Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 07:33:04 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Trận chiến Điện Biên Phủ  (Đọc 60605 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #70 vào lúc: 15 Tháng Tư, 2008, 03:58:10 pm »


Ngày 19 tháng ba 1954


Khắp nơi, cứ từng mét một, các giao thông hào của quân tấn công gậm nhấm dần tập đoàn cứ điểm, tràn qua Dominique 1 từ hướng tây bắc và Eliane từ hướng nam vươn tới Dominique 2, vẽ một đường lưỡi liềm bên trên Isabelle vây hãm Huguette và Claudine. Hàng ngày các bức không ảnh cho thấy nhiệt tình thể hiện trên các công trình: đối phương biết rằng chiến thắng nằm ở phía đầu mũi của những cái xẻng và những cái cuốc. Những người sử dụng số cuốc xẻng đó, thử hỏi họ lấy đâu ra được tính kiên nhẫn và sức lực của những người anh hùng để giúp cho họ xây dựng một trận địa chống lại xe tăng, đại bác và máy bay của phương Tây? Người ta không ngớt nhắc đi nhắc lại với họ rằng nếu như họ đánh đổ dược chế độ mà những "ông Tây" nuôi dưỡng, mọi việc sẽ theo đó xuất hiện. Những cánh đồng được cầy bừa và gieo hạt qua biết bao lần để làm giàu cho giai cấp đại địa chủ, sẽ thuộc về họ, họ sẽ loại bỏ được những người đã bóc lột họ, con cái của họ sẽ được tới trường chứ không phải chịu cảnh nghèo khổ, cái cảnh sống cho đến lúc này truyền từ đời cha đến đời con của họ. Không phải là không có lí do mà trong bản nhật lệnh trước ngày mở màn trận đánh, tướng Võ Nguyên Giáp đã nhắc lại với đội quân nông dân kháng chiến mà ông chỉ huy rằng chiến thắng sẽ mở đường cho thắng lợi của cuộc cải cách ruộng đất. Quân đội của Việt Minh là quân đội của những người nông dân quyết lâm giành lấy ruộng đất của họ và trong nhiều năm dài, nếu cần thiết, gắn chặt với ruộng đất như với máu thịt của họ, hoà trộn với ruộng đất lúc sống cũng như lúc chết, hoà làm một với cây cối, bùn lầy và phân bón trong các ruộng lúa. Làm thế nào mà phương Tây lại đi ngoan cố nuôi dưỡng một chế độ phong kiến và một chính quyền ăn hối lộ mà không nhìn thấy việc xây dựng quyền bá chủ của mình đã bị mọi người căm ghét.

"Còn gì phản bội lại những truyền thống của chúng ta hơn nữa khi mà ở đây chúng ta không phải là những chiến sĩ giải phóng cho nhân dân, giảm nhẹ những gánh nặng cho nhân dân, nâng cao trình độ cho họ, ngược lại chúng ta lại là chỗ dựa cho những kẻ áp bức, chúng ta đã tăng gấp đôi gánh nặng và chia sẻ lợi nhuận với bọn đó, những lợi nhuận nhờ vậy càng to lớn gấp bội!...". Chính là bằng lời buộc tội này, được nhắc lại với viên chỉ huy đội quân tiễu phạt Lyautey, vừa mới đổ bộ tới cơ quan tham mưu của đạo quân chiếm đóng xứ Bắc Kỳ, vào tháng mười một năm 1894, mà vị đại diện chính phủ Pháp bên cạnh quốc vương An - Nam đã đệ đơn xin từ chức lên ngài toàn quyền Lanessan, con người quyết tâm ủng hộ đám quan lại chống lại các chính sách cải lương. Nửa thế kỷ sau đó, chẳng có gì thay đổi hoặc là gần như vậy, và nhân dân gọi là "Bảo Đại ", tờ giấy bạc một trăm đồng cần thiết để có được mỗi khi cần dù chỉ là một tờ thông hành. Ai đã có ý tưởng chấm dứt chuyện đó? Một vài nhà chức trách người Pháp được cơ quan cấp trên của mình khuyến khích một cách yếu ớt. Và Bác Hồ, mà tất cả những người nghèo khổ đều cầu mong sự nghiệp của Bác giành được thắng lợi, để cho các cô gái không còn phải đi làm tiền và những chàng trai không còn phải đi làm bồi nữa.

- Ai nghĩ tới chiếc xe kéo tay đầu tiên nhỉ?
- Người ngoại quốc giàu có, người ngoại quốc giàu có.
- Ai nghĩ tới việc nhảy xuống hồ bơi nhỉ?
- Người ngoại quốc giàu có, người ngoại quốc giàu có chăng?
- Người Trung quốc khốn khổ, người Trung quốc khốn khổ?


Bài hát dân gian của Thượng Hải đã vượt qua các đường biên giới. Chiến đấu ở Điện Biên Phủ, đó là muốn đứng chân trên mảnh đất của tổ quốc mình mà không bị lũ sen đầm, cảnh sát và binh lính của một đạo quân ngoại quốc làm nhục. Chết ở Điện Biên Phủ đó là hi sinh tính mạng của mình cho cái ông già láu lỉnh có học và biết làm thơ, giờ đây là Bác Hồ, trong lúc đó đức vua Bảo Đại đang đi săn hổ ở Đà Lạt cùng với các viên tướng Pháp. Dưới mái căn hầm bệnh viện ở đó bác sĩ Grauwin cưa cắt các cẳng chân, và mở các lồng ngực để cứu sống những con người, nỗi đau đớn mang cùng một mùi vị của máu và nước mắt như ở phía đối diện, nhưng không còn ai có thể ngăn cản các khẩu pháo của Việt Minh bắn vào các dấu hiệu Hồng thập tự, cũng như những thân hình rách nát của những binh sĩ thuộc đạo quân viễn chinh: cần phải thắng trong một trận đánh không khoan nhượng và đạo quân trong nhiều năm dài đã bị nghiền nát dưới những quả đạn pháo Mỹ và những trái bom napan, đạo quân ấy không thể nào nhẹ tay với đối thủ bởi vì số mệnh của vũ khí đã thay đổi phòng tuyến rồi.


Ngày 22 tháng ba 1954


Ở Washington, thực hiện nhiệm vụ mà chính phủ Pháp giao phó, tướng Ely đã nhận được rất nhiều mối thiện cảm từ phía đô đốc Radford, tham mưu trưởng liên quân, và các sĩ quan cấp tướng của Mỹ. Chánh văn phòng của tướng Ely là đại tá không quân Brohon, người mà sau khi học qua trường Staff College, đã sống bốn năm ở Lầu Năm Góc thường trực trong phái đoàn Pháp. Ngoài quyền lực tự nhiên, viên đại tá chánh văn phòng còn có tư thế duyên dáng và tính chính xác, những ưu thế đó, ông sử dụng trong việc nói tiếng Anh. Được sự giúp đỡ tích cực của đại tá chánh văn phòng, tướng Ely tập trung vào việc xua tan câu chuyện truyền thuyết mà niềm phấn khởi của tướng O'daniel đã tô vẽ cho Điện Biên Phủ, và thận trọng tỏ ý rằng có thể cần tới một cuộc can thiệp để cứu lấy đội quân dồn trú. Ngày hôm đó, một bức điện dài của ngài Dejean gửi cho bộ trưởng của mình cho thấy mức độ nghiêm trọng của tình hình và nhấn mạnh việc ưu tiên cho những tăng viện về không quân. Ngài Dejean chỉ biết được rằng không quân Pháp ở mẫu quốc không có máy bay ném bom hay máy bay khu trục là máy bay cánh quạt. Trái ngược với những gì mà ngài Bidault mong muốn, tướng Ely không hỏi xin một tí gì với Lầu Năm Góc và kết quả của hành động khôn khéo cao độ này vượt quá những mong đợi. Sẵn sàng đánh bại ở Bắc Kỳ những người cộng sản vốn đã không bị đè bẹp ở Triều Tiên và quét sạch quân Việt tệ hại ra khỏi Điện Biên Phủ, nơi một ngày nào đó có thể trở thành căn cứ Triều Tiên chống lại Trung Quốc, đô đốc Radford chỉ chờ có một mệnh lệnh. Một tia sáng vui mừng ác độc đã lóe lên trong đôi mắt một vài thành viên vây quanh đô đốc.

Ở Nhà Trắng, tổng thống Eisenhower nồng nhiệt tiếp kiến tướng Ely và giao cho đô đốc Radford áp dụng mọi biện pháp để giúp đỡ Navarre. Radford yêu cầu nán lại vài ngày và đưa cho ông một bảng câu hỏi viết thành văn bản và yêu cầu tướng Ely trả lời. Lúc đó đô đốc sẽ có căn cứ để đề nghị với tướng Ely một sự giúp đỡ cụ thể.

Đô đốc Radford là một con người rắn rỏi, bước đi thoải mái. Người ta đều phải nói là ông có nước da sáng sủa và mềm mại, mái tóc ngả mầu hung đỏ và đôi mắt xám, luôn luôn ướt át, đôi mắt làm giảm bớt nét cứng rắn của khuôn mặt giống như những nhân vật trong các bức tranh của một hoạ sĩ xứ Flandres. Viên tham mưu trưởng liên quân của quân đội Mỹ, vừa là một sĩ quan hải quân vừa là một sĩ quan không quân toàn năng. Mềm dẻo, không biết mệt mỏi, lạnh lùng, ông đã chỉ huy hạm đội mạnh nhất thế giới ở Thái Bình Dương. Cương vị hiện nay ông có được, không phải là do cái chất đảng viên Cộng hoà cũng như việc ông tình cờ dắt dẫn Ike1 sang Triều Tiên, vào năm 1952 và chơi ván bài bridge với nó, mà là ở cái uy lực toát ra từ con người ông cùng tính sáng suốt của các quyết định của ông. Ông áp đặt uy lực đó bằng trí tuệ cũng như bằng dáng điệu, tư thế: đó là một thủ trưởng lớn. Đối với ông, vùng Đông Nam Á giống như vùng Balkans trong cuộc Thế chiến thứ nhất và kết thúc cuộc chiến tranh Triều Tiên, ông đâm ra say mê đối với cuộc tranh chấp ở Đông Dương. Tướng Ely thấy ngạc nhiên trước sức mạnh và tính đúng đắn trong những đánh giá của ông về cuộc tranh chấp và về con người của các viên tổng chỉ huy đạo quân viễn chinh. "Các ông đã thua trong cuộc chiến tranh Đông Dương vào năm 1952, đô đốc Radford nói, khi mà tướng Salan đã không dám lấn chiếm lại Lào Kay". Ông đã xếp tướng Salan vào loại người chờ thời và nhút nhát và buộc tội Salan đã không biết cách đào luyện ra một quân đội của người Việt Nam. Radford tự nguyện coi mình là người chiến sĩ bảo vệ thế giới phương Tây. Trước tiên, đô đốc nêu ra việc cấm kị sử dụng các máy bay Packet để thả bom napan, việc này do Lầu Năm Góc quy định và dành cho Navarre toàn quyền sử dụng các máy bay được cung cấp trong khối viện trợ của Mỹ. Và bởi lẽ tổng thống đã đồng ý, tại sao người ta lại không xoá bỏ cái ổ mối ở Điện Biên Phủ nhỉ?
_______________________________________
1. Ike: Đội quân Mỹ tham gia chiến tranh Triều Tiên 1950 - 1952.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #71 vào lúc: 15 Tháng Tư, 2008, 04:05:08 pm »


23 tháng ba 1954


Trong một lá thư gửi Cogny, đại tá De Castries nêu ra một ý tưởng đúng về tình hình và về bản thân mình: ông gánh chịu trách nhiệm. Vào thời kỳ đó, liệu ai là người có khả năng vực dậy một tài sản đã tan nát đến mức ấy? Ducournau, có thể giống như trong đời thường, một võ sĩ trên võ đài, luôn luôn giữ thế thủ, nhảy loi choi xung quanh đối thủ và sẵn sàng tung ra các nắm đấm giống như ông ta đã làm ở Nà Sản. Cũng chẳng phải Ducournau, Vanuxem, hay Gilles là những người chỉ huy Điện Biên Phủ mà là người kỵ binh Christian de Castries, bị chốt chặt trong pháo đài và chôn sâu trong sở chỉ huy của mình. Ông không có sáng kiến tung ra các đòn đánh bằng việc tập trung hoả lực và phương tiện của mình. Ông để mặc cho người ta ra đòn. Đến phải nói là trong con người ông, sức bật của chiếc lò so đã gẫy.

- Như vậy đại tá De Castries có ích gì đây? Một sĩ quan cấp tướng trong phái đoàn thanh tra hỏi như vậy khi được biết việc tổ chức phối hợp phòng ngự, việc sử dụng pháo binh và các đơn vị dự bị đều được giao cho các cấp dưới của Castries.
- Ông ấy chuyển các thông báo của chúng tôi về Hà Nội, Langlais trả lời không một chút ngập ngừng và thoáng vẻ diễu cợt.

Nếu như ông ta đã đọc tập hồi ký của hầu tước De Fluquière1, Langlais hẳn có thể tìm thấy ở đó tấm gương của ngài De Calvo2, bị hoàng tử xứ Orange vây hãm ở Maastricht”.3 “Viên sĩ quan này, bản thân ông là một con người rất dũng cảm, suốt đời phục vụ trong đội kỵ binh, không có một kiến thức nào về tấn công cũng như phòng thủ các trận địa, đã tập hợp những sĩ quan chủ chốt của đội quân đồn trú, tuyên bố với họ rằng không biết tí gì liên quan đến công việc tác chiến này: ông bảo họ thỏa thuận với nhau cách thức làm thế nào để trận địa được bảo vệ là bảo cho ông biên làm thế nào cho thích hợp; rằng ông đã van xin họ hãy khẩn trương góp sức phục vụ cho lợi ích của nhà vua bởi vì mục đích duy nhất của ông là bảo vệ được trận địa, nói gọn lại, ông sẽ không bao giờ trao nó vào trong tay những kẻ thù của hoàng tử". Thử hỏi có ai là người dám kết tội ngài De Calvo vì những ý định cao quý và việc tự đánh giá một cách đúng đắn đến như vậy? Chỉ những ai chưa hề nếm mùi đau khổ của một thất bại mới có thể trách cứ ông ấy: tôi thì không thể làm như vậy. Chỉ những ai đã từng chiến đấu ở Điện Biên Phủ mới được quyền phán xử ông ấy: tôi cũng chẳng phải là người có cái quyền đó. Nhưng những cương vị mà ông đang nắm giữ kể cả nếu như ông không mong muốn gì nắm giữ những cương vị ấy, bắt buộc Castries phải sống như người anh hùng hoặc là phải từ chức. Thực tế buộc ta phải nói rằng cả hai việc đó, ông đều đã không làm.

