Chương 10
(Đoạn kết)
Hội nghị Geneve sẽ họp vào cuối tháng 4 làm cho những người được biết tin này có thêm lý do hy vọng. Chưa thể đoán được kết quả hội nghị sẽ như thế nào, nhưng điều dễ hiểu là những cuộc thảo luận có thể sẽ kéo dài. Một thoả thuận nhanh chóng về ngừng bắn không phải là ảo tưởng, nhất là nếu các hoạt động quân sự của Pháp tiến triển.
Tóm lại, điều cốt yếu là phải cố giữ hơn một tháng nữa. Mục tiêu này không vượt quá tầm tay.
Castries là Langlais, Pazzis, Bigeard cùng ngồi xem xét lại tổ chức phòng ngự.
Pazzis đã được cử giữ chức tham mưu trưởng Binh đoàn tác chiến Tây Bắc. Ban tham mưu là một cơ quan ôm đồm mọi công việc nặng nhọc: tác chiến, quân lực, tình báo, tiếp tế, điều hành mọi hoạt động phối hợp với các binh chủng và các cơ quan bạn: pháo binh, thông tin, quân nhu, y tế.
Vai trò của tham mưu trưởng không sáng chói nhưng có tính quyết định.
Lalande vẫn là chỉ huy trưởng toàn bộ cụm cứ điểm Isabelle phân khu Nam. Hiện nay phân khu này đang bị cô lập. Chuyến liên lạc đường bộ cuối cùng với phân khu Trung tâm là vào ngày 30 tháng 3.
Vadot đã chỉ huy bán lữ đoàn lê dương số 13 sau khi Gaucher chết trận. Hiện nay Vadot phụ trách toàn bộ cụm cứ điểm Claudine. Vẻ bình tĩnh “rất lê dương” và một số đức tính khác khiến cho ông có được sự nổi tiếng vững chắc. Lính lê dương thường hỏi ý kiến Vadot nhiều hơn là xin chỉ thị ban tham mưu của Langlais. Còn Langlais thì lại dành phần lớn thời gian quan tâm đến lực lượng dù. Tuy nhiên không có sự trục trặc giữa ban chỉ huy lê dương và ban chỉ huy lính dù. Hơn nữa họ còn bổ sung cho nhau.
Phân khu Trung tâm do Langlais chỉ huy là phân khu bị tiến công chủ yếu. Phân khu này gồm ba trung tâm đề kháng: mặt Đông có cụm cứ điểm Eliane do Bréchignac chỉ huy; mặt Tây Bắc có những cứ điểm Huguette đứng đầu là Clémenon; cuối cùng là cụm cứ điểm Claudine ở Tây Nam, vây quanh và bảo vệ cho trung tâm tập đoàn cứ điểm gồm có: Sở chỉ huy, cụm pháo binh, nhà vòm để xe tăng, các cơ quan thông tin liên lạc, các xưởng sửa chữa vũ khí thiết bị, các tổ máy phát điện, kho đạn, kho lương thực dự trữ, kho xăng v.v…
Cụm pháo đặt ở Isabelle thuộc phân khu Nam, mặc dù bị pháo Việt Minh bắn phá không ngừng, vẫn là một trong những thành phần thiết yếu bảo vệ khu Trung tâm. Cụm pháo này có nhiệm vụ bắn cản, bảo vệ cho tất cả các điểm tựa chung quanh sở chỉ huy Binh đoàn tác chiến Tây Bắc.
Trong cuộc cải tổ lại tổ chức phòng ngự lần này, Castries quyết định trực tiếp nắm Bigeard bằng cách giao cho Bigeard chỉ huy các lực lượng “can thiệp” theo lệnh của Castries.
“Can thiệp” là một từ cổ lỗ sĩ trong từ vựng quân sự lâu đời, nay được tráng thêm lớp men mới. Trên danh nghĩa nguyên tắc, lực lượng “can thiệp” tức là những lực lượng dự bị, gồm có: các đơn vị cơ động, các đơn vị lính lê dương, lính dù, là những đơn vị thường “tiến hành chiến tranh” trong khi những đơn vị khác làm công việc “bình định”, đóng quân tại chỗ.
Bigeard được cử giữ chức chỉ huy “các lực lượng can thiệp” nhưng trong tay không có lực lượng nào để “can thiệp” cứu ứng cho các cứ điểm bị tiến đánh. Binh đoàn đổ bộ đường không số 2 của Langlais và mười xe tăng của Hervouet trước kia nằm trong “lực lượng can thiệp” đều đã bị đánh tan từ lâu. Tất cả những đơn vị còn lại quay sang đóng giữ các cứ điểm đang bị tiến đánh, không còn sức nào, lực nào để cơ động đi “can thiệp” nữa.
Để thành lập những lực lượng dự bị mới làm nhiệm vụ “can thiệp”, Bigeard phải tiến hành đi thu gom. Ông đến từng cụm cứ điểm lệnh cho ban chỉ huy ở đó tùy theo khả năng có thể phải rút ra một hoặc hai đại đội để đóng góp vào lực lượng can thiệp. Ông cũng giữ những toán quân được lệnh rút lui để làm lực lượng dự bị sẵn sàng ứng cứu cho bất cứ điểm tựa nào trong tập đoàn cứ điểm bị tiến đánh. Thông thường, lực lượng can thiệp là những đơn vị xung kích lính lê dương và lính dù, nhưng đã thổi phồng lên như con ngựa già được nhét rơm trong bụng cố chạy thi cho đến hết cuộc đua.
Chỉ huy trưởng lực lượng can thiệp Bigeard đành phải hài lòng với ba hoặc bốn chiếc xe tăng còn nguyên vẹn, tuy quá ít không thể sử dụng làm mũi nhọn đi đầu (là nhiệm vụ đương nhiên), nhưng vẫn có thể tận dụng được hoả lực để yểm trợ cho bộ binh.
Sở dĩ Castries chọn giải pháp này thực tế là để trao thêm nhiệm vụ cho Langlais mà không ngại Langlais tự ái. Castries vốn có một điểm yếu đối với Langlais một tình cảm bầu bạn khá kỳ lạ giữa một kỵ binh với một bộ binh. Castries có một tình bạn chân thành với Langlais. Chính tôi đã tai nghe mắt thấy Castries bảo vệ Langlais trước mặt tướng Gilles (là người không ưa Langlais chút nào), Castries hiểu, Langlais chỉ cáu kỉnh khi quá mệt mỏi, thần kinh bị kích động. Ngược lại, Bigeard nhờ thể chất mạnh khoẻ vẫn giữ được trấn tĩnh. Hai người bổ sung cho nhau và cùng làm việc trong một ban chỉ huy chung.
Sau khi cải tổ lại tổ chức phòng ngự, Castries tính đến chuyện giành lại một phần sự chủ động tác chiến và cải thiện tình thế ở mặt Đông. Ông điện cho tướng Cogny: “Nếu có thêm một tiểu đoàn, tôi sẽ giành lại Eliane”.
Bigeard thúc đẩy thêm hành động. Ông không bao giờ chịu để mất Eliane. Điểm cao nhỏ bé này khống chế Eliane 4 và là một trong ba đỉnh của hình tam giác gồm ba quả đồi phòng ngự, chiếm lĩnh một vị trí có tính sống còn. Những đợt tiến công xung phong của Việt Minh vào điểm cao này thường giáng những đòn mạnh vì quân Việt đã đào được chiến hào ở sát gần cứ điểm. Chiến hào tiếp cận để xuất phát tiến công là một kiểu đánh cổ điển đã biết rõ từ lâu. Nhưng vào thời đại đã có xe tăng thì cách thức đào hào tiến công lại quá chậm, không hợp thời. Nhưng Bigeard không hiểu điều đó, ông vẫn tin tưởng vào hiệu quả của chiến hào và đã áp dụng. Ông cũng cho đào “theo kiểu Việt Minh” một hào giao thông tiếp cận từ Eliane 4, qua bãi “yên ngựa” nằm giữa hai quả đồi, tới cách vị trí địch khoảng ba mươi mét.
Ngày 9 tháng 4, Castries vừa mới nhận được một đại đội mới toanh thuộc tiểu đoàn dù lê dương số 2 và đang đợi các đại đội tiếp theo từ Hà Nội gửi tới, đã bật đèn xanh cho Bigeard tiến hành “can thiệp”.
Trước khi xuất phát, Bigeard chọn hai phó chỉ huy tiểu đoàn là trung úy Trapp và trung úy Lepage, mỗi người nắm khoảng một trăm lính dù vừa Pháp vừa Việt trộn lẫn với nhau. Bigeard được ưu tiên sử dụng tất cả lực lượng pháo, liên lạc trực tiếp với hai đại đội, cối 120 và tất cả các khẩu cối 81 báo điểm ném bom với các máy bay trợ chiến ngay từ lúc mặt trời mọc đã lượn trên vòm trời Điện Biên Phủ. Tất cả các vũ khí có thể bắn tới Eliane 1 đều nhằm sẵn và sẵn sàng nhả đạn khi có lệnh.
Ngày 10 tháng 4, đích thân Bigeard từ lúc trời chưa sáng đã có mặt trên đỉnh Eliane 4, đối mặt với mục tiêu. Bigeard nói: “Đây là chiếc ghế bành của nhạc trưởng”. Ông cho đặt tới bay máy điện đàm ở chung quanh ghế. Chỉ cần giơ tay là nắm được một chiếc micro và có thể gọi hết máy này đến máy khác để truyền lệnh.
Kế hoạch tiến công được tính toán chi ly đến từng phút. Từng người đều đã được phân công rõ trách nhiệm, nhưng “nhạc trưởng” Bigeard muốn có mặt tại đây để phối hợp mọi hành động, để “bắt nhịp”, tăng giảm nhịp điệu tùy theo cảm hứng của mình.
Cuộc phản kích bắt đầu đúng 5 giờ 30 phút sáng bằng một loạt pháo bắn chuẩn bị. Những khẩu đội pháo 10 ở phân khu Trung tâm và tám nòng pháo ở Isabelle thuộc phân khu Nam đều nhịp nhàng dội xuống Eliane 1 mà Việt Minh đang chiếm giữ. Những khẩu pháo 155 không bắn thẳng được vì hầm pháo nông, không có chỗ cho pháo giật lùi khi đạn nổ. Constantin chỉ huy pháo liền cho những khẩu đội 155 bắn tới những căn cứ hoả lực của Việt Minh cách đó 1.500 mét. Cối 120 giã giò vào núi Giả và núi Hói đầu.
6 giờ đúng. “Nhạc trưởng” cho ngừng pháo, cối. Trên trời xuất hiện những máy bay trợ chiến.
Từ chiếc gậy nhạc trưởng, Bigeard hạ lệnh cho trung úy Trapp:
- Hervé của Bruno, chơi đi!
- Bruno của Hervé, báo cáo nghe rõ?
Pháo ngừng bặt một lát đủ để cho binh lính Việt Minh vừa mới nhô đầu khỏi chiến hào thì lính của trung úy ập tới. Việt Minh vẫn còn ở trong chiến hào nhưng do bị tiến công bất ngờ nên việc tổ chức chống trả có phần lộn xộn. Đó là lúc Bigeard tung thêm đơn vị của Lepage vào cuộc chiến. Cùng đi với đại đội này còn có một đội công binh và một đội lính trang bị súng phun lửa quét cháy mặt đồi.
Phản ứng của Việt Minh rất mãnh liệt, biểu lộ sự tức giận và cả sự bực mình vì thế nên thiếu bình tĩnh. Những loạt pháo và cả máy bay Hellcat của hải quân bay tới ném bom phá được cửa mở vào đội ngũ dầy đặc của bộ đội Việt Minh.
Dù sao, phía Pháp cũng đã bị nhiều thương vong. Trước khi trời tối, Bigeard đã phải cho các đại đội tiến công của Trapp và Lepage rút, thay bằng những đại đội mới, vừa mới nhảy dù xuống của Bréchignac, do hai đại úy Charles và Minaud chỉ huy.
Đến đêm, cuộc phản kích của Việt Minh lại càng quyết liệt. Ba tiểu đoàn liên tiếp từng đợt xông lên Eliane 1. Đến nửa đêm, cả Charles và Minaud đều bị thương nặng. Lính dù thuộc tiểu đoàn 2 trung đoàn dù thuộc địa số 1 phải tự động chiến đấu trong hố cá nhân hoặc tụ tập thành từng nhóm nhỏ. Việt Minh lại tăng thêm quân chiến đấu.
Tại Eliane 4, Bigeard đã thu gom các đại đội dự trữ tại các trung tâm để thành lập lực lượng phản kích mới. Tiểu đoàn dù lê dương số 1 góp Martin và Brandon, mỗi người mang theo năm mươi lính, tổng cộng là một trăm người. Đây là những đơn vị xuất phát đầu tiên, họ vừa đi vừa hát.
Tiến theo hai đại đội này là lính dù người Việt của tiểu đoàn dù số 5 do Bottella chỉ huy, cuối cùng là đại đội 7 thuộc tiểu đoàn dù lê dương số 2. Đây là đơn vị vừa mới nhảy dù xuống Điện Biên Phủ được hai mươi bốn giờ. Đại úy chỉ huy Delafond bị chết ngay khi mới tới. Trung úy Lecour Grandmaison được cử lên thay. Cả Delafond lẫn Grandmaison đều chưa biết gì về Điện Biên Phủ. Họ chỉ mới được nhìn thấy trận đánh giành lại Eliane 1 vào buổi sáng và nghe thấy những tiếng hát của những đơn vị vừa mới xuất trận đang lao vào cuộc chiến đấu. Khi trèo lên đỉnh đồi Eliane 1, họ mới chỉ là những quan sát viên.
Hai đại đội của Bréchignac sau một đêm chiến đấu chỉ còn lại tám mươi người sống sót. Đất trên đồi đã hàng trăm lần bị hàng ngàn đạn pháo cày xới tan hoang. Binh lính đã phải đào hố cá nhân để trú ẩn trong đám đất nát vụn như tro. Những đạn cối 120 cắm sâu vào lớp đất mềm nhuyễn này rồi mới nổ làm sập cả vách chiến hào. Phải dùng xẻng xúc nhanh đất để cứu những người bị lấp vùi phía dưới.
Suốt hai mươi ngày, hai đại đội của tiểu đoàn dù lê dương và tiểu đoàn dù thuộc địa cố giữ mỏm đồi đáng nguyền rủa này. Cứ bốn mươi tám giờ lại phải một lần thay quân. Những cuộc thay quân này đều phải tiến hành vào ban đêm dưới đạn cối của Việt Minh bắn liên tục và rất chính xác.
Clédic nói với Périou:
- Việt Minh nghe được những cuộc nói chuyện của chúng ta qua máy vô tuyến điện thoại nên biết rõ thời điểm và hành trình thay quân.
- Dĩ nhiên, ngày mai ta sẽ nói chuyện với nhau bằng tiếng Bretagne của xứ sở quê hương.
Cả hai người đều sinh ra ở Bretagne, miền Bắc nước Pháp.
Từ đó trở đi, những cuộc thay quân của tiểu đoàn 2 trung đoàn dù thuộc địa số 1 không xảy ra chuyện gì đáng tiếc. Riêng Bréchignac khi nghe qua điện đài thứ ngôn ngữ khác lạ cứ tưởng là Việt Minh vừa mới thành lập một tổ điện báo mới báo tin bằng một thứ ngôn ngữ nào đó của châu Á chưa ai trong phía Pháp hiểu được.
Trong khi tạm ngừng tiến đánh các mỏm đồi phía Đông bảo vệ phân khu Trung tâm, Việt Minh vẫn đẩy mạnh nỗ lực nhằm tiêu diệt các cụm cứ điểm mang tên Huguette bảo vệ đường băng sân bay. Huguette 6 là một con mồi đầu tiên bị tiêu diệt bởi chiến thuật mới của Việt Minh.
Cứ điểm này được xây dựng ngay trên cánh đồng ở phía đầu đường băng, theo hình ngôi sao có ba cánh không đều nhau.
Từ ngày 8 tháng 4, cứ điểm Huguette 6 được giao cho một đại đội thuộc tiểu đoàn 5 lính bản xứ người Việt trấn giữ. Hằng ngày, đám lính Bảo an này phải chống chọi từng giờ với việc bộ đội Việt Minh đào hào lấn dần nhằm thắt chặt việc bao vây bóp nghẹt cứ điểm. Đã thế, lính Bảo an còn phải liên tục chiến đấu để giữ một con đường nối liền với khu Trung tâm ở phía Nam là con đường tiếp tế duy nhất. Đám lính tiếp tế cho Huguette 6 thường hành quân ban đêm để tránh đụng độ với địch. Mở đầu là một toán lính lê dương đi mở đường. Nối theo sau là đám dân phu rách rưới, khốn khổ vác trên vai những hòm đạn, hòm đồ hộp thực phẩm và gánh theo cả những thùng đựng nước bởi vì trên đám đất đặt cứ điểm Huguette 6 không có suối, không có giếng, chỉ còn bùn bẩn sau trận mưa làm ngập chiến hào.
Nhưng đến đêm 14 rạng 15 tháng 4 thì chiến hào Việt Minh đào lấn đã gặp nhau ở phía Nam như những ngón tay của hai bàn tay bóp chặt lấy gáy con mồi, lính lê dương phải huy động tới ba đại đội chiến đấu. Cho tới lúc rạng sáng mới mở được đường cho đám dân phu mang đồ tiếp tế đến cho Huguette 6. Lúc xuất phát trong đám phu có 35 người gánh nước, khi tới đồn chỉ còn bẩy người và năm thùng nước. Lính trong đồn đành phải chia nhau dè sẻn, mỗi ngày mỗi người chỉ được phân phát một cả nước trong lúc trời rất nóng nực.
Đêm 16 rạng 17 tháng 4 lại phải huy động tới hai tiểu đoàn, chiến đấu suốt mười tiếng đồng hồ mới mở được con đường tiếp tế để đưa tới Huguette 6 sáu hòm đạn và vài thùng nước.
Langlais tới gặp chỉ huy trưởng Castries báo cáo:
- Trong tuần lễ Thánh vừa qua, chỉ riêng việc tiếp tế cho Huguette 6 đã làm chúng ta thương vong một số quân ngang với số tổn thất trong những trận chiến đấu giành giật Eliane 1.
Lúc này Castries vừa mới được thăng cấp thiếu tướng. Ông ngồi im trên ghế, lộ rõ vẻ mệt mỏi vì cuộc chiến đấu triền miên. Tướng quân cảm thấy rất rõ binh lính đang bị tiêu hao, năng lực ngày càng kiệt cạn. Ông nhận thức được rằng mình không có quyền tiếp tục cố gắng mãi việc giữ Huguette 6 suốt đêm này qua đêm khác nếu muốn cầm cự tới mức giới hạn cho phép. Ông quyết định rút bỏ Huguette 6 vào đêm mai.