hieuc3d26f7
Thành viên
Bài viết: 106
|
|
« Trả lời #9 vào lúc: 04 Tháng Ba, 2010, 10:27:11 am » |
|
Xe đi một đoạn nữa tôi nhận ra trận địa pháo của trung đoàn 210, trận địa pháo này đã tham gia cùng với trung đoàn 209 bảo vệ khu vực. Các tiểu đoàn bộ binh 7,8,9 đã nhiều lần được trận địa pháo này chi viện, vừa là hỏa lực mạnh của chiến trường, trận địa pháo cũng là điểm tựa vững chắc cho bộ binh giữ chốt. Gần 4h chiều xe đến kho hậu cần của trung đoàn, tôi xuống xe cảm ơn các anh ở tiểu đoàn vận tải đi cùng, men theo đường nhỏ vào sở chỉ huy của trung đoàn. Vào đến gần tôi gặp các anh ở đại đội 20 thông tin, chào hỏi nhau vài câu các anh cho tôi biết anh Lương Đức Khoát người ở xóm tôi đi trinh sát mơi hi sinh chưa tìm thấy xác. Anh Khoát trong trận cuối tháng 9 mất chốt D7, khi ở đài quan sát xuống anh đã mang tư trang cho tôi, hai anh em chạy về Nam Chop. Bỏ gói thuốc rê mời anh em hút rồi về thẳng nhà đặt máy thông tin của tôi. Căn nhà rộng khoảng 6m2, nó là bếp hay chuồng bò của người Miên. Nơi này tôi đã cùng với anh Đặng Quang Xuyền, bạn tôi quê xã Đức Chính, ở đây đảm bảo thông tin cho trung đoàn hồi tháng 8 tháng 9. Lúc về nhà đặt máy tôi không thấy anh Khôi đâu, nhìn trong nhà có chiếc ván gỗ nằm sâu dưới đất với chiếc máy thông tin và mấy quả lựu đạn, xung quanh nhà đắp đất để phòng pháo đạn của địch. Một lát sau anh Khôi về tôi hỏi anh đi đâu, anh bảo là đi báo cơm cho tôi, anh biết tôi đã đi xuống đây từ hồi trưa. Anh Khôi người Thái Bình nhập ngũ năm 1975 sau tôi mấy tháng, khi vào B2 được bổ sung vào đơn vị luôn, còn tôi đến tháng 7/1976 mới từ D5 E165 lên. Anh là lính vô tuyến điện có nhiều kinh nghiệm làm việc, đi với anh tôi hoàn toàn an tâm. Ngày 31/12 là ngày cuối cùng trong năm, tại hầm chỉ huy trung đoàn các cán bộ trung, tiểu đoàn, các sỹ quan tác chiến họp hạ quyết tâm đánh dịch với phương án sư đoàn giao. Tôi trực gần hầm chỉ huy nên được biết mục tiêu của đơn vị là đánh vào đường 10 và cầu Đôn So, quả thực là chỉ nghe chứ chưa biết nơi này là đâu. Trung đoàn giao cho tiểu đoàn 8 và 9 đánh lên, tiểu đoàn 7 làm dự bị. Ngày 1/1/1979, hai tiểu đoàn 8 và 9 đã vào chiếm lĩnh trận địa, tiểu đoàn 7 di chuyển lên phía trên. Tối ngày 1/1 sở chỉ huy trung đoàn di chuyển vị trí khác, hai máy thông tin của sư đoàn và trung đoàn theo phục vụ cho sở chỉ huy. Máy của trung đoàn do anh Cao Quang Khôi C20 thông tin đảm nhiệm, anh Khôi quê xã Kim Giang, huyện Cẩm Giàng (hiện đang làm cán bộ địa chính xã Kim Giang). Sở chỉ huy trung đoàn hành quân về hướng Tây Nam, hướng của D8 trước đây. Tất cả đều đi trong đêm tối, người nọ bám người kia. Đến vị trí tập kết nơi sở chỉ huy đóng quân là chốt cũ của đơn vị bộ binh (có khả năng là D8). Sở chỉ huy đặt trong 1 chiếc nhà ngói cũ của dân khá rộng, nền nhà được đào sâu xung quanh đắp đất để tránh pháo và đạn bắn thẳng của địch. Máy thông tin của C20 đặt tại đây, máy của sư đoàn chúng tôi đặt trong chiếc hầm sát cạnh sở chỉ huy. Tôi mở máy liên tục để chuẩn bị nhận mệnh lệnh của trên nhưng tuyệt đối không được phát tín hiệu khi chưa có lệnh. Lúc này máy thông tin của bọn lính Pôn Pốt luôn theo sát các tần số làm việc của chúng tôi và tìm mọi cách phá sóng làm đứt các cuộc liên lạc. Chúng tôi phải thay đổi tần số liên lạc luôn, nằm trong hầm chúng tôi chỉ giương cần Anten 2m7 lên để liên lạc, các cuộc gọi nhau lúc này của mạng liên lạc sư đoàn chỉ dùng tín hiệu gõ vào ống nói của máy. Mạng liên lạc của E xuống các tiểu đoàn vẫn thông suốt, máy liên lạc của anh Cao Quang Khôi chỉ dùng Anten 1,1m nên khả năng liên lạc gần ít bị địch phá. Trong sở chỉ huy lúc này có anh Trần Cường là E trưởng, anh Từ là chính ủy, anh Vũ Xuân Cưu là tham mưu trưởng, anh Trọng (Trọng hói) trưởng tiểu ban tác chiến và một số sỹ quan phụ trách tác chiến trinh sát, thông tin, công binh... với 4 chiến sỹ thông tin vừa vô tuyến vừa hữu tuyến. Ngày mồng 1 chưa tập trung đánh lớn nhưng trên D8 và D9 luôn phải tác chiến những trận nhỏ lẻ. Trung đoàn 209 có nhiệm vụ đánh mở cửa để tạo điều kiện cho đơn vị bạn đánh thẳng vào cầu Đôn So. Khó khăn nhất là phải vượt qua bờ tường ủi, bờ tường ủi chính là bờ mương dẫn nước phục vụ nông nghiệp, đất đào lên được đưa lên 2 bên thành cao 1,5m; mặt đường dùng làm đường giao thông phục vụ dân sinh, lòng mương rộng khoảng 8m tạo thành 1 bức tường thành vững chắc để phòng thủ. Từ hướng D8, D9 đánh lên đó khoảng 1,5km. Giờ G đã đến, lúc đó khoảng hơn 3h sáng, các loại pháo của sư đoàn, quân đoàn bắt đầu bắn vào bờ tường ủi, các tọa độ đã được chấm định sẵn, lúc đầu còn bắn thưa sau càng bắn dồn dập, tiếng nổ làm mặt đất rung chuyển, những tia chớp lóe sáng phá tan màn đêm. Đã qua bao chiến dịch nhưng chưa bao giờ quân ta sử dụng nhiều pháo đến thế. Ngày 26/4/1978 khi quân ta tiến công toàn tuyến cũng chưa sử dụng nhiều như vậy. Các loại pháo 85,105, 130, 155, nghe nói có cả 175 cũng tham gia công phá trận này. Nằm dưới hầm tấm tôn che trên cứ rung lên bần bật. Khoảng gần 2 tiếng pháo binh bắn cấp tập, đến gần sáng thì pháo bắn thưa dần, lúc này anh em ra khỏi hầm. Anh Trần Cường điện cho 2 tiểu đoàn 8 và 9 chuẩn bị khi pháo binh thôi bắn thì lập tức xung phong chiếm bờ tường ủi. 5h sáng ngày mồng 2, dứt tiếng pháo, 2 tiểu đoàn 8 và 9 của trung đoàn tấn công. Lúc này sở chỉ huy của trung đoàn di chuyển lên gần các tiểu đoàn bộ binh. Nói là sở chỉ huy những chỉ có anh Trần Cường E trưởng, anh Vũ Xuân Cưu tham mưu trưởng và 1 số sỹ quan tham mưu trung đoàn cùng 2 máy vô tuyến điện của E và F đi phục vụ. Trần Cường E trưởng có nhiều người gọi anh là Cường “liều”, có thể nói “người liều mạng xông pha trên chiến trường”. Anh là trung đoàn trưởng trẻ nhất trong quân đoàn. Khi là trung đoàn trưởng anh chưa đầy 30 tuổi. Tôi đã nhiều lần đi đảm bảo thông tin liên lạc cho anh với tác phong chỉ huy của anh tôi rất khâm phục. Chỉ huy các trận đánh ác liệt chưa bao giờ tôi thấy anh ngồi trong hầm chỉ huy, anh luôn xông xáo đến gần với các tiểu đoàn để đôn đốc các đơn vị đánh chiếm mục tiêu, chiếc gậy anh mang theo các trận đánh là chiếc cần Anten liên lạc của xe thiết giáp anh dùng làm gậy chống. Tôi từng đi với anh trên trận đánh cùng với thiết giáp đánh lên phía Nam chùa Cốc và trận Bắc Chop (trận này anh bị thương nhẹ vào mặt). Anh xông pha khắp các nơi, anh cũng là người chỉ huy sử dụng vô tuyến điện nhiều nhất. Câu nói trong chỉ huy chiến trận của anh là “nhanh như sóc, mạnh như hổ tiến lên”, cuối những trận đánh giọng anh khản đặc. Ở tuyến phòng thủ đường 10, cầu Đôn So có thể địch phán đoán được ý đồ tác chiến của ta nên chúng phòng thủ rất cẩn thận và vững chắc. Nhiều đơn vị lính Pôn Pốt được điều lên phòng tuyến này, chúng bố trí nhiều tầng hỏa lực, hầm hố chiến đấu ở các bờ tường ủi được đào rất chu đáo, kiên cố, đảm bảo hạn chế thấp nhất thiệt hại do hỏa lực của ta công phá. Vị trí phòng thủ của địch có lợi thế hơn, chúng ở trên cao, ta ở dưới, hướng tiểu đoàn 9 đánh lên hoàn toàn bất lợi, bộ đội phải vận động qua cánh đồng trống nên dễ bị phát hiện. Đã nhiều lần trong buổi sáng bộ đội trung đoàn 209 xuất kích hướng tiểu đoàn 8 đánh bờ tường ủi thứ nhất, tiểu đoàn 9 đánh lên tiếp cận mục tiêu nhưng bị địch dùng hỏa lực cá nhân, cối 60, M79, đại liên chống trả quyết liệt. Tiểu đoàn 9 có thiết giáp phối hợp nhưng nằm giữa cánh đồng trống không lên được. Đã nhiều lần anh Trần Cường và anh Cưu lệnh cho hỏa lực của trung đoàn yểm trợ cho hai tiểu đoàn nhưng tình thế không thay đổi. Đánh đến 9h30’ thì bộ đội tiểu đoàn 8 và 9 thương vong khá nhiều, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 9 Nguyễn Khắc Siêu hi sinh, địch điên cuồng phản công nên 2 tiểu đoàn phải dừng lại đợi trên chi viện. Hướng về sở chỉ huy trung đoàn, thương binh, tử sỹ về trạm phẫu 23 gần đó ngày một đông, anh em bị thương nhẹ vào tay, đầu, người thì tự đi, số bị nặng thì được đơn vị vận tải cáng về. Lúc này bộ phận lên đốc chiến cũng rút về sở chỉ huy. Anh Trần Cường và anh Cưu bực tức vì đơn vị không chiếm được bờ tường ủi mà bộ đội ta thương vong nhiều. Cùng với các sỹ quan tham mưu tập trung vào tấm bản đồ tác chiến, bày mưu tính kế đánh tiếp, đưa D7 dự bị vào thay D9. Tại sở chỉ huy, chính ủy Từ* điện động viên các đơn vị nhắc nhở các bộ phận vận chuyển và cứu chữa anh em thương binh. Nhìn anh em thương binh về ngày một nhiều anh rất buồn. Khoảng 12h trưa anh nuôi đưa cơm đến nhưng chẳng ai muốn ăn, đồng chí công vụ mời chính ủy dùng cơm trưa nhưng tôi thấy hai dòng nước mắt của người chính ủy trung đoàn lăn trên gò má. Tôi hiểu lúc này anh đang nghĩ đến tiểu đoàn trưởng Nguyễn Khắc Siêu và anh em bộ đội đã thương vong trong trận chiến sáng nay. Chính ủy Từ là người Khu 4 sau này ra quân tôi có nghe anh trở thành chính ủy sư đoàn. Với dáng người khá mập, nước da đen sạm nắng gió anh rất bình tĩnh chỉ huy trong mọi tình huống, anh được nhiều cán bộ chiến sĩ quý mến. Chúng tôi mỗi người ăn một chút cơm và mấy miếng cá khô rồi tiếp tục làm việc. Đến trưa ngày 03/01, tiểu đoàn 7, đơn vị dự bị của trận đánh được điều lên thay tiểu đoàn 9. Tiểu đoàn 7 được pháo bắn chi viện cùng với sự phối hợp của các đơn vị bạn, tiểu đoàn 7 đánh phá chiếm bờ tường ủi truy kích địch trên đường 10 và tiến thẳng về cầu Đôn So. Như vậy sau hơn hai ngày trung đoàn 209 mới đánh xong bờ tường ủi, sư đoàn 7 mới chọc thủng phòng tuyến cầu Đôn So của địch. Đây là phòng tuyến rắn nhất, sử dụng lực lượng của nhiều đơn vị, có sự yểm trợ của thiết giáp. Quân số thương vong của ta lớn nhất trong chiến dịch giúp bạn đánh giải phóng Phnôm Pênh. Sau khi đánh xong cửa mở, sở chỉ huy nhẹ của E209 di chuyển về phía cầu Đôn So. (còn nữa)
|