Một người anh hùng là như thế nào? Một con người thể hiện những phẩm chất phi thường trước những hoàn cảnh nguy hiểm phi thường. Đó là chất thép đã tôi trong chiến đấu; có nghĩa là trong hoàn cảnh ghê gớm. Ai có thể tin, ngoại trừ một thói quen, người ta có thể đặt mua được chủ nghĩa anh hùng giống như trong tờ tạp chí "Hai thế giới"? Ai là người không chấp nhận rằng một vài người anh hùng và có thể gục đổ giống như những ngôi sao bóng đá trong một trận đấu tồi? Người ta có thể mệt mỏi trong quá trình thể hiện là người anh hùng và có ý định trở lại đứng trong hàng ngũ cùng với mọi người bình thường. Như vậy có thể là, kể cả khi bản thân ông ta không biết, có chuyện gì đó đã gục ngã bên trong con người Castries, nhưng không một ai có thể bác bỏ rằng ông chưa từng là một Castries trước đây, cũng như không một ai có thể trách cứ rằng ông không còn là con người ấy nữa, và điều duy nhất có thể làm là thương hại ông ấy. Nói cho cùng, ông chưa bao giờ tự coi mình là Charles de Foucaud.4 Nếu như ông chiến đấu, đó không phải để tìm đến cái chết mà là tìm cách gặt hái được những cấp bậc và vinh dự, những cái trống lắc của vinh quang, theo kiểu nói của Vigny5, với những tiếng trống đó người ta đưa binh lính tiến lên và ngã xuống.

Là con người thích mạo hiểm hơn là con người làm việc có phương pháp, và với tính cách tự do, huênh hoang tự đắc quá mức cần thiết, Castries đã không được đào luyện cho một thử thách như vậy. Nhưng mà nếu thế, nếu như ông đã không theo kịp diễn biến của các biến cố và nếu như ông không đủ khả năng chỉ huy trận phòng ngự thì người ta còn đợi gì mà không cách chức ông? Không một ai dám áp đặt cho ông một hình thức kỷ luật như vậy, mặc dầu người ta đã nghĩ đến. Tin đồn lan truyền trong một lúc nào đó rằng đại tá Sauvagnac, chỉ huy trưởng các đơn vị quân dù của xứ Bắc Kỳ đã đóng nắp các vali của mình để tới thay thế De Castries, rồi lại mở vali ra. Trong đạo quân này, chưa một ai đã đọc sách của Montluc.

Lúc sẩm tối, Tourret đi tới bệnh viện. Đứng trước chiếc bàn mổ, bác sĩ Grauwin mỉm cười rồi đột nhiên tỏ vẻ lo lắng. Người ta tìm đến anh là khi có chuyện gì đó không ổn. Có lẽ, anh nghĩ, do vì khu bệnh viện nay trở thành trung tâm của các nỗi đau lớn, cho nên đã mang hình ảnh của Chúa Jêsu trên cây thánh giá. Anh không biết rằng chính là bởi vì anh, Grauwin, hiện thân của lòng khoan dung, độ lượng.

Không cao lớn bằng Bigeard, và cũng để phanh ngực áo như Bigeard, Tourret không có dáng vẻ một tay phá phách. Trên khuôn mặt nở nang này, với hai bên má và gò má rộng phẳng, đôi mắt cháy bỏng, buồn bã hơn thường lệ và những vết nhăn mới in hằn trên vầng trán. Grauwin trao các dụng cụ cho người trợ lý, tháo đôi găng tay cao su, dẫn Tourret sang căn hầm của mình và hỏi han. Tourret kể lại rằng Langlais đã buộc tội mình do thiếu cẩn thận đã gây ra cái chết của một vài người trong đơn vị bị đạn pháo bắn trúng và đã bắt anh chịu một hình thức kỷ luật nghiêm khắc.

- Lúc này, Grauwin nói chẳng có ai làm chủ được thần kinh của mình. Câu chuyện này sẽ không đứng vững được đâu. Cậu đừng nghĩ đến nó nữa. Lại đây uống một tí gì nào.
- Có thể Langlais có lý, Tourret nói. Nếu như tôi phải chịu trách nhiệm về cái chết của những anh em trong đơn vị tôi thì tôi không thể nào sống được nữa.
- Thôi nào! Grauwin nói, bụng nghĩ đến tấm gương của Piroth. Tôi không thuyết phục cậu nữa. Cậu có muốn gặp cha Heinrich không?
- Có, Tourret nói.

Grauwin cho đi gọi cha tuyên úy và đẩy Tourret vào căn hầm của cha tuyên úy. Anh vất một chiếc dù lên mặt bàn, thắp một chiếc đèn bão, để một cuốn Kinh thánh ở chỗ nhìn thấy thật rõ.

- Cậu nói đúng, anh nói. Tớ cũng xưng tội khi mà tớ không tin ở mình nữa. Và anh bước ra đúng lúc cha Heinrich nặng nề bước xuống hầm.

"Tôi đã rình đợi lúc Tourret đi ra với nỗi lo lắng mà anh có thể đoán ra, sau này bác sĩ Grauwin đã nói với tôi như vậy. Nhưng khi nhìn thấy cậu ấy ra đi, tôi thấy an tâm. Cậu ấy hoàn toàn khác hẳn. Khuôn mặt cậu ấy rạng rỡ một niềm vui lớn. Tâm hồn cậu ta thanh thản".
____________________________________
1. Fluquière: nhà ngoại giao người Pháp (1590 - 1640). Là đại sứ ở Đức, đã củng cố khối liên minh giữa Pháp - Thụy Điển và các hoàng tử theo đạo tin lành.

2. Calvo: Chính trị gia Tây Ban Nha, thủ lĩnh đảng quân chủ (1890 - 1935).

3. Maastricht: Thành phố của Phần Lan, nằm trên sông Meuse.

4. Charles de Fourcaud: Nhà thám hiểm và truyền giáo người Pháp - (1858 - l916). Đã phát hiện ra Maroc và truyền giáo ở sa mạc Sahara.

5. Vigny: Nhà văn Pháp (1797 - 1863)
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #72 vào lúc: 15 Tháng Tư, 2008, 04:10:12 pm »

Ngày 24 tháng ba 1954


Trước 16 giờ một lúc, trong số các đơn vị tăng viện cho những tiểu đoàn quân dù, rơi xuống dưới chân đồi và hơi lùi xuống phía nam các mỏm đồi Eliane, có đại úy Alain Bizard, được bổ nhiệm về với đại úy Botella và là tiểu đoàn phó tiểu đoàn dù người Việt Nam số 5. Cái chàng trai khoẻ mạnh, vui tính, nhạy bén và có văn hoá này là một kỵ binh vừa mới rời bỏ vị tướng mà anh là sĩ quan tuỳ viên, rời bỏ vũ khí truyền thống của mình, để lần thứ ba đến với các đồng ngũ trong đạo quân viễn chinh. Luôn luôn sẵn sàng bốc lửa với những cuộc phiêu lưu mạo hiểm nhất, chính Điện Biên Phủ và các đơn vị quân dù là nơi anh lựa chọn. Botella đã rất nhanh chóng xin cho anh về với mình, nhưng căn bệnh quan liêu đã phản đối việc một sĩ quan chưa tốt nghiệp trường đào tạo quân dù được điều động nhảy dù xuống Điện Biên Phủ. Trong có bốn ngày, ở Hà Nội, Bizard đã thực tập sáu lần nhảy dù, việc này đã giúp cho anh thực hiện được ý nguyện.

Anh tới được Eliane 4 và sở chỉ huy tiểu đoàn đúng lúc chiếc Dakota của đại úy Koenig, bị trúng đạn pháo cao xạ, bốc cháy trên không trung rồi rơi xuống một ruộng lúa, nổ tung. Gặp lại người bạn Botella, Bizard cười lớn và bảo với Botella: "Này, tôi đây. Người ta sắp đưa các bạn ra khỏi đống phân này". Cha tuyên úy của cứ điểm Isabelle tự nhắc lại với mình lời cầu nguyện theo trình tự của buổi lễ trong ngày: "Xin Thượng đế hãy thương đến con, bởi lẽ con không có sức mạnh; xin chữa lành cho con, bởi lẽ bộ xương của con đã rệu rã và tâm hồn con đang cực kỳ xáo trộn".

Trong văn phòng của mình nằm ở vòng ngoài của Lầu Năm Góc, đô đốc Radford đề nghị với tướng Ely một cuộc can thiệp bằng không quân vào Điện Biên Phủ. Cởi mở đối với những ai mà ông quen biết, dưới nụ cười máy móc của cuộc tiếp đón, Radford giữ vẻ mặt và cái nhìn lạnh lùng. Mặc dầu những khung cửa sổ ở mặt trước căn phòng tiếp nhận ánh sáng của ban ngày, những tấm rèm vẫn được kéo kín và các bóng đèn nê-ông sáng lóa. Mặc dầu tấm thảm trải sàn mầu xám nhạt và những đồ đạc bằng gỗ gụ truyền thống, gian phòng rộng với nhiều mô hình tàu chiến và máy bay giống như một phòng tác chiến loại sang. Từ nơi đây, hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài, người đứng đầu các quân chủng quân đội Mỹ đánh giá các biến cố của thế giới.

Đôi mắt ướt nước nhìn vào tướng Ely để đánh giá phản ứng của ông, Radford nói rõ món quà của mình: khoảng sáu chục máy bay ném bom hạng nặng B.29, được hộ tống bởi năm chục máy bay khu trục của Hạm đội 7 Mỹ sẽ có thể nghiền nát quân Việt ở Điện Biên Phủ.

- Bắt đầu từ thời điểm nào? Tướng Ely hỏi, khuôn mặt của ông chỉ thoáng chút tươi tỉnh.
- Tôi sẽ nghiên cứu vấn đề, Radford đáp lời với thái độ tự tin của con người một khi đã có được sự lựa chọn, sẽ bám vào đó bằng bất cứ giá nào.

Tướng Ely trở về đại sứ quán Pháp và bằng một bức điện mật báo động với chủ tịch hội đồng bộ trưởng rồi chuẩn bị bay về Paris trong tiết trời mùa xuân lạnh giá và ẩm ướt. Trong những cánh rừng của hòn đảo nước Pháp, người ta nghe thấy những tiếng chim cúc cu đầu tiên. Đầu óc tướng Ely day dứt bởi những ý nghĩ càng làm cho ông thêm giống như cái bóng của Don Jean, người được thưởng Bắc đẩu bội tinh, và khiến cho nước da của ông mang cái mầu nhợt nhạt của những thảm họa đang đe dọa. Những chiếc B.29 mà đô đốc Radford vừa đề nghị với ông, đó chính là cách nói chính thức, che phủ một tấm màn trong trắng cho việc ném xuống vùng núi non Điện Biên Phủ quả bom A, quả bom mười năm về trước đã buộc nước Nhật phải quỳ gối đầu hàng. Chiến dịch này còn chưa có tên gọi và tướng Ely không biết rằng mình quay trở về Paris với một con chim kền kền đậu trên vai1 


Ngày 25 tháng ba 1954


Trong chiếc hố chiến đấu của mình, viên thiếu uý Thélot viết xong bức thư gửi cho người em trai: "Đại bác nhả đạn ít đi rất nhiều và đã lùi vào trong dãy núi, nhưng quân Việt ở ngay gần bên, trong khu lòng chảo. Từng thời gian, anh phát hiện được mấy tên qua ống nhòm. Bọn họ còn chưa sờ đến điểm tựa của bọn anh nhưng đã đến rải truyền đơn trên hàng rào thép gai. Viết thư cho anh theo hòm thư S. P.54640. Thư sẽ đến tay anh bởi lẽ đường thư tín vẫn luôn luôn hoạt động ở mọi khu vực, người ta thả dù thư tín cho bọn anh cùng với thực phẩm. Em động viên bố mẹ. Tinh thần ở đây cao chưa từng thấy. Anh thân thiết ôm hôn mọi người ". Tờ báo New York Times, trên năm cột báo cho đăng ảnh chụp các chiến binh của Điện Biên Phủ và một bài viết về đại tá De Castries "Người anh hùng của Đông Dương, người chiến binh quý tộc và xông xáo”.

Sẩm tối, Bigeard đến trình diện ở sở chỉ huy vì Castries cho gọi anh tới. Thái độ anh không vui vẻ và vẫn luôn luôn sử dụng chiếc gậy đáng sợ, anh chống gậy để bước đi. Trước khi vượt qua sông, anh nhanh chóng cởi bỏ quần áo, nhảy xuống nước dưới làn đạn pháo và tắm rửa để làm gương cho anh em trong đơn vị. ở đơn vị anh, người ta chết trong tư thế sạch sẽ, râu cạo nhẵn. Kể từ khi đứng chân ở Eliane 4, anh đã bắt buộc mọi người sử dụng chiếc xẻng và chiếc cuốc.

Trước mặt Castries, Bigeard đập gót chân, giơ tay chào một cách hơi khô khan, chiếc lưỡi trai mũ cứng sụp xuống mắt.

- Này chú Bruno, chú phải đi tìm pháo cao xạ quân Việt ở phía Tây cho tôi, Castries bảo.
- Khi nào?
- Ngày mai. Chọn lấy những gì mà chú cần, hãy chơi bản nhạc của chú đi. Chú được tự do hành động. Castries chỉ cho Bigeard thấy trên bản đồ, các ngôi làng bản Ban và bản Ong Pét, cách sở chỉ huy hai kilômét rưỡi.

Tại sao lại từ chối việc này nhỉ? Castries làm cho Bigeard thấy mến phục. Cái nhà quý tộc ưa thích thiên nhiên này, xuất thân từ một dòng dõi các thống chế của nước Pháp có thể đòi hỏi mọi việc ở tay sĩ quan ăn may là Bigeard. Castries có một cách ứng xử khi tiếp đón, khi nói năng, khi phỉnh nịnh hay chửi mắng khiến cho người ta thấy mến phục. Bigeard biết rằng Castries không phải là một thủ trưởng trực tiếp đứng ra làm gương và thúc đẩy cuộc chiến giành thắng lợi; tuy nhiên anh vẫn không thể nào không mến phục người thủ trưởng ấy. Thái độ thân thiện và tình bạn của Castries dành cho đứa con trai của một viên chức nhỏ ngành đường sắt; mái tóc, thái độ kiêu kỳ, vẻ thanh lịch của Castries dứt khoát đã chinh phục được Bigeard. Về sau, khi ở trung tâm của cuộc đối đầu đen tối nhất, Bigeard đã ngăn chặn những tiếng la ó và bắt buộc các bạn đồng ngũ dành cho Castries một thái độ kính trọng mà họ không còn cảm thấy nữa. Castries có thể cho phép mình làm mọi việc: đối với Bigeard, Castries vẫn cứ là một ông hoàng do luật trời quy định, kể cả nếu như trong một thời gian nào đó, Castries đã đánh mất câu chuyện truyền thuyết và uy tín của mình. Trong con người Castries điều hấp dẫn Bigeard đó là tính sáng tạo mà Catries truyền lại cho anh. Nói cho cùng, Bigeard không đòi hỏi gì hơn trong câu chuyện này. Đối với những ai trao lại cho anh một phần quyền lực mà họ nắm giữ, anh sẽ hi sinh tận tụy cho đến chết.

- Đồng ý, Bigeard nói. Sẽ thực hiện kế hoạch. Chỉ xin có hai ý kiến: phối hợp với những đơn vị tốt nhất để đánh một trận nghiêm chỉnh và xin cho tôi thêm thời gian để chuẩn bị trận đánh.
- Về kết quả trận đánh, ta sẽ đợi xem. Còn về thời gian, chú bắt tay vào việc ngay lập tức. Để tôi bảo mang cho chú tách cà phê.

Tôi đã trông thấy cái cối xay cà phê của sở chỉ huy. Đó là cỗ máy mà phần thân của nó hiếm thấy có và đoạn trục thì thẳng đứng, như loại cối xay xưa kia người ta chế tạo cho ngành hậu cần và các tổ chức tập thể mà hẳn phải nằm trong danh mục tài sản quy định trong các xe bếp lưu động của các đơn vị tiểu đoàn. Ngăn đựng hình cầu có thể chứa được một ki lô hạt cà phê. Chiếc cối xay cà phê ấy cũng được trưng bày cùng với chiếc bình đun cà phê bằng sắt của cơ quan tham mưu binh đoàn Gono, trong bảo tàng Điện Biên Phủ.
___________________________________
1. Chiến dịch ném bom A mà Mỹ + Pháp dự kiến được đặt lên là "Vautour" có nghĩa là "Chim kền kền". - N.D
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #73 vào lúc: 16 Tháng Tư, 2008, 05:45:01 pm »

Ngày 26 tháng ba 1954


Kể từ ngày 19 tháng ba, một đợt không khí lạnh đã đột ngột làm cho thời tiết xấu đi trên vùng đồng bằng với việc mưa phùn suốt ngày và trên vùng thượng du là màn sương mù khô khốc. Ngày hôm đó, cơn gió đông nam cải thiện thời tiết trên các căn cứ vùng đồng bằng và mang tới hơi ấm và độ ẩm. Trên xứ sở người Thái, những cuộn mây tan đi vào lúc cuối buổi sáng nhưng vẫn còn che kín các đỉnh núi và gây ra những cơn giông trong đêm. Bất chấp những điều kiện khó khăn kể từ lúc mở màn trận đánh, hơn bảy trăm năm mươi lượt máy bay chiến đấu đã ném xuống khu lòng chảo và các ngọn núi xung quanh một nghìn một trăm tấn bom. Các máy bay trinh sát đã chụp mười nghìn bức ảnh. Những chiếc Dakota đom đóm vo ve suốt cả đêm trên vùng trời tập đoàn cứ điểm. Những chiếc dù rơi xuống như mưa suốt cả ngày trên nóc các căn hầm, trên các khu nghĩa trang và dãy hàng rào dây thép gai.

Vào lúc hai giờ sáng, Bigeard triệu tập toàn bộ số sĩ quan chỉ huy trận đánh: người đồng đội trung thành của anh trong mọi lúc, mọi nơi và trong vụ việc nóng bỏng nhất, cuộc rút lui khỏi đồn Tú Lệ, đó là Tourret của đội xung kích số 8; Thomas, người sẽ thay thế Bigeard chỉ huy tiểu đoàn dù thuộc địa số 6; Giraud cán bộ dự trữ của tiểu đoàn dù ngoại quốc số 1 thân hình lực lưỡng với khuôn mặt dài cứng rắn của con người nhìn thấy trước chuyện xấu nhất và sẵn sàng đương đầu với nó; Clémençon thuộc tiểu đoàn 1 trung đoàn bộ binh ngoại quốc số 2, đơn vị được sát nhập lại; Hervouët, đại úy xe tăng, đến đây vì lễ Noel, hai cánh tay bó bột đến tận khuỷu; phi công Guérin trông gần như một xác chết do bị bệnh lị amíp, người gầy nhom trong chiếc áo khoác mầu xanh, Guérin vốn không được Langlais ưa; và cuối cùng là viên pháo thủ Vaillant.

Bigeard xác định nhiệm vụ và giải thích kế hoạch mà anh dự tính. Trong ban đêm, các sĩ quan trở về vị trí của mình, ban bố các mệnh lệnh, báo động các đơn vị thuộc quyền bước vào tư thế chiến đấu và rời khỏi các căn hầm để tiến vào vị trí xuất phát. Rạng sáng, ba cụm pháo 105, hai khẩu đại bác 155 và ba cụm súng cối 120 lần lượt bắn phá các mục tiêu, trong lúc đó các đơn vị quân dù khom lưng tiến lên đằng sau các xe tăng. Tiếp cận đối phương lúc 6 giờ 15 phút. Một trung đội trưởng thuộc tiểu đoàn dù thuộc địa số 6, trung úy Le Vigouroux, nhảy vào một khẩu đại liên cao xạ, đang được hạ thấp nòng bắn vào số quân dù. Anh ta kêu lên trong máy bộ đàm : "Tiếp cận mục tiêu !" và nhận được một viên đạn vào giữa trán. Lúc 6 giờ 30 phút, cùng với ánh sáng ban ngày, máy bay xuất hiện, nã liên thanh và ném bom. Pháo binh giã gạo vào các đợt phản kích của đối phương đang tìm cách cắt đứt đường rút lui của các đơn vị tấn công. Lần lượt từng chiếc một, những ổ đại bác 20 li và đại liên 12 li 7 bị đánh chiếm, số pháo thủ bị quét sạch và các khẩu súng bị phá huỷ bằng lựu đạn cháy. Lúc 15 giờ, lệnh rút lui được phát ra, dưới sự yểm trợ của pháo binh, máy bay và một tiểu đoàn lê dương, đúng lúc một đọt phản kích mới của đối phương được triển khai có sự yểm trợ của hỏa lực tập trung của súng cối 120 li. Năm khẩu đại bác 20 li và mười hai khẩu đại liên 12 li 7 đã bị phá hủy. Quân dù thu được hai khẩu Badôka, mười bốn trung liên, và một trăm súng trường, với cái giá phải trả là hai mươi người chết, trong đó có hai sĩ quan, xác hai sĩ quan này đượckhiêng về theo và bảy mươi thương binh trong đó có năm sĩ quan. Họ bắt được mười tù binh. Những lời khen ngợi tới tấp gửi đến Bigeard. Về phía đối phương, trận đánh đã gây ra tổn thất lớn khiến ba trăm năm mươi người chết.

Bigeard không hề có ảo tưởng: để cho một thắng lợi như vậy không chỉ là một thắng lợi ngắn ngủi, cần phải có điều kiện để cho quân sĩ có thể lấy lại hơi sức, trận đánh chính là nhờ ở họ mà có.


Ngày 29 tháng ba 1954


Mặc dầu trận bão đổ vào vùng đồng bằng từ ngày hôm qua, những chiếc Dakota vẫn cứ bay lên thả dù đạn dược và thực phẩm xuống bãi bùn của Điện Biên Phủ. Ở độ cao 6.000 pieds1 kết quả cũng kém như ở độ cao 8.000 pieds. Ở 4.000 pieds thì các gói hàng rơi được vào bên trong tập đoàn cứ điểm, nhưng các cụm pháo cao xạ gần như với tới mọi chiếc máy bay. Ngày hôm ấy, ba trong số các máy bay trở về căn cứ trong tình trạng thảm hại.

Những hào giao thông gần như vây quanh các mỏm đồi Dominique 1 và 2, Eliane 1 và 2 cũng như Huguette 7. Rõ ràng đây là nơi trận tấn công sắp tới nhằm vào. Quân Việt tiến lên trong lòng đất, tháo gỡ hàng rào dây thép gai bằng cách đẩy đi phía trước họ những con cúi bằng chiếu bên trong nhét đầy đất dụng cụ này sẽ bảo vệ họ mỗi khi có một quả mìn nổ. Từ trên mỏm núi tròn có tên núi Ảo, được biến thành pháo đài chịu đựng được mọi đòn đánh, hoả lực của các khẩu trọng liên nhằm vào các máy bay Dakota và các khẩu Badôca kiểm soát mọi vật động đậy trên Eliane 2, ngăn cách với ngọn núi này bởi một đoạn khe.

Khi trận tấn công nổ ra, Eliane và Huguette do quân dù và quân lê dương chiếm giữ có thể đứng vững. Nhưng còn Dominique, việc phòng thủ được giao phó cho binh sĩ người Algérie thì sao? Người ta đã bố trí ở bên cạnh họ tiểu đoàn 5 B.P.V.N2, nhưng Langlais biết rằng đây là một điểm yếu. Ông có ý định bố trí ở đây Tourret, người mà ông đã hoà giải, hoặc là Bigeard, nhưng còn đơn vị người Algérie thì giao phó cho ai đây? Làm thế nào thuyết phục được họ là họ phải đi chết cho nước Pháp, vốn đang mặc cả với họ về cái danh hiệu công dân nước Pháp.

Ở Paris, nơi mùa xuân đột nhiên nở rộ, Uỷ ban Chiến tranh thu hẹp họp lại để nghiên cứu các khía cạnh quân sự và chính trị của chiến dịch, giờ đây được gọi là "Chiến dịch Chim kền kền". Việc can thiệp trực tiếp của các máy bay ném bom hạng nặng của Mỹ và đội hộ tống bằng các máy bay khu trục chắc chắn sẽ dẫn tới một trận đánh trả của không quân Trung Quốc nhằm vào các căn cứ của đạo quân viễn chinh. Liệu tướng Navarre có ở trong tư thế đương đầu với sự việc này và liệu cơ sở hạ tầng của xứ Bắc Kỳ có đảm bảo trợ giúp cho những cuộc tấn công của người Mỹ hay không? Đại tá Raymond Brohon, chánh văn phòng của tướng Ely được giao nhiệm vụ đi gặp vị tổng chỉ huy cốt để mang về một câu trả lời cho vấn đề này. Không một biên bản nào được ủy ban Chiến tranh thu hẹp này soạn thảo cũng như tất cả những ai sau này tham gia vào thành phần của ủy ban cũng không có tài liệu gì. Duy nhất tướng Crespin, thư ký của ủy ban được phép ghi chép. Từ những thư tín dính dáng đến cuộc can thiệp của người Mỹ, sẽ không còn lại một dấu vết nào trong các hồ sơ mà ngài Laniel chuyển giao; trong các hồ sơ đó chỉ có những bức điện trả lời về những tài liệu bị mất tích là được lưu giữ lại trong kho tư liệu. Tuy nhiên từ tuần báo U.S. News sau này đã đánh hơi thấy vụ việc và đem ra công bố.

Tại sao lại lo sợ một cuộc can thiệp của Trung Quốc giáng trả cuộc can thiệp của Mỹ? Về mặt vật chất, mặc dầu người ta cho là như vậy, Trung Quốc giúp đỡ Việt Minh cũng chẳng hơn gì nước Mỹ chi viện cho đạo quân viễn chinh. Trung Quốc mở các trường huấn luyện cán bộ chỉ huy và nhân viên kỹ thuật cho quân đội nhân dân, huấn luyện các chiến sĩ thông tin và công binh và những người lái máy bay khu trục và máy bay ném bom ngay khi nào Trung Quốc quyết định cung cấp cho Việt Minh những căn cứ không quân. Các cụm pháo phòng không và đạn dược của Trung Quốc vượt qua đường biên giới với Việt Nam thành từng đoàn dài. Nhưng mà ngay tại chỗ, Trung Quốc không có bất kỳ một cố vấn quân sự nào có quyền quyết định, không có một pháo thủ hoặc một chuyên gia nào. Kể từ một năm nay, Trung Quốc đã làm nghiêng cán cân về phía Việt Minh duy nhất chỉ là bởi trọng lượng số vũ khí mà Trung Quốc cung cấp.

Về vấn đề liên quan đến những nhân viên kỹ thuật Trung Quốc, những lời khẳng định của ngài Foster Dules và của tướng Navarre, hoàn toàn chỉ xuất phát từ ý muốn của họ muốn giải thích một cách hợp lý hơn những thất bại của họ bằng cách gán cho chúng những nguyên nhân khách quan: có thể có một người Trung Quốc, tướng Li Chen Hoụ ở trong Bộ tham mưu của tướng Giáp, nhưng không có người Trung Quốc ở trong sở chỉ huy các sư đoàn và các trung đoàn, ở đó lòng tự ái dân tộc của Ban chấp hành Trung ương và của Quân đội nhân dân khiến cho họ không được ưa thích. Việt Minh tiến hành cuộc chiến tranh theo ý mình và chỉ do một mình làm. Nếu như Navarre thua trận ở Điện Biên Phủ thì như vậy là ông ta thua tướng Giáp chứ không phải là do vì có những người Trung Quốc.

Mỗi lần tôi đặt câu hỏi này ra với các sĩ quan của quân đội miền Bắc thì họ đều nhăn mặt tỏ vẻ bất bình: "Không thể nào chấp nhận được là đã có lúc nào đó chúng tôi lại có thể tiếp nhận những mệnh lệnh của các sĩ quan nước ngoài, dù cho đó là các sĩ quan Trung Quốc. Chúng tôi xem câu hỏi của ông là câu hỏi đáng tiếc. Không một ai ở trong quân đội nhân dân lại đã chuẩn bị nước tắm cho người Trung Quốc; không một ai lại đi bộ dắt ngựa cho họ". Về phía ông, tướng Giáp đã coi những ý kiến như vậy là câu chuyện tưởng tượng trăm phần trăm. Bởi lẽ đây không phải là câu chuyện, như người ta vẫn còn để lộ ra như vậy, ném năm trăm tấn bom xuống các vị trí phòng ngự vững chắc của Việt Minh mà là nhiều quả bom nguyên tử loại A, có mục đích tiêu diệt lực lượng vây hãm, cho nên người ta có thể lo sợ về một phản ứng quyết liệt của Trung Quốc. Ngài Dulles không phải là không biết như vậy khi mà, với giọng điệu của một mục sư cao cấp đạo Tin lành, ông đọc tại câu lạc bộ báo chí Hải Ngoại một bài diễn văn trong đó ông chuẩn bị cho dư luận nước Mỹ trước những nguy cơ nghiêm trọng. "Ít nghiêm trọng hơn những nguy cơ mà chúng ta sẽ phải đối mặt trong vài năm tới, nếu như hôm nay chúng ta không dám tỏ rõ sự cương quyết của mình".

Trở lại Sài Gòn, sau khi tham dự một trò hề trình diễn việc các sĩ quan Việt Nam3 tuyên thệ với Bảo Đại, tướng Navarre viết cho tướng Cogny một lá thư dài. Trên góc trái lá thư, ông tự tay thêm vào: "Thư riêng - tối mật ".

Lá thư phải hạ gục được tay khổng lồ Cogny. Người ta đến phải nói rằng, do cảm thấy thất bại đến gần, Navarre không chịu một mình "chìm xuồng". Dù cho chỉ là kéo theo một người, ông vẫn muốn con người đó là Cogny. Ít nhất thì trong lá thư ấy, cái đáng khen là bởi cách nói rõ ràng. Navarre viết cho Cogny: "Đừng mong đợi bất kỳ phương tiện bổ sung nào do tôi cung cấp". Và cùng một lúc ông tìm cách tự bào chữa. Cái khả năng mà Việt Minh đã có được để đẩy Cogny vào tình thế khó khăn với những lực lượng tương đối yếu hơn so sánh với lực lượng mà Cogny lẽ ra đã có thể sử dụng, nếu như ông ta thực hiện kế hoạch ban đầu của mình. Khả năng đó của Việt Minh để lộ ra cho Navarre thấy vai trò chủ yếu của Điện Biên Phủ: khi cầm chân ở đó các tiểu đoàn của đối phương, Navarre đã tránh cho Cogny, nếu như Cogny đồng ý coi những mối lo ngại hiện nay của mình là có cơ sở, thoát khỏi cái mà ông ta gọi là một thảm họa đích thực. Sự thực, với một sự khôn khéo đáng sợ, Navarre đơn giản hóa và quên mất những lực lượng mà ông đã lấy đi của xứ Bắc Kỳ, nhưng nhất là ông giả bộ nhìn vụ việc trên bình diện số lượng và không chịu tính đến những thuận lợi, xét về mặt chiến thuật, của một trận đánh ở vùng đồng bằng được yểm trợ bởi không quân ở gần bên cạnh.

Những lời trách cứ hợp lý và không hợp lý, những câu nói bóng gió ác độc, những lời buộc tội gay gắt, những ý kiến chỉ trích nhỏ nhặt mà người ta có thể trút lên đầu một viên tiểu đoàn trưởng kém cỏi, mọi thứ hoà trộn trong câu chuyện này. Những công thức hành văn quân sự chỉ có thể chấp nhận được nếu như chúng dồn dập nhiều hơn nữa. Navarre đột nhiên vút mạnh chiếc roi ngựa và quất vào mặt Cogny. Nhưng ông quất cú roi đó từ xa, sau khi đã lẳng lặng tích luỹ những luồng sấm sét của một cơn giông bão nỗi giận dữ, hiện chưa nổ ra ở Hà Nội.
____________________________________
1. pied: Đơn vị đo độ dài cổ của Pháp, khoảng 0,33m. - N.D
2. B.P.V.N viết tắt có nghĩa tiểu đoàn dù người Việt Nam. - N.D
3. Trong quân đội ngụy theo Pháp.
« Sửa lần cuối: 16 Tháng Tư, 2008, 05:53:09 pm gửi bởi chuongxedap » Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #74 vào lúc: 16 Tháng Tư, 2008, 06:33:08 pm »


Ngày 30 tháng ba 1954


Suốt cả ngày; những trận mưa như trút nước nhấn chìm Điện Biên Phủ. Lúc 18 giờ 30 phút, trong lúc hai đại đội của B.E.P1 số 1, thay thế cho đơn vị lính Ma rốc ở đồi Eliane 2, thì một trận hỏa lực pháo binh dữ dội, đổ ập xuống các mỏm đồi của Eliane, Dominique và Huguette 7, cùng lúc đó các cụm pháo của trung tâm phòng ngự chủ yếu và cứ điểm Isabelle bị bắn phá. Vào thời kỳ này trong năm, lúc này trời còn sáng.

Mười lăm phút sau, cuộc tấn công của các sư đoàn 312 và 316 nổ ra trên các hướng, ngay lập tức Botella báo cáo qua máy bộ đàm: "Lính Ma rốc của Eliane lùa về chỗ tôi". Lát sau, Bigeard gọi cho Langlais: "Chàng trai Pierre của Bruno, chàng trai Pierre của Bruno, đội quân đồn trú của Dominique 2 đồng loạt rút lui. Tôi trông thấy họ từ trên đồi chạy xuống bờ sông, tan tác... ”. Đó là đơn vị lính Algérie. Giận đến điên người, Bigeard bất lực chứng kiến cảnh tan vỡ. "Mọi người trong đơn vị tôi bình tĩnh, sau này anh nói vậy, và chán chường nhìn quang cảnh đó". Eliane 2 bị chọc thủng; thiếu tá Nicolas không hành động nhưng đã mất liên lạc với Langlais, mật danh là chàng trai Pierre. Langlais muốn cho pháo binh nện xuống mỏm đồi Eliane 2 nhưng Bigeard thì yêu cầu hãy nán đợi. Lúc 20 giờ, Nicolas, khẩu tiểu liên cầm trong tay, rút về phần phía sau của điểm tựa. Dominique không thấy trả lời nữa. Cứ điểm bị tràn ngập, đơn vị lính Marốc không chống cự nữa. Riêng đại đội của Đặng Võ đã bắt sống được bốn mươi bảy người nhưng máy bay B.26 thả bom, nã liên thanh gây thiệt hại nặng. Những con bò dành cho lò mổ, như cách nói của đại úy Hiền chăng? Nói đúng hơn là những con bò tót, húc đầu man rợ trong đêm tối, đêm hôm đó, mười chín con đã phóng những chùm bom napan xuống các mỏm đồi.

Thấy rằng không thể phản kích trong ban đêm, Langlais quyết định sẽ tung ra đòn đánh trả lúc tảng sáng cùng với Bigeard và Tourret. Rồi sau đó, nhớ lại kinh nghiệm của Béatrice và Gabrielle, ông quyết định tung ra lần lượt năm đại đội thuộc B.E.P số 1 và bán lữ đoàn số 13 đang ở mặt phía tây lên đồi Eliane 2. Lúc 23 giờ, quân Pháp đến được cách đại đội Đặng Võ đang bị đạn pháo từ Isabelle cầm chân ở đó khoảng hai chục mét bắn tới, ba người trong đơn vị này đã tìm cách cắm lá cờ đỏ sao vàng lên đỉnh đồi nhưng vô hiệu. Thiếu uý Thélot bị trọng thương. Giống như tất cả những bức điện "Sức khoẻ tốt, tinh thần vững, gửi những cái hôn" mà các bạn đồng ngũ của anh ta chịu trách nhiệm đánh đi từ Hà Nội gửi cho gia đình các chiến binh hoặc còn sống hay đã chết, khi lá thư mà Thélot viết xong ngày 25 tháng ba đến tay người em trai, người ta có thể tưởng là anh còn sống. Hai hôm trước, đại đội của Thélot đã đến Dominique 2 thay thế đơn vị người Thái mà Langlais không còn tin tưởng nữa.

Năm đại đội của Langlais đã chiếm lại được Eliane 2. Khi các đội viên lê dương tiến ra chiếm lĩnh vị trí xuất phát tiến công, Bigeard đã nghe thấy họ hát những bài ca chiến đấu của người Đức, tiếng hát từ dưới khu lòng chảo, giữa màn đêm tối, vẳng lên tới chỗ anh ở trên cao. Bảy chiếc xe tăng của đại úy Hervouët đang tác chiến trên con đường tỉnh lộ 41, hạ gục những tốp quân đối phương từ trên núi tiến xuống khu trung tâm. Trong khu vực Dominique 3, nằm ở phía đông của một nhánh sông cụt, cụm pháo số 4 thuộc trung đoàn pháo binh thuộc địa số 4 do trung úy Brunbrouck chỉ huy, bị chế áp dưới hoả lực và có nguy cơ bị bao vây, buộc phải hạ nòng pháo bắn trực tiếp. Bất chấp tình thế nguy khốn và có một khẩu pháo bị loại khỏi vòng chiến đấu, trung úy Brunbrouck, vốn đã chuẩn bị phá hủy các khẩu pháo của mình nếu bị tràn qua, vẫn bám giữ lấy trận địa và các khẩu 105, anh kêu gọi sự chi viện của hỏa lực các điểm tựa ở bên cạnh và của hai khẩu 12 li 7 bốn nòng mà Langlais đã lấy từ sân bay ra để cho họ được tham chiến, bố trí trên phía tả ngạn dòng sông, bao quát toàn bộ mặt phía nam của Eliane 2.

Những bức điện chấn động trên bàn của tướng Navarre ở Sài Gòn, báo tin về thảm họa mới. Navarre yêu cầu chuẩn bị máy bay cho ông ra Hà Nội. Những làn sóng của tình hình bi quan này truyền tới Paris vào lúc cuối buổi chiều.

Để đáp ứng những yêu cầu của Langlais, Cogny đòi Navarre cung cấp thêm các phương tiện bổ sung: một trăm mười tám chiếc Dakota để hàng ngày trút khoảng 295 tấn hàng. Không quân đã đạt tới mức trần các khả năng của mình với 175 tấn. "Số phận của trận đánh tuỳ thuộc chủ yếu vào việc này". - Cogny nói thêm. Trả lời viên phó tướng phụ trách tác chiến hỏi ông quyết định theo hướng nào, Navarre bảo:

- Tối nay, chúng ta sẽ xem xét chuyện này tại chỗ.
______________________________________
1. B.E.P: Viết tắt có nghĩa tiểu đoàn dù ngoại quốc. - N.D
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #75 vào lúc: 16 Tháng Tư, 2008, 06:41:15 pm »

Ngày 31 tháng ba 1954


Tướng Navarre đến Hà Nội lúc 1 giờ 15 phút sáng, trong lúc những chiếc Dakota đang tiếp tục thả dù các đơn vị tăng viện trên bầu trời tập đoàn cứ điểm. Viên bác sĩ của đội giải phẫu lưu động số 4 rơi xuống ngồi xoạc hai cẳng trên mũi một chiếc xe tải. Ở sân bay, đại tá Bastiani báo cáo rằng sếp của mình có lời xin lỗi vì rất mệt mỏi, Cogny đã buộc phải đi ngủ. Navarre về sở chỉ huy của mình, ở đó ông nhận được những báo cáo của đêm qua.

Vào khoảng 4 giờ sáng, Navarre cho gọi Cogny. Sĩ quan tuỳ tùng trả lời là mình không có quyền đánh thức Cogny dậy. Cùng với Bastiani, Navarre soạn thảo một bản chỉ lệnh mới, trong đó ông đánh giá rằng cần phải xem xét đến tình huống nghiêm trọng nhất và xác định rõ cách ứng xử cần có của đại tá De Castries. Trung tâm phòng ngự chủ yếu và cứ điểm Isabelle sẽ phải được giữ vững đến cùng. Người ta động viên tinh thần của đội quân đồn trú bằng ý tưởng là họ bảo vệ danh dự của nước Pháp và nước Việt Nam và rằng họ đã cầm chân được khối chủ lực của đối phương. Toàn bộ số vũ khí và đồ tiếp tế sẽ được phá huỷ không để rơi vào trong tay đối phương. Một tiểu đoàn quân dù đã được chỉ định, tiểu đoàn II/ R.C.P số 1 và một cụm pháo 75 không giật sẽ là những đơn vị tăng viện duy nhất mà tập đoàn cứ điểm nhận được, nếu như có khả năng giành được trận thắng.

Tảng sáng, lẫn lộn trong đám tử thi của quân lê dương và quân dù, hàng trăm xác chết của quân Việt nằm gục trên các sườn đồi dốc xuống dòng sông và trong các hố sâu có đặt mìn ven con đường dọc theo dòng sông. Trung úy Brunbrouck thọc hai bàn tay vào túi quần và mỉm cười; anh gầy hơn mọi ngày, những chiến thắng làm rạng rỡ bộ mặt dài của anh. Anh mới hai mươi bảy tuổi. Một trung đội thuộc đại đội của đại úy Capeyron đã được chỉ định thay thế đơn vị lính Marốc ở Eliane 2 để đơn vị này quay trở về Claudine, quân số chỉ còn lại mười hai người.

Trên đồi Huguette 7, Bigeard không hề dao động. Quân Việt do không thể tổ chức xung phong vào sát vị trí của Bigeard vì đã bị các súng trung liên, súng cối và lựu đạn băm nát nhưng dù sao họ cũng đã thọc được vào điểm tựa và những đoạn chiến hào mới do họ đào đã tham gia vào hệ thống phòng ngự của họ. Do vì người ta từ chối tăng viện cho anh những gì mà anh yêu cầu, Bigeard thay đổi cách bố trí các trung đội và để giữ được vững hơn phần còn lại, anh cho đơn vị đặt mìn rồi rút ra khỏi đầu mỏm phía bắc của trận địa hình tam giác mà anh chiếm giữ.

Lúc 7 giờ sáng Navarre gọi Cogny. 8 giờ kém 15 phút, Cogny có mặt.
- Tình hình thế nào? - Navarre hỏi.

Cogny trình bày với ông tình hình cho tới lúc nửa đêm qua.
- "Thế nào, tướng Navarre kể lại với tôi như vậy, tôi đã nổi giận. Tôi mắng nhiếc ông ta. Và về phía ông ta, trước mặt tôi, ông ta nói hệt những gì mà ông ta đã nói với những người khác trong thời gian qua”.

Trung tá Langlais bắt đầu bị khàn tiếng. Suốt đêm, ông đã gọi các tiểu đoàn trưởng của mình qua ông nói: Dédé, đó là Botella; Bruno là Bigeard; Pierrot là Tourret - người mà ông vẫn còn cảm thấy hối hận về cách đối xử của mình và ông là chàng trai Pierre. Đôi khi, để chính thức hóa các mệnh lệnh, ông hát đoạn điệp khúc của bài hát mà ông thường gào to trong những dịp lễ tết.

Đừng giận, em Marie, em xinh đẹp
Đừng giận, em Marie, anh sẽ lại tới...

Ông cầu cứu đại úy Hervouët và các xe tăng: "Yvon của chàng trai Pierre, đang cưỡi trên những con bò rừng, hãy phi nước đại trên con đường của Him Lam, nhả đạn và nghiền nát tất cả thứ gì còn lại!". Căng thẳng, dễ dàng có những cơn giận dữ đột biến và những giây phút tình cảm bất thình lình, ông cảm thấy được xoa dịu bởi cuộc phản kích của Bigeard sắp khởi sự nhằm vào Eliane 1, của Tourret vào Dominique 2. Tiếng đạn pháo của xe tăng đã nổ đanh trong thung lũng nhưng những trận đánh trong đêm đã phải trả giá một nghìn năm trăm người và tiểu đoàn 3 của trung đoàn 3 ngoại quốc ở Isabelle nhận được lệnh bắt liên lạc với Eliane, mặc dầu có ba xe tăng yểm trợ đã không sao vượt qua được bản Noọng Nhai, ở đó trung đoàn 57 đã dựng lại các rào chắn. Tiểu đoàn 3 ấy trở lại phòng tuyến của mình với năm mươi thương binh và tất cả số xe tăng đều dính đạn; mười lăm quân lê dương mất tích. Langlais khẩn cấp yêu cầu Hà Nội thả xuống một binh đoàn quân dù, Hà Nội đã nói: “Nếu như các anh giữ vững trước cuộc tấn công lớn sắp tới, một binh đoàn gồm hai hay ba tiểu đoàn ngay lập tức sẽ đến tăng viện...". Khi Langlais đặt ống nói xuống, Séguins Pazzis dìu ông về giường nằm và ông ngã vật ra đó.

- Anh nghỉ đi, Séguins Pazzis bảo. Thế là thắng rồi!

Ngày hôm đó, giữa Navarre và Cogny, cây đuốc lửa công khai bốc cháy. Tin tức từ tập đoàn cứ điểm truyền về lại đặt các cơ quan tham mưu đứng trước một thực tế bi thảm. Thảm họa sẽ cần có những người chịu trách nhiệm. Người ta không còn nương tay nữa. Điều gì mà cho đến lúc này người ta không dám nói ra vì những lý do ngoại giao và phép lịch sự, giờ đây bùng nổ công khai. Tôn ti trật tự đổ vỡ.

Navarre không ngủ và thể chất của ông chịu đựng những tin tức hôm trước khá hơn thể chất của Cogny. Nếu như ông bị thảm họa sắp diễn ra hạ gục thì đó là sự gục ngã trong niềm kiêu hãnh; với Cogny thì đó là vấn đề của máu thịt. Navarre, người ta hiểu ông rất ít và người ta không yêu quý ông cho lắm. Nếu như ông ra đi, ông sẽ chỉ đánh mất một khoản cược cho ván bài poker và sẽ quay về với bóng tối, nơi từ đó ông đã bước ra, quay về những căn phòng được bọc kín ấm áp và với những nhận xét siêu hình. Cogny sẽ không bao giờ còn có thể nhìn thẳng vào mặt những người đã buộc cho ông một thất bại mà ông tin chắc thủ phạm là Navarre, là sự không hiểu biết xứ sở này, là các cố vấn vây quanh ông ta, là chiến lược cao siêu và vô bổ của ông ta được nhào nặn trong các phòng thí nghiệm với các nhà lý thuyết chỉ giỏi hút thuốc. Dù cho câu chuyện được thua trong đêm hôm đó có quan trọng đến đâu, thì việc Navarre quở trách cấp dưới của mình là đã không nắm được rằng Bigeard gần như bị chôn vùi trên đồi Eliane 4 lúc tảng sáng và rằng trên đồi Huguette 7, phần trận địa bị quân Việt đánh chiếm trong đêm đã giành lại được hoàn toàn, đó là sai lầm.

Cogny đã phạm phải những sai lầm nghiêm trọng mà ông tự thú nhận với mình chuyện đó. Ông đã không đánh hơi được những mối nguy hiểm của một cuộc phiêu lưu vào một vùng đất mà ông ít am hiểu bằng vùng đồng bằng, ông đã có ảo tưởng về những hoạt động của kỵ binh mà ông dự định, ông đã không đánh giá đúng mức những khả năng logíc của tướng Giáp và nhất là ông đã không tuyên bố rõ ràng để phản đối cuộc phiêu lưu Điện Biên Phủ ngay một khi cuộc phiêu lưu ấy để lộ ra những rủi ro chênh lệch quá nhiều so với những cơ may. Bị hoa mắt vì những thắng lợi mà ông giành được ở gần Hà Nội, ông đã không đề phòng những nguy hiểm của cuộc phiêu lưu đó. Bị phân tán giữa những mạo hiểm và những nét hấp dẫn của chiến dịch, ông đã không biết cách quyết định, dù cho chỉ là đối với chính bản thân, thái độ cần phải áp dụng. Bị rơi vào ván bài, ông đã không biết tháo gỡ chiếc bẫy đúng lúc và đã không đòi hỏi việc rút ra khỏi Điện Biên Phủ.

Lầm lẫn duy nhất mà ông tự cảm thấy là thủ phạm, đó là đã tự lừa dối mình, giống như những người khác về pháo binh của đối phương và đã tin là đại tá De Castries là con người đáp ứng được yêu cầu tình thế. Sự nhu nhược duy nhất của ông là đã không cách chức De Castries và bản thân mình không quay trở lại Điện Biên Phủ. Còn về việc ông từ chối ngày 4 tháng 3, những tiểu đoàn mà Navarre giao cho ông trong lúc không quân đã cố gắng đến mức gẫy cánh, Navarre lại còn buộc tội ông không có khả năng hoàn thành các nhiệm vụ nếu như ông chấp nhận. Cogny sẽ hành động khác hẳn nếu như gánh nặng chỉ đạo trận đánh được đặt hoàn toàn lên hai vai ông.

Điều đã chia rẽ dữ dội Cogny với Navarre, đó là Navarre vẫn còn tính đến Atlante để cứu vãn Điện Biên Phủ, trong khi Cogny đánh giá Atlante như một vực thẳm đã nuốt hết những lực lượng dự bị của chính ông. Vả lại, có bao giờ Cogny lại có chuyện quyết định? Quan điểm của ông về những hành động nghi binh cần tìm ra để ngăn chặn việc bao vây khu lòng chảo có lẽ là chậm trễ hoặc không có hiệu quả. Chúng xuất phát từ cảm giác cho rằng một cuộc tấn công vẫn cứ là nguy hiểm và rằng cần phải phá vỡ nó. Dù cho mới nhìn thoáng qua lúc đầu, luận đề của Cogny có phức tạp đến đâu thì nó cũng không đến nỗi phải gánh chịu những nét khinh khi mà Navarre giành cho nó. Thậm chí lúc này, cũng còn chưa mất một tí gì nếu như người ta ăn miếng trả miếng với tướng Giáp. Những ngọn đồi của Dominique 2 và Eliane sẽ được chiếm lại nếu như Langlais có thể ném ra những đơn vị sung sức tham chiến. Kể cả đối với việc này, Navarre cũng trả lời là "Không". Ông chỉ bằng lòng cho một tiểu đoàn sẽ đến quá muộn và giữ lại những tiểu đoàn khác cho chiến dịch Atlante, và dòng mực chảy ra từ chiếc bút máy của ông để động viên tinh thần của Castries vẫn cứ lạnh lùng. Buổi sáng hôm đó, lại vẫn là Cogny không biết hết mọi chuyện.

Những kỷ niệm lẫn lộn cả. Phải chăng vào lúc rạng sáng hôm đó hay là ngày hôm sau nữa mà những từ gay gắt nhất được trao đổi giữa hai viên tướng? Cogny bị Navarre quát tháo ngay từ lúc vừa thức dậy chăng? Việc đó hẳn sẽ làm cho Cogny bị đau đớn. Buổi sáng hôm đó, dù cho có căng thẳng đến đâu, Navarre có vẻ như không đến nỗi quá lo lắng trước những tin xấu của tập đoàn cứ điểm, hết sức phật ý vì một việc không thành công có tính cục bộ, vốn chỉ có ý nghĩa tương đối của một biến cố, ông vẫn quyết tâm theo đuổi kế hoạch của mình, trong đó Điện Biên Phủ chỉ giữ một vị trí thứ yếu Hai viên tướng cùng nhau xem lại bản chỉ lệnh mà Navarre soạn thảo. Cogny đề nghị một hành động xuất phát từ vùng đồng bằng hay từ nước Lào.

- Đồng bằng, không có việc gì phải làm, Navarre trả lời. - Đối với nước Lào, anh nghiên cứu đi và nói lại với tôi sau.

Bất chấp những cơn giông bám lấy các ngọn núi và phủ kín các thung lũng, máy bay vẫn yểm trợ cho tập đoàn cứ điểm. Một chiếc Dakota bị bắn rơi và phi hành đoàn bị chết. Vào lúc 9 giờ 30 phút một chiếc Heldiver, để tới được Điện Biên Phủ, đã từng bay theo hành lang khép kín của con sông Nậm Cố và con sông Nậm Rốm, bay sát trên đầu cứ điểm Beatrice; tại đó một cụm pháo phòng không bắn vỗ mặt và hạ gục nó; viên phi công của chiếc máy bay đó là trung úy hải quân Andrieux, người nhỏ nhắn, gầy gò và hiền lành, có khuôn mặt dài như lưỡi dao và đôi mắt long lanh, người đã từng lái những máy bay khu trục của hạm đội Arromanches nhiều lần cho đến khi hạm đội bị giải thể.

Giữa trưa, tiếng đạn pháo đánh thức Langlais dậy. Ông hỏi xem các máy bay thả những đơn vị tăng viện, được gọi là những chiếc Banjos có đến không? Người ta không thấy gì cả. Trên tất cả các ngọn đồi, quân dù chờ đợi những chiếc Dakota sắp thả các bạn đồng ngũ xuống.

- Họ làm cái đ... gì ở Hà Nội vậy?

Dần dần tiếng kêu ấy trở thành một tiếng chửi rủa cửa miệng. Các trận phản kích không thể phát triển được. Tourret chiếm lại được Dominique 2 lúc 14 giờ 30 phút, ở đó đại úy Pichelin bị giết chết và rồi đơn vị lại bị đẩy lùi. Trên đồi Eliane 1 , Bigeard giữ vững được đến tận đêm. Lúc đó, Langlais bèn quyết định hạ lệnh rút lui cho Dominique 5 và cho các đơn vị quân dù của mình, đã tổn thất quá nhiều, không thể chống cự được nữa. Trung úy Brunbrouck lần lượt cho cụm pháo và xe chở đạn dược của mình từng khẩu một vượt qua sông và bố trí trên cứ điểm Claudine.

Eliane 1 và Dominique 1 và 2 đã bị mất. Dominique 2, đó là vị trí chủ yếu của hệ thống phòng ngự đã sụp đổ: kể từ khi Beatrice chìm tàu, cứ điểm ấy ngăn chặn hướng đông bắc. Từ lúc đó, quân Việt có thể tự do luồn vào khu lòng chảo, vượt qua sông Nậm Rốm, tấn công vỗ mặt các điểm tựa bảo vệ trận địa trung tâm và kẹp lấy chướng ngại vật núi đá cuối cùng của Eliane 4. Tính từ Dominique 2, vị trí khống chế toàn bộ khu lòng chảo, vào đến trái tim của tập đoàn cứ điểm chỉ cách có một nghìn hai trăm mét.

Lúc 19 giờ, Langlais để cho Bigeard được quyết định tùy theo tình hình.

- Nếu như không thể giữ được bờ phía đông con sông thì anh cho rút sang phía hữu ngạn.
- Cho đến lúc nào tôi vẫn còn một người sống sót, thì tôi vẫn không rời bỏ Eliane 4, Bigeard trả lời, nếu không Điện Biên Phủ đi tong...

Ở Washington, các thượng nghị sĩ và hạ nghị sĩ đặt ra mấy câu hỏi cho đô đốc Radford.

- Không quân Mỹ liệu có thể cứu vãn được Điện Biên Phủ không?

Radford (R): - Đã quá muộn.

- Một cuộc tập kích liệu có thể kéo theo việc tham chiến của toàn bộ các lực lượng Hoa Kỳ kể cả bộ binh không?

R: - Có thể.

- Các tham mưu trưởng quân chủng liệu có kiến nghị quốc hội ra quyết nghị khẩn cấp trao quyền cho tổng thống không?

R: - Họ không xem xét vấn đề này.

Lúc đó thủ lĩnh các nhóm nghị sĩ bèn đề nghị một hành động chung và ngài Foster Dulles tán thành đề nghị đó. Nhưng trước lời đề nghị có một quyết nghị của quốc hội cho phép tổng thống được sử dụng không quân, tất cả các thủ lĩnh có mặt đối với họ người ta không dám nhắc đến những quả bom A, đều trả lời bằng câu "không " phũ phàng. Hoảng sợ trước những ý kiến của ngài Foster Dulles và của đô đốc Radford. Các thủ lĩnh coi việc can thiệp sẽ là một hành động chiến tranh thực sự. Tổng thống Eisenhower tìm cách xoa dịu cảm giác đó bằng một bản tuyên bố mơ hồ và rối rắm.

Ở Mátxcơva, ngài Alain Savary, mệt mỏi vì chờ đợi một dấu hiệu từ phía Chủ tịch Hồ Chí Minh để móc nối các cuộc thương lượng, đã tìm đường quay lại Paris. Tin tức lộ ra cho ngài Savary hiểu rằng nhiệm vụ của ông đã được bắt tay vào quá muộn và rằng mọi việc được quyết định ở Điện Biên Phủ.

Trong những đường hầm tới khu bệnh viện, chen chúc bầy đàn đáng thương những binh lính Algérie và Marốc, những người đã không chịu nổi cú sốc ở Eliane và Dominique. Họ chờ đợi, lả đi trong vũng bùn. Grauwin mà người ta báo cho biết là đám người ấy tới, bước ra trong giây lát.

- Ngài thiếu tá, một trong số họ nói, thiếu tá là bố đẻ của chúng tôi. Chúng tôi đến để phục vụ thiếu tá, xin thiếu tá lấy chúng tôi làm lao công hay y tá. Vì sao vậy? Vợ con chúng tôi cần có chúng tôi ở quê nhà.

Grauwin lịch sự gửi trả họ về các đơn vị của họ. Nhưng mà lúc này các đơn vị của họ ở đâu? Phần lớn các sĩ quan của họ đã bị loại khỏi chiến đấu, những người lính Bắc Phi hẳn là sẽ tìm đến các nẻo bờ sông mấp mô những người lính Việt Nam mà Botella đã đuổi đi như những con chó sợ sệt và những người lính Thái bị tước vũ khí, tất cả số lính này đều chui rúc dưới những chiếc hố và ban đêm mò ra đi cướp bóc.

Grauwin, quay trở lại với dụng cụ đồ nghề của mình, bước qua những thân hình người được người ta đẩy tới bàn mổ, đột nhiên anh nghe có tiếng khóc nức nở; đó làGeneviève de Galard, đứng tựa lưng vào vách hầm, đang khóc. Bị tắc nghẽn ở lại đây từ ba ngày hôm nay cùng với phi hành đoàn, cô tiếp viên hàng không này vốn đã dũng cảm quay trở lại Điện Biên Phủ, nay không còn biết làm thế nào để giúp đỡ các thày thuốc nữa. Các trạm phẫu lưu động đầy ứ thương binh và người chết; nỗi đau đớn đã trở thành món ăn hàng ngày, trở thành thứ nước bẩn mà người ta uống, bầu không khí nồng nặc mà người ta hít thở.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #76 vào lúc: 16 Tháng Tư, 2008, 06:45:20 pm »


Ngày 1 tháng tư 1954


Cogny sững sờ cầm lá thư nhục mạ do Navarre gửi đi từ Sài Gòn ngày 29 tháng 3 và chỉ đến với mình theo con đường công văn. Tức điên người, Cogny bỏ nhiều giờ liền để soạn thảo một bức thư trả lời mà ông sẽ cho mang đi, rồi sau đó đột nhiên yêu cầu có cuộc hội kiến mà Navarre đồng ý cho gặp vào ngày hôm sau.

Điện Biên Phủ giờ đây ra sao, ở đó Bigeard bám lấy Eliane, ở đó Grauwin đặt các thương binh nằm trong vũng bùn, ở đó Langlais, đầu để trần, ngóng đợi những chiếc Banjos thả dù hai tiểu đoàn mà ông ta đã yêu cầu! Lúc 4 giờ sáng, người ta đã huỷ bỏ việc đánh chiếm lại Eliane 2, một phần đã bỏ mặc cho quân Việt. Lúc 9 giờ, Langlais tung ra một cách vô vọng trận phản kích thứ năm và hoả lực bắn thẳng của các vũ khí tự động đã ngăn chặn việc thu gom một phần lớn các bọc hàng được thả xuống. Một chiếc Dakota bị bắn hạ. Được thay thế bởi một đại đội của tiểu đoàn I/ R.E.I1 2, trên cứ điểm Huguette 7, đại úy Bizard bước xuống Huguette 1, ở đó đến lượt mình, anh thay thế cho một đại đội lính Thái mà Langlais đã cho tước vũ khí, bởi lẽ những lính Thái cuối cùng phải chống giữ điểm tựa FranÇoise đã bỏ chạy và điểm tựa đã bị mất mà không có giao chiến.

Tuy nhiên, những người Thái ấy, nếu như có những con người vững vàng chỉ huy, họ sẽ đứng vững. Tiểu đoàn số 2 của họ, bảo vệ cây cầu và đoạn đường nối giữa Eliane và Dominique chưa bao giờ dao động bởi vì người chỉ huy và tất cả cán bộ khung của họ đều gương mẫu, trong cái đêm mà binh lính Algérie ở Dominique bỏ trốn, họ không hề nhúc nhích. Dưới những trận mưa nhấn chìm khu lòng chảo, họ tỏ ra kiên cường. Trong số các sĩ quan của họ, Điện Biên Phủ đã biến một tay kỵ binh thanh mảnh tóc vàng, xưa kia ăn mặc chải chuốt, thành một người dân đảo Corse có bộ râu hung đỏ, một băng vải dù quấn quanh trán, cánh tay buộc chéo qua vai, sẵn sàng quay nòng súng liên thanh bắn vào những ai dao động: đó là trung úy Guy de la Malène.

Cogny chuyển một tờ trình để chứng minh với Navarre rằng việc thả dù và yểm trợ cho một cuộc hành binh xuất phát từ Lào là có khả năng, nếu như có 18 chiếc Dakota ở Lào và đủ những chiếc dù.

Lúc 16 giờ 30, Cogny điện bằng sóng thông tin của riêng mình chuyển cho đại tá De Castries bản chỉ lệnh của tướng Navarre, trong đó Cogny đã sửa chữa đôi chỗ gay gắt. Castries và Langlais biết rằng kể từ lúc này họ không còn hi vọng gì to lớn từ Hà Nội nữa.

Lúc 18 giờ, tuyến chiến đấu trên đồi Eliane 2, ở đó chiếc xe tăng Bazeilles bị phá huỷ, đã chuyển lên đỉnh đồi. Ban đêm, bắt đầu cuộc thả dù tiểu đoàn 2 thuộc R.C.P2 số 1. Cuộc thả dù kéo dài đến ngày 4 tháng tư, bởi vì bãi tiếp nhận thu hẹp vào phần phía nam đường băng, và khu vực bay của những chiếc Dakota buộc phải bay thấp để tránh đạn cao xạ cho nên hết sức chật chội. Mười hai chiếc Banjos, mỗi đêm, cố gắng lắm chỉ thả được quân số một đại đội.

Một chiếc B.26, do trung úy Beglin lái không thấy quay về căn cứ. Ban đêm, Huguette 7 bị một trận xung phong của quân Việt tràn qua, bị nuốt chửng cùng với toàn bộ đơn vị chống giữ.

Đến Sài Gòn ngày hôm ấy, đại tá Brohon ngay lập tức ngược ra Hà Nội trên chiếc máy bay của viên cao ủy Dejean, đang cùng đi với đại tá. Thời gian thúc ép. Mười lăm phút sau khi hạ cánh giữa cơn mưa phùn, một bữa ăn tối tại Tòa nhà nước Pháp, do ngài Dejean tổ chức tiếp khách, đã họp mặt các viên tướng Navarre, Bodet và Cogny. Sau bữa ăn, một cuộc họp bí mật diễn ra. Giống như các cuộc họp chiến tranh thu hẹp, người ta không có thư ký và Navarre đề nghị mọi người không ghi chép. Sẽ không có biên bản. Thậm chí người ta cũng không nhắc đến việc giữ lại các cuốn sổ của sĩ quan tùy viên. Đại tá Brohon báo cáo về đề nghị của đô đốc Radford và truyền đạt những câu hỏi mà ủy ban Chiến tranh thu hẹp đưa ra. Brohon nêu ra những mối nguy hiểm của việc ném nhiều quả bom A, mà người ta cần phải không chỉ bằng lòng ném vào những kho dự trữ mà là vào điểm gần nhất với trung tâm đề kháng: dù cho bán kính phá hủy có hạn hẹp đến đâu, những sóng xung kích nhiệt hạch tạo ra bởi hoàn cảnh địa lý của khu lòng chảo cũng có thể là một nguy hiểm nghiêm trọng đối với đội quân đồn trú. Ngoài ra, cần thiết phải hết sức chính xác và những điểm bom rơi phải được vật chất hoá trên mặt đất bằng những vật chuẩn có màu sắc, không thể nhầm lẫn với bất kỳ thứ gì khác. Ấy vậy mà ở Đông Dương chỉ có những vật chuẩn màu vàng nhìn không thật rõ ở độ cao các máy bay ném bom sẽ phải bay và vì màn khói hay màn sương mù thường hay che phủ bãi chiến trường. Những vật chuẩn nhìn thấy rõ hơn sẽ phải gửi từ mẫu quốc sang hoặc do những người Mỹ thả xuống. Ngoài ra, bom A sẽ có hiệu quả ra sao đối với một đối phương ẩn nấp sâu trong lòng đất? Liệu những rắc rối về ngoại giao diễn ra tiếp sau đó, có đáng để tiến hành một việc nhọc lòng như vậy? Navarre lắng nghe ý kiến của các cấp dưới và của ngài Dejean và hẹn sẽ có câu trả lời của mình vào ngày mai.
______________________________________
1. R.E.I: Viết tắt có nghĩa trung đoàn bộ binh ngoại quốc. - N.D
2. R.C.P: Viết tắt có nghĩa trung đoàn dù thuộc địa. - N.D
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #77 vào lúc: 16 Tháng Tư, 2008, 06:59:45 pm »


Ngày 2 tháng tư 1954


Sau một đêm Eliane 4 phải chịu trận hoả lực dữ dội của súng cối 120, viên chỉ huy các đội xung kích Séguins Pazzis, trong bộ tham mưu của De Castries lên thăm vị trí vào lúc rạng sáng. Lợi dụng một lúc ngừng bắn người ta dẫn anh đến sở chỉ huy, ở đó Bigeard uống một ca nước quả cùng với viên thư ký, viên sĩ quan cấp phó và các chiến sĩ thông tin. Dự đoán rằng một quả đạn pháo có thể xuyên thủng nóc hầm, Bigeard đã cho đào ở dưới đáy cái ổ chuột của mình những chiếc hàm ếch, ở đó giống như quân Việt, anh cùng với kíp của mình có thể ẩn nấp khi pháo đạn 105 bắn dồn dập. Trèo lên tận chỗ đó, Séguins Pazzis đã nhìn thấy những vị trí hỏa lực bị đổ sập xuống lớp bùn, những xác chết bị vùi đến một nửa thân hình trong đống đổ nát. Trong số các khuôn mặt nhợt nhạt, khuôn mặt của Bigeard lấm đầy bùn đất gây ấn tượng bởi vẻ cương quyết giữa khung cảnh thê thảm này.

- Nhìn thấy anh khống chế được tình thế như thế này một cách hết sức bình tĩnh, người ta buộc phải nghĩ là anh sinh ra là để cho những hoàn cảnh này.

Bigeard mỉm cười. Đối với Séguins Pazzis, anh không có nhiều cảm tình. Họ không cùng một dòng dõi. Séguins Pazzis không phải là một thủ lĩnh băng đảng như anh mà là một sĩ quan truyền thống, quý tộc cho đến tận xương tủy, có văn hóa, nhạy cảm, bản thân cũng xuất thân - với khuôn mặt nhỏ bé, vầng trán rộng và nỗi sầu muộn - từ hành lang của các nhà quân sự trong các bức tranh của Greco1. Lời khen của anh vì vậy càng có thêm sức nặng. Séguins Pazzis thực hành tác chiến với nét duyên dáng và một vẻ giễu cợt nào đó, tựa như anh thuộc về đạo quân của vua FranÇois đệ nhất2 ở Marignan3. Là kỵ binh, anh hoàn toàn không còn tin tưởng vào thứ vũ khí gốc gác của mình trong chiến tranh du kích nữa, anh đã xin được chuyển sang lực lượng bộ binh thuộc địa, đã theo học các lớp ngôn ngữ phương Đông và các vấn đề của đạo Hồi. Đối với anh cuộc tranh chấp ở Đông Dương sẽ không được giải quyết trên trận địa mà là trong tâm linh, nhưng anh thầm ghen tị với Bigeard người đã có những cách nhìn vấn đề hết sức đơn giản, cũng như anh thấy mến phục tinh thần quả cảm của Bigead.

Bigead vênh mặt lên: Anh con trai của người viên chức nhỏ ngành đường sắt ở thành phố Toul, bao giờ cũng cảm thấy sẵn sàng đem mạng sống của mình ra để đền đáp những lời khen thốt ra từ cửa miệng các ông hoàng mà anh khâm phục.

Ở Hà Nội, trong buổi sáng, một cuộc hội kiến mới diễn ra trong Tòa nhà nước Pháp. Sáu mươi chiếc B.29 được hộ tống bởi một trăm năm mươi chiếc khu trục của Hạm đội 7 có thể tạo ra một tiếng sấm rền mà chưa cần nổ ra tiếng sét. Khi ngài Dejean lại lên đường trở về Sài Gòn lúc 14 giờ 45 phút, đặc phái viên của chính phủ mang theo một câu trả lời "Không!" của tướng Navarre. Trong nỗi lo sợ rằng đến lượt họ, không quân Trung Quốc sẽ tấn công Điện Biên Phủ và các căn cứ không quân chăng? Đó là lí do được nêu ra cho đến tận bây giờ, cũng như người ta đã khẳng định là tướng Navarre vẫn không biết rằng các máy bay B.29 sẽ thả xuống những quả bom A. Lời nói dối con trẻ đã không đứng vững được trước thử thách của thực tế: tướng Navarre, chuyên gia về trinh sát, không thể nào không biết rằng - cuộc hành binh Vautour nhằm mục đích gì. Cũng chẳng phải là ông không biết rằng việc chỉ huy một tổ hợp như vậy sẽ thoát khỏi tay ông một cách tai hại và rằng một sĩ quan cấp tướng khác sẽ nắm lấy quyền lực của chính ông, lúc đó đùng một cái trở thành cấp dưới. Giữa Navarre và Cogny, cuộc va chạm diễn ra lúc buổi chiều , từ 16 giờ 10 đến 17 giờ 10 trong văn phòng của Navarre, ở tầng một toà biệt thự gần Hồ Tây, chìm trong màn mưa phùn. Cuộc va chạm nặng nề, đầy giông bão.

- Chúng ta đã viết cho nhau những chuyện khó chịu, Navarre nói với một vẻ độ lượng giả bộ. Giờ đây cần bình tĩnh thảo luận những chuyện đó. Cogny tấn công và cất cao giọng. Ông giận dữ nói hết với Navarre nội dung câu trả lời của ông và tuyên bố là ông không còn sẵn sàng phục vụ các mệnh lệnh của Navarre nữa, ông để cho Navarre quyết định nếu như việc cách chức ông phải thực hiện ngay lập tức. Ông nhắc lại để Navarre nhớ rằng quyết tâm giao chiến ở Điện Biên Phủ hoàn toàn chỉ là của riêng tổng chỉ huy, rằng việc sử dụng những giải pháp cầu âu, theo logic học bao giờ cũng chỉ đưa tới thảm họa và rằng Cogny, ông bao giờ cũng chỉ là một người thực hiện, ông nghĩ rằng số phận của binh đoàn Gono, có thể, tuỳ thuộc ngay trong đêm nay, vào lực lượng tăng viện mà người ta có gửi tới hay là không?

Còn về Navarre, ông thở phào nhẹ nhõm, với niềm tin đã có rằng Cogny đã phản thùng ông từ lâu khi tố giác với các nhà cầm quyền cao cấp đến thăm xứ Bắc Kỳ về những quan điểm sai lầm trong trận đánh đang diễn ra. Một hôm, ở Paris, trước mặt bà vợ tướng Catroux và bạn bè, bà Navarre đã rút trong túi xách ra một lá thư được chuyển vòng quanh các bộ ghế và trong lá thư đó, chồng bà đã viết: "Cái th.... Cogny ấy phản thùng tôi ngày này qua ngày khác". Navarre nhắc lại với Cogny câu này.

- Nếu như anh không phải là tướng bốn sao, Cogny hét lên, thì tôi đã cho anh cái tát vào mặt rồi.

Navarre tái mặt. Ở bên kia vách phòng, cô thư ký nghe thấy tiếng quát nhưng trong phòng chỉ có hai viên tướng với nhau. Cogny bình tĩnh lại và rút lui.
- Tôi yêu cầu anh giữ kín chuyện này, Navarre bảo.
- Tôi coi đó là nghĩa vụ đầu tiên trong các nghĩa vụ của tôi, Cogny đáp lời và dập hai gót chân.
_________________________________
1. Greco: Họa sĩ gốc Hi Lạp (1541 - 1614) trong tranh vẽ của ông có nét độc đáo và táo bạo. - N.D
2. FranÇois đệ nhất: vua nước Pháp (1494 - 1547) trị vì từ 1515 đến 1547. Là một nhà vua có tài năng, có nhiều công lao xây dựng đất nước và quân đội Pháp.
3. Marignan: Địa danh ở Ý, phía đông nam Milan, nơi vua FranÇois đệ nhất đánh thắng người Thuỵ Sĩ (1515). - N.D
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #78 vào lúc: 16 Tháng Tư, 2008, 07:06:05 pm »


Ngày 3 tháng tư 1954

Lợi dụng thời gian yên ắng, Langlais đi theo con đường mà ở đó người ta gọi là đường Mêtrô; cái mạng lưới đường hầm, giao thông hào và các đoạn hành lang tối om, trong đó người ta đi lại để tránh được pháo đạn và ở đó, kể từ ngày 13 tháng ba người ta chưa bao giờ thấy Castries mạo hiểm, có lẽ, như ông đã nói với tôi, bởi vì vị trí của ông là ở bên chiếc máy điện thoại của mình. Cũng có lẽ do vì người ta đã không trông thấy ông khi ông đi ra ngoài lúc ban đêm. Về vị trí của Castries cũng như của Cogny hay của Navarre, ý kiến rất khác nhau. Một thủ trưởng chỉ huy từ sở chỉ huy của mình, điều đó là chắc chắn. Nhưng ông ta phải tiến hành một vài động tác và những động tác ấy đã không được tiến hành.

Con sói gầy gò có đôi mắt xanh, đôi tai to mà người ta ngạc nhiên khi thấy chúng không nhọn hoắt với chiếc hàm dài sẵn sàng cắn xé bằng đôi môi mỏng dính và sắc lẹm, Langlais một mình bước đi, đầu đội chiếc mũ nồi đỏ đã phai màu, một khẩu súng lục mắc vào sợi thắt lưng đã xiết chặt mà vẫn còn quá rộng đối với vòng bụng của ông. Một trí tuệ lớn ư? Langlais không có tham vọng ấy. Ông thừa nhận những sai lầm ông đã phạm phải về những con người và các tình thế, bởi lẽ ông có trái tim. Hôm qua, ông đã nhận được của cô em gái một lá thư, đóng dấu của Malestroit (Morhiban): “Trời đẹp, bọn trẻ con chơi trò xây dựng tập đoàn cứ điểm ở trong khu vườn. Em cầu mong ông trời ban cho chúng lòng dũng cảm cũng như cho các anh ...". Đột nhiên, nước mắt chảy tràn trên khuôn mặt ông. Ông từ chối một cách ngây thơ những cử chỉ tôn kính người ta dành cho ông và mong muốn những tình bạn mà về phía mình ông ban phát rộng rãi cho những người xoàng xĩnh nhất trong số người mà ông gặp trong các giao thông hào, trước mặt các hố chiến đấu của họ. Ở giữa những tấm dù trải rộng, những hộp khẩu phần nằm lật ngửa, những trang phục bị vứt bỏ và những bọc hàng giờ đây không còn một ai có sức để mở ra nữa. Người ta chào ông và ông bắt tay. Ông bước vào các căn hầm, ngồi xuống các giường ngủ, truyền tay nhau một chai cô nhắc, lại quay trở lên khoảng không thoáng đãng, nhẩy từ mô đất này đến mô đất khác cho tới tận các vị trí mũi nhọn. Những viên đạn bắn thia lia vào các bờ hào và rít lên như tiếng mèo kêu, những quả đạn súng cối nổ tung. Ông không nao núng. Không còn chút ảo tưởng nào, ông nghĩ: "Họ nện đây", không hề dự tính là số mệnh có thể đưa mình đến đúng chỗ quả đạn rơi xuống. Khi đạn pháo không rơi trúng vào mình, ông giận dữ phủi bụi trên bộ quân phục dã chiến, nhưng giọng nói của ông trước micrô không thay đổi và hai đầu gối của ông không run rẩy. Ông đã coi một vài sĩ quan là hèn nhát. Giống như Bigeard, đây là con người của chiến trận và chiến trận là nguồn sống của ông. Không bao giờ ông nghĩ đó đến việc lùi bước, bởi lẽ ý nghĩ không bao giờ xuất hiện trong đầu óc ông. Đối với Bigeard lại là vấn đề khác: dù cho cái giá phải trả là bao nhiêu, không bao giờ Bigeard chấp nhận là mình bị đánh bại, nhưng anh biết rằng anh có thể bị như thế, một hôm nào đó do bị bất ngờ, dưới những đòn đánh của một đấu thủ trẻ tuổi.

Như vậy là Langlais không dự tính chuyện xấu nhất. Ông tin chắc là mình sẽ thắng, sẽ nhận được lực lượng tăng viện, là sẽ chiếm lại những ngọn đồi đã mất, cũng như ông tin là mình sống. Trong lúc đó thì kể từ lúc trông thấy trung tá Gaucher chết, viên trung sĩ Sammarco bắt đầu tự hỏi làm thế nào để mọi chuyện kết thúc. Trong vòng mười lăm ngày, được chỉ định chiếm giữ những điểm tiền tiêu, cùng với ba người lính Thái, được chọn lấy một cách tình cờ, anh tiến ra bố trí ở bên ngoài hàng rào dây thép gai vào ban đêm để theo dõi tiến độ các công trình của đối phương. Khi nghe thấy đối phương đào cuốc đất, những người Thái báo cho anh biết và Sammarco nói thầm vào máy bộ đàm, báo về cho hệ thống phòng thủ. Lúc đó, họ nằm dán mình xuống đất để tránh những loạt đạn pháo rơi xuống trước mặt họ. Nhưng bất kỳ ai cũng như trung sĩ Sammarco, khi trông thấy Langlais đi qua đều lấy lại được niềm tin. Đây chỉ là một giây phút khó khăn phải trải qua: có chuyện gì đó sẽ xảy ra và đảo ngược tình thế!

Ở Hà Nội, tướng Navarre cho người mang đến cho tướng Cogny lá thư trả lời cho bức thư của Cogny ngày 1 tháng tư: ông công nhận điều mong muốn của Cogny là tốt, cũng phù hợp với quan điểm của riêng ông là sẽ không kéo dài nhiệm vụ của Cogny ngay sau khi kết thúc chiến dịch đang diễn ra. Từ chối tiếp tục một cuộc tranh cãi vô bổ về những lực lượng mà Cogny đã sử dụng trong chiến dịch, Navarre khẳng định rằng việc duy trì những vị trí chủ chốt ở vùng đồng bằng vẫn là một mối bận tâm của mình. Buổi sáng, một cuộc họp diễn ra trong khu thành cổ Hà Nội giữa hai viên tướng và viên tư lệnh không quân thuộc đạo quân viễn chinh.

Ban đêm, đại đội tăng viện cuối cùng được thả xuống theo trục đường băng sân bay, ở khoảng giữa cứ điểm Huguette và cứ điểm Epervier, bãi duy nhất còn lại có thể tiếp nhận được. Lúc 23 giờ, kíp nhân viên cắm cọc tiêu vừa kịp đến vị trí chuẩn bị tiếp đón những chiếc Banjos thì trận tấn công vào Huguette nổ ra. Langlais lệnh cho những chiếc máy bay đầu tiên chờ đợi, và đề phòng nguy cơ nhẩy dù vào vị trí của đối phương, ông quyết định cho nhẩy vào trung tâm tập đoàn cứ điểm. Ông hạ lệnh đốt cháy một thùng étxăng dưới lòng sông, đoạn ở phía hạ lưu chiếc cầu một chút, để làm vật chuẩn, cốt để cho đơn vị tăng viện được thả dù ở độ cao thấp, sẽ rơi xuống giữa đám hàng rào thép gai trong khu vực bệnh viện và trên sân đỗ của máy bay trực thăng. Khoảng nửa đêm, cuộc can thiệp tức thì của các phân đội dự bị và xe tăng đã giải thoát được cứ điểm Huguette.



Ngày 4 tháng tư 1954

Bréchignac, mật danh là Brèche chỉ huy tiểu đoàn 2 thuộc R.C.P1 1 dành cho cứ điểm Epervier, ban đêm quần áo rách tướp, anh tới trình diện với sở chỉ huy của Langlais. Béo mập, khuôn mặt tươi tỉnh với đôi mắt sáng, Bréchignac là một trong số những người lính dù lâu năm nhất và một trong số sĩ quan hoàn hảo nhất của quân đội Pháp. Khi nhắc đến anh, người ta nói: "Đó là một người ghê gớm". Là đối thủ của Bigeard, vốn không yêu quý gì Bréchignac nhiều lắm. Khác với Bigeard , Bréchignac giản đi, khiêm tốn và vô tư. Những ý kiến đánh giá của anh rõ ràng, đôi khi tàn nhẫn, và không bao giờ anh thay đổi quyết định của mình, nhưng lòng độ lượng và tinh thần dũng cảm của anh đã trở thành huyền thoại.

Không phải chỉ có quân dù nhẩy xuống. Kể từ khi người ta biết được tình thế của tập đoàn cứ điểm, hàng nghìn tình nguyện viên có mặt, đôi khi nguyên cả từng đơn vị. Qua máy bộ đàm, Langlais đã cãi cọ rất lâu với các cơ quan tham mưu ở Hà Nội, để cuối cùng giành phần thắng là người ta sẽ thả họ xuống mặc dù chưa được qua huấn luyện. Một lần nhẩy đầu tiên, mọi người đều có thể mạo hiểm mặc dù không biết công việc đó là như thế nào. Và lần thứ hai...

Nhiều ngày trước khi xuất phát, nhiều giờ trước buổi tối được ấn định, những tình nguyện viên đã có thể đo đếm được mức độ điên rồ của ý định của họ, đã nhấm nháp đi nhấm nháp lại trong miệng cái thứ nước bọt đắng ngắt khi kề bên cái chết, hạn chế những cái ngáp dài do những cơn co giật của hệ thần kinh khi đứng trước tấm bản đồ bãi nhẩy nằm giữa những bãi mìn, những hàng rào dây thép gai và những chiến hào tiền duyên của đối phương. Một giờ rưỡi bay, ngồi trên hàng ghế của những chiếc Dakota kết thúc giai đoạn đó. Viên phi công hãm bớt động cơ, để cho máy bay trườn xuống theo đường xoắn ốc, mọi ánh đèn tắt ngấm, lao xuống khu lòng chảo đen tối, đôi khi lắc la lắc lư trong làn sóng xung kích của một loạt đạn pháo cao xạ. Qua khung cửa mở toang hoác, ánh lửa những đám cháy trôi đi, thi thoảng loé lên ánh lửa của đạn pháo lúc ra khỏi đầu nòng và nổ tung khi tới đích. Một dãy ghế, mười hai người đứng dậy, móc một chiếc vòng sắt vào sợi dây sẽ mở màn đợt nhẩy đầu tiên và chờ lệnh để lao ra. Nếu như họ biết, phải, nếu như họ biết rằng cho đến giây phút này họ vẫn còn có thể bỏ cuộc và không một ai sẽ có quyền khinh bỉ họ bởi lẽ những gì họ làm vượt quá sức mạnh của con người. "Anh đếm đến ba. Nếu như anh vẫn rơi xuống...". Đầu mũi dính sát vào lưng người đồng đội đi trước, họ sờ soạng tìm kiếm cái tay nắm bằng kim loại sẽ có thể là sự giải thoát, bởi lẽ, lúc này đã không còn kịp nữa rồi. Phải buông chân vào màn đêm tối, vừa tự nhủ rằng nếu như cánh dù không bung ra, thậm chí không một ai còn nhớ tới, đủ thấy là nỗi bất hạnh thật lớn lao, một hành động tự do đến thế, có vẻ như là lao mình xuống cái vực thẳm của sự rồ dại phổ biến, ngay trước mắt của chính những nhân vật tham gia vào vở diễn ấy. Giây phút ngắn ngủi hoang mang và tuyệt vọng mà đôi khi sự do dự của viên phi công kéo dài ra. Đoạn cuối cùng, phần lớn trong số họ không còn nhớ lại được nữa, bởi lẽ mọi chuyện diễn ra quá nhanh, và niềm hạnh phúc thấy mình còn sống mắc vào những mấu dây thép gai, bị hơi nổ của đạn pháo tạt vào mặt, đã làm cho họ quên đi cơn thở dốc thoát ra từ lồng ngực khi họ bị hẫng chân và rằng tiếng động cơ và mùi vị khó chịu của chiếc máy bay đột ngột được thay thế bởi khung cảnh im ắng và bầu không khí dễ thở. Làm thế nào thoát ra khỏi những sợi dây thép nhằng nhịt với những chiếc gai móc rách quần áo, làm xước làn da thịt và tiến về hướng nào để tìm thấy sự giúp đỡ đã hứa hẹn đây? Thật là những câu hỏi nhỏ nhặt, khi mà người ta đã đứng xuống được, con tim nở bung ra vì một chiến thắng với bản thân mình.

Khoảng không gian của tập đoàn cứ điểm chìm đắm trong màn đêm, nhưng rồi cuối cùng, kể cả khi họ rơi xuống khu nhà xác, giữa đống thây người, mọi người đã nhấc được cánh liếp của một căn hầm và gặp được những khuôn mặt sống, nói cùng một thứ ngôn ngữ như họ và đưa dẫn họ tới nơi tập trung. Một đôi lần Langlais đã ngạc nhiên khi thấy có những sứ giả được giao nhiệm vụ mang tới cho ông những lá thư và những chai rượu vang trắng xứ Loire, những sứ giả này đã trúng đạn súng cối chết cách đó không xa.

Lúc 4 giờ rưỡi, bình minh hửng lên vào ngày chủ nhật này của lễ Passion2. 5 giờ, ánh mặt trời soi sáng những đỉnh núi lởm chởm răng cưa, những sườn núi mầu xanh loang lổ vết cháy của napan, những mỏm đồi bị cạo trọc, hai khối tròn của Eliane 4 và 1 mà giờ đây người ta gọi là các đồi "Lo lo", cánh đồng đất sét màu vàng và xám, lởm chởm các thứ vũ khí và hàng rào thép gai, lốm đốm những chiếc dù mà giờ đây không một ai thu nhặt lại nữa, cánh đồng ấy phồng lên với những đoạn bờ ruộng, lỗ chỗ những hố đạn pháo, ứ đọng đầy nước mưa. Hành tinh kỳ lạ ở đó sinh sống những cái bóng đầu đội mũ sắt hay mũ lá cọ, phân chia thành hai khối được ngăn cách bởi những khúc sông, dưới một bầu trời ầm ầm tiếng máy bay, giữa đám máy bay những dải khói đen nở bung và bị cơn gió kéo dài ra. Gần sở chỉ huy của De Castries, vẫn còn sừng sững một thân cây trúng đạn bị xé rách, dòng nhựa cây chưa khô cạn vẫn từ từ chảy. Giống như nghi lễ phục sinh, cuộc đọ sức giữa cái sống và cái chết sắp diễn ra.

Ngày hôm đó một niềm hi vọng đã truyền qua các dàn ăngten thông tin, ở đó Cogny bắt được điện cho biết lực lượng tăng viện do mẫu quốc gửi tới cho phép tăng thêm quân số tương đương một tiểu đoàn. Nhận được tin này, Langlais rú lên vì vui mừng. Nhưng mà tiếp nhận tiểu đoàn mới ấy ở đâu đây khi mà pháo đài tiền tiêu Huguette 6 không giữ vững được? Giờ đây, chỉ cần một cơn gió mạnh đủ để đẩy những chiếc dù sang phòng tuyến của đối phương. Trên bầu trời của Isabelle, đã cần tới năm tiếng đồng hồ để thả được bẩy mươi con người. Ban ngày trời xấu hết mức. Độ cao từ 3 đến 4000 mét duy nhất có thể cho phép các máy bay thoát khỏi bị tiêu diệt lại làm cho các bọc hàng vương vãi lung tung, bất chấp mọi hệ thống ngắm mà người ta nghĩ ra. Không có máy bay khu trục bảo vệ, những chiếc Packets ném khối hàng xuống ngay một lúc chẳng khác gì những chiếc xe ben, đôi khi đẩy khối hàng sáu tấn của nó ra cách xa nhiều kilômét. Người ta đã thử thả những chiếc côngtennơ, được cố định vào các thanh xà của máy bay B.26 và bay thật thấp thả xuống; hiệu xuất quá thấp đến nỗi người ta phải từ bỏ cách làm đó. Khi trời đẹp, mười tám chiếc Dakota hàng ngày có thể thả xong khối tải trọng của chúng, một nửa khối đó rơi vào phía quân Việt.

Kể từ ngày 13 tháng 3, đạo quân viễn chinh đã tăng cường khối vật chất cho đội quân của đối phương bằng việc trút xuống các vị trí của họ một phần lớn đồ tiếp tế của mình. Trong chương trình phát thanh gần như tất cả các buổi tối, quân Việt nhắc đi nhắc lại: “Xin cảm ơn về những khẩu 105. Người ta sẽ gửi trả các bạn nhưng là bằng những quả đạn của chúng". Cộng thêm vào những chiếc xe ô tô Molotova và G.M.C, những chiến sĩ dân công nhân dân, những con thuyền và đàn ngựa, những chiếc xe đạp Peugeot, giờ đây lại có thêm những chiếc máy bay. Khi những chiếc Dakota đầu tiên trong buổi sáng bay tới, quân Việt cười reo: "Dân công trên trời- Đây là đám dân công trên trời". Đó là phần góp sức của cá nhân Navarre, do không biết cách sử dụng không quân, góp thêm vào sự chi viện của Trung Quốc.
________________________________________
1. R.C.P: Viết tắt có nghĩa trung đoàn dù thuộc địa. - N.D
2. Passion: Lễ Sự thương khó của đấng Ki tô - N.D
« Sửa lần cuối: 16 Tháng Tư, 2008, 09:52:13 pm gửi bởi chuongxedap » Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #79 vào lúc: 16 Tháng Tư, 2008, 07:10:37 pm »


Đêm 4 rạng ngày 5 và cả ngày 5 tháng tư 1954

Langlais đang định nằm dài ra giường ngủ thì cơn sấm rền đạn pháo 105 của tướng Giáp đổ ập xuống Huguette 6. ClémenÇon, chỉ huy điểm tựa kêu gọi lực lượng dự bị. Qua bộ đàm, Langlais báo cho biết ông gửi cho anh ta đại đội Clédic, thuộc tiểu đoàn của Bréchignac. Hai cụm pháo của trung tâm phòng ngự chủ yếu khạc ra màn hoả lực bắn chặn.

Lúc 21 giờ, quân Việt đã đặt chân vào được các công sự. 21 giờ 30, bất chấp pháo hoả của đối phương, đại đội Clédic đã cố tiến được đến Huguette 6, gặp quân lê dương đang bám giữ ở đó nhưng đơn vị đó nhanh chóng xin cấp cứu. Mảnh trăng non đã lặn mất phía sau dãy núi và trong màn đêm đen, những chiếc Dakota tiếp tục thả dù lực lượng tăng viện vào giữa đám hàng rào dây thép gai.

Langlais chuyển đại đội Bailly thuộc đội xung kích số 8 lên gần điểm nóng. Tourret đề nghị cho xe tăng yểm trợ đơn vị này.
- Có bao nhiêu con bò rừng còn chạy được? Langlais hỏi Hervouët.
- Hai con.
- Lên đường!

Bailly tiến lên theo đoạn rãnh đào chạy dọc phía đông sân bay. Đơn vị bị tổn thất nặng trước khi tiến đến được Huguette 6 và không thể tiếp cận được. Quân Việt đã bao vây cứ điểm và ngăn chặn mọi đường tiếp cận từ hướng nam và dùng súng Badoca bắn phá các xe tăng. Lúc 4 giờ sáng, Langlais gọi Bigeard, vốn từ trên chiếc chuồng chim của mình ở Eliane 4 đã theo dõi mọi diễn biến qua máy thông tin.

- Cậu không ngủ đấy chứ? Có thể tôi sắp cần đến cậu.

Trở về Paris trong buổi tối ngày chủ nhật ấy, đại tá Brohon tìm đến phố Puvis de Chavannes, ngôi biệt thự riêng của tướng Ely. Tướng Ely sống ở đó như một cái bóng thành kính của một nguyên soái, giữa những bộ áo giáp và những lá cờ Đại tá đang báo cáo tỉ mỉ với ông nhiệm vụ của mình được giao và những lý lẽ Navarre đã dùng để bác bỏ cuộc can thiệp của người Mỹ thì một sĩ quan của ủy ban Quốc phòng mang tới một thông báo tối khẩn, làm gián đoạn cuộc hội kiến. Thì ra sau khi đã suy nghĩ Navarre chấp nhận chiến dịch Vaulour và mong muốn chiến dịch đó sẽ diễn ra trong một thời hạn từ sáu đến tám ngày. Vì lí do gì mà Navarre đã thay đổi ý kiến như vậy? Vì cớ gì mà không quân Trung Quốc, vốn không nể nang gì mà không đánh trả bằng cách tấn công các căn cứ không quân của đạo quân viễn chinh, giờ đây lại không đáng ngại như vậy? Câu chuyện đầy kịch tính làm cho nét mặt đại tá Brohon tươi tỉnh và một nụ cười bí ẩn thoáng hiện trên khuôn mặt tái nhợt và lạnh lùng như chiếc mặt nạ tang lễ của tướng Ely; ông lập tức đề nghị triệu tập cuộc họp của Ủy ban Chiến tranh thu hẹp ở điện Matignon.

Bầu không khí sôi sục. Cuối buổi chiều, chủ tịch hội đồng chính phủ và ngài Pléven bị những người biểu tình trong lễ kỷ niệm Ngọn lửa ở đài Chiến thắng, tấn công. Được báo động vì những tin tức về Điện Biên Phủ, hội những người ở Đông Dương cũ đã kêu gọi các hội viên của mình la ó các vị bộ trưởng. Bị đám đông vây kín trong mười phút, vất vả lắm ngài Pléven cũng như ngài Laniel mới ra được xe ôtô.

Đại tá Brohon được mời phát biểu, ông nhắc lại những gì ông biết về Điện Biên Phủ và những ý kiến của Navarre. Một vài thành viên trong chính phủ cố gắng tự thuyết phục bản thân rằng tình hình chưa đến nỗi bi thảm đến như vậy và đặt ra những câu hỏi với hi vọng rằng đại tá Brohon sẽ ghi nhớ những suy nghĩ của họ - theo lời của một nhân chứng, những câu trả lời tung ra như một chiếc máy chém và huyền thoại "Crevecoeur" mà người ta đã nhắc đến, huyền thoại sẽ cứu vãn Điện Biên Phủ bằng những tiểu đoàn của nước Lào, đến lượt nó bị băm nát. Tướng Fay chiến thắng và Ely là nhân vật mang tâm tư nặng trĩu.

Ngay từ lúc đó, Ủy ban Chiến tranh thu hẹp đồng ý nhìn thấy ở chiến dịch Vautour, phương sách duy nhất để cứu vãn Điện Biên Phủ, với điều kiện là, theo những câu chữ mà Navarre sử dụng trong bức điện của ông, “chiến dịch đó phải được tiến hành ồ ạt ngay lập tức".

Thời gian thúc bách. Người ta quyết định hỏi ý kiến vị đại sứ Mỹ ở Paris. Có ai đó để lộ ra rằng việc này sẽ khó khăn vào một ngày chủ nhật và vào cái giờ này, bởi lẽ đã gần nửa đêm. Chưa đầy ba phút, ngài Douglas Dillon đã trả lời qua điện thoại. Ông ta đến. Hội nghị tạm nghỉ. Trước mặt vị bộ trưởng ngoại giao, ngài Laniel đề nghị vị đại sứ yêu cầu chính phủ Mỹ mở màn chiến dịch Vautour.

Ngài Dillon hứa sẽ liên lạc ngay với chính phủ của mình. Tuy nhiên ông cho biết rằng trái ngược với những gì mà người ta nghĩ lúc ban đầu, Tổng thống Mỹ có thể bắt buộc phải xin ý kiến quốc hội. Nhờ có chênh lệch về giờ giấc cho nên không phải là không hi vọng có được câu trả lời cho ngày hôm sau. Theo một số người này thì hai tầu sân bay của hạm đội 7, tàu Boxer và tàu Phillipe Sea, theo một số người khác thì là tầu Essex, có mang bom A, đang đi lại trong vịnh Bắc bộ. Cùng lúc đó, đô đốc chỉ huy nhóm tàu này cùng bộ tham mưu của mình bay lượn trên bầu trời Điện Biên Phủ suốt đêm. Tiếng ì ầm của những chiếc Dakota thả pháo sáng và bom napan đã khiến cho Langlais không nghe thấy tiếng sấm rền của những chiếc máy bay phản lực. Trên những máy bay đó các sĩ quan Mỹ đã nhận biết được hành trình bay và mục tiêu oanh tạc.

Sáu khẩu pháo thuộc các cụm pháo yểm trợ cho trận phản kích trên đồi Huguette 6 bị phá huỷ. Người ta thay thế chúng bằng các khẩu súng cối 120. Bigeard từ Eliane 4 xuống và cùng với Langlais ngồi xe Jeep đến Huguette 3, ở đó có mặt ClémenÇon. Đứng trước những tấm bản đồ và các bức không ảnh, Bigeard hoàn thành kịch bản của mình và đọc các mệnh lệnh cho viên chuẩn úy-văn thư đánh máy, anh yêu cầu không quân yểm trợ vào lúc tảng sáng và nắm lấy quyền chỉ huy toàn bộ trận đánh. Với đơn vị ở trên đồi Huguette 6, anh yêu cầu họ giữ vững; với đại đội Bailly thuộc đơn vị xung kích số 8, anh yêu cầu họ không để bị đánh bật ra khỏi các hố, nơi họ đang bố trí. Đôi mắt đỏ ngầu, uống hết một ca càphê do một lính lê dương phục vụ, quyết chí đánh thắng hiệp này, lúc 6 giờ Bigeard tung ra đại đội đi đầu cùng viên trung úy Le Page, đơn vị này tới được chỗ đại đội Bailly, vượt qua, cuốn theo sau những bộ phận trước đó bị chặn lại và chiếm lại được toàn bộ trận địa đã mất. Đối phương thoát ra, lùi lại bị pháo và súng cối băm nát. Nhiều đống xác chết nằm gục trên hàng rào dây thép gai. Máy bay xuất hiện và hoàn thành công việc. Langlais thú nhận chưa bao giờ nhìn thấy nhiều xác chết đến như vậy. Trong số bốn tiểu đoàn thuộc các sư đoàn 308 và 312 bị tấn công, một tiểu đoàn bị áp chế, không ngẩng đầu lên được. Còn lại bốn mươi lính lê dương thuộc đại đội phòng ngự giữ Huguette 6, hai mươi người của đại đội Clédic, phần lớn các sĩ quan tham gia trận đánh đều chết hoặc bị thương. Một đại đội thuộc tiểu đoàn Bigeard đã tiến hành trận phản kích được sát nhập với đại đội Bailly, giờ chỉ còn là cái bóng của chính nó. Người ta vùi những xác chết xuống các giao thông hào.

Đây là một chiến thắng mà Castries đã không biết cách tiến hành ở Béatrice và Gabrielle và rằng một viên tiểu đoàn trưởng bình thường lại đã giành được trận thắng như vậy với những phương tiện ít ỏi. Trận thắng phái trả giá đắt nhưng nó chứng minh rằng: thắng lợi ở Điện Biên Phủ tuỳ thuộc vào cá nhân những người chỉ huy cũng ngang với tình thế chiến thuật. Dù cho nó có vẻ lệch lạc đến đâu, việc bố trí trận địa phòng ngự có lẽ cũng không đến nỗi ngớ ngẩn. Với những con người quyết tâm, với những phản ứng tức thì và những hệ thần kinh vững vàng, có lẽ trận địa đó có thể đào mồ chôn quân của tướng Giáp. Có thể chưa có cái gì bị mất. Nỗi bất hạnh của Điện Biên Phủ, đó chính là vì Navarre đã tích tụ mọi nguy cơ của sự thất bại qua việc chấp nhận giao chiến trong một khu lòng chảo nằm cách Hà Nội ba trăm kilômét và vào một thời điểm mà chiến lược của đối phương đạt đến đỉnh điểm hoàn thiện, bản thân chiến lược đó mang trong mình nó nguyên nhân dẫn đến thảm họa của Navarre. Chọn lấy điều xấu nhất, Navarre thậm chí đã không biết cách bố trí những con người biết thắng cuộc. Xung quanh mình, người ta đến phải nói rằng ông chỉ toàn tập hợp những kẻ thua cuộc.

Ở Washington, màn đêm chỉ vừa mới phủ lên những mái tròn của toà nhà quốc hội thì ngài Foster Dulles, tại cơ quan bộ, nhận được bức điện mật mã của vị đại sứ Mỹ ở Paris. Vấn đề không còn là thật đơn giản kể từ khi, để chuẩn bị dư luận đón nhận các biến cố, ngài đã đọc bài diễn văn ở câu lạc bộ báo chí Hải Ngoại, sau đó triệu tập thủ lĩnh các nhóm trong quốc hội để trình bày với họ tình hình ở Đông Dương và những ý định của đô đốc Radford. Câu "Không" dứt khoát vừa nhận được đã buộc ông phải quên đi mọi sáng kiến và núp mình vào trong cái mà một thượng nghị sĩ vừa mới đặt tên, không cách gọi gì khá hơn, là một hành động chung của các quốc gia tự do. Viên đại sứ Pháp ở Wasginhton hẳn đã không kịp thông báo chuyện này cho chính phủ của mình thì vừa lúc ngài Douglas Dillon, nửa đêm, được triệu tới Paris.

Việc bảo vệ nước Lào mà tướng Navarre gánh lấy cho bản thân mình mặc dầu không nhận được lệnh bắt buộc và những sai lầm phạm phải để đảm bảo công việc đó có nguy cơ bắt nhân loại phải trả giá đắt. Màn đêm còn chưa cuốn hết bóng tối đen như mực của nó trên hành tinh, nhưng ở Điện Biên Phủ, hai đối thủ đã kiệt sức thu mình về góc vũ đài của riêng mình. Một vầng mặt trời rạng rỡ, chiếu thẳng vào gáy con người, chiếu thẳng xuống mặt đất, nơi đó những xác chết trong đêm và buổi sáng bắt đầu thối rữa. Viên tham mưu trưởng trung đoàn 57 cũng không còn đâu thời gian để hít thở hương thơm của cây cối đang nở hoa.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM