Gửi bác Bob về 1 điểm cao mà bác đã từng chốt ở đó-điểm cao 601
:
Trích từ nguồn sau:
http://huyendakha.gov.vn/Default.aspx?status=newsdetails&idNews=216 Có một địa danh mà trong chúng ta hẳn nhiều người biết đến, đó là Dốc Đầu Lâu. Dốc Đầu Lâu là tên gọi dân gian mới có từ sau ngày xảy ra chiến sự tháng 4 năm 1972 giữa quân cách mạng và quân địch. Người Bah Nar Ở vùng này gọi địa danh đó là Kon Loong Phă, có nghĩa là dốc có nhiều cây Trắc và Điểm cao 601 là thuật ngữ quân sự gọi cứ điểm quân sự của địch trên đồi K’Rang Loong Phă.
Cho đến đầu năm 1972, điểm cao vẫn là một chốt điểm quân sự quan trọng của địch, gồm có trận địa pháo binh và xe tăng được bố trí trên hai mỏm đồi hình yên ngựa. Phía Bắc có đồn Bảo an Hà Mòn do tiểu đoàn Bảo an số 23 đóng giữ có xe thiết giáp tăng cường. Phía có Sở chỉ huy Lữ đoàn dù 3, trận địa pháo lớn, xe tăng, xe bọc thép chốt giữ. Ngoài ra còn có các trận địa pháo, đồn Bảo an của địch ở Kon Trang Klả; Bãi ủi; Bắc thị xã Kon Tum...
Với vị trí chiến lược quân sự quan trọng, chiếm được điểm cao 601 là khống chế được phần lớn thị xã Kon Tum cũng nh toàn bộ vùng Đăk Tô - Tân Cảnh. Chiếm được Điểm cao 601 là làm chủ được hoàn toàn con đường chiến lược 14, đoạn phía bắc Tây Nguyên.
Nhận rõ được tầm quan trọng của Điểm cao 601, ta quyết tâm đánh chiếm, về phía địch chúng cũng bằng mọi cách cố thủ. Trong hai ngày mồng 10 và 11 tháng 4 năm l972, với tinh thần quyết chiến, quyết thắng, ta đã thắng lớn tại Điểm cao 601. Kết quả thu được: Diệt gọn 2 chi đội thiết giáp địch, một đoàn xe hàng, phá hủy 28 xe (có 14 xe tăng, xe thiết giáp M113 và 14 xe vận tải), phá hủy 72 tấn hàng quân trang, quân dụng, diệt gọn một trung đội bảo an, đánh thiệt hại nặng 2 đại đội dù, đánh thiết hại sở chỉ huy lữ đoàn dù 23, trận địa súng cối, diệt hàng trăm tên địch, bắn rơi 2 máy bay, phá hủy 2 khẩu cối 106,7 mm, thu hơn 15 súng các loại, ta cắt đứt hoàn toàn đường 14. Cùng với bộ đội địa phương và dân quân du kích, đây là trận đánh cắt giao thông có hiệu suất cao của Trung đoàn 28 trong chiến dịch Xuân - Hè 1972 ở Tây Nguyên.
Kể từ sau ngày ký Hiệp định Pa ri (từ đầu năm 1973 đến 1975), khu vực Điểm cao 601, Dốc K’Rang Loong Phă (Dốc Đầu lâu) và toàn bộ khu vực Đăk La, Hà Mòn là vùng tranh chấp giữa ta và địch. Tại đây đã diễn ra nhiều cuộc đấu tranh chính trị gay gắt quyết liệt, có khi phải dùng cả vũ trang quân sự để giành từng tấc đất với địch: Với chủ trương đúng đắn của cấp trên cộng với trí thông minh mưu lược và lòng dũng cảm của quân và dân ta, mặc dù phải chịu nhiều gian khổ hy sinh, nhưng ta đã giữ vững được toàn bộ vùng giải phóng Đăk Tô - Tân Cảnh đến Diên Bình, Hà Mòn và kiểm soát được khu vực Đăk La góp phần giải phóng thị xã Kon Tum vào mùa xuân 1975.
Trong những năm qua, Bảo tàng tổng hợp Kon Tum đã lên danh mục di tích trên địa bàn toàn tỉnh, trong đó Điểm cao 601 là một điểm di tích lịch sử cách mạng được lãnh đạo tỉnh cũng như ngành Văn hóa rất quan tâm.Thời gian qua, Bảo tàng tỉnh đã tiến hành lập hồ sơ khoa học cho di tích lịch sử Điểm cao 601 để đề nghị xếp hạng. Mặc dù chậm trễ, nhưng đây là một việc làm thật sự có ý nghĩa. Đã hơn 30 năm sau sự kiện chiến thắng Điểm cao 601, do tác động của con người, do môi trường tự nhiên khắc nghiệt, di tích chỉ còn là dấu tích tuy vậy nó vẫn còn đầy sức thuyết phục.
Tại địa điểm trung tâm của di tích, khu vực bất khả xâm phạm được quy hoạch gần 30.000 m2 (tương đương 3 ha). Trong đó có hầm chỉ huy của địch; hầm chỉ huy của ta; giao thông hào; hàng chục hố bom và nhiều dấu tích khác... Đặc biệt, tại đỉnh Dốc Đầu lâu có một cái am thờ "Đồng sanh lạc quốc" và 4 ngôi mộ đá. Đồi K’Rang Loong Phă có một nhánh vơn ra phía đông, dáng thoai thoải nên con đường 14 vượt qua ở đoạn này. Theo như trong tài liệu cũng như lời kể của các nhân chứng lịch sử thì vị trí này là điểm giao tranh vô cùng ác liệt giữa ta và địch trong năm 1972, ngoài những thiệt hại về phương tiện chiến tranh , tại đây hàng trăm lính địch đã phải bỏ mạng.
Trên đình dốc, phía trái là khu lò gạch, phía phải có lưa thưa mấy căn nhà tạm cấp 4 của những người dân di cư tự do từ Thanh Hóa, Thái Nguyên và các tỉnh phía Bắc. Họ sống bằng nghề làm rẫy, ruộng, buôn bán như sửa xe đạp, xe máy....Nếu theo quy hoạch thì họ là những người đang sống trên vị trí của di tích.
Trở lại cái am thờ và 4 ngôi mộ đá, chúng tôi được biết rằng: Am do một người không rõ tên tuổi , trước đây thường lên đây nhặt phế liệu chiến tranh , nghe nói ông này trúng lớn vì nhặt được nhiều đồ trang sức và tiền đô-la của lính địch ông ta có vóc dáng lùn và thường đi chiếc hon đa 67 nên người dân ở đây gọi ông với biệt danh “ông hon đa 67”. vào một ngày cách đây trên 10 năm, ông ta cho xe chở gạch, cát xi măng lên cái am này và từ khi xây xong am đến nay, mọi người không ai còn gặp mặt ông ta nữa.....Cạnh am thờ là 4 ngôi mộ đá không phải mộ được xây bằng đá mà nó lược đắp kè bằng nhiều cục đã lớn nhỏ. Bà con ở đây kể rằng: Sau ngày giải phóng miền ( 1975), người dân qua lại đây nhiều hơn trước, cùng với thời gian thì nỗi sợ hãi cũng vơi đi. Lúc này những xác chết đã bị trôi giữa phần mềm, chỉ còn trơ lại đầu lâu và xương cốt. Những người qua đây, thương cảm tình đồng loại họ tự ý gom nhặt, đem lên đỉnh dốc chất thành từng đống rồi nhặt những cục đá xung quanh kè lại để khỏi bị mưa gió cuốn trôi, người không bắt gặp xương cốt thì họ cứ cắp theo vài cục đá, ngày qua ngày mộ đá cứ to dần và nghiễm nhiên đây trở thành “Gò Đống Đa” của Kon Tum.
Hình ảnh sưu tầm từ các nguồn:
Từ QL14 nhìn vào
Vào trong khu di tích