Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Ba, 2024, 03:24:24 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Sài Gòn, Dinh Độc Lập của những thời khắc không bao giờ quên  (Đọc 216715 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #280 vào lúc: 10 Tháng Năm, 2012, 09:59:40 am »

Trích dẫn
author=tamhang59 link=topic=13527.msg372930#msg372930 date=1335861946]
Trích dẫn từ lixeta: 06 Tháng Một, 2012, 02:48:07 PM
Trích dẫn
Chắc là được chụp thôi, có gì bí mật đâu. Hiện nó nằm phía bên trái nhìn từ ngoài vào. Lên hết tam cấp, vào gian trung tâm rồi rẽ trái, xuống cầu thang là nhìn thấy ngay.
Thông thường, tất cả các ngày trong tuần đều có nhân viên trực ở BT (thường ngồi cái bàn ngay gần bức tượng trung tâm). Có vấn đề gì thì liên hệ cô ta giải đáp. Nếu cần thuyết minh thì cũng liên hệ tại đó.
Trung tá xe tăng lixeta vẫn giấu "bí mật" phải không ? "Có gì bí mật đâu... Có vấn đề gì thì liên hệ cô ta giải đáp". Chà chà ! Thôi để SAM-2MT nói luôn cho thiên hạ đỡ thèm nhé. Chiếc T-59 số hiệu 390 đó đúng là chiếc "xịn" (hiện vật gốc) mà không thể có chiếc thứ hai. Nó được các cựu chiến binh sử dụng nó xác nhận bới mấy thứ sau đây:
1- Cả bốn bác Toàn, Nguyên, Phượng, Tập đều có ý kién: "Nếu sườn trái tháp pháo vẫn còn 2 vết lõm, sâu khoảng 1cm; phía trên mặt tháp pháo còn vết lõm dài chừng gang tay. Đó là những vết lõm do xe trúng bom, pháo địch. Nếu vẫn còn thì đúng là xe 390".
2- Riêng bác Nguyên nhớ kỹ hơn: "Nếu số tháp pháo được đúc nổi trên sườn trái là 61-T-73, phía trái cửa trưởng xe vẫn là dãy số khắc chìm 73776 thì đích thị là 390".
Đến khi giám đốc bảo tàng mời các bác vào xe xem xét thì cả bốn bác đều òa khóc vì nhận ra đúng các vết tích ấy. Tôi không có mặt ở đó nhưng đọc những dòng này tôi cũng khóc. Đúng là hệt như các chiến binh khi xưa nhận ra con ngựa chiến của mình.
Bác nào còn nghi ngờ cứ đến đó mà xem, mà chụp ảnh. Biết đâu mấy ngày nữa lại có ảnh của hai vết lõm ấy trên xe 390 thì QSVN tuyệt lắm. Đúng là làm sử phải nói có sách, mách có chứng.

Đỏ 1: Đã thấy 1 xe có số hiệu 390 ở tầng 1 của Bảo tàng tăng thiết giáp. Mặc dù vào nhiều lần nhưng vẫn phải nhờ trực ban chỉ dẫn mời "tìm thấy" xe 390  Grin (Công tác trưng bày hiện vật của ta "khoa học" thật)





Đỏ 2:


Đỏ 3:


« Sửa lần cuối: 11 Tháng Năm, 2012, 03:56:42 pm gửi bởi Giangtvx » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #281 vào lúc: 10 Tháng Năm, 2012, 10:00:36 am »

Đỏ 4:
2- Riêng bác Nguyên nhớ kỹ hơn: "Nếu số tháp pháo được đúc nổi trên sườn trái là 61-T-73,



Chú ý : Ký hiệu ở giữa là số 2 ngược chứ không phải là chữ "T" như bác Nguyên nói ở trên (?).

Đỏ 5:
phía trái cửa trưởng xe vẫn là dãy số khắc chìm 73776.
Riêng chi tiết này thì tôi không tìm thấy mặc dù đã trèo hẳn lên nóc (cả tầng chỉ có 1 mình tôi):

Vậy xe 390 ở Bảo tàng Tăng thiết giáp có thể là xe xịn!

Thêm 1 ảnh chụp phía bên trong xe:


« Sửa lần cuối: 11 Tháng Năm, 2012, 09:50:03 am gửi bởi Giangtvx » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #282 vào lúc: 25 Tháng Sáu, 2012, 05:00:34 pm »

Vĩnh biệt anh Bùi Quang Thận!

« Sửa lần cuối: 25 Tháng Sáu, 2012, 05:09:14 pm gửi bởi Giangtvx » Logged

do hoi
Thành viên
*
Bài viết: 6


« Trả lời #283 vào lúc: 26 Tháng Sáu, 2012, 04:31:48 pm »

Trích dẫn
61-T-73
làm gì có số 2 ngược . Đây là chữ ЗL - 2-91 chứ
Logged
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #284 vào lúc: 27 Tháng Sáu, 2012, 03:25:32 pm »

@do hoi: Ối trời ơi là trời  Grin Buồn cười quá! Thật là đơn giản mà nhìn không ra. Nhưng "số 2 ngược" nó vẫn không phải là chứ "T" và ký tự đầu tiên nó không giống số 3  ?  
Logged

hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #285 vào lúc: 30 Tháng Tám, 2012, 04:12:54 pm »

Nhớ về Mùa Xuân toàn thắng

Trung tướng Phạm Hồng Cư

37 năm đã qua đi kể từ ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng. Sự kiện lịch sử vĩ đại ấy không chỉ ghi dấu ấn trong tâm khảm mỗi người Việt Nam mà còn trở thành niềm tự hào và ký ức hào hùng của những cựu chiến binh năm xưa, những người đã có những đóng góp xứng đáng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.


1. Nhớ câu thơ của Bác Hồ

Năm qua thắng lợi vẻ vang
Năm nay tiền tuyến ắt càng thắng to
Vì độc lập, vì tự do
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào
Tiến lên, chiến sĩ đồng bào
Bắc Nam xum họp xuân nào vui hơn


Năm tháng qua đi, nhớ lại quá trình kết thúc cuộc Kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chúng ta không quên lời dự báo chiến lược của Bác Hồ trong bài thơ chúc Tết ngày 1-1-1969, bài thơ chúc Tết cuối cùng trước khi Người đi xa. Trong bài thơ này, Bác Hồ, nhà chiến lược thiên tài đã thiết kế một lộ trình hai bước để tiến tới thắng lợi cuối cùng. Điều thú vị là quá trình hai bước “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” được diễn đạt bằng một câu thơ cực kỳ giản dị, mộc mạc, dân giã. Ít có câu thơ Việt Nam nào mà những từ “cút” và “nhào” được dùng đắt đến như thế. Trận “Điện Biên trên không” cuối năm 1972 là trận quyết chiến chiến lược buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari về Việt Nam, rút hết quân Mỹ về nước. Đó là bước thứ nhất “đánh cho Mỹ cút”, tạo tiền đề cho bước thứ hai “đánh cho ngụy nhào”trong Mùa Xuân toàn thắng 1975

Nói đến chiến thắng B52, chúng ta nhớ lại tầm nhìn chiến lược của Bác. Từ rất sớm, năm 1962, Người đã căn dặn đồng chí Phùng Thế Tài, Tư lệnh quân chủng Phòng không - Không quân: ngay từ bây giờ, chú phải theo dõi chặt chẽ và thường xuyên quan tâm đến loại máy bay này. Ngày 19-7-1965, đến thăm Quân chủng Phòng không - Không quân, Người đã chỉ rõ: dù chúng có B57, B52 hay “bê gì” đi nữa, ta cũng đánh, mà đã đánh là nhất định thắng. Năm 1967, chỉ hai năm trước khi đi xa, Người còn dặn đồng chí Phùng Thế Tài (lúc này là Phó Tổng Tham mưu trưởng) rằng, sớm muộn rồi, đế quốc Mỹ cũng đưa B52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua nó mới chịu thua. Mỹ nhất định thua, nhưng nó chỉ chịu thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội.

Thực tế lịch sử đã diễn ra đúng như lời tiên đoán của Bác. Ngày 30-4-1975, quân và dân ta đã thực hiện trọn vẹn câu thơ Xuân của Bác: “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”.

Ngày đó, tôi là phái viên của Tổng cục Chính trị đi theo cánh quân phía Đông vào cho tới Dinh Độc lập. Năm tháng trôi qua, nhưng kỷ niệm về ngày lịch sử ấy vẫn hiện ra đậm nét trong ký ức tôi. Giữa không khí tưng bừng của ngày toàn thắng, chúng tôi đã có những giây phút xúc động chưa từng thấy, xúc động nhớ Bác Hồ. Trong tâm trí chúng tôi, “Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân”“Như có Bác Hồ trong ngày vui toàn thắng”.

2. Hạ quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam

Sau Hiệp định Pari, có hai khả năng để thống nhất đất nước.

Khả năng thứ nhất: địch tôn trọng Hiệp định Pari, thành lập được Chính phủ ba thành phần ở miền Nam, nhân dân ta sẽ thống nhất Tổ quốc trong hòa bình.

Khả năng thứ hai: Mỹ Ngụy ngoan cố phá hoại Hiệp định, tiếp tục gây chiến. Ta phải tiến hành chiến tranh cách mạng gay go quyết liệt để giành thắng lợi hoàn toàn, thu giang sơn về một mối.

Thực tiễn trên chiến trường đã diễn ra theo khả năng thứ hai. Từ thực tiễn này, những ý đồ chiến lược của Bộ thống soái tối cao và của các cấp lãnh đạo, chỉ huy các chiến trường đã được đề xuất, trở thành quyết sách chiến lược của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta quyết tâm giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc. Đó là các Nghị quyết của Bộ Chính trị, của Quân ủy Trung ương, Nghị quyết 21 của Ban chấp hành Trung ương Đảng và các mệnh lệnh, chỉ thị từ Bộ thống soái tối cao chỉ đạo các chiến trường trong quá trình đánh cho ngụy nhào.

Nghị quyết 21 của Trung ương Đảng (tháng 10-1973) là Nghị quyết hạ quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam: “Cách mạng miền Nam phải tiếp tục tiến lên bằng con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào, ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công”. Đây là một quyết tâm chiến lược rất đúng đắn, rất sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Việt Nam sẽ không giống như Triều Tiên, Đông Đức.

Trước đó, do sớm nhận thức phương hướng chiến lược nói trên nên từ đầu năm 1973, Quân ủy Trung ương đã chỉ thị thành lập một Tổ trung tâm trong Bộ Tổng tham mưu có nhiệm vụ chuẩn bị Kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam. Thời cơ chiến lược đã đến gần, nhưng giành thắng lợi bằng cách nào, đó là điều không đơn giản.

Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp trực tiếp nghe báo cáo kinh nghiệm kết thúc cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Liên Xô, cuộc Chiến tranh giải phóng của nhân dân Trung Quốc và giai đoạn cuối cùng của một số cuộc chiến tranh khác.

Đồng chí Bí thư thứ nhất Lê Duẩn nhấn mạnh khả năng phát động tổng khởi nghĩa kết hợp với tổng công kích, lấy địa bàn chủ yếu là thành thị để giải phóng miền Nam. Bí thư Quân ủy Trung ương Võ Nguyên Giáp liên hệ với tình hình miền Nam, thấy không thể đặt tổng khởi nghĩa lên hàng đầu mà tất yếu phải có những trận tiến công lớn, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, tạo điều kiện đánh vào thành phố, vào sào huyệt chủ yếu của địch, kết hợp chặt chẽ với nổi dậy của quần chúng để kết thúc chiến tranh giành toàn thắng. Trải qua nhiều lần trao đổi ý kiến, đồng chí Lê Duẩn đồng ý.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Đại tướng Văn Tiến Dũng đã chỉ đạo tổ Trung tâm nghiên cứu hoàn chỉnh kế hoạch chiến lược theo hướng đó. Đề cương Kế hoạch chiến lược được dự thảo nhiều lần. Biết bao vấn đề lớn về địch, về ta, về thời cơ, về cách đánh được đặt ra: Tiến công vào thời điểm nào? Sử dụng lực lượng ra sao? Mở tiến công tiêu diệt lớn thì hướng chính nên ở đâu? Đánh như thế nào để tiêu diệt lớn quân ngụy? Khả năng can thiệp của Mỹ như thế nào?...

Quân ủy Trung ương lúc đó nhận định: Dù thời cơ tạo ra có thuận lợi bao nhiêu thì cũng phải đánh sập ngụy quân ngụy quyền, đòn công kích phải đi trước một bước. Bất kể trong trường hợp nào, cũng phải nắm trong tay một lực lượng tập trung tương đối mạnh. Để có những quả đấm chủ lực mạnh, được sự đồng ý của Bộ Chính trị, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã chỉ thị thành lập các quân đoàn chủ lực cơ động. Trong 2 năm từ tháng 3-1973 đến tháng 3-1975 các quân đoàn 1,2,3,4 và Đoàn 232 tương đương quân đoàn đã lần lượt ra đời.

Kế hoạch chiến lược đã được các chỉ huy chiến trường góp ý kiến chỉnh lý nhiều lần trước khi trình Bộ Chính trị và được Bộ Chính trị thông qua trong cuộc họp từ ngày 18-12-1974 đến 2-1-1975.

Bước một (năm 1975): mở nhiều đợt tấn công và nổi dậy làm cho lực lượng địch suy yếu nhanh chóng, tạo điều kiện cho năm 1976. Hướng tiến công chiến lược đầu tiên là Tây Nguyên, cụ thể là Nam Tây Nguyên.

Bước hai (năm 1976): Tổng tiến công và nổi dậy đánh chiếm Sài Gòn, giành toàn thắng.

Trên cơ sở Kế hoạch cơ bản hai bước trên đây, Bộ Chính trị chỉ thị xây dựng một Kế hoạch thời cơ giải phóng miền Nam sớm. Bộ Chính trị nhận định: Năm 1975, tiến công quân sự mạnh tạo nên phong trào chính trị, thúc đẩy thời cơ, có thể tạo ra thời cơ mới, thậm chí có thể tạo ra thời cơ phát triển đột biến. Thời cơ chiến lược thường xuất hiện trong thời gian ngắn và không bao giờ đứng lâu tại chỗ, phải kịp thời phát hiện thời cơ, nắm bắt thời cơ, chớp lấy thời cơ để giành thắng lợi cao nhất.

Thực tiễn chiến trường năm 1975 đã diễn ra đúng như dự kiến của Bộ Chính trị. Kế hoạch chiến lược hai năm đã được hoàn thành chỉ trong 55 ngày đêm.

Bộ Chính trị đã hạ quyết tâm chiến lược chính xác. Suy nghĩ về kết thúc chiến tranh đã được hình dung đúng ngay từ lúc khởi đầu. Vừa chắc thắng vừa nhanh, đó là nét tài tình và độc đáo trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Bộ Chính trị những ngày tháng đầu năm 1975 kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

3. Đòn điểm huyệt Buôn Ma Thuột

Thượng tướng Hoàng Minh Thảo, Giám đốc Học viện Quân sự cấp cao, nguyên là Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên, người có dáng võ tướng với khuôn mặt rắn rỏi, đôi mắt sắc sảo dưới hàng lông mày hình lưỡi mác, trong một lần nói chuyện với chúng tôi (lúc đó là học viên lớp Bổ túc tại Học viện Quân sự cấp cao, sau này là Học viện Quốc phòng) đã chỉ rõ tầm nhìn chiến lược của Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp. Ðại tướng đã từng nói: ai làm chủ được Tây Nguyên thì làm chủ được Đông Dương. Vì thế, Đại tướng đã điều Thượng tướng Hoàng Minh Thảo vào giữ cương vị Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên từ nhiều năm trước. Trong một lần triệu tập Thượng tướng Hoàng Minh Thảo ra Hà Nội tham khảo ý kiến, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã hỏi nếu đánh Tây Nguyên thì đánh ở đâu trước?. Thượng tướng Hoàng Minh Thảo trả lời: Nếu đánh Tây Nguyên thì đánh vào Buôn Ma Thuột trước. Vì Buôn Ma Thuột là thị xã lớn nhất, là hậu cứ của địch, là nơi địch yếu mà là hiểm yếu. Buôn Ma Thuột là địa bàn chiến lược cơ động, từ đây ta có thể phát triển theo ba hướng: đánh lên Tây Nguyên, đánh xuống đồng bằng ven biển, đánh vào miền Đông Nam Bộ, cắt chiến trường miền Nam làm đôi. Nguyên tắc chọn hướng tấn công chủ yếu là chọn nơi địch yếu mà là hiểm yếu. Những lời nói đó đã trở thành bài học sâu sắc đối với chúng tôi.

Chiến dịch Tây Nguyên là đòn tiến công chiến lược đầu tiên trong Kế hoạch chiến lược cơ bản đã được Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương duyệt. Do tầm quan trọng của chiến dịch, Quân ủy Trung ương đã cử đồng chí Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng làm đại diện Quân ủy Trung ương trực tiếp tại mặt trận.

Thượng tướng Hoàng Minh Thảo kể lại: Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đi một nước cờ thần tình: cắm hai quân đoàn ở hai đầu (quân đoàn 4 ở Đồng Nai, và quân đoàn 2 ở Huế) buộc địch phải điều động tổng dự bị chiến lược của chúng là hai sư đoàn dù và lính thủy đánh bộ ra hai đầu để giữ hai khu vực chiến lược quan trọng là Huế và Sài Gòn, làm cho thế trận phòng ngự của địch bị căng ra hai đầu, để hở quãng giữa là Tây Nguyên. Tiếp đó, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp lại tăng thêm lực lượng cho mặt trận Tây Nguyên khi điều Sư đoàn 316 từ Bắc vào và Sư đoàn 968 từ Lào sang. Tây Nguyên bước vào chiến dịch có lực lượng tới 4 sư đoàn và một số trung đoàn độc lập, lại có sự phối hợp của Sư đoàn 3 Sao vàng thuộc Quân khu 5, và Binh đoàn 559 Trường Sơn. Nhờ đó, Tây Nguyên trở thành một quân đoàn mạnh.

Chiến dịch Tây Nguyên mở đầu bằng một loạt hoạt động cài thế bao vây chia cắt, cô lập Buôn Ma Thuột. Ta dùng mưu tăng cường hoạt động nghi binh thu hút sự chú ý của địch về phía Bắc (Kontum) đánh trận “giả” ở Pleiku, địch mắc mưu, đưa Trung đoàn 45, đơn vị mạnh của Sư đoàn 23 Ngụy từ Buôn Ma Thuột lên Pleiku để sơ hở hướng Nam Tây Nguyên và Buôn Ma Thuột. Thượng tướng Hoàng Minh Thảo phân tích: “Ta ghìm địch ở đầu mạnh (Bắc Tây Nguyên) để phá vỡ thế trận của địch ở đầu yếu là Nam Tây Nguyên. Đó là một thành công trong nghệ thuật dùng mưu”. Nói điều đó, đôi mắt của ông rực sáng.

Thượng tướng Hoàng Minh Thảo cho biết, công tác chuẩn bị chiến đấu cũng rất công phu. Bộ đội ta đã san rừng, xẻ núi, bắc cầu, cưa cây sẵn nhưng chưa cho đổ, khi cần vượt qua thì đánh đổ cho nhanh. Tất cả đều phải bí mật. Hơn 3 sư đoàn bộ binh với nhiều trung đoàn pháo binh, xe tăng thiết giáp, nghĩa là hàng chục nghìn bộ đội với các loại vũ khí, xe cộ, lán trại, kho tàng, hành quân từ phía Bắc xuống Nam Tây Nguyên, áp sát Buôn Ma Thuột và Đức Lập, thậm chí ăn Tết rồi mới vào trận mà địch không hề hay biết. Ta vẫn giữ được bí mật tuyệt đối cho đến trước giờ G, đó là một thành công lớn trong sự chuẩn bị chiến đấu.

Hai giờ sáng ngày 10-3, ta nổ súng đánh Buôn Ma Thuột, Trung đoàn đặc công 198 và pháo phản lực (DKB, H12, rốc két) bắn vào sân bay và khu kho Mai Hắc Đế. Công binh cho đổ các cây cưa sẵn. Xe tăng, xe bọc thép bật đèn sáng trong đêm mở hết tốc lực tiến vào thành phố, đột phá, thọc sâu, vu hồi, trút bão lửa khiến địch không kịp trở tay. Vũ Thế Quang, Đại tá Sư phó Sư 23 của Ngụy, Nguyễn Trọng Luật, Đại tá, Chỉ huy trưởng Tiểu khu Đắc Lắc phải bỏ sở chỉ huy tháo chạy.

Trận Buôn Ma Thuột tiếp diễn với trận tiêu diệt lực lượng phản kích của địch. Trong hai ngày 12 và 13-3-1975, địch cho quân đổ bộ đường không xuống Đông Buôn Ma Thuột, Phước An và Tây sân bay Hòa Bình. Địch sa ngay vào các bẫy ta đã giăng sẵn. Các trung đoàn 44, 45, Sở chỉ huy nhẹ của Sư đoàn 23 ngụy lần lượt bị tiêu diệt. Cuộc phản kích của địch hòng chiếm lại Buôn Ma Thuột bị đập tan.

Ngày 14-3-1975, Tổng thống Ngụy quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu đã họp với Thủ tướng Trần Thiện Kiêm, Tổng Tham mưu trưởng Cao Văn Viện, các tướng Đặng Văn Quang, Phạm Văn Phú ở Cam Ranh, quyết định rút khỏi Kon Tum và Pleiku để bảo toàn lực lượng, thực hiện rút lui chiến lược, co cụm chiến lược. Nhưng địch không thể rút lui hay co cụm bởi quân ta với ý chí quyết thắng vượt lên trên sức lực của mỗi người, lập tức truy kích, tiêu diệt toàn bộ quân địch rút chạy trên đường số 7. Đường đã bị bỏ từ lâu, cầu hỏng, phà qua sông không có, hàng trăm xe pháo của địch ùn tắc, quân lính địch bỏ xe tháo chạy. Ta tiêu diệt và bắt sống toàn bộ cánh quân địch rút lui, thu hàng trăm xe pháo các loại. Kon Tum, Pleiku không đánh mà giải phóng.

Chiến dịch Tây Nguyên toàn thắng đã tạo ra một bước phát triển đột biến trong tình hình chiến cuộc.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #286 vào lúc: 30 Tháng Tám, 2012, 04:18:37 pm »

4. Đòn tiến công chiến lược thứ hai giải phóng Huế - Đà Nẵng

Hạ tuần tháng 3-1975, chiến dịch Tây Nguyên toàn thắng. Không khí tại Bộ Tổng tư lệnh sôi nổi, mọi người rất vui mừng thấy cuộc tiến công chiến lược phát triển nhanh hơn dự kiến.

Thượng tướng Song Hào, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị gọi tôi đến giao nhiệm vụ: “Cử đồng chí làm phái viên của Tổng cục Chính trị theo dõi mặt trận Huế - Đà Nẵng. Đồng chí lên đường ngay. Huy động các lực lượng báo chí, thông tấn, văn hóa văn nghệ trong và ngoài quân đội bám sát mặt trận. Giải phóng đến đâu phải có tin, ảnh chiến sự đến đấy. Các đoàn văn công quân đội sẵn sàng tiến vào vùng giải phóng”. Đồng chí Song Hào, nguyên là Chính ủy Đại đoàn Quân Tiên phong 308 khi tiếp quản Thủ đô đã nhắc nhở tôi kinh nghiệm ngày giải phóng Thủ đô năm 1954.

Trước đó, Điện ảnh Quân đội đã cử một bộ phận quay phim bám sát Sư đoàn 316, quay được những hình ảnh sinh động về việc quân ta đánh chiếm Sở chỉ huy Sư đoàn 23 của Ngụy và các mục tiêu khác trong thị xã Buôn Ma Thuột.

Tôi cũng nhanh chóng huy động các lực lượng phóng viên báo chí, văn nghệ sĩ rồi lên đường ngay, theo tuyến Hồ Chí Minh vào Tây Huế. Nhưng tôi đã đến chậm. Đường Hồ Chí Minh nườm nượp những đoàn xe chở quân của Quân đoàn 1 được lệnh lên đường chiến đấu. Vinh dự được vào chiến trường vào thời điểm lịch sử, nét mặt các chiến sĩ tươi rói. Xe tôi bị kẹt, tôi phải bỏ xe, dùng mọi phương tiện kể cả xe lam của đồng bào vùng mới giải phóng để đến được Đà Nẵng một ngày sau khi thành phố được giải phóng. Tôi gặp đồng chí Lê Linh - Chính ủy Quân đoàn 2. Chúng tôi ôm nhau giữa Đà Nẵng giải phóng, trong lòng xiết bao vui sướng. Lê Linh với tôi là bạn thân từ trong Kháng chiến chống Pháp, khi ấy Lê Linh là Chính ủy Trung đoàn 36 Đại đoàn 308 mà tôi là Phó Chính ủy. Lê Linh hồ hởi kể chuyện: “Từ ngày 19-3, quân ta đã giải phóng thị xã và toàn bộ tỉnh Quảng Trị. Quân khu Trị Thiên và Quân đoàn 2 được lệnh gấp rút đưa quân xuống đồng bằng, nhanh chóng cắt đứt đường số 1 không cho địch rút về co cụm ở Đà Nẵng. Quân ta khẩn trương đánh chặn, chia cắt đội hình địch, đánh tan Sư đoàn 1 ngụy, giải phóng hoàn toàn Trị Thiên Huế. Ta chiếm lĩnh đèo Hải Vân, bịt Cửa Thuận An không cho địch rút chạy. Pháo tầm xa của ta bắn phá sân bay Phú Bài. Hàng chục ngàn quân ngụy cùng với hàng trăm xe tăng, xe bọc thép bị ta tiêu diệt và bắt sống. Cảnh thảm bại trên đường số 7 ở Tây Nguyên lại diễn ra trên đường từ Huế xuống Cửa Thuận An. Quân ta tiến vào thành phố Huế, phối hợp với quần chúng nổi dậy giải phóng hoàn toàn cố đô Huế ngày 26-3. Lá cờ cách mạng nửa đỏ nửa xanh với ngôi sao vàng năm cánh được kéo lên đỉnh cột cờ trước Ngọ Môn”.

Đồng chí Lê Linh nói tiếp: Quân đoàn 2 được lệnh nhanh chóng tiến vào giải phóng Đà Nẵng. Mặt trận Quảng Đà được thành lập do đồng chí Lê Trọng Tấn làm Tư lệnh, đồng chí Chu Huy Mân làm Chính ủy. Tình hình chuyển biến rất nhanh, tư lệnh và chính ủy mặt trận Quảng Đà chỉ làm việc với nhau bằng điện đài, không kịp họp hành gì cả”. Ngày 27-3, Bộ Tổng tư lệnh đã hạ lệnh: Quân đoàn 2 và một sư đoàn của Quân đoàn 1 tiến công ở phía Bắc Đà Nẵng, riêng Sư đoàn 304 tiến công từ hướng Tây Nam. Phía Nam Đà Nẵng, các lực lượng của Sư đoàn 2 (Quân khu 5) dưới sự chỉ huy trực tiếp của đồng chí Chu Huy Mân bỏ qua các mục tiêu dọc đường tiến thẳng về Đà Nẵng. Pháo binh ta nã đạn khống chế bến cảng và sân bay, bán đảo Sơn Trà và Sở Chỉ huy Quân đoàn 1 của Ngụy. Ta tập trung lực lượng từ hai phía: từ Thừa Thiên Huế đánh vào, từ Quảng Ngãi đánh ra, quyết không cho địch rút chạy để co cụm vào giữ Sài Gòn. Ngày 29-3-1975, cả hai cánh quân cùng tiến công vào thành phố Đà Nẵng, phối hợp với quần chúng nổi dậy đánh chiếm các mục tiêu quân sự, chính trị, kinh tế, giải phóng hoàn toàn thành phố Đà Nẵng và thị xã Hội An. Ta tiêu diệt và làm tan rã hơn 10 vạn quân địch trong bộ máy quân sự, hành chính của ngụy quân ngụy quyền tại thành phố lớn miền Trung này”. Đồng chí Lê Linh hồ hởi kể, chiến dịch này do Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh trực tiếp chỉ huy. Anh Văn (Đại tướng Võ Nguyên Giáp) đôn đốc ráo riết. Thời gian là lực lượng. Chỉ trong một thời gian ngắn kỷ lục có 3 ngày mà ta đã tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân địch, giải phóng tỉnh Quảng Đà, đặc biệt là căn cứ quân sự Đà Nẵng, căn cứ liên hợp lớn nhất và quan trọng nhất của địch ở miền Nam Việt Nam. Anh Văn gửi điện khen cả hai cánh quân: cánh Quân đoàn 2 phía Bắc do Nguyễn Hữu An, Lê Linh, Hoàng Đan chỉ huy và cánh quân phía Nam: Sư đoàn 2 (Quân khu 5) do Nguyễn Chơn chỉ huy.

Ngày hôm sau, tôi nhận được lệnh của Tổng cục Chính trị đón đồng chí Lê Quang Hòa, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị vào Đà Nẵng để cùng với đồng chí Lê Trọng Tấn, Tổng Tham mưu trưởng thành lập cánh quân Duyên hải có nhiệm vụ tiến theo đường số 1 vào tham gia mặt trận Sài Gòn.

Như vậy là đòn tiến công chiến lược thứ hai giải phóng Huế - Đà Nẵng đã được hoàn thành xuất sắc. Lại một bước nhảy vọt mới trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng miền Nam mùa Xuân lịch sử 1975.

5. Thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa

Trong cuộc đời quân ngũ của tôi, có những lần tôi nhận được lệnh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp mà khi đọc lên thì mệnh lệnh đó âm vang trong tâm hồn tôi như một lời hịch của non sông đất nước. Đặc biệt phải kể tới là ngày 7-4-1975, trên đường hành quân tiến về Sài Gòn, tôi nhận được bức điện của Đại tướng Tổng tư lệnh với nội dung: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ, từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng”. Mệnh lệnh nổi tiếng ấy như một lời hịch của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong chỉ đạo chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Lúc này, tôi đã là phái viên của Tổng cục Chính trị, theo sát cánh quân Duyên Hải. Tôi giúp đồng chí Lê Quang Hòa truyền đạt tức khắc mệnh lệnh của Đại tướng đến khắp các đơn vị thuộc cánh quân Duyên Hải. Cánh quân này mới thành lập, không nằm trong dự kiến từ trước, gồm lực lượng Quân đoàn 2 vừa giải phóng Đà Nẵng, Sư đoàn 3 Sao Vàng thuộc Quân khu 5, các đơn vị pháo binh, cao xạ, xe tăng, công binh, có nhiệm vụ đánh địch trong hành tiến, khẩn trương hành quân để đến kịp thời gian cùng các đơn vị bạn tham gia giải phóng Sài Gòn. Đồng chí Lê Trọng Tấn là Tư lệnh, đồng chí Lê Quang Hòa là Bí thư Ban cán sự Đảng lâm thời.

Cánh quân Duyên Hải hồ hởi lên đường như được chắp cánh bay về Nam, bảo đảm tốc độ. Thế nhưng mới ra khỏi Đà Nẵng chúng tôi đã gặp trở ngại đầu tiên: Cầu Câu Lâu bắc qua sông Thu Bồn bị địch phá sập 2 nhịp, công binh khắc phục bắc cầu tạm cho các đơn vị nhẹ đi trước, triển khai một bến phà quân sự để chở loại xe trọng tải lớn. Cứ như vậy thì quá chậm. Một người dân vùng mới giải phóng cho biết, phía thượng lưu cách cầu Câu Lâu khoảng hơn 10 km, có một cây cầu, vậy là cả đoàn xe tăng rầm rập cơ động dọc theo bờ sông Thu Bồn cố gắng bù lại thời gian đã mất. Dọc đường qua các tỉnh miền Trung mới giải phóng, đông đảo đồng bào ra đứng hai bên đường hoan hô bộ đội. Tôi gặp một tốp phụ nữ đứng chỉ chỏ, hỏi ra thì trong tốp phụ nữ này, có một chị đã chờ chồng 20 năm nay, thấy bộ đội Giải phóng vội chạy ra đón, hy vọng được thấy anh ấy về.

Ngày 10-4, khi chúng tôi đến Phan Rang thì cánh quân gặp tuyến phòng thủ từ xa của địch. Lúc này chúng tôi còn cách Sài Gòn 350 km. Tại đây có 2 hải cảng Tân Thành và Ninh Chữ, có sân bay Thành Sơn với lực lượng bộ binh và một sư đoàn không quân ngụy. Sáng 14-4, quân ta nổ súng đánh Phan Rang, quân địch được phi pháo yểm hộ, dựa vào hệ thống công sự và địa hình có lợi, ngoan cố chống cự. Sáng 16-4, Tư lệnh Quân đoàn 2 của đồng chí Nguyễn Hữu An tổ chức một đội hình thọc sâu gồm xe tăng, thiết giáp đánh thẳng theo đường số 1, chiếm thị xã Phan Rang, chiếm 2 cảng Tân Thành và Ninh Chữ, đồng thời theo đường 11 đánh ngược lên phía Tây Bắc, vu hồi vào sườn phía Tây của địch, chiếm sân bay Thành Sơn, thu 40 máy bay còn nguyên vẹn (sau này dùng để tổ chức phi đội Quyết thắng ném bom sân bay Tân Sơn Nhất chiều 28-4). Tối 16-4, tôi và đồng chí Đào Huy Vũ tư lệnh bộ đội Tăng Thiết giáp, phái viên của Bộ Tổng tư lệnh có mặt ở sân bay Thành Sơn lúc quân ta bắt sống viên Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi và viên Chuẩn tướng Không quân Phạm Ngọc Sang.

Thừa thắng, bộ binh và xe tăng của Quân đoàn 2 tiến đánh thị xã Phan Thiết.

Sáng 20-4, chúng tôi đến Xuân Lộc. Các đồng chí Lê Trọng Tấn và đồng chí Lê Quang Hòa nhanh chóng bắt liên lạc với Bộ Chỉ huy Mặt trận Sài Gòn. Cánh quân Duyên Hải trở thành cánh quân phía Đông trực thuộc Bộ Chỉ huy Mặt trận Sài Gòn. Cuộc tiến công thần tốc của cánh quân Duyên Hải với hơn 32.000 quân và 2.276 xe, pháo, tăng thiết giáp qua một chặng đường gần một nghìn ki lô mét, đánh địch mà đi là một đòn chiến lược sáng tạo, kịp thời, đánh thông tuyến đường số 1 từ Bắc vào Nam đến tận cửa ngõ phía Đông Sài Gòn, tăng thêm lực lượng cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng.

Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #287 vào lúc: 30 Tháng Tám, 2012, 04:18:54 pm »

6. Chiến dịch mang tên Bác

Đến Xuân Lộc, tôi được biết là từ ngày 9-4, Quân đoàn 4 do đồng chí Hoàng Cầm là Tư lệnh, đồng chí Hoàng Thế Thiện là Chính ủy, đã mở cuộc tiến công vào “cánh cửa thép” trên tuyến phòng ngự phía Đông của địch ở Sài Gòn. Nơi đây địch bố trí một lực lượng khá mạnh gồm sư đoàn 18 ngụy và một số đơn vị bảo an, cảnh sát, phòng ngự trong công sự kiên cố. Lê Minh Đảo sư đoàn trưởng ngụy hò hét: “tử thủ”. Trận đánh đã diễn ra phức tạp. Địch tăng viện thêm quân và dùng đến cả loại bom CBU có sức mạnh sát thương, hủy diệt lớn. Đồng chí Lê Trọng Tấn quyết định tăng cường cho Quân đoàn 4 Trung đoàn 95B (Sư đoàn 325) và pháo đạn để tiến công dứt điểm Xuân Lộc. Ngày 20-4 địch rút chạy khỏi Xuân Lộc. “Cánh cửa thép” phía Đông Sài Gòn đã bị mở toang.

Đồng chí Lê Quang Hòa về Bộ Chỉ huy Chiến dịch Sài Gòn - Gia Định. Anh cho tôi biết, Bộ Chính trị đã thành lập Bộ Chỉ huy chiến dịch, đồng chí Văn Tiến Dũng là Tư lệnh, đồng chí Phạm Hùng là Chính ủy, các đồng chí Trần Văn Trà, Lê Trọng Tấn, Lê Đức Anh, Đinh Đức Thiện là Phó Tư lệnh. Đồng chí Lê Quang Hòa là Phó Chính ủy kiêm Chủ nhiệm chính trị, còn đồng chí Lê Ngọc Hiền là quyền Tham mưu trưởng. Thể theo đề nghị của Bộ Chỉ huy chiến dịch, Bộ Chính trị đã đồng ý đặt tên Chiến dịch giải phóng Sài Gòn – Gia Định là Chiến dịch Hồ Chí Minh. Được phổ biến điều này, tất cả chúng tôi cũng như các đơn vị tham gia chiến dịch đều cảm thấy vinh dự được tham gia trận quyết chiến chiến lược cuối cùng mang tên vị lãnh tụ vô vàn kính yêu của dân tộc Việt Nam.

Hạ tuần tháng 4-1975, các lực lượng lớn của quân ta tham gia chiến dịch đã vào vị trí triển khai:

Ở hướng Bắc, Quân đoàn 1 từ miền Bắc vào đã có mặt ở khu vực nam sông Bé.

Ở hướng Tây Bắc, Quân đoàn 3 gồm các lực lượng ở Tây Nguyên đã đến Dầu Tiếng.

Ở hướng Tây và Nam, Đoàn 232 tương đương một quân đoàn do đồng chí Lê Đức Anh Phó Tư lệnh Bộ Chỉ huy chiến dịch trực tiếp chỉ huy đã áp sát đường số 4, Mỹ Tho.

Ở hướng Đông, Quân đoàn 4 sau khi giải phóng Xuân Lộc áp sát Trảng Bom. Quân đoàn 2, Sư đoàn 3 (Quân khu 5) đã áp sát Long Thành Vũng Tàu, Nước Trong Bà Rịa. Đồng chí Lê Trọng Tấn Tư lệnh cánh quân Duyên Hải nay là Phó Tư lệnh chiến dịch chỉ huy hướng này.

Tại Sài Gòn, các lực lượng biệt động, đặc công, các lực lượng của Thành đội Sài Gòn đã đứng sẵn ở vùng ven và nội đô, chuẩn bị phát động quần chúng nổi dậy khi chủ lực tiến công. Đồng chí Nguyễn Văn Linh Phó Bí thư Trung ương Cục, và đồng chí Võ Văn Kiệt Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục đặc trách phong trào nổi dậy của quần chúng.

Thế trận đã bày xong. Năm mục tiêu quan trọng đã được xác định: Dinh Tổng thống ngụy quyền, Bộ Tổng tham mưu quân ngụy, Sân bay Tân Sơn Nhất, Biệt Khu thủ đô và Tổng nha cảnh sát.

Giờ phút quyết định đã điểm.

Tôi đi theo cánh quân hướng Đông do đồng chí Lê TrọngTấn chỉ huy. Cánh quân này tiến công căn cứ Nước Trong, Chi khu quân sự Long Thành và thị xã Bà Rịa. Ở Nước Trong địch chống cự, dùng máy bay bắn phá và phản kích suốt cả ngày, Sư đoàn 304 mở nhiều đợt tấn công nhưng chưa dứt điểm. Anh Lê Trọng Tấn đôn đốc việc đánh chiếm căn cứ Nước Trong và nhất là việc triển khai trận địa pháo tầm xa ở Nhơn Trạch để bắn vào căn cứ không quân Tân Sơn Nhất.

Tối 28-4, tôi nghe đài phương Tây đưa tin: “Hồi 16 giờ 40 chiều, 5 chiếc máy bay A37 do Mỹ chế tạo đã dội bom xuống sân bay Tân Sơn Nhất”. Đó là phi đội Quyết thắng do phi công Nguyễn Thành Trung người của ta hoạt động trong hàng ngũ địch, trước đó đã ném bom dinh Tổng thống ngụy quyền và bay ra vùng giải phóng, nay huấn luyện các phi công ta sử dụng máy bay A37 của Mỹ ném bom vào sân bay Tân Sơn Nhất. Cuộc ném bom bất ngờ của Không quân Việt Nam đạt hiệu quả lớn về phá hủy máy bay và sân bay địch, nhưng hiệu quả tâm lý đối với quân ngụy còn lớn hơn nhiều.

Theo kế hoạch của Bộ Chỉ huy chiến dịch, 5 giờ 30 sáng 30 tháng 4, các hướng đồng loạt đánh vào Sài Gòn. Riêng cánh quân phía Đông, đồng chí Lê Trọng Tấn đề nghị cho nổ súng sớm từ 18 giờ ngày 29-4. Lý do là cánh quân phía Đông phải vượt sông Đồng Nai và sông Sài Gòn, nếu cùng nổ súng sẽ đến không kịp. Bộ Tổng Tư lệnh và Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh đồng ý để cánh quân phía Đông nổ súng sớm hơn kế hoạch. Như vậy trên thực tế, từ 18 giờ ngày 29-4-1975, trận tiến công Sài Gòn, Gia Định đã bắt đầu.

Sáng 30-4, binh đoàn thọc sâu của Quân đoàn 2 trong cánh quân phía Đông do đồng chí Lê Trọng Tấn chỉ huy vượt cầu xa lộ trên sông Đồng Nai, diệt ổ đề kháng của địch ở Thủ Đức phía Bắc cầu Rạch Chiếc. Trận địa pháo tầm xa của ta đặt ở Nhơn Trạch đã bắn mấy trăm viên đạn vào sân bay Tân Sơn Nhất.

Lữ đoàn xe tăng 203 của Quân đoàn 2 qua cầu Sài Gòn đến ngã tư thứ bảy thì rẽ trái đánh thẳng vào Dinh Độc lập. Xe tăng 843 dẫn đầu đến cổng dinh dừng lại, xe tăng 390 vượt lên húc đổ cổng dinh. Đại đội trưởng đại đội 4 xe tăng cầm cờ Giải phóng trèo lên cắm cờ trên nóc Dinh Độc lập lúc 11 giờ 30 ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Chính ủy Lữ đoàn xe tăng 203 Bùi Văn Tùng thảo lời đầu hàng và đưa Tổng thống Dương Văn Minh ra đài phát thanh đọc. Một nhà báo người Đức là Von Boris Gallasch đã cho bộ đội ta mượn chiếc cát xét thu lời đầu hàng của Dương Văn Minh và lời chấp nhận đầu hàng của Chính ủy Bùi Văn Tùng đại diện Quân giải phóng. Cho đến nay, bao năm tháng đã trôi qua, nhưng tôi không thể nào quên cảm xúc đã đến với tôi trong ngày lịch sử ấy khi tôi bước vào thảm cỏ khoảng sân trước Dinh Độc lập. Vui mừng khôn xiết nhưng bỗng dưng hai mắt nhòa ngấn lệ.

7. Đại thắng Mùa Xuân, thắng lợi của ý chí và trí tuệ Việt Nam

Quyết đánh và biết đánh, anh dũng và thông minh, đó là nét nổi bật của dân tộc Việt Nam trước kẻ thù xâm lược lớn mạnh. Trong cuộc trường chinh 30 năm giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, nhân dân Việt Nam đã nêu một tấm gương anh dũng, bất khuất, trí tuệ, tài năng, đi tiên phong trong phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Chiến thắng vĩ đại Mùa Xuân 1975 kết thúc cuộc Kháng chiến chống Mỹ cứu nước là một biểu hiện sáng ngời của ý chí và trí tuệ Việt Nam.

Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương đã theo dõi diễn biến mau lẹ của tình hình chiến sự và so sánh lực lượng giữa địch và ta trên chiến trường, tạo thời, tạo thế, tạo lực, tìm ra và tạo thời cơ có lợi nhất cho ta, tạo thế mạnh của ta, khoét sâu thế yếu của địch, tập trung lực lượng đánh những đòn quyết định để giành thắng lợi hoàn toàn. Khi tình hình thay đổi, đã kịp thời thay đổi quyết sách về chiến lược, chiến dịch, chiến thuật, tích cực chủ động, cơ động linh hoạt, bí mật bất ngờ, giành được thắng lợi lớn nhất trong một thời gian ngắn nhất.

Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương đã có quyết định kịp thời khi thời cơ mới xuất hiện, chuyển Kế hoạch cơ bản giải phóng miền Nam trong hai năm lúc đầu sang Kế hoạch thời cơ rút xuống một năm, rồi quyết định kết thúc trước mùa mưa, chỉ trong vòng chưa đầy hai tháng đã giành được thắng lợi hoàn toàn và trọn vẹn. Quyết đánh và biết đánh, anh dũng và thông minh, sáng tạo, đó là nét nổi bật trong sự chỉ đạo của Đảng và hành động của quân và dân ta trên chiến trường trong Mùa Xuân đại thắng 1975.

Trận quyết chiến chiến lược mùa Xuân 1975 là trận quyết định ở giai đoạn kết thúc chiến tranh. Trận quyết định kết thúc chiến tranh có yêu cầu đặc biệt là phải tiêu diệt lớn sinh lực địch, đập tan ý chí kháng cự của chúng, dồn đối phương vào một tình thế không còn có thể tiếp tục cuộc chiến tranh được nữa, buộc chúng phải đầu hàng vô điều kiện. Đó là đặc điểm của trận quyết định kết thúc chiến tranh và Đại thắng mùa Xuân 1975 là một trận quyết định như thế.

Thắng lợi của chiến tranh là kết quả của sự hy sinh chiến đấu lâu dài, sự nỗ lực to lớn của toàn dân toàn quân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong các nhân tố đưa đến thắng lợi, phải kể đến sự lãnh đạo điều hành chỉ huy ở tầm vĩ mô kết hợp với sự sáng tạo cụ thể của từng mặt trận, từng đơn vị, trong đó Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Mùa Xuân 1975, Bộ thống soái tối cao đã tỏ rõ tài năng mưu lược hiểu địch, hiểu mình, điều hành toàn diện cuộc chiến tranh trên phạm vi cả nước, khẩn trương, linh hoạt, thận trọng, chắc thắng, giành toàn thắng trong tình hình quốc tế vô cùng phức tạp lúc đó. Các đòn tiến công chiến lược: chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế - Đà Nẵng, chiến dịch Hồ Chí Minh đều diễn ra theo một kế hoạch thống nhất của Bộ Tổng tư lệnh, có sự phối hợp với nhau cả về kế hoạch và tình huống chiến dịch, tạo tiền đề cho nhau và cùng tạo ra điều kiện để hình thành đòn quyết định chiến lược cuối cùng.

Suy nghĩ về chiến công oanh liệt của dân tộc Việt Nam ở giai đoạn kết thúc chiến tranh, chúng ta thấy Đại thắng Mùa Xuân năm 1975 là điển hình thành công của ý chí quyết tâm và tài năng trí tuệ của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, bộ tham mưu cách mạng dũng cảm, sáng suốt, dày dạn kinh nghiệm. đã lãnh đạo chiến tranh đến ngày toàn thắng. Xuất phát từ thực tiễn và những phân tích chính xác về tình hình, từ đó đề ra những quyết sách đột phá phù hợp với quy luật vận động của chiến tranh cách mạng, đã đưa cuộc kháng chiến đến toàn thắng. Đó là bài học lịch sử còn nguyên giá trị cho tới ngày nay và mai sau trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc./.

(Nguồn: Tạp chí Cộng sản)
Logged
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #288 vào lúc: 07 Tháng Tám, 2013, 05:28:14 pm »

Xem ở đây http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php/topic,22547.msg379021.html#msg379021 thấy ảnh này lại phân vân không biết thời điểm cắm cờ trên dinh Độc lập và thời điểm chụp ảnh này (đầy tăng pháo) mà vẫn thấy cờ của VNCH còn bay trên đỉnh dinh. Đáng nhẽ tất cả quân ta phải tìm cách hạ cái cờ ấy bằng mọi cách nhanh nhất có thể mà sao vẫn để nó phấp phới trên ấy? Không biết lúc đó Bác Thận ở đâu nhỉ?


Lại thêm cái tăng có cờ gì mà nửa đỏ nửa trắng nữa?
« Sửa lần cuối: 07 Tháng Tám, 2013, 06:18:55 pm gửi bởi Giangtvx » Logged

lixeta
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 1531


« Trả lời #289 vào lúc: 07 Tháng Tám, 2013, 09:43:49 pm »

Xem ở đây http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php/topic,22547.msg379021.html#msg379021 thấy ảnh này lại phân vân không biết thời điểm cắm cờ trên dinh Độc lập và thời điểm chụp ảnh này (đầy tăng pháo) mà vẫn thấy cờ của VNCH còn bay trên đỉnh dinh. Đáng nhẽ tất cả quân ta phải tìm cách hạ cái cờ ấy bằng mọi cách nhanh nhất có thể mà sao vẫn để nó phấp phới trên ấy? Không biết lúc đó Bác Thận ở đâu nhỉ?


Lại thêm cái tăng có cờ gì mà nửa đỏ nửa trắng nữa?

Tất nhiên tấm ảnh này được chụp vào thời điểm bác Bùi Quang Thận chưa cắm cờ. Có lẽ lúc này bác ấy còn đang loay hoay trong thang máy chăng.
Tuy nhiên, nhìn vào ảnh ta thấy những chiếc xe này vẫn chưa vào trong sân dinh mà còn đang nằm ở đoạn cuối đại lộ Thống Nhất phía trước cổng dinh, đoạn ngang với công viên cây xanh trước cửa dinh. Chỉ ở đây mới có cây to như thế chứ bên trong cổng dinh, ở hướng chính diện trước dinh không hề có một cây nào cả. Ngoài ra có thể nhìn thấy những cái cự mã bằng sắt sơn trắng đỏ mà bọn lính gác cổng xếp đày trước cổng vẫn còn nằm ở phía trước. Điều này cũng dễ hiểu thôi vì lúc này cả lữ đoàn 203 với khoảng 60 Tăng và TG đang tiến vào, khoảng cách giữa các xe cũng không lớn lắm. Chỉ vài phút sau là xe tăng sẽ nhièu như cua trong sân dinh rồi.
Còn lá cờ cắm trên xe 988 thế mà bạn không nhận ra ư? Cờ giải phóng đấy: nửa trên màu đỏ, nửa dưới màu xanh hòa bình. Nhưng nắng gió, bụi bậm... sau cả ngàn km hành quân, chiến đấu đã làm nó bợt bạt đi như thế đấy. Đơn giản vậy thôi!
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM