:
- Tôi đã có kế hoạch rồi. Anh vào tới là tôi cũng tới ngay đấy anh Ba à!

Chúng tôi di chuyển Sở chỉ huy ra bờ sông Neak-lương theo kế hoạch. Có lẽ từ lúc trèo lên cây thốt nốt cao nghệu để cột cần ăng-ten, xe thông tin này mới được sử dụng vài ba lần. Nhưng khi được lệnh di chuyển anh em cuốn gói rất nhanh, nói cười tíu tít trong đêm tối.

Vừa đến bến phà chúng tôi gặp ngay anh Huỳnh, trung đoàn phó Trung đoàn 962. Anh Tám Danh trưởng phòng quân báo, ôm anh Huỳnh đấm lưng đụi đụi, giọng nói tỉnh rụi:
- Cha nội làm người ta chờ muốn chết. Binh chủng con cưng mà.

Hai anh quen thân đã lâu và mới cách đây mươi ngày, anh Tám Danh đã đi cùng với tôi xuống Cần Thơ, Hồng Ngự, Tân Châu để giao nhiệm vụ và tổ chức hiệp đồng giữa Trung đoàn Hải quân 962, Trung đoàn 113 đặc công và Trung đoàn bộ binh Đồng Tháp về nhiệm vụ này.

Anh Huỳnh tươi cười trông hiền lành, anh bảo:
- Ông ơi! Con cưng con cúng gì.

Rồi anh trải bản đồ ra báo cáo với tôi:
- Trung đoàn 962 cứ theo kế hoạch ngày N là 08/01, nên khi nhận lệnh hành quân thì gấp quá rồi. Tàu ta mới lên tới Vĩnh Xương thì gặp năm tàu chiến địch phối hợp với chốt trên bờ và trận địa pháo 105 ngăn chặn quyết liệt. Phải đổ bộ Trung đoàn đặc công 113 lên trục nó cả giờ mới đi được. Ta bắn chìm hai tàu địch, còn ba chiếc nó chạy. Ta đuổi theo nhưng tàu ta mèn quá rượt không kịp. Địch trên bờ cứ từng cụm năm bảy khẩu ĐKZ, 12 ly 8 bắn suốt. Tàu ta cứ giữa sông, vừa bắn vừa lên. Đến Sama-leo khỏi biên giới sáu cây số lại gặp hai tàu chiến Monito loại tuần biển của Mỹ có pháo 105. Ta dàn đội hình PGM và PCF ra đánh, ta bắn chìm một chiếc, còn một chiếc tụi nó nhảy xuống sông bỏ tàu thả trôi. Ta cặp vào lấy súng. Đến cù lao Pooh Peam-leang cách biên giới được 19 km lại gặp địch ở trên cù lao và hai bên bờ bắn ra rất mạnh, ta dùng hoả lực chế áp và dùng khói mù che đội hình vượt qua, ta bắn cháy một xà-lan chở dầu. Từ đó trở lên nhờ có bộ binh của ta kiểm soát trên bờ nên êm.

Tôi siết chặt tay anh Huỳnh, biểu dương Trung đoàn 962 hải quân và Trung đoàn 113 đặc công.
Logged
Bodoibucket
Thành viên
*
Bài viết: 913


« Trả lời #19 vào lúc: 05 Tháng Ba, 2010, 12:19:55 pm »

*
* *
Trong kháng chiến chống Mỹ, anh em chúng tôi từng đưa xe qua tất cả các con sông ở miền Đông Nam bộ. Từ lúc đưa những xe tăng M41 đầu tiên lấy được của địch qua sông bằng bè tre. Cho đến khi có phà nặng, phà nhẹ của Công binh kéo dây hoặc chạy máy đẩy. Mỗi đêm vượt sông, khắc sâu một kỷ niệm, một niềm vui khó quên vì nó gắn liền với một chiến dịch tấn công lớn mà ngươgi lính già lính trẻ gặp nhau thường hay nhắc đến.

Nhưng chưa có đêm vượt sông nào lại náo nức rộn ràng như đêm nay. Trên sông Neak-lương hồi trưa này còn vắng vẻ là thế mà giờ đây đã trở thành một bến cảng, một bến cảng thực sự. Hai chiếc PGM loại tàu tuần ven biển thả neo ở hai bên lạch trước mũi cù lao, sau nó là hai hàng mười ba chiếc PCF loại tàu chiến đấu trên sông. Phía dưới hạ lưu có tám tàu xi-măng bảo vệ xung quang 13 chiếc tàu há mồm loại nhỏ LCM-6 chở đầy lính thuộc đoàn 113 đặc công. Tàu nào cũng có đèn đỏ, đèn xanh trên cột. Giữa bến phà đôi bờ, sáu chiếc tàu há mồm loại to LCM-8 đan chéo nhau luân phiên cập bến. Trên tàu đèn tín hiệu đỏ chớp tắt lia lịa. Những ngọn đèn pha chói mắt thỉnh thoảng quét trên mặt sông và soi lên bến cho xe xuống tàu. Không phải là có trăng quên đèn đâu, nhưng vì phải nhương bến, cho nên hai chiếc phà công binh của Lữ 25 tạm nép qua một bên, sau khi đã chuyển được hai chuyến.

Các đơn vị thuộc Binh đoàn 1 Quân đooji nhân dân cách mạng Kampuchia đã sáng sông xong. Bây giờ đến lượt các binh chủng bảo đảm và các đơn vị cơ quan của Đoàn 7.

Trên bến, rầm rĩ tiếng động cơ xe tăng M113, xe tải, xe kéo pháo và các loại xe đặc chủng, xe chỉ huy. Thỉnh thoảng lại nổi lên một vài câu cãi cọ vì dành nhau qua phà:
- Ơ kìa! Đi đâu mà bướng thế ông tướng?
- Cho lên đi cùng đơn vị mà!
- Không đơn vị gì cả, ai đến trước qua trước.
- Trung đoàn 14 đây mà, các đồng chí không thấy ký hiệu dán trên kính đây sao?
- Không 14 - 15 nào cả, xe quân trang không qua kịp thì lấy đâu quần áo mới cho anh em thay.

Những câu cãi cọ đã không đáng trách mà lại còn dễ thương làm sao ấy!

Anh Thiện, tham mưu phó Đờn 7, bình thường ăn nói nhỏ nhẹ hiền lành là thế, mà lúc này anh cũn gquát luôn mồm.

Dọc bờ sông từng nhóm chiến sĩ hút thuốc tán chuyện. Đó đây lốm đốm những bếp lửa của các anh nuôi chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp như một phiên chợ đêm. Ánh đèn xanh, đỏ, tím vẽ loằng ngoằng trên mặt nước những con rắn khổng lồ. Chúng theo sóng tàu xô vào bờ, phủ qua những cái đầu đang lặn ngụp bơi lội, phì phèo, í ới. Thỉnh thoảng một cú đèn pha bất thần rọi lên bãi, làm lộ bí mật mấy thân hình tồng ngồng.
- Ê, đừng giỡn mấy cha, có nữ đội viên công tác đấy né. Không phải là vương quốc của giống đực không đâu?

Đố ai tìm được dấu vết mệt nhọc của sáu ngày đêm ròng rã hành quân chiến đấu với cường độ tưởng chừng ngoài sức chịu đựng của con người. Chiến sĩ ta đánh giặc giỏi, làm công tác dân vận giỏi, mà cũng rất nhạy cảm với cảnh đẹp thiên nhiên. Có lex vì thế mà chiến sĩ ta hay làm thơ.

Neak-lương, tiếng Khơ-me có nghĩa là nàng Lương. Chắc ở đây xưa kia đã xảy ra một chuyện buồn về thân phận người con gái tên Lương. Cách Svairiêng 68 km, Sài Gòn gần 200 km, Phnom-Pênh 60 km, cho nên hồi trước Neak-lương có nhiều hàng quán với món ăn đặc biệt của cá tôm Mê Kông nổi tiếng là ngọt thịt. Neak-lương đãi khách chờ phà. Vì thế mà tên Hố Lương quen thuộc hấp dẫn anh em quê miền Nam. Còn lính quê phía Bắc thì đây là dòng sông Mê Kông chảy qua ba nước anh em Lào - Kampuchia - Việt Nam đã hằn sâu vào tâm trí từ hồi ngồi trên ghế nhà trường. Ai cũng muốn hớp một ngụm nước sông, ai cũng muốn tắm, ít ra cũng rửa mặt, không thì cũng khoát tay xuống nước một cái như anh em lái xe.

Ba năm tám tháng rồi, Neak-lương điêu tàn, hiu quạnh dưới chế độ rào tường, ráp ngõ, cấm chợ, ngăn sông của Pon Pốt. Đêm nay Neak-lương hồi tỉnh mãnh liệt tưng bừng mở hội, như nhờ có phép thần tiên mà nàng Lương thoát nạn, từ cõi chết trở về.

Ra đến giữa sông mới biết sông rộng, gió sông Mê Kông làm mát da mát thịt, mát tận trong lòng.

Đến Sở chỉ huy mới anh em mới triển khai xong trong một doanh trại lính Pôn-Pốt, chúng tôi gặp anh Ngọc Anh và anh Vịnh đang là mnhiệm vụ chỉ huy các đơn vị ở phía tây sông. Sau khi nghe các anh báo cáo tóm tắt tình hình, chúng tôi đi ra chỗ bến phà xi-măng cũ thăm bà con Kampuchia đang tụ tập ở đó. Anh Tư Sen, trưởng phòng dân địch vận Binh đoàn cùng một số cán bộ của ta, các đội viên công tác của bạn, cả Sà-Vây, Chan-Thu, Sam-Môn đang có mặt ở đây.

Anh em cho biết bà con ở đây là người ở trong phum, hôm qua tụi nó lùa dân đi hết, bà con này trốn ở lại. Trong phum vắng vẻ, bà con sợ nên kéo ra đây. Bà con cho biết hơm mười ngày rồi chúng nó đưa nhiều xe, nhiều pháo và lính đông lắm sang miệt Svairiêng. Nhưng hai hônma y chúng nó chỉ lội sông về lẻ tẻ thôi.

Tôi ngồi trên mặt đất, kéo một em bé đứng cạnh, choàng tay ôm lấy nó. Tôi cố gợi cho đồng báo nói. Tôi muốn nghe tạn tai tiếng nói chân thật của bà con. Bà con thay phiên nhau kể, bổ sung, nhắc nhau, từ chuyện sinh sống làm lụng trong công xã, chuyện làm phân bằng xác người để đại nhảy vọt cho đến chuyện Ăng-Ka đánh giết hành hạ người dân, chuyện ăn, ở, mặc của bà con, chuyện cưới xin tình cảm nam, nữ, chuyện gia đình ly tán, chuyện sư sãi bị giết, chùa chiền bị đập phá. Nhà văn Nguyễn Thế Trung ngồi bên cạnh tôi bấm đèn pin ghi chép mà nước mắt rưng rưng. Từ ngày đầu chiến dịch đến nay, anh Trung đi với tôi như hình với bóng. Tôi ở đâu, đang làm gì, ngoái lại sau lưng cũng thấy anh đang ghi ghi chép chép. Mấy hôm ở Đôn-so, Prey-nhây anh rủ tôi đi xem dấu vết của các công xã như những người khảo cổ. Chúng tôi tìm đủ chứng tích và hiểu rằng các công xã của Pôn-Pốt - Iêng-Xari là một thứ chế độ nô lệ, có khi còn tàn bạo hơn chế độ nô lệ thời trung cổ. Nó xóa bỏ cơ sở gia đình. Nó phân ra nô lệ lão ông, nô lệ lão bà, nô lệ đàn ông, nô lệ đàn bà, nô lệ trẻ con. Hôn nhân hoàn toàn do Ăng-Ka sắp đặt bằng những đám cưới tập thể. Vợ chồng được ngủ chung với nhau có định kì như bỏ giống súc vật ... Còn Ăng-Ka là bọn chủ nô có gia đình riêng, có nhiều vợ, biết dùng radio, cátsét, phích nước, đồ sứ Giang Tây ... tế tạo tại Trung Quốc.

Khi bà con đã cạn lời, tôi mới hỏi, tôi hỏi những điều đã nghe mà lòng còn ngờ vực:
- Ba người ăn nửa lon gạo mà làm lụng nặng nhọc hơn mười giờ mỗi ngày, thì làm sao bà con làm nổi?

Bà con gần như đồng thanh đáp:
- Phải nổi chứ, đi té lên té xuống cũng phải làm, nó khoán một ngày hai thước khối đất, ngày nào làm không đủ thì dồn qua ngày sau, nên có lúc muốn chết còn khoẻ hơn.
- Mấy năm nay phum ta chết chừng bao nhiêu người?
- Độ phân nửa, còn bị đem đi biệt dạng thì nhiều.

Thấy không khí bi lụy quá, tôi xoay qua chuyện nhẹ nhàng hơn, tôi hỏi:
- Này các cô, làm lụng nặng như vậy mà mỗi năm nó chỉ phát một bộ quần áo thì làm sao đủ?

Các cô gái trốn mặt sau lưng các bà mẹ, lén nhìn chúng tôi trong bóng tối. Một bà mẹ nói:
- Mắc cỡ gì, ổng hỏi cho biết mà. Vậy nè, tối đi làm về thì cởi ra giặt phơi gió, ở truồng, ôm nhau ngủ, gà gáy dậy bận vô, nó còn ướt thì làm việc tới sáng nó khô ...

Tôi tìm cách thăm dò lòng dạ của nhân dân Kampuchia đối với nhiệm vụ của chúng tôi, tôi hỏi:
- Ang-Ka nó nói Việt Nam là kẻ thù, Việt Nam là xâm lược, bụng bà con mình nghĩ sao?

Mọi người xôn xao giành nhau đáp, tôi phải đề nghị bà mẹ lúc nãy nói thay. Mẹ nói:
- Đừng nói vậy tội chết, mấy hôm nay đêm nào người già cũng lấy vỏ thốt nốt làm nhang chắp tay lạy về phía Svairiêng cầu trời khấn phật cho quân giải phóng về tới đây cứu bà con, nếu giải phóng dừng lại ở Svairiêng thì bà con ở đây chết hết.

Tôi cố gượng hết sức mà hai môi tôi cứ run, giọng nói méo mó, đứt đoạn:
- Mẹ ơi! Mẹ đừng nói vậy, mẹ cứ kêu chúng con bằng con, cứu mẹ, cứu nhân dân Kampuchia của mẹ là trách nhiệm của các con. Các con về trễ là các con có lỗi với bà con rồi.

Các cô đội viên công tác khóc thút thít. Một ông cụ nói:
- Anh em Việt Nam là người ơn, bộ đội giải phóng của cụ Hồ cứu nhân dân Khơ-me lần thứ hai. Tôi chắc chắn bà con Kampuchia nầy ở đâu cũng thương bộ đội giải phóng nhiều nhiều. Khi trước bộ đội giải phóng về nước, bà con khóc, bà con sợ Ăng-ka nó tới đánh bà con không dám nói ra miện chớ trong bụng nhớ hoài.

Nhìn bà mẹ già móm mém, tôi chợt nhớ bà mẹ Xo ở Ba Nam, chỉ trên dòng nước này không đến một giờ thuyền chèo. Bà mẹ Xo đầu cạo trọc láng bóng và hai vành tai dài như tai Phật, cũng móm mém như bà mẹ này. Mẹ Xo vui tính lắm. Mẹ bắt đầu quen anh em bộ đội gỉai phóng Việt Nam, khi mẹ nghe anh em nói tiếng Khơ-me “bắt cá” thành ra “bắt con gái” (chập sẩy thành ra chạp srẩy), mẹ cười ngất. Mẹ bảo: “chạp sẩy xi ban, chạp srẩy xi ót ban tê!” (bắt cá ăn được chớ bắt con gái ăn không được đâu). Mẹ thương con giải phóng Việt Nam, ngoài việc ép ăn, ép uớng, mẹ còn hay cặp đôi anh em với các co gái ngaon nhất vùng. Anh em nói có vợ rồi, mẹ không tin, nhưng sau rồi mẹ hiểu, mẹ không nói đến chuyện ấy nữa. Mẹ cứ hay nói với làng xóm rằng: “Cũng thời là một thứ người, nói một thứ tiếng, sao mà các con giải phóng Việt Nam hiền quá, tốt quá. dễ thương quá. Còn tụi “Duôl” Thiệu Sài Gòn thì dữ quá, ác qúa. Hồi nó càn lên đây nó gom hết thảy từ ông Phật đến cái váy phụ nữ. Có thằng nó chĩa súng biểu mẹ đưa vàng, mẹ làm bộ lục túi chầm chậm, nó nói: “có mấy cái túi mà bà già lục lâu quá để tôi lục giùm cho”. Rồi nó mò từ trên cổ xuống lưng xà-rông của mẹ”.

Nhớ mẹ Xo tôi hỏi:
- Bà con ơi! Dân Banam còn ở chỗ cũ không?
- Banam cũng tiêu hết rồi. Pôn-Pốt nói dân Banam thương Việt Nam, nó đưa lên Puốc Xát lâu rồi.

Một ông cụ trạc 70 tuổi gầy gò khổ sở, bỗng dưng nói tiếng Việt rất sõi, dùng nhiều từ ngữ rất cổ:
- “Mấy ông ơi! Tui nói thiệt tui là người Việt mình. Tui ở Mộc Hóa lên đây mần ăn hơn năm mươi năm rồi. Tui có vợ Miên đẻ sáu đứa con, một bầy cháu, bốn năm nay tui không dám nói tiếng Việt. Miễn hồ nhi là Việt, Miên lai Việt, nó cũng giết chết. Con cháu tui chết hết rồi, còn hai thằng con trai nó đem đi đâu mất. Nó nói nó giết cho tiệt cái giống “Duôl” đi. Dân trong phum này, phum khác biết tôi là gốc Việt mà chưa từng nói với nó đâu”.

Trong lòng tôi thấy sáng them điều mà tôi đang tìm hiểu lâu nay: Tại sao Pôn-Pốt - Iêng -Xari tự tiêu diệt dân tộc mình? Thì ra là thế! Chúng có âm mưu tiêu diệt cả ba dân tộc Việt Nam, Kampuchia và Lào. Trong lúc chúng nó nói chỉ cần một triệungười để xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Kampuchia, thì ở Bắc Kinh cũng có người quyền uy tối thượng bảo rằng: “Ông ta sẽ làm lãnh tụ chỉ huy mấy trăm triệu nông dân Trung Quốc tiến xuống phía Nam”. Đất đai Kampuchia - Lào - Việt Nam mà chứa một vài triệu dân thì còn quá rộng. Rồi cả vùng Đông Nam Á nữa. Thế giới có biết chuyện này không?

Trước cảnh tượng đêm nay bên dòng sông Cửu Long như sợi dây thiêng liêng gắn bó, buộc ràng giữa ba dân tộc, tôi chợt nhớ thơ Đồ Chiểu qua khí phách Lục Vân Tiên:
“Nay đã rõ đặng nguồn cơn,
Nào ai tính thiệt sơ hơn làm gì,
Có câu kiến nghĩa bất vi
Làm người dường ấy cũng phi anh hùng”

Huống chi, thưa vong linh cụ Đồ Chiểu đây không phải là một nàng Nguyệt Nga, một cô Kim Liên, mà là một dân tộc, hay đúng hơn là ba dân tộc anh em.

Chắc cụ Đồ cũng vui lòng khi cụ biết rằng, tuy còn phải sống bằng mì, khoai nhiều hơn là gạo, thế mà nhân dân ta đã dành dụm, dự trữ lúa gạo để cứu đói cho hàng triệu dân Kampuchia.

... Thấy bà con gầy gò, bủng beo, rách rưới quá, rách đến độ các cô gái không dám đứng dậy, cô Sà-Vây và anh Tư Sen đã sang sông lấy vải, sẵn bàn máy, may xà-rông cho phụ nữ, may quần đùi cho đàn ông và lấy gạo phát cho dân.

Có mấy cô gái kéo Sà-Vây ra một chỗ thầm thì những gì không rõ. Lát sau Sà-Vây trở lại báo là trong phun bà con còn giấu một đống súng, còn để năm người giữ trong đó và Sà-Vây đề nghị tổ chức cho phum một đội dân quân tự vệ.

Trở vào Sở chỉ huy, đã gần ba giờ sáng mà nhân viên trong Bộ tham mưu không kể là tác chiến hay quân lực đang bò ra can bản đồ thành phố Phnom-Pênh để kịp phát cho các đơn vị. Anh Tám Danh và anh Phùng đã chuẩn bị xong tình hình địch và phương án hành quân tác chiến. Anh Ba Bì cũng vừa đến.

Anh Đáng trinh sát, báo cáo với chúng tôi tình hình địch vừa nhận được:

Sư đoàn 260 địch điều từ Krachê về bảo vệ Phnom-Pênh hiện bố trí phòng thủ cầu Mô-ni-vông và phía Nam dọc theo đường 1 20km. Trung đoàn 180 vẫn bảo vệ Bộ Tổng tham mưu. Trung đoàn 331 của Sư đoàn 502 Không quân bảo vệ sân bay Pô-chen-tông. Sư đoàn 152 Thuỷ quân Lục chiến có một trung đoàn bảo vệ trên sông và căn cứ hải quân Chrui-chang-var. Ngoài ra một số lực lượng giữ nhà của Sư 377 xe tăng thiết giáp, sư 188 pháo binh và một bộ phận công binh được phân công bố trí chiến đấu bảo vệ khu vực hậu cứ từ ga xe lửa ra đến sân bay Pô-chen-tông. Hôm kia (05-01) nó gom cố vấn Trung Quốc về Phnom-Pênh. Hôm qua (06-01) nó ra lệnh đốt tài liệu và có nhiều máy bay đi lại giữa Pô-chen-tông và Băng-kok. Chúng ra lệnh phá cầu trên các đường dẫn vào Phnom-Pênh và tích cực đánh ngăn chặn, đánh du kích phía sau ta.

Kế anh Hoằng, phó chủ nhiệm hậu cần binh đoàn, cũng vừa từ Svairiêng đến, anh báo cáo là quần áo, lương khô, xăng dầu, bảo đảm đủ cho các đơn vị nhưng xe còn kẹt phía sau chưa qua phà được. Anh cho biết 25 xe tăng cấp trên tăng cường còn ở bên kia cầu Tra-béc, anh em chưa dám qua vì sợ sập cầu.

Chúng tôi cùng các cơ quan nghiên cứu lại mọi mặt tình hình, chuẩn bị cho cuộc hội nggị giao nhiệm vụ và tổ chức hiệp đồng chiến đấu lần chót vào rạng sáng hôm nay.
Logged
Trang: « 1 2 3 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM