Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 03:50:15 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 - Tập 3  (Đọc 100064 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #10 vào lúc: 24 Tháng Hai, 2010, 09:41:56 pm »


Ngày 3-3-1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 09/SL bổ nhiệm Trung tướng Song Hào làm chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.

Trong phiên họp ngày 23-3-1961, Thường trực Quân uỷ quyết định phương hướng chi viện cho miền Nam.

Về người: Chọn các cán bộ và nhân viên công tác các ngành cần thiết, có kinh nghiệm vào xây dựng lực lượng tại chỗ cho miền Nam. Các đơn vị quân đội được tổ chức theo khung cán bộ hoặc đơn vị đầy đủ đưa vào làm nòng cốt cho việc xây dựng lực lượng vũ trang miền Nam và trực tiếp chiến đấu.

Về vật chất: chủ yếu trước hết là vũ khí, khí tài quân sự rồi đến thuốc men và các phương tiện khác.

Về đường chi viện: đường bộ, đường không, đường thuỷ, trong đó đường bộ là cơ bản thường xuyên, đường thuỷ, đường không dùng vào các chuyến, các thời điểm đột xuất.

Đường bộ tổ chức theo ba hướng: đường trong nước, đường dọc theo biên giới Việt - Lào và đường đi sâu vào nội địa đất bạn Lào. Đường không, lấy thả dù làm chính, trước mắt nhờ bạn Lào cho sử dụng sân bay Sêpôn để chuyên chở hàng chi viện tập kết rồi chuyển tiếp vào Nam bằng đường bộ. Đường thuỷ từ hậu phương lớn dùng tàu thuyền đưa hàng đến các bến bãi dọc theo bờ biển; các tỉnh miền Nam đưa thuyền ra Bắc lấy hàng ở các bến bãi quy định, nếu đi dọc đường gặp thuyền từ Bắc vào thì nhận chuyển hàng giữa đường1.

Riêng vũ khí cho miền Nam, Quân uỷ chủ trương tận dụng sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc và số vũ khí chiến lợi phẩm của Mỹ, Pháp ta đang có trong tay để trang bị cho miền Nam. Song quá trình chi viện, phải tuyệt đối bí mật, không để ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa Liên Xô, Trung Quốc với Mỹ và bảo vệ công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, giữ bí mật việc xây dựng lực lượng ở miền Nam, không để lộ sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam. Vũ khí và hàng chi viện cho miền Nam do Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa viện trợ trong thời kỳ này được xoá hết nhãn hiệu. Trong khi hậu phương lớn tìm mọi cách để tiếp tế, trang bị vũ khí kỹ thuật cho miền Nam, Quân uỷ cũng kêu gọi: “quân và dân miền Nam hãy nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh lấy súng giặc giết giặc”; “có súng gì đánh giặc bằng súng ấy”2.

Song song với các chủ trương chi viện về người và vật chất cho miền Nam, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, chỉ thị cho các tỉnh Nam Bộ tổ chức lực lượng tiếp nhận vũ khí từ miền Bắc chuyển vào, đồng thời giao nhiệm vụ cho Cục Hải quân nghiên cứu đường vận chuyển chiến lược trên biển để phục vụ cho hoạt động chi viện chiến trường.

Thực hiện nghị quyết Bộ Chính trị và các chỉ thị của Quân ủy Trung ương, từ tháng 5-1961, các đoàn cán bộ quân sự đầu tiên tăng cường cho miền Nam đã lên đường. Đoàn lớn thứ nhất xuất phát từ Xuân Mai (Hoà Bình) ngày 5-5-1961 theo đường Tây Trường Sơn hành quân vào chiến trường cực Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Đoàn có 500 người, hầu hết là cán bộ trung cao cấp do thiếu tướng Trần Văn Quang dẫn đầu. Đoàn lên đường vào lúc Liên Xô phóng thành công con tàu vũ trụ mang tên “Phương Đông” đưa con người đầu tiên vào vũ trụ. Để chào mừng sự kiện lịch sử này, đoàn mang tên “Đoàn Phương Đông”. Sau gần ba tháng hành quân vất vả, ngày 28-7-1961, đoàn đến vị trí tập kết ở đồi 300 (Bình Long).

Giữa lúc đoàn thứ nhất còn đang len lỏi trong các cánh rừng rậm rạp trên đường Trường Sơn, thì ngày 1-6-1961, đoàn cán bộ quân sự thứ hai đã xuất phát. Đoàn gồm 400 người do đồng chí Nguyễn Hoàng Lâm (tức Nguyễn Văn Bứa) và Lê Quốc Sản dẫn đầu. Đầu tháng 9-1961, đoàn đến vị trí tập kết.

Để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, chỉ huy thống nhất trong tình hình các chiến trường ở miền Nam bị chia cắt phức tạp Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định điều chỉnh lại địa giới các khu và thành lập các Bộ tư lệnh quân khu.

Ngày 15-2-1961, các lực lượng vũ trang miền Nam được thống nhất thành Quân giải phóng miền Nam. Đồng chí Trần Văn Quang được giao phụ trách về quân sự, đồng chí Trần Lương phụ trách chính trị.

Cùng thời gian này, toàn Nam Bộ được chia thành bốn quân khu: Quân khu miền Đông Nam Bộ (T1), miền Trung Nam Bộ (T2), miền Tây Nam Bộ (T3) và Quân khu Sài Gòn - Gia Định (T4). Các đồng chí Nguyện Hữu Xuyến, Lê Quốc Sản, Cao Hoài Phô, Trần Hải Phụng được bổ nhiệm làm Tư lệnh các quân khu này.
__________________________________________
1, 2. Tóm lược theo hồ sơ 259, phông Quân uỷ Trung ương, Lưu trữ Bộ Quốc phòng.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #11 vào lúc: 24 Tháng Hai, 2010, 09:42:48 pm »


Ngày 27-7-1961, Bộ Tư lệnh Quân khu V, Quân khu VI được thành lập. Miền Trung (Liên khu V), chia thành hai khu: Khu V gồm các tỉnh: Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Kon Tum, Gia Lai. Đồng chí Võ Chí Công, Ủy viên Trung ương Đảng, làm Bí thư Khu ủy; đồng chí Nguyễn Đôn, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, làm Tư lệnh kiêm chính uỷ, đồng chí Võ Thư, tham mưu trưởng, Đặng Hoà chủ nhiệm chính trị và đồng chí Nguyễn Tuấn Tài (Trần Kiên), chủ nhiệm hậu cần. Khu VI gồm các tỉnh: Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đắc Lắc, Quảng Đức, Tuyên Đức, Lâm Đồng. Đồng chí Trần Lê - Uỷ viên dự khuyết Trung ương Đảng làm Bí thư Khu uỷ; đồng chí Y Blok quyền Tư lệnh Quân khu, đồng chí Nguyễn Mơ (Tư Khiêm) chính uỷ, đồng chí Nguyễn Trọng Xuyên (Sáu Phúc), tham mưu trưởng, đồng chí Trần Phòng (Bảy Kiên), chủ nhiệm hậu cần1.

Về mặt lãnh đạo và chỉ huy: Khu V trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Khu VI chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Cục.

Là một quân khu tiếp giáp với miền Bắc xã hội chủ nghĩa - hậu phương lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, được sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương, Khu uỷ khu V đã nghiên cứu, quán triệt bàn biện pháp thực hiện Nghị quyết Bộ Chính trị (1-1961) và chỉ thị của Quân uỷ Trung ương sao cho sát đúng với điều kiện cụ thể của chiến trường. Qua nghiên cứu, đối chiếu với tình hình trong toàn khu, Khu uỷ khu V quyết định: “Đẩy mạnh tiến công địch cả về chính trị và quân sự, nhằm tiếp tục củng cố và mở rộng căn cứ địa miền núi, xây dựng miền núi thành căn cứ địa vững chắc, kiên quyết phá thế kìm kẹp ở đồng bằng, phát động và tổ chức quần chúng, đưa phong trào đồng bằng tiến lên”2.

Để giúp Khu uỷ chỉ đạo đấu tranh vũ trang và xây dựng lực lượng vũ trang, sau khi Bộ Tư lệnh quân khu được thành lập (7-1961), Khu uỷ đề nghị Trung ương cho thành lập Đảng uỷ quân khu. Căn cứ vào nghị quyết của Khu uỷ và tình hình chung trong khu, Quân khu uỷ xác định những vấn đề quân sự cần tập trung giải quyết để trong một thời gian ngắn nhất, với sự cố gắng cao nhất, khắc phục sự chưa đồng đều giữa vũ trang và chính trị trong toàn khu, làm cho hai mặt này cùng phát triển, có thể phối hợp với nhau trong những thời cơ quyết định, khắc phục sự mất cân đối trong sự phát triển giữa lực lượng vũ trang tập trung và du kích, giữa tác chiến tập trung và tác chiến phân tán.

Về tổ chức lực lượng, Quân khu uỷ quyết định nhanh chóng biên chế các đơn vị mới từ miền Bắc vào, sáp nhập các đơn vị đã có của khu vào các đơn vị mới, rút một số chiến sĩ trong các đơn vị tập trung của các tỉnh để bổ sung cho chủ lực.

Trong lúc khu V còn trăn trở về tổ chức và xây dựng lực lượng, thì tháng 9-1961, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương thông qua đề án xây dựng lực lượng vũ trang miền Nam trong những năm 1961-1963 do Bộ Tổng tham mưu chuẩn bị.

Theo đề án này, bên cạnh việc phát triển lực lượng tại chỗ, ta sẽ đưa từ ba đến bốn vạn chiến sĩ được huấn luyện chính quy ở miền Bắc vào chiến trường miền Nam. Tất cả cán bộ, chiến sĩ quê ở miền Nam, hoặc đã từng chiến đấu, công tác ở miền Nam, dù ở bất kỳ cương vị công tác nào trên miền Bắc, được đăng ký, bồi dưỡng về chính trị, quân sự, được rèn luyện về thể lực để sẵn sàng làm nhiệm vụ ở chiến trường. Các xí nghiệp quốc phòng khẩn trương sửa chữa súng trường, tiểu liên, súng cối và sản xuất đạn, lựu đạn... cung cấp kịp yêu cầu trước mắt của lực lượng vũ trang miền Nam. Đoàn vận tải 559 tăng quân số lên khoảng từ 2000 đến 3000 người, sử dụng nhiều loại phương tiện bảo đảm cho bộ đội hành quân và đẩy mạnh vận chuyển vào chiến trường.

Với những chủ trương đúng đắn và nỗ lực cao của Đảng và nhân dân, lực lượng vũ trang ba thứ quân ở miền Nam nhanh chóng được xây dựng, trưởng thành về mọi mặt.

Đến cuối năm 1961, bộ đội chủ lực thuộc các quân khu đã xây dựng được 11 tiểu đoàn, gồm 6 tiểu đoàn ở khu V, 5 tiểu đoàn ở Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ. Mỗi tiểu đoàn khoảng 500 người, biên chế từ hai đến ba đại đội bộ binh, một đại đội đặc công, một đại đội (hoặc trung đội) trợ chiến và các phân đội đảm bảo, trang bị chủ yếu là vũ khí từ miền Bắc đưa vào và vũ khí thu được của địch.

Bộ đội địa phương tỉnh, huyện có khoảng 24.500 cán bộ chiến sĩ. Mỗi huyện tổ chức được một trung đội hoặc một đại đội, tỉnh có từ một đến hai đại đội bộ binh hoặc đặc công, trang bị chủ yếu vũ khí thu được của địch. Ở khu V, một số đơn vị đã được trang bị vũ khí từ nguồn tiếp tế ở miền Bắc vào.

Du kích, tự vệ có khoảng 100.000 người, trong đó 70.000 ở Nam Bộ, 30.000 ở khu V. Nhiều xã giải phóng tổ chức được trung đội du kích tập trung, trang bị các loại vũ khí tự tạo và một số súng thu được của địch.
__________________________________________
1. Ngày thành lập các quân khu và Bộ tư lệnh theo sách: “50 năm Quân đội nhân dân Việt Nam - Biên niên sự kiện”, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995, tr.169, 173.
2. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.2, tr.178.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #12 vào lúc: 24 Tháng Hai, 2010, 09:43:10 pm »


Tháng 7-1961, Trung ương Cục quyết định thành lập trung đoàn chủ lực Miền mang mật danh Q761. Trung đoàn gồm hai tiểu đoàn bộ binh, một số phân đội trợ chiến và ba cơ quan: tham mưu, chính trị, hậu cần. Trung đoàn trưởng là đồng chí Tăng Kim Thiên (tức Hoàng Đình Chương); Chính uỷ là đồng chí Lê Văn Nhỏ (Hai Lâm). Ngày 9-2-1961, tiểu đoàn 1, tiểu đoàn 2 làm lễ ra mắt tại chiến khu Dương Minh Châu (Tây Ninh). Mãi đến ngày 9-2-1962, hai tiểu đoàn 1 và 2 cùng các đơn vị trực thuộc được bổ sung đủ quân số, Q761 (c56) mới chính thức làm lễ ra mắt tại Trảng Dài (Tây Ninh) và mang tên trung đoàn 1 bộ binh.

Sự ra đời của Trung đoàn 1 (Q761) đánh dấu bước phát triển mới của lực lượng chủ lực Quân giải phóng trong năm đầu đối phó với chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ.

Cùng với sự hình thành, phát triển của lực lượng vũ trang ba thứ quân, các trường quân chính Quân khu V (11-4), Trường quân chính sơ cấp Miền (27-8), Trường quân chính Quân khu IX (cuối năm 1961)... được thành lập để đào tạo huấn luyện cán bộ tại chiến trường. Các căn cứ hậu cần ở các chiến trường cũng được xây dựng để bảo đảm vật chất, trang bị kỹ thuật cho các đơn vị. Trong năm 1961, ta xây dựng được 16 căn cứ hậu cần: Căn cứ A (gọi là U50) ở chiến khu Đ, căn cứ B (U60) ở chiến khu Dương Minh Châu trực thuộc Miền. Quân khu miền Đông Nam Bộ có hai căn cứ ở bắc sông Đồng Nai và chiến khu D. Miền Trung Nam Bộ có năm căn cứ ở Đồng Tháp Mười, vùng 4 Kiến Tường, nam bắc lộ 4 tỉnh Mỹ Tho, vùng Long An và Chợ Gạo (thuộc Tiền Giang). Miền Tây Nam Bộ có ba căn cứ ở U Minh, Đầm Dơi, Năm Căn. Sài Gòn - Gia Định có hai căn cứ ở An Nhơn Tây và Hố Bò. Quân khu V lập hai kho hậu cần ở A Sầu, A Túc để tiếp nhận hàng chi viện từ miền Bắc vào.

Các vùng giải phóng trong cuộc đồng khởi, nhân dân thành lập các Uỷ ban mặt trận làm chức năng của chính quyền cách mạng, đã tổ chức ra các đoàn thể quần chúng và chia gần năm vạn héc ta ruộng đất cho nông dân, cùng với việc mở rộng và chăm lo đời sống tinh thần, văn hoá, giáo dục, y tế v.v... cho nhân dân. Cách mạng đã đem lại cho nhân dân các vùng giải phóng những quyền lợi thiết thực, tuy còn ít, nhưng nó đã tạo nên không khí phấn khởi, tin tưởng trong nhân dân.

Tất cả những kết quả trên đây đánh dấu sự chuyển biến nhảy vọt về chất của cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta sau một năm đồng khởi, tạo cho ta một thế mới, lực mới để bước vào cuộc kháng chiến.

Trên cơ sở tạo lập được các vốn quý ban đầu rất cơ bản đó, giữa năm 1961, Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh ra chỉ thị đẩy mạnh hoạt động vũ trang ở miền Nam lên một bước mới song song với đấu tranh chính trị. Trong chỉ thị này, Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh nhận định, quân ngụy lực lượng chiến lược nòng cốt của chiến tranh đặc biệt được xây dựng công phu, trang bị mạnh, nhưng tinh thần sa sút, ý chí chiến đấu giảm; song được Mỹ ra sức giúp đỡ về mọi mặt, quân ngụy và chính quyền Diệm vẫn đứng vững, Mỹ lại tăng cường viện trợ vũ khí, kỹ thuật hiện đại, đưa dần lực lượng thuộc các binh chủng kỹ thuật Mỹ vào hỗ trợ cho quân ngụy và làm nhiệm vụ huấn luyện, chuẩn bị cho chiến trường đánh lớn.

Lực lượng vũ trang của ta ở miền Nam, tuy đã có một bước phát triển, nhưng chưa tương xứng với lực lượng chính trị của quần chúng. Về trang bị vũ khí, kỹ thuật, còn nhiều hạn chế. Song ta có mục tiêu, lý tưởng chiến đấu rõ ràng, lại có kinh nghiệm của 9 năm đánh Pháp, những năm hoạt động bí mật, đặc biệt có khí thế của phong trào đồng khởi cổ vũ mạnh mẽ.

Căn cứ vào so sánh lực lượng, thế và lực của ta trên chiến trường, Quân uỷ Trung ương đã đề ra nhiệm vụ đấu tranh vũ trang là:

1. Đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh quân sự và xây dựng lực lượng vũ trang, phục vụ và kết hợp với đấu tranh chính trị đẩy cách mạng tiến lên.

2. Phối hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị, tiêu hao và tiêu diệt sinh lực địch, làm tan rã quân đội và chính quyền địch, bồi dưỡng lực lượng ta.

3. Xây dựng, củng cố và mở rộng căn cứ địa làm bàn đạp cho lực lượng vũ trang.

Ba nhiệm vụ này liên quan chặt chẽ với nhau, tác động qua lại, hỗ trợ lẫn nhau, trong đó nhiệm vụ tiêu diệt sinh lực địch được xác định là quan trọng nhất.

Quân uỷ Trung ương nhắc nhở các đơn vị đấu tranh vũ trang phải tiến hành từng bước, tránh manh động dẫn đến khởi nghĩa non. Phương châm tác chiến hiện nay của ta là du kích chiến, dần dần sẽ kết hợp một cách thích hợp du kích chiến với vận động chiến. Tư tưởng chỉ đạo là: Mọi hoạt động quân sự phải phục tùng chính trị, không đánh những trận không có lợi về mặt chính trị, đánh chắc thắng, không chắc thắng không đánh, tránh chủ quan, khinh địch. Mọi cấp, mọi người phải quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công, lấy tiến công làm chủ yếu, đồng thời, phải biết phòng ngự tích cực, chú trọng giữ và chiếm những vùng chiến lược quan trọng khi có điều kiện. Kết hợp tác chiến với dân vận, địch vận, chủ động trong hành động và giữ bí mật lực lượng, không để bị địch bất ngờ tiến công.

Chỉ thị về đẩy mạnh hoạt động vũ trang ở miền Nam cũng như các chỉ thị khác của Quân uỷ Trung ương, của Trung ương Cục và Khu uỷ Khu V đã cụ thể hoá từng mặt các nội dung mà nghị quyết Bộ Chính trị tháng 1-1961 đã đề ra.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #13 vào lúc: 24 Tháng Hai, 2010, 09:46:35 pm »


Tháng 10-1961, Trung ương Cục triệu tập hội nghị mở rộng bàn việc thực hiện nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam. Đây là Hội nghị đầu tiên của Trung ương Cục kể từ khi thành lập lại. Dự hội nghị có đầy đủ các đồng chí trong Trung ương Cục, các bí thư khu uỷ, tỉnh uỷ. Đồng chí Nguyễn Văn Linh, Bí thư Trung ương Cục, chủ trì hội nghị.

Hội nghị xác định: “Con đường phát triển có lợi nhất của cách mạng miền Nam là dùng đấu tranh chính trị và vũ trang song song kết hợp, coi đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang đều là cơ bản để tạo điều kiện và tranh thủ thời cơ tiến tới Tổng khởi nghĩa”. Muốn vậy, phải dựa vào lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang. Tác dụng của lực lượng chính trị bao giờ cũng rất quan trọng, càng phát huy được tác dụng của lực lượng chính trị thì lực lượng vũ trang càng phát triển và cuộc đấu tranh cách mạng bớt đổ máu, quân thù càng dễ tan rã và bị đánh đổ một cách mau lẹ. Nhưng, dưới chế độ độc tài phát xít của Mỹ - Diệm, kẻ thù đang dùng lực lượng quân sự để đàn áp cách mạng, nếu chỉ có lực lượng chính trị, thì không thể duy trì và phát triển được phong trào cách mạng. Cho nên, lực lượng vũ trang càng mạnh, tiêu hao, tiêu diệt sinh lực càng nhiều, thì càng thúc đẩy phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng chống sự đàn áp của địch, càng nhanh làm thay đổi tình hình so sánh lực lượng giữa ta và địch có lợi cho cách mạng, ta có điều kiện tiến lên giành thắng lợi lớn hơn.

Từ phân tích cụ thể nói trên, Trung ương Cục đề ra nhiệm vụ đấu tranh vũ trang trong giai đoạn này là:

1. Kết hợp với đấu tranh chính trị rộng lớn của quần chúng, thúc đẩy và hỗ trợ cuộc đấu tranh chính trị ngày càng mạnh, chống lại sự áp bức, bóc lột hằng ngày, làm tan rã bộ máy kìm kẹp của địch ở ấp, xã, quận, v.v… làm cho phong trào chính trị và ưu thế chính trị của quần chúng ngày càng củng cố và phát triển không ngừng.

2. Tiêu diệt sinh lực địch, kết hợp với đấu tranh chính trị của quần chúng và công tác binh vận, làm tan rã từng phần quân đội và chính quyền ngụy, phá hoại âm mưu bắt lính, dồn dân, cướp của và mọi âm mưu khác của địch.

3. Tích cực xây dựng, phát triển và tích luỹ lực lượng vũ trang của ta cả về số lượng và chất lượng, làm cho lực lượng đó không những theo kịp sự phát triển của phong trào chính trị, bảo vệ được những thành quả của đấu tranh chính trị, mà còn đủ khả năng tiêu diệt sinh lực địch ngày càng nhiều, làm cho công cụ chủ yếu của địch là quân đội của chúng ngày càng yếu, thay đổi tình hình so sánh lực lượng giữa ta và địch có lợi cho cách mạng và ta có đủ lực lượng vũ trang bảo đảm cho thắng lợi cuối cùng của cuộc khởi nghĩa.

4. Xây dựng, củng cố và mở rộng căn cứ địa ở rừng núi và những vùng ở nông thôn có điều kiện, kết hợp với phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, làm suy yếu và tan rã chính quyền địch ở nông thôn, củng cố và mở rộng các hình thức chính quyền cách mạng.

Thực hiện được những nhiệm vụ nói trên sẽ làm cho địch ngày càng suy yếu, ta ngày càng lớn mạnh, tạo điều kiện thuận lợi để tiến lên tổng công kích, tổng khởi nghĩa.

Ở những vùng rừng núi và một số vùng nông thôn rộng lớn xa địch, có điều kiện chính trị và địa hình thuận lợi thì dùng mọi hình thức đấu tranh vũ trang để tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng và giữ vững căn cứ địa.

Ở các vùng đồng bằng, nói chung, đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang cần song song phát triển. Đấu tranh vũ trang có tác dụng thúc đẩy cho phong trào đấu tranh chính trị, kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị của quần chúng để tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, làm suy yếu bộ máy kìm kẹp của địch, củng cố và mở rộng thắng lợi của quần chúng.

Ở đô thị, vùng phụ cận đô thị và căn cứ chiến lược quan trọng của địch, thì đấu tranh chính trị là chủ yếu. Ở những vùng này, tuỳ tình hình và yêu cầu cụ thể của phong trào chính trị, có thể dùng lực lượng vũ trang để trừ gian, phát động quần chúng, nhưng nhiệm vụ chủ yếu của quân sự là chuẩn bị chiến trường và tổ chức lực lượng vũ trang bí mật (lực lượng ngầm).

Về tác chiến, Trung ương Cục chủ trương: Vừa chú trọng đánh địch ở rừng núi, ở vùng giáp ranh căn cứ, đồng thời, phải hết sức chú trọng và khôn khéo đưa lực lượng vũ trang vào sâu trong vùng địch sơ hở ở đồng bằng để tiêu hao, tiêu diệt từng bộ phận địch, hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, phân tán lực lượng địch trên một quy mô lớn, phá thế kìm kẹp địch ngày một nhiều.


*
*   *


Sau sáu năm bền bỉ đấu tranh, nhân dân ta ở miền Nam đã làm cuộc đồng khởi thắng lợi, đập tan cơ sở hạ tầng của chế độ thực dân kiểu mới ở nhiều vùng nông thôn, đẩy Mỹ, ngụy vào thế bị động chiến lược. Để cứu nguy cho chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam, Mỹ núp dưới chiêu bài thực hiện những cam kết giữa Chính phủ Hoa Kỳ với tập đoàn tay sai Diệm - Nhu để phát động cuộc chiến tranh đặc biệt chống lại nhân dân ta. Mỹ cử nhiều phái đoàn cao cấp sang miền Nam nghiên cứu, vạch kế hoạch dùng quân ngụy do Mỹ huấn luyện, trang bị, chỉ huy mở những cuộc hành quân càn quét nhằm tiêu diệt lực lượng vũ trang cách mạng và dồn dân vào ấp chiến lược. Đồng thời với việc đẩy mạnh càn quét, ném bom, bắn phá, Mỹ thúc ép Diệm “mở rộng dân chủ” để họ có điều kiện nắm chắc nội bộ bọn tay sai và dễ dàng điều khiển chúng theo ý muốn. Mỹ còn gợi ý Diệm là thoả thuận để Mỹ đưa quân vào tham chiến. Ngô Đình Diệm muốn nhận viện trợ của Mỹ, nhưng chưa chấp nhận sự có mặt của quân Mỹ ở miền Nam. Diệm cho rằng tình hình chưa đến mức nguy ngập cần sự có mặt của quân đội Mỹ. Thực chất là Diệm sợ sự dính líu của quân Mỹ ở miền Nam, hắn sẽ mất quyền kiểm soát và vị trí của hắn sẽ lung lay. Mặt khác, Ngô Đình Diệm còn tính toán nếu quân Mỹ đưa quân vào miền Nam thì có thể quân Trung Quốc cũng vào miền Bắc Việt Nam giúp Hà Nội. Mặc dù vậy, Oa sinh tơn vẫn tin Ngô Đình Diệm là con người theo Mỹ đến cùng. Xét trên các mặt Mỹ chưa tìm được tên tay sai nào tin cậy hơn Diệm, nên vẫn ủng hộ Diệm, có chăng là yêu cầu loại bỏ vợ chồng Ngô Đình Nhu để xoa dịu dư luận lên án chế độ gia đình trị họ Ngô.

Mỹ vừa ủng hộ Diệm, vừa tìm chọn tay sai mới, vừa dùng các mánh khoé xảo quyệt đưa dần quân Mỹ vào dưới dạng những đơn vị binh chủng kỹ thuật không quân, hải quân, thông tin hoàn chỉnh cấp đại đội, tiểu đoàn, đứng chân ở các vị trí chiến lược. Mặt khác, chúng đưa nhân viên chuyên môn, kỹ thuật, vật tư vào với danh nghĩa giúp chính quyền Diệm xây dựng cơ sở hạ tầng, sân bay, bến cảng, đường giao thông, thông tin liên lạc..., nhưng thực chất là chuẩn bị cho quân Mỹ vào sau này.


*
*   *


Trước tình thế Mỹ gây ra cuộc chiến tranh “dùng người Việt đánh người Việt”, Đảng ta chủ trương và hạ quyết tâm tiếp tục cuộc kháng chiến chống xâm lược. Phong trào cách mạng miền Nam tuy phải trải qua những bước tuần tự từ khởi nghĩa từng phần phát triển thành chiến tranh cách mạng, tiến đến tổng công kích, tổng khởi nghĩa, nhưng Đảng ta, nhân dân ta sẵn sàng chuẩn bị cho những bước nhảy vọt đột biến. Do đó, ta phấn đấu tích luỹ lực lượng, làm chuyển biến từng bước các mặt đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao, binh vận, làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch, giành thắng lợi từng bước. Trong bước chuyển giai đoạn từ đồng khởi phát triển thành chiến tranh cách mạng, nhân dân, lực lượng vũ trang ta ở miền Nam sẽ vượt qua mọi khó khăn để biến những chủ trương và đường lối kháng chiến của Đảng thành hiện thực linh động trên chiến trường, đẩy mạnh đấu tranh quân sự lên song song đấu tranh chính trị, đánh địch trên cả ba vùng chiến lược, làm thất bại từng bước dẫn đến thất bại hoàn toàn âm mưu và hành động chiến tranh của Mỹ.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #14 vào lúc: 25 Tháng Hai, 2010, 09:48:50 pm »


Chương X
XÂY DỰNG MIỀN BẮC VỮNG MẠNH - HẬU PHƯƠNG CHIẾN LƯỢC
CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ


I. MIỀN BẮC ĐẨY MẠNH XÂY DỰNG KINH TẾ - XÃ HỘI THEO KẾ HOẠCH NĂM NĂM LẦN THỨ NHẤT


Giữa lúc cuộc đồng khởi ở miền Nam giành được thắng lợi to lớn và công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, khôi phục kinh tế trên miền Bắc đạt kết quả tốt đẹp, làm cho xã hội miền Bắc biến đổi sâu sắc trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, quốc phòng - an ninh, bộ mặt nông thôn bừng lên khí thế mới, thì Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam được triệu tập. Đại hội khai mạc ngày 5-9-1960 có 525 đại biểu chính thức và 56 dự khuyết, thay mặt hơn 50 vạn đảng viên trong cả nước về dự đại hội. Trong diễn văn khai mạc đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ mục đích đại hội Đảng lần này là: “Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hoà bình thống nhất nước nhà”1.

Đại hội kiểm điểm công tác của Đảng từ Đại hội lần thứ II (2-1951) đến năm 1960, tổng kết những bài học kinh nghiệm lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc dân chủ và cải tạo xã hội chủ nghĩa, vạch ra đường lối cách mạng cả nước và cho mỗi miền. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và nhân dân ta đã thu được những thắng lợi to lớn, song cũng mắc phải một số sai lầm, khuyết điểm. Đại hội nghiêm khắc tự kiểm điểm, không che dấu khuyết điểm, trái lại, thẳng thắn tự phê bình và tích cực sửa chữa. Xuất phát từ sự phân tích sâu sắc bối cảnh lịch sử trong nước và quốc tế, đặc điểm của Việt Nam từ sau năm 1954, đại hội đề ra nhiệm vụ cho cách mạng cả nước là: “Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hoà bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời, đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới”2.

Đại hội chỉ rõ cách mạng Việt Nam có hai nhiệm vụ:

- Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.

- Giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước.

Hai nhiệm vụ chiến lược này có quan hệ mật thiết và tác động, thúc đẩy lẫn nhau, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu chung của cách mạng Việt Nam. Trong hai nhiệm vụ Đảng ta xác định “xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà”3. Miền Bắc càng tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, thì càng có cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam. Ngược lại “Đồng bào ta ở miền Nam có nhiệm vụ trực tiếp đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng để giải phóng miền Nam”4. Phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam càng dâng cao, từng bước làm thất bại mọi âm mưu mở rộng chiến tranh của Mỹ, ngụy, thì miền Bắc càng có điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội và tăng cường chi viện cho miền Nam.

Về cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, Đại hội đề ra: “Đoàn kết toàn dân, phát huy tinh thần yêu nước nồng nàn và truyền thống phấn đấu anh dũng, lao động cần cù của nhân dân ta, đồng thời, tăng cường đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa anh em... để đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà”5.
_____________________________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.10, tr.198.
2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam, Văn kiện đại hội Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam xuất bản, Hà Nội, 1960, t.1, tr.175.
3 - 5. Văn kiện Đại hội, sđd, t.1, tr.33, 84, 175.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #15 vào lúc: 25 Tháng Hai, 2010, 09:50:40 pm »


Để đạt được mục tiêu trên đây trong thời kỳ quá độ đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội Đảng đề ra năm nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch kinh tế, văn hoá, xã hội năm năm lần thứ nhất (1960-1965):

“1- Ra sức phát triển công nghiệp và nông nghiệp, thực hiện một bước việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp một cách toàn diện, phát triển công nghiệp nhẹ, phát triển giao thông vận tải, tăng cường thương nghiệp quốc doanh và thương nghiệp hợp tác xã, chuẩn bị cơ sở để biến nước ta thành một nước công nghiệp và nông nghiệp xã hội chủ nghĩa.

2- Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa tư doanh, tăng cường mối quan hệ giữa sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, mở rộng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

3- Nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân, đẩy mạnh công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ xây dựng kinh tế và công nhân lành nghề, nâng cao năng lực quản lý kinh tế của cán bộ, công nhân và nhân dân lao động, đẩy mạnh công tác khoa học và kỹ thuật, đẩy mạnh thăm dò tài nguyên thiên nhiên và điều tra cơ bản, nhằm phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế và văn hoá.

4- Cải thiện đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân thêm một bước, làm cho nhân dân ta được ăn no, mặc ấm, tăng thêm sức khoẻ, có thêm nhà ở và được học tập, mở mang sự nghiệp phúc lợi công cộng, xây dựng đời sống mới ở nông thôn và thành thị.

5- Đi đôi với việc phát triển kinh tế, cần ra sức củng cố quốc phòng, tăng cường trật tự an ninh, bảo vệ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc”1.

Về nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Việt Nam ở miền Nam, đại hội đề ra: “Đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hiệp dân tộc, dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc, các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, tích cực góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới”2.

Hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam thời kỳ mới và những mục tiêu của kế hoạch năm năm lần thứ nhất do đại hội đề ra soi sáng con đường cách mạng của nhân dân ta, chẳng những nó đánh dấu sự trưởng thành mới của Đảng, trên bước đường lãnh đạo cách mạng dân tộc, dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa, mà còn biểu thị quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta kiên quyết thực hiện cho kỳ được các mục tiêu của cách mạng.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III thành công là nguồn sáng mới, làm nức lòng hàng triệu trái tim yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội không chỉ ở miền Bắc mà cả miền Nam đang ngày đêm đấu tranh chống Mỹ và tay sai. Bởi vì, mục tiêu đưa miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập, dân chủ trong cả nước vừa là ước mơ, hoài bão của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của bao kiếp người đã từng sống lầm than, khổ cực dưới chế độ thực dân cũ và mới, chế độ phong kiến quan liêu, vừa phù hợp với quy luật phát triển tất yếu của xã hội loài người. Sự nghiệp cách mạng ở miền Bắc và sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà đặt ra cho Đảng ta, nhân dân ta những nhiệm vụ hết sức nặng nề, nhưng rất vẻ vang. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Để bảo đảm thắng lợi của cách mạng, vấn đề có ý nghĩa quyết định là phải nâng cao hơn nữa sức chiến đấu của toàn Đảng ta, phát huy hơn nữa tác dụng lãnh đạo của Đảng ta trên mọi mặt công tác”3.

Để cụ thể hoá đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đề ra, Trung ương Đảng và Nhà nước đã xác định những phương hướng và chỉ tiêu cơ bản phát triển kinh tế quốc dân trong kế hoạch năm năm lần thứ nhất và các mối quan hệ giữa nông nghiệp với công nghiệp; giữa nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa với tăng cường thành phần kinh tế quốc doanh; giữa nhiệm vụ phát triển văn hoá, giáo dục với đào tạo đội ngũ công nhân, cán bộ khoa học, kỹ thuật; giữa phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân với tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo vệ vững chắc miền Bắc và tăng cường chi viện cho miền Nam.
_____________________________________
1. Văn kiện đại hội, sđd, t.1, tr.187-188.
2. Văn kiện đại hội, sđd, t.1, tr. 46.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t.10, tr.201.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #16 vào lúc: 25 Tháng Hai, 2010, 09:51:30 pm »


Miền Bắc bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội có những thuận lợi cơ bản là nửa nước được hoàn toàn giải phóng, có hoà bình, nhân dân cần cù, sáng tạo, lực lượng lao động dồi dào, lại có các nước xã hội chủ nghĩa đi trước giúp đỡ về kinh nghiệm, vật chất... tuy nhiên, cũng gặp không ít khó khăn, trở ngại. Trình độ nhận thức của cán bộ, nhân dân còn thấp, chưa có kinh nghiệm tổ chức thực hiện xây dựng một xã hội mới từ một đất nước nghèo nàn, lạc hậu do đế quốc và phong kiến cai trị, nhân dân bị bóc lột và bị kìm hãm về mọi mặt. Những lề thói canh tác cũ, những phong tục, tập quán lạc hậu, làm ăn manh mún, nền sản xuất tiểu nông, diện tích ruộng đất bình quân đầu người dưới 3 sào Bắc Bộ... là những khó khăn, trở ngại không dễ vượt qua.

Công nghiệp giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân nhưng sản xuất mới được khôi phục, máy móc cũ kỹ, hư hỏng; thủ công nghiệp nghèo nàn, phân tán, lực lượng kỹ thuật hầu như không có gì. Trình độ văn hoá của nhân dân thấp, cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề rất hiếm. Sau chín năm kháng chiến chống Pháp, nền kinh tế miền Bắc bị tàn phá nặng nề, nhiều vùng vẫn chưa khai hoang, phục hoá. Mặc dù nhân dân ra sức canh tác, nhưng năng suất lao động vẫn rất thấp, đời sống của nhân dân còn thiếu thốn nhiều mặt. Trong khi đó bọn thổ phỉ, biệt kích, gián điệp ra sức hoạt động phá hoại sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa của nhân dân. Còn ở miền Nam, Mỹ và bè lũ tay sai đang tiến hành cuộc chiến tranh đặc biệt, chúng quyết tiêu diệt lực lượng cách mạng miền Nam, phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, mưu toan chia cắt lâu dài Tổ quốc ta.

Tháng 1-1961, Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định mở cuộc chỉnh huấn chính trị mùa xuân nhằm “Xây dựng những con người của chủ nghĩa xã hội, có tư tưởng, tác phong xã hội chủ nghĩa”. Qua cuộc chỉnh huấn chính trị mùa xuân, Đảng đã giáo dục cho cán bộ và nhân dân tình thương yêu sâu sắc đối với đồng bào, đồng chí, có ý chí vươn lên trong lao động sản xuất, luôn luôn “thấm nhuần chủ nghĩa anh hùng cách mạng chẳng những trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc mà cả trong công cuộc lao động sáng tạo xây dựng xã hội mới. Con người ấy cũng là con người thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa quốc tế vô sản, biết kết hợp đúng đắn lợi ích chân chính của dân tộc với lợi ích chung của phong trào công nhân quốc tế, chống mọi khuynh hướng dân tộc hẹp hòi và sô vanh nước lớn”1

 Phân tích sâu sắc mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, vai trò của tập thể đối với mỗi cá nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thoả mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa... Cho nên, lợi ích cá nhân là nằm trong lợi ích tập thể, là một bộ phận của lợi ích tập thể. Lợi ích chung của tập thể được bảo đảm thì lợi ích riêng của cá nhân mới có điều kiện để được thoả mãn”2. Học tập nghị quyết của Đảng và lời dạy của Hồ Chủ tịch, những tư tưởng, quan điểm xây dựng ý thức làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, tất cả đề phục vụ sản xuất - thực hiện cần kiệm xây dựng đất nước, tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội được cán bộ và nhân dân quán triệt. Những tư tưởng, tác phong xấu như cá nhân chủ nghĩa, tham ô, lãng phí, mệnh lệnh, quan liêu bị lên án và từng bước khắc phục.

Tinh thần của cuộc chỉnh huấn chính trị mùa xuân và sau đó là Nghị quyết về đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước3 của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã được các tầng lớp nhân dân, các tổ chức kinh tế - xã hội từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền núi, từ biên giới đến hải đảo ra sức thực hiện.

Trên mặt trận công nghiệp, xuất phát từ nhận thức ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ nhằm giải quyết một phần những tư liệu sản xuất chủ yếu để cung cấp cho công nghiệp nhẹ và nông nghiệp, xây dựng cơ bản và giao thông, vận tải, Nhà nước đã đầu tư nhiều vốn liếng, công sức để phát triển ngành này. Nhà nước tăng từ 544 triệu đồng trong kế hoạch ba năm 1958-1960 lên 740 triệu đồng trong hai năm 1961-1962. Gần 140 công trình trên hạn ngạch để sản xuất tư liệu sản xuất (nhóm A) được xây dựng và mở rộng như khu liên hợp gang thép Thái Nguyên, Nhà máy điện Uông Bí, Thái Nguyên, Thanh Hoá, Vinh, Nhà máy cơ khí Hà Nội, Nhà máy phân lân Văn Điển, Nhà máy xupe phốt phát Lâm Thao, Nhà máy phân đạm Bắc Giang, Nhà máy hoá chất Việt Trì, Nhà máy chế tạo công cụ, Nhà máy cơ khí Duyên Hải, Nhà máy xi măng Hải Phòng, v.v… Đồng thời các mỏ than Hòn Gai, Mạo Khê, mỏ Apatít Lào Cai, mỏ thiếc Tĩnh Túc, mỏ Cờrômmít Cổ Định... được khôi phục, xây dựng và mở rộng thêm.
_____________________________________
1. Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội... Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1976, tr.91.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t.9, tr.291.
3. Phong trào thi đua yêu nước được Ban Bí thư Trung ương Đảng phát động tháng 7-1958.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #17 vào lúc: 25 Tháng Hai, 2010, 09:52:08 pm »


Nhiệm vụ quan trọng nhất của công nghiệp nặng thời kỳ này là “trang bị cho lao động cả nước, trước hết là lao động nông nghiệp và công nghiệp nhẹ có đủ các loại công cụ với trình độ kỹ thuật khác nhau, từ thô sơ đến hiện đại tuỳ theo từng ngành và từng loại công việc, để gấp rút đưa năng suất lao động xã hội lên ít nhất gấp đôi, gấp ba năng suất lao động hiện nay”1.

Do vậy, ngành cơ khí trong thời gian này đã đi sâu nghiên cứu chế tạo các loại công cụ cày, bừa, cấy gặt (nông nghiệp), các loại máy xúc, sàng liên hợp, khoan tiện, cắt xén... (công nghiệp) phát triển khá mạnh. Nhiều loại máy móc của công nghiệp nặng chế tạo đã được ứng dụng, đem lại hiệu quả kinh tế khá cao, góp phần quan trọng vào việc hoàn thành các chỉ tiêu của kế hoạch nhà nước.

Công nghiệp nặng được đầu tư xây dựng lớn đã kích thích công nghiệp nhẹ, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng phát triển theo. Cùng với việc khôi phục, mở rộng các nhà máy diêm Thống Nhất, thuốc lá Thăng Long, gỗ Cầu Đuống, cá hộp Hải Phòng, Nhà máy dệt Nam Định, Nhà nước khởi công xây dựng: Nhà máy đường Vạn Điểm, Nhà máy giấy Việt Trì, Nhà máy dệt 8-3, Nhà máy bóng đèn phích nước, Nhà máy nhựa Tiền Phong, Nhà máy mỳ chính... Một số mặt hàng thiết yếu phục vụ nhân dân như quần áo, diêm, xà phòng, xoong, chậu, đồ nhựa... đã đáp ứng được một phần nhu cầu của nhân dân.

Trong phong trào thi đua yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội do Đảng phát động, 12,5 vạn công nhân, viên chức trên miền Bắc đã thực hiện cuộc vận động “hợp lý hoá sản xuất, cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm”. Nhà máy cơ khí Hà Nội phát động phong trào “Đuổi và vượt năng suất cao” phấn đấu trở thành con chim đầu đàn ngành công nghiệp Thủ đô. Ngành vận tải quốc doanh đường thuỷ thi đua “Kéo và vượt trọng lượng”. Khu gang thép Thái Nguyên xây dựng mẫu hình “Đội kỵ binh vượt chỉ tiêu năng suất, chất lượng”, v.v… Trong rừng hoa thi đua nở rộ muôn màu sắc trên mặt trận công nghiệp, nổi bật nhất là phong trào thi đua lao động sản xuất của Nhà máy cơ khí Duyên Hải, Hải Phòng.

Từ cuối năm 1960 trở về trước, Nhà máy cơ khí Duyên Hải với số lượng máy móc cũ kỹ và chỉ tiêu sản xuất từ trên đưa xuống, công nhân chỉ làm việc cầm chừng, cốt sao hoàn thành được kế hoạch trong năm, còn năng suất, chất lượng, hiệu quả, thì ít ai nghĩ đến. Tháng 10-1960, sau khi học tập quán triệt đường lối phát triển công nghiệp do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đề ra, đảng uỷ nhà máy đã phát động phong trào “hiến kế” cải tiến kỹ thuật. Qua hai tháng vận động, toàn nhà máy có 70 sáng kiến rút ngắn công đoạn chế tạo bừa, xúc, sàng liên hợp, v.v… làm cho không khí thi đua trong nhà máy sôi động hẳn lên.

Bước sang năm 1961, chỉ tiêu kế hoạch nhà máy được Nhà nước giao cho khá nặng nề, giá trị sản lượng 1,9 triệu đồng trong năm 1960, tăng lên 4 triệu đồng, quả là một con số không nhỏ. Để hoàn thành nhiệm vụ to lớn đó, lãnh đạo nhà máy đã mở hội thi đua “Thao diễn kỹ thuật mùa xuân” kêu gọi đảng viên, đoàn viên, công đoàn... phát huy quyền làm chủ, sáng tạo trong lao động, cải tiến rút ngắn các công đoạn thao tác, hợp lý hoá sản xuất, đưa năng suất chất lượng lên cao.

Sau hai đợt mở hội thao diễn kỹ thuật, Nhà máy cơ khí Duyên Hải không ngừng tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm. Đa số công nhân đã phát huy được nhiều sáng kiến, có những sáng kiến có giá trị về mặt kinh tế. Nhờ đó, trong năm 1961, nhà máy hoàn thành toàn diện, vượt mức kế hoạch Nhà nước giao cho trước thời hạn 3 tháng 20 ngày. So với năm 1960, trong năm 1961 giá trị tổng sản lượng của nhà máy tăng lên 331%, năng suất lao động tăng 263%, sản phẩm chủ yếu tăng 547%, thương phẩm tăng 288%. Cùng với việc chỉ đạo công nhân phấn đấu hoàn thành xuất sắc chỉ tiêu kinh tế cấp trên giao, đảng uỷ nhà máy chú trọng công tác phát triển đảng, đoàn. Tính đến giữa tháng 11-1961, nhà máy đã kết nạp được 33 đảng viên, 41 đoàn viên, 133 đoàn viên công đoàn, đào tạo được 100 thợ có tay nghề cao. Nhà máy đã trở thành lá cờ đầu của phong trào thi đua trên mặt trận công nghiệp.

Sáng kiến mở “Hội thao diễn kỹ thuật mùa xuân” của Nhà máy cơ khí Duyên Hải đã được công nhân khắp nơi hưởng ứng, học tập. Hơn 500 xí nghiệp, công trường ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Việt Trì, Phú Thọ, Quảng Ninh, Thái Nguyên, Lào Cai, Cao Bằng, Nghệ An... phát động phong trào “học tập Duyên Hải, thi đua với Duyên Hải”, cán bộ, công nhân có hàng nghìn sáng kiến, có sáng kiến làm tăng năng suất lên hàng chục lần, vượt nhiều lần chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật. Phong trào thi đua với Duyên Hải làm chuyển biến mạnh mẽ tư tưởng của công nhân, viên chức, nâng cao thêm tinh thần tập thể, tinh thần hợp tác xã hội chủ nghĩa. Thành tích của phong trào đã khẳng định vai trò tiên phong của giai cấp công nhân nước ta trong sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.
_____________________________________
1. Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, tự do vì chủ nghĩa xã hội - Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1976, tr.98.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #18 vào lúc: 25 Tháng Hai, 2010, 09:52:46 pm »


Cuộc vận động phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất trên mặt trận công nghiệp không chỉ ở trong các nhà máy, hầm mỏ, xí nghiệp của nhà nước, mà còn lan toả tới các hợp tác xã thủ công nghiệp. Khác với các cơ sở kinh tế công nghiệp quốc doanh do nhà nước đầu tư thiết bị sản xuất, bao tiêu phân phối sản phẩm do nhà máy làm ra, các hợp tác xã thủ công nghiệp địa phương thường chỉ là những tố hợp nhỏ, máy móc cũ kỹ (nhiều nơi không có), tự sản tự tiêu là chính. Đứng trước sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, việc làm ăn lớn không còn chỗ cho những suy nghĩ vụn vặt, chắp vá. Đa số các hợp tác xã thủ công phải hợp lực với nhau nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, cần kiệm xây dựng hợp tác xã, đẩy mạnh sản xuất sao cho vừa có lãi, vừa tích luỹ để tái sản xuất mở rộng.

Thấm nhuần mục đích, ý nghĩa của phong trào thi đua, hầu hết các hợp tác xã thủ công nghiệp tự nguyện họp tác với nhau mở rộng sản xuất. Trong số hàng trăm hợp tác xã hoàn thành vượt mức kế hoạch nhà nước năm 1961, hợp tác xã Thành Công (Thanh Hoá) đã trở thành ngọn cờ đầu của ngành họp tác xạ thủ công nghiệp.

Hợp tác xã Thành Công được thành lập đầu năm 1959 với số vốn 2.100 đồng, một gian nhà nhỏ, 16 xã viên, hầu hết là thợ sửa xe đạp và buôn bán nhỏ. Với số vốn quá ít ỏi để duy trì phát triển đi lên, ban quản trị hợp tác xã đề ra phương hướng “lấy ngắn nuôi dài”, “lấy bộ phận sản xuất làm xung kích, bộ phận sửa chữa làm đội hỗ trợ”. Ngày xã viên làm ở các tổ đội, tối về tranh thủ gánh đất lấp ao chuẩn bị nền móng nhà xưởng. Đảng viên, cán bộ làm trước, đoàn thanh niên, hội phụ nữ làm theo. Sau hơn một năm lao động vất vả, hợp tác xã đã xây dựng xong hầu hết các khu nhà xưởng. Số xã viên tự nguyện vào hợp tác xã cũng theo đó tăng lên, cuối năm 1959 là 120 người, cuối năm 1960 lên 201 người. Song song với việc ra sức xây dựng cơ ngơi nhà xưởng, hợp tác xã còn phát động xã viên thu nhặt hàng chục tấn phế liệu kim loại; mua và chế tạo được 24 máy tiện, 2 máy dập, 3 máy đánh bóng, 6 động cơ điện cỡ nhỏ, 10 lò rèn chạy điện, 2 máy bơm xăng dầu... Đông - Xuân 1960 -1961, hợp tác xã làm được 600 bộ phụ tùng máy cấy, hàng trăm xe bò, xe cải tiến, đạt chất lượng tốt, được khách hàng khen ngợi. Trải qua ba năm (tính đến cuối năm 1961) xây dựng, sản xuất, nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, cần kiệm, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật... hợp tác xã đi từ không đến có, từ nhỏ đến lớn, làm ra nhiều sản phẩm đạt chất lượng, vốn tích luỹ ngày càng tăng, cuối năm 1959 là 1.084 đồng, cuối năm 1960 là 15.582 đồng, tổng số vốn đạt tới 88.837 đồng. Hợp tác xã xây dựng được 212 gian nhà xưởng với diện tích 7.300 m2, đào tạo được 100 thợ máy có tay nghề cao. Trong năm 1961, hợp tác xã đã hoàn thành kế hoạch nhà nước trước thời hạn 120 ngày, đưa giá trị sản lượng lên gấp ba lần năm 1960. Cùng với việc ra sức sản xuất tăng trưởng kinh tế, nâng cao không ngừng đời sống của xã viên, các tổ chức đoàn thể: thanh niên, phụ nữ, dân quân, tự vệ cũng được củng cố, phát triển làm cho cuộc sống ở đây ngày một đổi mới.

Những kinh nghiệm phong phú của hợp tác xã Thành Công trong năm 1961 đã được hơn 700 hợp tác xã thủ công nghiệp học tập, vận dụng. Ở các tỉnh Nam Định, Hải Phòng, Phú Thọ, Hải Dương, Nghệ An, hàng chục hợp tác xã thủ công nghiệp đã phát huy hàng trăm sáng kiến tận dụng hàng nghìn tấn vật liệu cũ, kém phẩm chất làm ra hàng trăm mặt hàng mới.

Rút kinh nghiệm về việc chỉ đạo nhiệm vụ công nghiệp trong năm 1961, giữa tháng 6-1962, Ban Chấp hành Trung ương Đảng mở Hội nghị lần thứ bảy (khoá III) bàn về nhiệm vụ xây dựng và phát triển công nghiệp.

Hội nghị đánh giá: Công nghiệp và nông nghiệp là hai ngành kinh tế cơ bản, có tác động thúc đẩy lẫn nhau, tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển. Nền công nghiệp miền Bắc nước ta từ năm 1954 đến nay đang trong quá trình biến đổi cách mạng, đã có những thay đổi sâu sắc về quan hệ sản xuất, về cơ cấu và sức sản xuất. Tỷ trọng công nghiệp (kể cả thủ công nghiệp) trong tổng giá trị sản lượng công nghiệp, nông nghiệp đến năm 1961 đã lên 43% (năm 1955 là 16,9%). Vai trò chủ đạo của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân bắt đầu được phát huy. Một số ngành công nghiệp nặng chủ yếu đã hình thành, công nghiệp nhẹ đang lớn lên nhanh chóng. Trình độ quản lý công nghiệp đã được nâng lên một bước. Nhiều xí nghiệp đã chủ động sản xuất, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất bảo đảm chất lượng và hạ giá thành sản phẩm trong thời kỳ này. Giai cấp công nhân lớn mạnh về mọi mặt. Liên minh giữa công nhân và nông dân trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày càng chặt chẽ... Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, các cấp lãnh đạo từ Trung ương đến cơ sở chưa nhận thức sâu sắc công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ, chưa thấy hết yêu cầu và nội dung công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng công nghiệp hoá nước nhà năm đầu của kế hoạch năm năm lần thứ nhất, Hội nghị Trung ương lần thứ bảy đã đề ra nhiệm vụ công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong thời gian tới là: “Phấn đấu thực hiện một sự chuyển biến căn bản trong nền kinh tế quốc dân, tiến hành trang bị cơ khí và nửa cơ khí một cách phổ biến, xoá bỏ tình trạng thủ công, lạc hậu và không cân đối nghiêm trọng hiện nay trong nền kinh tế, bảo đảm cho công nghiệp, nông nghiệp và các ngành kinh tế khác phát triển cân đối, nhịp nhàng, mạnh mẽ, nhằm giải quyết một cách căn bản những nhu cầu thông thường của nhân dân về ăn mặc, học tập, bảo vệ sức khoẻ, đồng thời chuẩn bị mọi mặt về vật chất, kỹ thuật, cán bộ, công nhân, v.v… để tiếp tục phát triển kinh tế toàn diện, mạnh mẽ, vững chắc”1.
_____________________________________
1. Văn kiện Lịch sử Đảng, sđd, tr. 11-241.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #19 vào lúc: 25 Tháng Hai, 2010, 09:59:24 pm »


Phương hướng chung về xây dựng và phát triển công nghiệp vẫn là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý. Vì công nghiệp nặng là nền tảng của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, là cơ sở để tạo ra tư liệu sản xuất, trang bị kỹ thuật hiện đại cho các ngành kinh tế quốc dân. Nhưng trong điều kiện nước ta, cơ sở vật chất, kỹ thuật kém, năng suất lao động thấp, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, mâu thuẫn giữa tích luỹ và tiêu dùng diễn ra gay gắt. Do đó, Đảng chủ trương ưu tiên phát triển công nghiệp nặng theo khả năng, yêu cầu, vừa bảo đảm cho các ngành kinh tế quốc dân khác cùng phát triển là hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta.

Hội nghị quyết định những chính sách và biện pháp bảo đảm tích luỹ và sử dụng vốn một cách tiết kiệm và có hiệu quả nhất, phấn đấu tăng năng suất lao động hạ giá thành sản phẩm, tích cực đào tạo cán bộ khoa học, kỹ thuật, cán bộ kinh tế, công nhân lành nghề...

Kết luận Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế...

Công nghiệp phát triển thì nông nghiệp mới phát triển. Cho nên, công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát triển, như hai chân đi khoẻ và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh, và nhanh chóng đi đến mục đích”1.

Thực hiện nghị quyết của Đảng về ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, Nhà nước đã dành một số vốn khá lớn để đầu tư xây dựng và phát triển công nghiệp nặng. Tỷ trọng vốn đầu tư vào công nghiệp nặng so với tổng số vốn đầu tư cho toàn ngành công nghiệp tăng nhanh rõ rệt. Trong ba năm 1961-1963, tỷ trọng đó chiếm tới 78,6%. Riêng số vốn đầu tư cho công nghiệp nặng năm 1963 gấp 11 lần năm 1955, và gấp 4,5 lần năm 1957. Các ngành công nghiệp nặng chủ yếu như điện lực, cơ khí hoá chất, khai thác nhiên liêu, khai thác gỗ, vật liệu xây dựng, khai khoáng, luyện kim dần dần hình thành.

Sau ba năm đầu tư xây dựng và phát triển kinh tế, nền công nghiệp của ta bao gồm cả công nghiệp quốc phòng đã sản xuất được nhiều mặt hàng thiết yếu như máy tiện, máy khoan, động cơ điêden, máy bơm cải tiến, số lượng, chất lượng ngày càng bảo đảm, đáp ứng được một phần nhu cầu sản xuất nông nghiệp và sản xuất quốc phòng. Giá trị sản lượng công nghiệp trong tổng giá trị kinh tế quốc dân từ 41% năm 1960 lên 48% năm 1963. Tỷ trọng công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất 35% tăng lên 42%. Công nghiệp quốc doanh từ 90% lên 95%, thực sự giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, cung cấp cho đất nước một khối lượng sản phẩm quan trọng, trong đó có nhiều sản phẩm trước đây phải nhập của nước ngoài. Đi đôi với việc phát triển công nghiệp quốc doanh trung ương, Nhà nước quan tâm tới việc xây dựng công nghiệp địa phương. Cuối năm 1963, trong tổng số 1100 xí nghiệp công nghiệp quốc doanh có 215 xí nghiệp trung ương và 885 xí nghiệp địa phương. Thủ công nghiệp có 2.129 hợp tác xã (tăng 1,5 lần so với năm 1960) phân bố rộng khắp miền. Việc công nghiệp địa phương hình thành và ngày càng phát triển, mở ra khả năng sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên và lực lượng lao động tại chỗ, đáp ứng kịp thời những đòi hỏi của sản xuất và tiêu dùng của nhân dân.

Công nghiệp được chú trọng đầu tư xây dựng tương đối toàn diện đã tạo điều kiện thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển. Đầu năm 1961, một loạt công cụ cày, bừa, máy suốt lúa, xe kéo tay, cày cải tiến 51, cào cỏ Nghệ An, quạt hòm, xe quệt đã được các hợp tác xã nông nghiệp đưa vào sử dụng. Tập quán không sử dụng phân, trồng chay ở một số tỉnh miền núi Việt Bắc, Tây Bắc được thay đổi. Đồng bào các dân tộc đã tận dụng nguồn phân chuồng, phân xanh, phân bắc bón ruộng, đưa năng suất lên cao hơn hẳn các năm trước, xoá dần tập quán du canh du cư, canh tác lạc hậu. Đa số hệ thống thuỷ lợi nội đồng đã được cải tạo hoặc làm mới. Các trạm bơm tưới tiêu hợp tác xã (cấp thấp) hoặc hợp tác xã liên thôn (cấp cao) tiếp tục được hoàn thiện. Một số tỉnh ở Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Tây Bắc thuộc hệ thống thuỷ nông Bắc - Hưng - Hải, hệ thống thuỷ nông đập Bái Thượng (Thanh Hoá), hệ thống thuỷ nông Nậm Rốm - Điện Biên đã chủ động được tưới tiêu, hạn chế một phần cảnh “chiêm khê, mùa thối”. Để tiếp tục xây dựng hợp tác xã cấp thấp và vận động xây dựng hợp tác xã cấp cao, các cấp đảng, chính quyền từ Trung ương đến địa phương đã tổ chức học tập quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng trong nông nghiệp, nông thôn. Nội dung của cuộc vận động gồm ba mặt: cải tạo quan hệ sản xuất, cải tiến kỹ thuật, giáo dục tư tưởng và ba nguyên tắc: tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ.

Nhà nước đã cử nhiều cán bộ có năng lực và kinh nghiệm về nông nghiệp, nông thôn xuống giúp chính quyền địa phương vận động quần chúng xây dựng hợp tác xã nông nghiệp, xây dựng cuộc sống mới.

Giai cấp nông dân trước đây một lòng tin tưởng theo Đảng làm cách mạng dân tộc, dân chủ. Ngày nay, trước cuộc vận động hoàn thiện hợp tác xã cấp thấp, xây dựng hợp tác xã cấp cao của Đảng, Nhà nước, họ cũng không ngần ngại, tự nguyện chung lòng xây dựng nông thôn mới.
_____________________________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t.10, tr. 544 - 545.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM