Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 18 Tháng Tư, 2024, 09:05:58 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2  (Đọc 89059 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #20 vào lúc: 23 Tháng Giêng, 2010, 07:22:57 pm »


Tháng 3-1955, sau khi củng cố được quyền lực, Ngô Đình Diệm chủ trương tiêu diệt giáo phái thân Pháp để loại trừ khả năng chống đối, xóa bỏ mọi quyền lợi ở các địa phương của Pháp, thống nhất quân đội dưới quyền chỉ huy của anh em Diệm.

Ngày 26-4, Diệm cách chức tổng giám đốc cảnh sát và công an Sài Gòn của Lại Văn Sang (Bình Xuyên), bãi bỏ độc quyền của Bình Xuyên thu thuế tại sòng bạc “Đại thế giới”. Ngày 28-4 lấy cớ Bình Xuyên chống lệnh, Diệm cho quân tấn công Bình Xuyên. Chiến sự nổ ra ngay tại trung tâm thành phố Sài Gòn. Quân Bình Xuyên chống cự không nổi phải rút về cầu chữ Y và Rừng Sác.

Ngày 30-4, quân của Diệm tiếp tục tiến công, quân Bình Xuyên phải rút khỏi thành phố.

Ngày 21-9, Diệm mở chiến dịch “Hoàng Diệu” bao vây và tấn công vào khu Rừng Sác. Đến ngày 24-10 phái Bình Xuyên đã bị tiêu diệt, Bảy Viễn chạy trốn ra nước ngoài. Mối nguy cơ trực tiếp đối với Diệm ở Sài Gòn được đẩy lùi.

Ngày 20-5, Diệm tập trung lực lượng mở chiến dịch “Đinh Tiên Hoàng” đánh quân Hòa Hảo. Nhóm của Hai Ngoán và Nguyễn Giác Ngộ ra đầu hàng Diệm. Nhóm Ba Cụt và Năm Lửa chống lại. Tháng 10-1955, xuất hiện lực lượng “Cao Đài tự do” do đại tá Nguyễn Bình Khiêm đứng đầu. Nhóm này có liên hệ với ta. Liên tỉnh ủy miền Trung Nam Bộ chỉ thị cho các địa phương giúp đỡ quân Hòa Hảo và đồng bào theo đạo. Nhiều cán bộ, đảng viên của ta được giao nhiệm vụ thâm nhập vào hàng ngũ Hòa Hảo. Được sự hướng dẫn của ta và sự ủng hộ của nhân dân, một số đơn vị Hòa Hảo đã đánh trả quyết liệt quân của Diệm, diệt được nhiều đồn bốt, gây cho chúng nhiều thiệt hại, tiêu biểu là các trận Cổ Ông (Mộc Hóa), Tân Bửu (Bến Lức)... Chiến dịch “Đinh Tiên Hoàng” kéo dài từ tháng 5 đến tháng 12-1955 phải kết thúc, nhưng đại bộ phận vùng căn cứ Đồng Tháp Mười, Diệm không kiểm soát được.

Ngày 1-1-1956, Diệm mở chiến dịch “Nguyễn Huệ” nhằm thanh toán bằng được quân Hòa Hảo. Chúng huy động 4 sư đoàn bộ binh, 6 chi đoàn thiết giáp, 5 tiểu đoàn pháo binh, 4 hải đoàn xung phong, 1 tiểu đoàn nhảy dù do Dượng Văn Minh (vừa được thăng thiếu tướng do công trạng diệt được Bình Xuyên) chỉ huy. Các đơn vị Hòa Hảo phân tán trong nhân dân, được dân giúp đỡ đánh trả quyết liệt. Nhưng do nội bộ Hòa Hảo mâu thuẫn, chia rẽ, nên lực lượng bị tiêu hao dần. Ngày 17-2-1956, Năm Lửa đưa 4.000 quân ra đầu hàng Diệm. Ngày 13-4-1956, Ba Cụt bị bắt sống và bị chém đầu. Lực lượng Hòa Hảo tan rã, một số theo địch, phần lớn còn lại bỏ trốn về nhà.

Khi Diệm tấn công Bình Xuyên và Hòa Hảo, phái Cao Đài chủ trương án binh bất động để chờ thời. Tháng 10-1955, Mỹ - Diệm dùng thủ đoạn chia rẽ nội bộ phái này để phá bỏ bộ máy hành chính của Cao Đài, uy hiếp Tòa thánh Tây Ninh. Các lực lượng Cao Đài phải chống lại bằng hành động vũ trang. Nhưng vì nội bộ bị phân hóa, hành động không thống nhất nên đến tháng 6-1956 đại bộ phận lực lượng Cao Đài bị tiêu diệt và ra đầu hàng Diệm.

Ở Trung Bộ, có lực lượng Quốc dân Đảng hoạt động tại Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định; lực lượng Đại Việt ở Quảng Trị, Thừa Thiên. Chúng đều là lực lượng chống lại cách mạng, nhưng cũng chống Diệm để mặc cả địa vị với Diệm. Từ tháng 9-1955, đến tháng 1-1956, chúng bị lực lượng của Diệm liên tiếp tấn công, bao vây, triệt tiếp tế nên đã bị tan rã và lần lượt về đầu hàng Diệm.

Cuộc xung đột vũ trang với các giáo phái kéo dài hơn một năm không những gây cho Mỹ - Diệm khó khăn về quân sự, chính trị kinh tế, mà còn đẩy nhân dân ở những vùng giao tranh vào cảnh chết chóc, bần cùng. Diệt xong lực lượng vũ trang của các giáo phái, các thế lực thân Pháp ở miền Nam Việt Nam căn bản bị xóa sổ. Mỹ - Diệm lao vào cuộc thanh lọc ngụy quyền nhằm xây dựng một chế độ độc tài phát xít thân Mỹ khoác cái áo “độc lập”, “dân chủ”, “hợp hiến” giả hiệu.

Ngày 17-7-1955, Diệm tuyên bố không có hiệp thương, tổng tuyển cử. Ngày 23-10-1955, Diệm tổ chức cuộc “trưng cầu dân ý” dưới lưỡi lê của quân đội để phế truất Bảo Đại và tự xưng tổng thống Việt Nam Cộng hòa. Tiếp đó ngày 4-3-1956 được Mỹ đạo diễn, Ngô Đình Diệm tổ chức tuyển cử, bầu ra Quốc hội. Tháng 10-1956, Ngô Đình Diệm ban hành hiến pháp của “nền đệ nhất cộng hòa”, một số nước tư bản đồng minh của Mỹ lập tức công nhận chính quyền Diệm là “hợp hiến, hợp pháp”, Bộ Quốc phòng Mỹ đã nhận xét cuộc tuyển cử của Diệm chỉ là một thủ tục vô nghĩa làm cho dân tin để có một cái nhãn mới mẻ cho mối quan hệ của Mỹ và Diệm.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #21 vào lúc: 23 Tháng Giêng, 2010, 07:24:44 pm »


Đi đôi với việc xây dựng chính quyền trung ương, Mỹ - Diệm ra sức củng cố chính quyền xã, ấp bằng cách bổ nhiệm những người phe cánh của Diệm làm xã trưởng, ấp trưởng và lập các tổ chức quần chúng trá hình như “Thanh niên cộng hóa”, “Phụ nữ liên đới”, “Liên gia tương trợ”, “Nhân dân tự vệ đoàn”, “Ngũ gia liên bảo” để kìm kẹp dân chúng1.

Tháng 8-1954, Diệm tổ chức ra Đảng “Cần lao nhân vị” do Ngô Đình Nhu, em ruột Diệm làm lãnh tụ, được coi là nòng cốt của chế độ Diệm. Đảng này lấy học thuyết “Duy linh” duy tâm phản động làm hệ tư tưởng. Đảng Cần lao nhân vị gồm 7 vạn đảng viên, thành phần chủ yếu là các cha cố, tín đồ công giáo, công chức và sĩ quan trung, cao cấp. Người vào đảng này phải tuyên thệ trung thành đến chết với chế độ của Diệm2.

Tháng 10- 1954, “Phong trào cách mạng quốc gia” của Trần Chánh Thành, tay chân của Diệm được thành lập. Tổ chức này lấy giới công chức làm nòng cốt, nó nêu cao khẩu hiệu “chống cộng sản, chống phong kiến, chống thực dân” để tập hợp lực lượng.

“Phong trào cách mạng quốc gia” và đảng “Cần lao nhân vị” chỉ khác nhau về hình thức hoạt động, còn mục đích đều nhằm phục vụ cho chế độ của Mỹ - Diệm.

Núp dưới chiêu bài “đả thực, bài phong” nhưng thực chất chính quyền Diệm vẫn mang nặng tư tưởng phong kiến. Về hình thức, các bộ trưởng cũng mặc áo thụng xanh, đội khăn xếp, thậm chí khi “bãi chầu” mọi người đều phải đi giật lùi ra cửa không giám quay lưng lại tổng thống. Về nội dung là bênh vực bảo vệ quyền lợi cho giai cấp địa chủ, cường hào, duy trì phương thức bóc lột phong kiến. Những người thân tín trong gia đình, bà con trong họ hàng được Ngô Đình Diệm đưa vào nắm các chức vụ chủ chốt trong chính quyền.

Diệm chỉ tin dùng bọn tay chân trung thành với gia đình họ Ngô và một bộ phận giáo dân di cư. Ngoài thành phần trên, Ngô Đình Diệm luôn nghi ngờ và thẳng tay đàn áp đối với các giới trí thức, nông dân, công nhân, phật tử, đối lập với toàn thể dân chúng, nên cơ sở xã hội của nó hết sức mỏng manh. Chính quyền Diệm chủ yếu dựa vào hệ thống cố vấn và viện trợ Mỹ để tồn tại nên tất yếu dẫn đến một nền chính trị bấp bênh, luôn luôn chia rẽ. Rõ ràng chính thể của Diệm là một sản phẩm ngoại lai, không được lòng dân. Lầu Năm Góc đã nói rõ: “không có sự giúp đỡ của Mỹ hầu như chắc chắn là Diệm không thể củng cố được chỗ đứng của mình ở Việt Nam trong thời gian từ 1955-1956...”, “Nam Việt Nam là sản phẩm của Mỹ”3.
______________________________________
1. Thanh niên cộng hòa: Thành lập ngày 26-10-1956 là một tổ chức chính trị phản động, được tổ chức chặt chẽ từ trung ương xuống cơ sở. Nó còn là một tổ chức quân sự trá hình, một “tổ chức hiến binh” để bảo vệ chế độ Diệm.
    Phụ nữ liên đới: do Trần Lệ Xuân vợ Ngô Đình Nhu thành lập và lãnh đạo, được tổ chức từ trung ương xuống các địa phương, thành phần hạn hẹp chỉ bao gồm những phụ nữ quyền qúy thuộc tầng lớp thượng lưu, cách biệt hẳn với đại đa số phụ nữ lớp dưới. Nó hoạt động nặng về phần phô trương trình diễn như thăm viếng, cứu trợ…
    Liên gia tương trợ: gồm 5-7 gia đình kế cận nhau, có một liên gia trưởng chỉ huy.
    Nhân dân tự vệ đoàn: Tổ chức ở từng ấp, gồm những người tuổi từ 18 - 45. Tổ chức này được chia thành các toán, mỗi toán từ 10 - 12 người do một toán trưởng chỉ huy. Các toán trong khóm họp thành liên toán. Các liên toán trong ấp họp thành liên đội. Các liên đội trong xã họp thành xã đội.
    Ngũ gia liên bảo: Cứ 5 gia đình có một công an phụ trách.

2. Theo Hoàng Minh - Đỗ Mậu trong cơn: “Tâm sự tướng lưu vong”, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1991, tr. 179 thì “… Nhiều người đã phải chán nản nặng lời phê phán thuyết nhân vị của ông Ngô Đình Nhu… là một thứ pha trộn mình Ngô đầu Sở, chắp vá bằng một mớ tư tưởng hổ lốn, góp nhặt mỗi thứ một ít, từ giáo lý Thiên chúa giáo đến chủ nghĩa Nhân vị của Muniê, pha thêm thuyết nhân ái của Khổng Tử, cộng thêm vài nét của chủ nghĩa tư bản lẫn lộn với chủ nghĩa Duy linh chống cộng…”
    +) Chủ nghĩa nhân vị của Muniê (nhà trí thức Thiên chúa giáo người Pháp) đại để như sau: Nhân vị là vị thế của con người, lấy con người làm giao điểm trong trục tương quan với đồng loại, thiên nhiên và Thượng đế. Người là trung tâm để phục vụ, có ưu thế hơn các thực thể khác như dân tộc, nhân loại, hay nhu cầu vật chất, con người có phần xác và phần hồn, mà linh hồn được coi là chủ yếu hơn vì linh thiêng, bất tử và là nguồn gốc của văn minh. Tinh thần có tính thiêng liêng vì do chính Thượng đế tạo ra và có khả năng vươn lên cảm thông với Thượng đế…

3. Tài liệu Mật của BQP Mỹ, Sđd, tr. 35

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #22 vào lúc: 23 Tháng Giêng, 2010, 07:25:39 pm »


Song song với việc xây dựng chính quyền, quân đội, tiêu diệt các giáo phái, Mỹ - Diệm tập trung khủng bố dã man những người kháng chiến cũ, những người yêu nước miền Nam. Lợi dụng lúc Quân đội nhân dân Việt Nam rút khỏi các vị trí đóng quân, các vùng tự do cũ về nơi tập kết, đồng bào ta còn ngỡ ngàng, tổ chức đảng chưa ổn định, địch tiến hành đánh phá ngay, hòng gây không khí khủng khiếp trong nhân dân, làm cho hàng ngũ đảng viên và quần chúng bị rối loạn. Khẩu hiệu: “tiêu diệt cán bộ nằm vùng”, “tiêu diệt cộng sản tận gốc”, “thà giết nhầm còn hơn bỏ sót” của Diệm đã có tác dụng kích thích quân đội, cảnh sát và những tên ác ôn tay sai điên cuồng, tàn sát đẫm máu những người yêu nước, kháng chiến cũ, những người có cảm tình với cách mạng hoặc bị tình nghi.

Ngày 2-8-1954, địch đã gây ra vụ thảm sát ở Kim Đôi làm 17 người chết, 67 người bị thương; ngày 6-9-1954, chúng giết 31 người và làm bị thương nhiều người khác ở chợ Được (Quảng Nam); ngày 7-9-1954, tại Ngân Sơn, Chí Thạnh (Phú Yên) chúng giết 80 người, làm 50 người bị thương; ngày 13-9-1954, chúng giết 17 người, làm bị thương 500 người tại Mỏ Cày (Bến Tre). Tại Hà Nật, Chiêu Đàn, Cây Cốc (Quảng Nam) từ 23 đến 28-9-1954, chúng đã giết 105 người, làm bị thương 186 người. Ngày  25-10-1954, tại Vĩnh Xuân (Cần Thơ), chúng giết 54 người, 19 người bị thương. Đêm 21-1-1955, bọn Quốc dân đảng ở Duy Xuyên (Quảng Nam) câu kết với tay chân Diệm đến nhà lao Hội An bắt 38 đồng chí của ta chở đến đập Vĩnh Trinh, dùng khăn bịt mắt, lấy đá đập vỡ đầu, gẫy răng, cắt mũi, cắt tai, xâu từng chùm ba, bốn người, bỏ vào bao tải rồi buộc đá ném xuống đập. Dã man hơn, từ ngày 9-7 đến 20-7-1955, chúng đã bao vây và tàn sát nhân dân hai thôn Tân Lập, Tân Hiệp xã Hương Điền, huyện Hương Hóa (Quảng Trị) giết 92 người (có 31 trẻ em). Trước khi giết chúng còn cướp của, đốt nhà, hãm hiếp tất cả phụ nữ, trong đó 7 người đang có thai và cả những bà già sáu, bảy mươi tuổi. Đêm 15-9-1955, bọn công an và hành chính xã An Gia huyện Triệu Phong (Quảng Trị) đến nhà chị Trương Thị Tình có chồng là cán bộ đi tập kết, bắn chết con trai của chị mới lên 3 tuổi. Nhân dân kéo đến phản đối, chúng hăm dọa và nói: “Phải giết nó đi chứ để sau này lớn lên nó sẽ làm cộng sản như cha nó”.

Đi đôi với khủng bố ở cơ sở, để chuẩn bị cho “tố cộng” quy mô lớn, Mỹ - Diệm đã mở các chiến dịch thí điểm rút kinh nghiệm.

Tháng 2-1955, địch mở chiến dịch Phan Châu Trinh, đánh phá thí điểm các tỉnh ở Trung Bộ, lấy Quảng Nam làm trọng điểm.

Tháng 4-1955, địch mở “chiến dịch giải phóng” đánh phá tỉnh Quảng Ngãi và vùng bắc Bình Định.

Tháng 5-1955, địch mở chiến dịch Trịnh Minh Thế đánh phá toàn bộ các tỉnh Khu V.

Từ tháng 5-1955 đến tháng 5-1956, Mỹ - Diệm phát động “chiến dịch tố cộng giai đoạn I” trên quy mô rộng lớn toàn miền Nam.

Mục đích của “chiến dịch tố cộng” của Mỹ - Diệm nhằm:

“Gây uất hận trong dân chúng đối với Việt cộng:

a) Để cho nhân dân tố giác Việt cộng ở lại hoạt động.

b) Khủng bố tinh thần Việt cộng làm cho Việt cộng nghi ngờ quần chúng mà không dám hoạt động nữa.

c) Đánh lệch tư tưởng các phần lử lừng chừng còn hướng về cộng sản phải ngả hẳn về chính phủ quốc gia.

d) Thêm phương tiện để kiểm soát cán bộ cộng sản còn ở lại hoạt động trong vùng quốc gia kiểm soát”1.

Theo biên bản hội nghị Nha Thông tin Trung Việt của địch đầu tháng 6-1955, chính quyền Ngô Đình Diệm “luôn luôn quan niệm cộng sản là kẻ thù chính, nhiệm vụ phản công là tối ưu. Phải đẩy mạnh nhiệm vụ chống cộng”2.

Kế hoạch “tố cộng” của địch lúc đầu đánh trên diện rộng, sau đó đánh vào chiều sâu, đánh cả nông thôn và thành thị. Mục tiêu của chúng là tập trung nơi có phong trào mạnh. Đánh vào cộng sản và đánh cả vào dân, lấy đánh vào Đảng cộng sản làm mục tiêu quyết định nhất vừa tiêu diệt con người, vừa tiêu diệt tinh thần, tư tưởng, tất cả đều nhằm đích tối hậu là làm cho con người cộng sản hoặc bị tiêu diệt hoặc chịu thuần phục quốc gia, làm cho quần chúng hoặc chết hoặc trở thành người dân quốc gia3.

Thực hiện được các mục tiêu trên, Mỹ - Diệm sẽ củng cố được thế lực, đẩy mạnh hành động phá hoại hòa bình, dập tắt phong trào đấu tranh của nhân dân đòi hiệp thương tổng tuyển cử. Phương châm hoạt động của địch là: “Tất cả phục vụ cho chiến dịch tố cộng”. Trọng điểm của chúng nhằm vào cán bộ, đảng viên và những vùng căn cứ kháng chiến cũ, những nơi có phong trào đấu tranh của nhân dân, đánh đi đánh lại nhiều lần tới khi đạt được yêu cầu “triệt hạ uy thế chính trị của cộng sản”.
______________________________________
1, 2. Tài liệu đánh máy, Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, đơn vị bảo quản 3, tr. 135.
3. Nam Trung Bộ, kháng chiến 1945 – 1975, Viện Lịch sử Đảng và Hội đồng biên soạn lịch sử Nam Trung Bộ xuất bản, Hà Nội, 1992, tr. 247.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #23 vào lúc: 23 Tháng Giêng, 2010, 07:29:49 pm »


Mỹ - Diệm đã tổ chức bộ máy chỉ đạo “tố cộng” rất quy mô, thống nhất từ trên xuống dưới, bao gồm:

Hội đồng nhân dân chỉ đạo tố cộng là cơ quan cao nhất, gồm tất cả các bộ trưởng trong chính phủ. Diệm là chủ tịch danh dự và Trần Chánh Thành là chủ tịch hội đồng. Hội đồng chỉ định ra ủy ban chỉ đạo tố cộng Trung ương, có ban thường trực gồm đại biểu các Bộ Thông tin, Công an, Quốc phòng. Nhiệm vụ của Ủy ban chỉ đạo này là trực tiếp chỉ đạo phong trào tố cộng ở các tỉnh, các cơ quan; đào tạo cán bộ cho phong trào. Giúp việc cho ủy ban này có các ban Tuyên huấn, Học tập Kiểm thảo, khai thác và có sự phối hợp của các cơ quan Công an, Công dân vụ, Dân vệ đoàn...

Mỗi tỉnh có một Ủy ban chỉ đạo tố cộng. Mỗi bộ có một uỷ ban chỉ đạo dọc xuống các cơ quan thuộc bộ mình. Thành phần trong Ban chỉ đạo tỉnh giống như ở Trung ương, còn ở các cơ quan thì gồm đại biểu cơ quan và liên đoàn công chức của phong trào cách mạng quốc gia.

Huyện, xã đều có Ủy ban chỉ đạo tố cộng của huyện, của xã. Mỗi xã lại chia ra nhiều liên gia tố cộng. (Xem sơ đồ)

Địch chia giai đoạn I tố cộng làm 3 đợt:

Đợt 1 từ 15-5 đến cuối tháng 8-1955, trọng điểm ở các tỉnh miền Trung.

Đợt 2 tù tháng 9 đến tháng 11-1955, trọng điểm tiến hành trong nội bộ các cơ quan ngụy quyền.

Đợt 3 tù 15-11-1955 đến tháng 5-1956 (đồng thời là kết thúc giai đoạn I), làm rộng rãi ở các tỉnh để triệt hạ uy thế chính trị và phá tổ chức, đồng thời triệt cơ sở kinh tế của cộng sản và thanh trừng số cán bộ cầu an của chúng ở xã.

Mỗi đợt địch lại phân ra làm nhiều bước. Có điều chỉnh, rút kinh nghiệm, chỉ đạo chặt chẽ, kết hợp giữa mua chuộc, phỉnh phờ với khủng bố, đàn áp. Chúng phân nhân dân ra làm ba loại:



Sơ đồ hệ thống tổ chức tố cộng.


Loại cán bộ và đảng viên cộng sản; loại gia đình có người đi tập kết; loại nhân dân nói chung để hướng dẫn học tập những nội dung chúng cho là thích hợp, kết hợp với khủng bố đàn áp.

Bên cạnh việc tổ chức học tập, chúng tiến hành điều tra nắm tình hình, gây cơ sỏ, tìm nòng cốt trong địa chủ, cường hào, lưu manh, bất mãn, phản động ở từng địa phương cho học tập trước rồi giao nhiệm vụ phân loại nhân dân. Chính bọn nòng cốt đó sau này nằm trong bộ máy chính quyền, công an của địch, chống phá ta kịch liệt.

Sau khi học tập, địch bắt mọi người phải tố giác cộng sản, ai biết ít nói ít, ai biết nhiều nối nhiều, “không tố giác là phản quốc”. Chúng phát phiếu cho từng gia đình bắt kê khai những người cách mạng, yêu nước rồi bắt tất cả những người đã bị phát giác hoặc tình nghi viết kiểm thảo (tẩy não), kê khai lý lịch, ly khai Đảng, xé cờ Đảng và ảnh lãnh tụ, viết cáo trạng tố cáo tội ác của cộng sản.

Ở các tỉnh Trung Bộ, suốt những năm sống dưới ách kìm kẹp của Mỹ - Diệm, mỗi người dân phải chuẩn bị một cây gậy, một cuộn dây, một đèn dầu hoặc bó đuốc, sẵn sàng hễ nghe mõ báo động “xuất kỳ bất ý” là phải chạy ngay đến hội đồng xã. Ai đến chậm thì bị đánh đập tra tấn; ai vắng mặt bị chúng truy lùng bắt giam, thủ tiêu, nhiều người già yếu trong khi chạy chưa đến địa điểm tập trung đã chết gục giữa đường. Chưa hết, bọn ác ôn còn lùng sục khắp hang cùng ngõ hẻm bắt người tra tấn, bắn giết, cướp của, gây nên cảnh tang tóc điêu linh. Nhân dân miền Nam phải chịu bao nỗi thống khổ, nhà nào cũng có người bị bắt, xã nào cũng có trại giam. Nhà lao tỉnh Quảng Ngãi chỉ đủ chỗ giam 500 người, nhưng thường xuyên có khoảng 5.000 người. Nhà lao Thừa Thiên chúng giam hàng ngàn người. Tỉnh Phú Yên có 25 vạn dân mà đã có tới 109 nơi giam giữ hàng vạn người.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #24 vào lúc: 23 Tháng Giêng, 2010, 07:31:00 pm »


Ở Nam Bộ, địch làm thí điểm tố cộng trước ở Chợ Lớn, rồi triển khai ra toàn miền. Chúng rút gọn 4 bước xuống còn 2 bước:

- Bước chuẩn bị: Chúng tiến hành đổi thẻ căn cước, nắm lại dân và chia dân ra làm 3 loại:

Loại A là loại “công dân bất hợp pháp” gồm cán bộ, đảng viên và những người kháng chiến cũ.

Loại B là loại “công dân nửa hợp pháp” gồm những gia đình có người đi tập kết có liên quan đến những người kháng chiến cũ.

Loại C gồm những người “không liên quan đến cách mạng”.

Phương châm của địch là dựa vào loại C, đánh vào loại A, làm cho loại B khiếp sợ và khuất phục”.

Sau khi phân loại, địch buộc những người kháng chiến cũ phải ra trình diện, nhận giấy chứng nhận “cán bộ hồi chánh”. Chúng bắt mỗi gia đình phải chụp chung một tấm hình, khai rõ họ tên, tuổi, nghề nghiệp treo trước cửa nhà.

- Bước thực hiện: mở đầu bằng chiến dịch tuyên truyền quy mô trên các báo chí, truyền thanh nhằm xuyên tạc sự thật, nói xấu cách mạng, gây cho nhân dân tâm lý hoài nghi và sự hiềm khích không tin tưởng lẫn nhau giữa bà con làng xóm, cha mẹ, anh em trong nhà, làm xáo trộn mối quan hệ tình cảm truyền thống ở nông thôn. Đi đôi với tuyên truyền chia rẽ, mua chuộc, những tên tay sai, ác ôn ra sức khủng bố, bắt bớ đảng viên và những người kháng chiến cũ để uy hiếp tinh thần nhân dân. Số người địch tình nghi bị chúng bắt giam lên đến hàng vạn. Số nhà tù của Pháp để lại cộng với hệ thống trại giam mới xây dựng theo chỉ thị số 6 của Diệm (11-1-1956) vẫn không đủ giam giữ. Địch phải lấy cả chùa chiền, thánh thất, trường học để nhốt những người yêu nước.

Ở Chợ Lớn, đêm 4-5-1955, lính Diệm vây ráp, sát hại trên 20 đảng viên. Ở Mộc Hóa, chỉ hơn một tuần, địch bắt 280 người xâu kẽm gai qua lòng bàn tay rối lần lượt thủ tiêu. Trên kênh Dương Văn Dương và sông Vàm Cỏ Tây từng chùm xác năm, ba người nổi trên mặt nước. Ở Đức Hòa, chỉ trong 10 ngày cuối tháng 7-1955, địch đã chặt đầu, xẻo tai, cắt mũi 8 cán bộ.

Trong các cơ quan, đơn vị quân đội ngụy, Mỹ - Diệm cũng tổ chức tố cộng. Chúng bắt công chức, binh lính phải học tập, xác định lập trường quốc gia chống cộng rõ rệt. Qua học tập, chúng tìm hiểu, phát hiện thanh lọc, sa thải, quản thúc người thân Pháp hoặc có quan hệ với kháng chiến.

Đối với vùng đồng bào thiểu số, địch tìm cách lừa phỉnh, mua chuộc và áp dụng những thủ đoạn cổ truyền là chia rẽ Kinh - Thượng, dùng người Thượng chống người Kinh, dùng người Thượng chống người Thượng mà chúng gọi là “dĩ di chế di” bằng kế hoạch “thượng du vận” nhằm đẩy cách mạng ra khỏi vùng dân tộc.

Kết thúc giai đoạn I tố cộng, địch đã thực hiện được một ý đồ gây tư tưởng lo sợ, hoang mang trong nhân dân, gây nghi ngờ, sợ sệt giữa quần chúng và cán bộ. Trong bộ máy chính quyền, chúng đã thanh lọc những người không theo chúng và tập hợp được lực lượng phản động làm nòng cốt.

Chỉ kể từ tháng 7-1955 đến tháng 2-1956, Mỹ - Diệm đã giết hại, giam cầm 93.362 cán bộ, đảng viên và những người yêu nước. Cơ sở đảng, cơ sở quần chúng bị tổn thất nặng.

Ở Tây Nam Bộ, sau hai năm thực hiện đấu tranh chính trị, đã có một đồng chí phó bí thư Xứ ủy, 18 tỉnh ủy viên, 100 huyện ủy viên bị giết.

Tỉnh Thủ Dầu Một ta bố trí ở lại 1.647 đảng viên nay chỉ còn 260. Tỉnh Gia Định 3.000 đảng viên chỉ còn 350. Huyện Hàm Thuận (Bình Thuận) từ 659 đảng viên đến 20-7-1955 chỉ còn 80 đảng viên, v.v...

Đặc biệt nghiêm trọng, do bị khủng bố dã man nên ở một số địa phương đã có nhiều đảng viên ra đầu hàng, tự thú với địch. Ở Bình Định hầu hết số đảng viên bị bắt đều khai báo tự nhận mình là đảng viên hoặc khai cho người khác. Hai huyện Nghĩa Hành và Đức Phổ (Quảng Ngãi), tính đến tháng 8-1955 có 80% đảng viên khai báo. Xã Phong Chương (Phong Điền, Thừa Thiên) có 485 đảng viên thì xuất thú 400. Xã Phong Phú (Phong Điền, Thừa Thiên) có chi bộ 25 đảng viên, ra đầu hàng 24 còn 1 phải chạy trốn. Một số đảng viên không tin ở đấu tranh chính trị thành công đã dao động, chạy dài, tránh né công tác, thậm chí có người tập ăn nhạt, uống ít nước để nằm hầm bí mật được lâu1. Những số liệu này cho thấy bản chất phản động, tàn bạo của chính quyền Diệm và tính chất ác liệt của cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam.
______________________________________
1. Báo cáo đặc biệt về tình hình đảng ở miền Nam, tài liệu đánh máy, Cục lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, đơn vị bảo quản 40, tr. 4-5.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #25 vào lúc: 23 Tháng Giêng, 2010, 07:31:37 pm »


Mặc dù đã thành công được một bước trong việc đánh phá phong trào cách mạng, nhưng địch vẫn không hề khuất phục được nhân dân miền Nam. Phong trào đấu tranh chống chế độ độc tài Ngô Đình Diệm lan rộng khắp nông thôn và thành thị làm tăng thêm mâu thuẫn trong nội bộ chính quyền Sài Gòn. Ngay cả giới trí thức, công chức cao cấp, một số tổ chức như “Tập đoàn công dân”, “Mặt trận quốc gia kháng chiến”, “Phong trào tranh thủ tự do”... trước đây ủng hộ Diệm nay cũng lên tiếng chống lại Diệm.

Trong khi thực thi chính sách “tố cộng, diệt cộng”, chính quyền Ngô Đình Diệm đồng thời tìm cách xóa bỏ thành quả cách mạng ở nông thôn, bần cùng hóa nông dân bằng việc ban hành đạo dụ số 2, ngày 8-1-1955 và đạo dụ số 7, ngày 5-2-1955 về “cải cách điền địa”. Ngày 22-10-1956, Diệm ra tiếp đạo dụ 57, với khẩu hiệu “hữu sản hóa nông dân”, “thẳng tiến cần lao, đồng tiến xã hội”, thực tế là tiếp tục tước đoạt ruộng đất của nông dân, bảo vệ và duy trì đặc quyền, đặc lợi của giai cấp địa chủ.

Qua “cải cách điền địa”, chính quyền Diệm đã cướp từ 80 - 90% ruộng đất mà chính quyền cách mạng để chia cho nông dân Nam Bộ. Ở khu V tất cả ruộng công điền chúng đem bán đấu giá hoặc phát canh thu tô. Thuế ruộng đất chúng tăng gấp đôi, thuế đảm phụ tăng gấp rưỡi. Mỗi người dân một tháng phải đi làm xâu từ 7 đến 10 ngày.

Không những cướp ruộng đất, địch còn dùng xe bọc thép, xe ủi để phá nhà, phá làng, dồn dân lấy đất xây dựng căn cứ quân sự.

Trên mặt trận văn hóa, tư tưởng, Diệm ra sức tuyên truyền cho học thuyết “Duy linh” đề cao nhân vị, một thuyết duy tâm nhằm thủ tiêu tinh thần đấu tranh của quần chúng. Chính quyền Diệm đã cho nhập nhiều loại văn hóa đồi trụy, phản động của Mỹ vào miền Nam. Những loại sách kiếm hiệp, khiêu dâm; những bản nhạc giật gân và những phim đồi trụy, sa đọa... nhằm làm tha hóa con người. Chỉ tính đến cuối năm 1955, Mỹ đã viện trợ cho Diệm 70 vạn tấn sách báo, tranh ảnh phản động, trả tiền cho 20 tờ báo tay sai để chống lại cách mạng.

Cùng với việc viện trợ nuôi sống chế độ Diệm bằng hàng hóa của Mỹ, chúng còn mở cửa cho hàng hóa Nhật, Tây Âu vào với chế độ ưu đãi, giá rẻ, tạo nên sự phồn vinh giả tạo, một lối sống thích Mỹ, phục Mỹ trong thời cuộc “nhốn nháo Tây đi, Mỹ đến”.

Như vậy, từ cuối 1954 đến 1956, Mỹ đã giúp Ngô Đình Diệm gạt Pháp và các thế lực thân Pháp, xây dựng bộ máy ngụy quân, ngụy quyền, thực hiện một loạt chính sách lừa lọc, thâm độc, xảo quyệt, biến miền Nam từ chế độ thuộc địa kiểu cũ của Pháp trở thành chế độ thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Nhưng dù kẻ địch có thi hành chính sách tàn bạo đến đâu chúng cũng không thể dập tắt được phong trào đấu tranh của nhân dân ta ở miền Nam.

Nhân ngày ngừng bắn ở Nam Bộ (1-8-1954), 50.000 đồng bào Sài Gòn, Chợ Lớn, phần đông là công nhân nhà đèn, bến cảng..., công nhân đang làm việc trong các đơn vị hậu cần của quân Pháp và các tầng lớp tiểu thương, trí thức, học sinh, quần chúng lao động, biểu tình tại đường Kítchơnê (Nguyễn Thái Học bây giờ) mừng hòa bình, đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ. 25.000 người ở Đà Nẵng, 15.000 người ở Huế, kể cả những nhà tu hành, tập hợp trên các đường phố lớn, vườn hoa, sân vận động... mừng chiến tranh chấm dứt, đòi trả chồng con bị bắt đi lính, trả tự do cho tù chính trị, trao trả hết tù binh. Ở đồn điền cao su An Lộc (Sông Bé) 5000 công nhân bãi công trong 3 ngày từ 2 - 4-8-1954 mừng thắng lợi, đòi chủ tăng lương 20%, đòi Diệm bãi bỏ thuế đảm phụ chiến tranh.

Cũng trong ngày 1-8-1954, được sự chỉ đạo của Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn, các đại biểu trí thức và lao động đã họp thành lập “Phong trào hòa bình Sài Gòn - Chợ Lớn”, ra Tuyên bố nêu rõ tôn chỉ, mục đích của phong trào là đấu tranh cho hòa bình ở Đông Dương được củng cố, quyền tự do dân chủ được đảm bảo, nước Việt Nam được thống nhất bằng tuyển cử tự do trong cả nước.

Phong trào đã cử ra chủ tịch, các phó chủ tịch, đoàn chủ tịch danh dự, ban thư ký và ban tổ chức, gồm những trí thức yêu nước, tiến bộ: luật sư Nguyễn Hữu Thọ, giáo sư Phạm Huy Thông, dược sĩ Trần Kim Quang, luật sư Trịnh Đình Thảo, giáo sư Nguyễn Văn Dưỡng... Sau đó ban chấp hành được bổ sung thêm đại biểu các chính đảng tôn giáo, văn nghệ sĩ, thương gia, ký giả... Cả Sài Gòn có 32 ủy ban cơ sở được bầu ra trong các cuộc mít tinh công khai và hàng trăm ủy ban cơ sở khác, gồm nhũng người được quần chúng tín nhiệm.

Lực lượng công nhân, thợ thuyền các xí nghiệp ấn loát các xí nghiệp hậu cần của Pháp, công ty thủy điện và quần chúng của khu lao động ở Bàn Cờ, Khánh Hội, cầu Ông Lãnh, Chợ Quán, Bình Tây đã tham gia hoạt động tích cực trong phong trào.

Tập san và tờ thông tin “Hòa bình”, cơ quan ngôn luận hợp pháp của phong trào đã đăng bài tố cáo Mỹ - Diệm phá hoại Hiệp định và nói rõ nguyện vọng hòa bình của dân tộc. Từ Sài Gòn phong trào phát triển ra Huế, và toàn Trung Bộ, có tiếng vang rộng lớn được phong trào bảo vệ hòa bình, các tổ chức hoạt động chống chiến tranh ở Pháp, Tây Đức gửi lời chào mừng và lên tiếng ủng hộ.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #26 vào lúc: 23 Tháng Giêng, 2010, 07:32:30 pm »


Hoảng sợ trước sự phát triển của phong trào, từ đầu tháng 11-1954, chính quyền Ngô Đình Diệm bắt đầu đàn áp bắt giam một số người lãnh đạo và chiến sĩ tích cực của phong trào. Trong nhà lao, những người bị bắt vẫn kiên quyết đấu tranh, tuyệt thực, đưa đơn tố cáo. Một phong trào quần chúng phản đối chính quyền Diệm đàn áp những người đấu tranh cho hòa bình nổi lên ở Sài Gòn và nhiều nơi ở miền Nam. Nhiều thư từ, kiến nghị, bài báo, cuộc mít tinh đòi Diệm trả tự do cho những người bị bắt. Nhân dân miền Bắc lên tiếng cổ vũ cuộc đấu tranh của đồng bào miền Nam. Hội nghị các nhà luật gia quốc tế họp ở Ấn Độ đã phản đối hành động của Diệm. Nhiều luật sư ở Pháp đòi được đứng ra bào chữa cho những người bị bắt. Bốn lần Diệm đưa các chiến sĩ của phong trào hòa bình ra tòa, nhưng trước làn sóng phản đối mạnh mẽ, cả bốn lần chúng đều không dám công khai xử án họ. Tuy vậy, chúng đã tra tấn đến chết giáo sư Nguyễn Văn Dưỡng, đưa một số người ra giam lỏng ở Tuy Hòa, trong đó có luật sư Nguyễn Hữu Thọ.

Trong 2 tháng 11 và 12-1954, hơn 3000 trí thức, 1000 học sinh, sinh viên, 4000 nhà công thương ở Sài Gòn đưa kháng nghị đòi Mỹ - Diệm phải trả tự do cho những người trong Phong trào hòa bình bị bắt.

Phong trào hòa bình ra đời là một chủ trương đúng thể hiện lòng yêu nước của các tầng lớp nhân dân miền Nam. Nhưng dưới chế độ Diệm không một người dân nào được nói đến hai chữ “hòa hình”. Ngay khi đón Thủ tướng Ấn Độ Nê Ru viếng thăm Sài Gòn ngày 30-10-1954, Diệm cũng cho trương các biểu ngữ “Đả đảo chính sách chung sống hòa bình” dọc các dường phố, vì Ấn Độ là một trong những nước sáng lập phong tràu không liên kết và đề ra 5 nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình. Điều này đã vạch trần được bộ mặt thật phát xít và hiếu chiến của Mỹ - Diệm trước toàn thể nhân dân trong nước và quốc tế, chúng đã bị thất bại về chính trị ngay khi vừa bắt tay gây dựng lực lượng và uy thế.

Cùng với phong trào hòa bình, phong trào đấu tranh chống địch khủng bố, trả thù những người kháng chiến cũ cũng diễn ra quyết liệt.

Ngày 13-9-1954, hơn một vạn công dân của 6 xã thuộc huyện Mỏ Cày (Bến Tre) biểu tình chống chính quyền Diệm giết hại những người kháng chiến. Lính của Diệm xả súng bắn vào đoàn biểu tình làm chết 11 người, bị thương 36 người và bắt đi 200 người. Căm thù sục sôi trước hành động dã man của địch, hàng vạn nhân dân Bình Đại xuống đường “đả đảo Mỹ - Diệm khủng bố nhân dân”, “Mỹ - Diệm phải tôn trọng Hiệp định Giơnevơ”... Lính Diệm lại bắn giết 5 người, bị thương 17 người và bắt đi 30 người. Không khí căm thù giặc của nhân dân lan khắp tỉnh Bến Tre và toàn Nam Bộ. Các địa phương ở đồng bằng sông Cửu Long đã huy động gần 2 triệu lượt người tham gia biểu tình. Riêng tỉnh Mỹ Tho có 35 vạn lượt người mít tinh ở 397 địa điểm đế phản đối Mỹ - Diệm và đòi quyền dân sinh, dân chủ.

Tại Trung Bộ, những cuộc đấu tranh chống Mỹ - Diệm liên tiếp diễn ra ở khắp các thành thị và nông thôn. Nhân dân tỉnh Quảng Nam, các thành phố, thị xã: Nha Trang, Phan Thiết, Đà Lạt... biểu tình kéo đến trụ sở ngụy quyền, trụ sở Ủy ban quốc tế đòi địch phải thi hành đúng các điều khoản của Hiệp nghị, không được trả thù, khủng bố những người kháng chiến cũ. Trong cuộc biểu tình của nhân dân Đà Nẵng, bọn địch ở đồn Võ Tánh đã nổ súng bắn chết 2 người. Trước hành động tàn ác đó, quần chúng tràn vào đốt đồn, làm cháy nhiều xe cộ và súng đạn của chúng. Ngày 15-9-1954, tại An Khê một vùng địch tiếp quản đầu tiên ở Khu V, hơn 5.000 đồng bào Kinh, Thượng biểu tình chống địch đàn áp, khủng bố. Tuy vậy, các cuộc đấu tranh của nhân dân ta từ cuối năm 1954 đến những tháng đầu năm 1955 ở một số nơi còn mang tính tự phát, thiếu sự chỉ đạo chặt chẽ, thiếu kế hoạch đề phòng địch khủng bố, nên phong trào gặp khó khăn, tổn thất. Mỹ - Diệm ngày càng lấn tới, điên cuồng khủng bố những người yêu nước, cự tuyệt đề nghị hiệp thương tổng tuyển cử của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Mặt trận Liên Việt Nam Bộ, ngày 3-7-1955, công nhân và nhân dân lao động Sài Gòn đã tổ chức hai cuộc biểu tình lớn đòi hiệp thương tổng tuyển cử và đòi trả lại tự do cho những người trong Ủy ban cứu trợ nạn nhân chiến tranh1. Cuộc tổng bãi công, bãi thị ngày 10-7, ở Sài Gòn - Gia Định có 80% nhân dân tham gia, làm tê liệt hoạt động của thành phố trong 10 giờ. Cùng ngày này, ở Mỹ Tho, các cuộc bãi công, bãi thị cũng đã làm cho thành phố phải ngừng hoạt động hoàn toàn trong một ngày.

Trong cuộc đấu tranh này đã có nhiều con người ưu tú của dân tộc anh dũng hy sinh. Chị Nguyễn Thị Diệu là một trong những tấm gương tiêu biểu. Chị là ủy viên Ban chấp hành Hội liên hiệp phụ nữ Nam Bộ, bị giặc bắt (10-7-1955) bị tra tấn dã man, nhưng vẫn giữ vững khí tiết của người cán bộ cách mạng. Địch đã giết chị trong lúc đang mang thai 6 tháng và vứt xác chị xuống giếng tại xã Linh Đông, huyện Thủ Đức.
______________________________________
1. Sau khi phong trào hòa bình tạm lắng, đầu tháng 7-1955 dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Sài Gòn, Gia Định phong trào cứu giúp những người bị nạn trong cuộc Diệm đàn áp phái Bình Xuyên ra đời. Phong trào lấy tên là “Ủy ban cứu tế nạn nhân”, do nữ đồng chí Ba Yên đứng đầu.
    Phong trào đã lôi cuốn được mọi tầng lớp nhân dân đóng góp giúp đỡ những người bị nạn, đồng thời đòi địch phải bồi thường thiệt hại và cứu giúp các nạn nhân.
    Từ Sài Gòn - Chợ Lớn, phong trào lan ra một số tỉnh Nam Bộ. Bọn tay chân Diệm đã tìm cách ngăn cản và khủng bố. Chúng đã bắt 5 người trong Ủy ban, Chi Ái Lan bị xử phạt 5 năm tù vì tội hăng hái hoạt động cho phong trào.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #27 vào lúc: 23 Tháng Giêng, 2010, 07:33:16 pm »


Phong trào đấu tranh đòi hiệp thương, hòa bình thống nhất Tổ quốc từ tháng 7-1955 kéo dài nhiều tháng và lan rộng ra các tỉnh Sa Đéc, Châu Đốc, Vĩnh Long, Phan Rang, Phan Thiết, Khánh Hòa, Bình Định, Quảng Nam, Quảng Trị, Thừa Thiên.

Ở Tây Nam Bộ, trong mười ngày đầu tháng 8-1955 đã có 10 vạn nông dân tham gia phong trào đấu tranh đòi hiệp thương. Tháng 7 và 8-1955 nhân dân Thừa Thiên họp mít tinh lấy được 7 vạn chữ ký gửi lên ngụy quyền tỉnh, kiến nghị đòi chấm dứt khủng bố, đòi hòa bình. Ở vùng vĩ tuyến quân sự tạm thời, đồng bào đã cử 500 đại biểu đến tổ quốc tế ở Do Linh bày tỏ nguyện vọng mong muốn thống nhất đất nước. Xã Quốc Xuân (Quế Sơn, Quảng Nam) với 24 ngàn dân đã có 16 ngàn người ký tên vào bản kiến nghị phản đối Mỹ - Diệm. Đồng bào Kinh - Thượng ở Gia Lai kéo về thị xã Plây Cu, bao vây cơ quan ngụy quyền tỉnh. Ở thành phố Nha Trang, truyền đơn đòi hiệp thương tổng tuyển cử rải dọc đường số 1 từ cầu Hà Ra vào đến trường Phan Bội Châu, chợ Đầm và nhiều dường phố khác.

Trong từng thời gian, khẩu hiệu đấu tranh đòi hiệp thương được kết hợp với khẩu hiệu chống “trưng cầu dân ý”, chống “bầu cử quốc hội” của Diệm.

Ngày 23-10-1955, Mỹ - Diệm tổ chức cuộc “trưng cầu dân ý” để phế truất Bảo Đại đưa Diệm lên làm tổng thống. Mặc dầu chúng phải dùng cảnh sát, binh lính lùng bắt người đi bỏ phiếu, nhưng nhân dân đã tìm mọi cách để chống lại. Ở nhiều tỉnh, nhiều thành phố, nhiều xã, nhân dân tổ chức mít tinh, biểu tình, vạch trần tính chất phản động và bịp bợm của trò hề “trưng cầu dân ý”. Có những chỗ cử tri đập phá hòm phiếu vì chúng bắt mọi người phải “ông xanh bỏ giỏ, ông đỏ bỏ thùng”1. Ở Hội An, binh lính Diệm đã bắn vào đoàn biểu tình làm chết 5 người, bị thương 4 và bắt đi 200 người. Ở Cần Giuộc (Chợ Lớn), Hồng Ngự (Châu Đốc), Minh Thành (Tây Ninh) có hàng ngàn người bị bắt. Ở Sài Gòn - Chợ Lớn, trên 50% số người không đi bầu, 80% áp phích của địch bị xé bỏ.

Cuộc đấu tranh của nhân dân chống “trưng cầu dân ý” chính là nhằm phản đối bọn tay sai, bù nhìn ở miền Nam.

Sau thủ đoạn “trưng cầu dân ý”, ngày 4-3-1956, Diệm lại lợi dụng địa vị mới của mình để tổ chức cuộc “bầu cử quốc hội” nhằm tạo một “cơ sở pháp lý” cho chế độ độc tài gia đình trị mà y đang ra sức xây dựng. Nhưng địch đã vấp phải sự phản đối kịch liệt của nhân dân. Quần chúng nhân dân chống lại cuộc “bầu cử” bằng nhiều hình thức như phá các buổi “học tập”, các cuộc mít tinh tuyên truyền cho cuộc “bầu cử”, xé, gỡ áp phích, truyền đơn của địch, rải truyền đơn, viết khẩu hiệu chống bầu cử… Nhiều nơi nhân dân tẩy chay không đi bỏ phiếu, có nơi truyền đơn chống Diệm được nhét đầy hòm phiếu. Ngay cả những tổ chức và cá nhân thân Pháp, thân Mỹ, trong đó có những người trước đây đã ủng hộ Diệm, cũng kịch liệt chống lại hành động gian lận, độc đoán của Diệm. Cuộc “bầu cử” này cũng là một trò bịp như cuộc “trưng cầu dân ý”.

Cùng với các phong trào nói trên, phong trào đấu tranh đòi quyền lợi của công nhân miền Nam cũng phát triển. Trong ngày Quốc tế lao động 1-5-1955, công nhân và nhân dân các thành phố Sài Gòn, Chợ Lớn, Huế, Đà Nẵng đã tổ chức nhiều cuộc mít tinh, biểu tình đòi cải thiện đời sống, đòi tự do hội họp, tự do ngôn luận, chống đàn áp, khủng bố. Tiếp sau cuộc bãi công, biểu tình của 500 công nhân ở Xa Cát, Lộc Ninh thuộc công ty Đất Đỏ là cuộc tổng bãi công ngày 10-11-1955 của hơn 4 vạn công nhân ở tất cả các đồn diễn cao su bốn tỉnh Bà Rịa, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh. Công nhân đưa 10 yêu sách với nội dung đòi chủ phải tăng lương, đòi cải thiện chế độ ăn ở, làm việc và bảo đảm quyền tự do nghiệp đoàn của công nhân. Đây là cuộc bãi công lớn nhất của công nhân cao su từ trước tới giờ, kéo dài một tuần, làm thiệt hại mỗi ngày cho công ty xuất nhập khẩu cao su trên 40 vạn đôla.

Bước sang năm 1956, phong trào đấu tranh của công nhân chuyển lên một bước mới. Các cuộc đấu tranh được tổ chức chặt chẽ hơn, tập hợp được lực lượng công nhân thuộc các nghiệp đoàn khác nhau; các khẩu hiệu nêu lên vừa có nội dung dân sinh, dân chủ thiết thực, vừa có nội dung chính trị để giáo dục quần chúng, nêu được quyền lợi của công nhân, của cả nông dân và các tầng lớp khác.

Ở các thành phố Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Cần Thơ có hàng chục cuộc bãi công. Tiêu biểu là cuộc bãi công kéo dài hàng tháng của 5.000 công nhân ngành đường sắt, của 5.500 công nhân các kho, bến tàu Sài Gòn...

Ngày 27-3-1956, công nhân nhà máy đèn Chợ Quán bãi công đòi tăng lương. Ngót 200.000 công nhân, lao động, các tầng lớp nhân dân khác hưởng ứng cuộc đấu tranh. Cuộc bãi công kéo dài 2 ngày làm cho cả thành phố Sài Gòn Chợ Lớn, Gia Định, Biên Hòa không có điện, nước, mọi hoạt động công nghiệp đình đốn; các rạp hát, rạp chiếu bóng phải đóng cửa; 6 tờ báo hàng ngày không ra được: đài phát thanh phải im lặng 48 tiếng đồng hồ. Trước tình hình đó, Diệm phải chịu giải quyết một số yêu sách của công nhân.
______________________________________
1. Chúng cho in hai hình: Bảo Đại màu xanh, Ngô Đình Diệm màu đỏ, cưỡng bức nhân dân bỏ hình Diệm vào thùng phiếu, hình Bảo Đại vào giỏ rác.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #28 vào lúc: 23 Tháng Giêng, 2010, 07:38:18 pm »


Để hòng xoa dịu tinh thần đấu tranh của nhân dân, và tỏ ra rằng chính quyền của y cũng là dân chủ, Diệm tuyên bố “cho phép” tổ chức kỷ niệm ngày 1-5-1956 ở Sài Gòn. Chúng huy động toàn bộ cảnh sát, công an và bảo an theo dõi, ngăn chặn với chiêu bài “trấn áp mọi hành động phá hoại”. Trái với sự tính toán của bọn Diệm, 10 giờ ngày 1-5-1956, 20 vạn nhân dân Sài Gòn, Chợ Lớn, gồm công nhân, những người lao động, công chức, trí thức, học sinh, nhà công thương và một số binh sĩ, cảnh sát của chính quyền Sài Gòn đã xuống đường đấu tranh chống Mỹ - Diệm. Những người biểu tình hô vang các khẩu hiệu: tự do nghiệp đoàn, giải quyết nạn thất nghiệp, trả phụ cấp gia đình cho cả công nhân làm ở các sở tư, cải cách điền địa triệt để có lợi cho nông dân; hạn chế nhập khẩu để nâng đỡ công nghiệp trong nước; thống nhất nước nhà bằng phương pháp hòa bình... Nhờ lợi dụng danh nghĩa “chính quyền cho phép”, cuộc đấu tranh đã tránh bớt được sự khủng bố của địch. Đây là một bài học kinh nghiệm tốt cho những cuộc đấu tranh tiếp theo.

Phong trào đấu tranh của nông dân miền Nam bảo vệ những quyền lợi về ruộng đất, chống cướp đất, đuổi nhà cũng diễn ra mạnh mẽ, sôi nổi. Tỉnh Thừa Thiên phát động phong trào đấu tranh đòi ngụy quyền phải đắp đập cửa Thuận An để ngăn nước mặn. Ngày 1-5-1955, ba vạn người dự mít tinh tại Phú Văn Lâu giương cao khẩu hiệu: “Phải đắp đập ngăn nước mặn, bảo đảm cho dân sản xuất”. Phong trào này được ủng hộ rộng rãi của nhân dân thành phố và các huyện. Ngô Đình Diệm đã phải về tận nơi xem xét và buộc phải hứa hẹn sẽ giải quyết vấn đề đắp đập.

Tháng 7-1955, chính quyền Diệm quy định việc lấy lại công điền để đấu giá, nộp tô cho chúng. Nông dân Nam Bộ đã đấu tranh chống lại từ ôn hòa đến quyết liệt. Một số tên địa chủ phản động từ Sài Gòn trở về địa phương dựa vào thế chính quyền Diệm hòng giành lại đất, truy lại tô, đã bị nông dân trừng trị. Ngày 9-3-1956, trong cuộc họp tá điền ở Sài Gòn, 100 đại biểu nông dân đưa yêu sách đòi hủy bỏ chế độ đấu giá công điền, để cấp phát cho nông dân nghèo, thi hành khế ước 3 năm. Cuộc đấu tranh chống đấu giá công điền ở Nam Bộ đã có những kết quả nhất định. Đến giữa năm 1956, ở các tỉnh Tân An, Chợ Lớn, Sóc Trăng... ngụy quyền mới đem đấu giá được từ 1/3 đến 1/2 công điền.

Ở Khu V và Trị - Thiên, có phong trào chống “xáo cấp” công điền. Đặc biệt ở Trị - Thiên, nơi ruộng đất công chiếm từ 70 đến 80% tổng số diện tích ruộng đất toàn tỉnh, nên cuộc đấu tranh diễn ra mạnh mẽ nhất. Mặc dù chính quân địch đã làm giấy tờ chia lại ruộng đất, nhưng nông dân kiên quyết không làm theo sự phân chia đó. Nông dân cam kết với nhau, ruộng của ai người ấy cày cấy, không làm thiệt hại người khác. Sau 3 tháng tiến hành “xáo cấp” công điền ở 731 thôn thuộc hai tỉnh Trị - Thiên, địch chỉ thực hiện được ở 21 thôn. Ở Bình Định, Quảng Ngãi, có phong trào chống cướp ruộng công của các gia đình có người tập kết. Nông dân Chu Lai, Bình Đức, Củ Chi, Long Bình... đấu tranh chống địch đuổi dân lập khu căn cứ quân sự. Ngày 28-11-1956, địch cho lính và xe ủi đất về hai làng Đông Hưng Thuận và Trung Mỹ Tây, quận Hóc Môn để xây dựng căn cứ quân sự Quang Trung. Chúng ra lệnh cho đồng bào trong ba cấp thuộc hai làng này phải rời đi nơi khác. Đồng bào kiên quyết đấu tranh chống lại với khẩu hiệu: “Sống tại chỗ, chết tại chỗ! Tấc đất, tấc máu”. Đồng bào cử nhiều đoàn đại biểu lên quận, tỉnh, lên tận chính phủ và quốc hội Diệm đòi được ở yên chỗ cũ, đòi được bồi thường những tài sản đã bị phá. Ngày 4-12-1956, 10 vạn nhân dân ở khu lao động Vân Đồn, Chương Dương đấu tranh chống lệnh đuổi nhà. Đồng bào ở các quận khác đã hưởng ứng xuống đường hỗ trợ tích cực. Cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam chống địch xây dựng căn cứ quân sự diễn ra kiên quyết, liên tục đã gây chậm trễ cho việc thực hiện âm mưu của chúng.

Ngoài các phong trào đấu tranh chính trị kể trên, từ năm 1954 - 1956, ở miền Nam còn có phong trào đấu tranh của đồng bào miền Bắc bị cưỡng ép di cư vào Nam.

Theo lời phỉnh phờ, lừa dối của Mỹ - Diệm, hàng triệu đồng bào công giáo miền Bắc đã rời bỏ quê hương vào Nam để được sống cảnh “thiên đường”. Vào đến nơi, đồng bào được xếp ở các trại lá, trại tôn, lều vải mới dựng ở những nơi hôi hám quanh Sài Gòn, Nha Trang, Đà Nẵng; những nơi hẻo lánh ở Đồng Tháp Mười, hoặc những chỗ “rừng thiêng, nước độc” như Hố Nai, Lạc An (Biên Hòa). Cuộc sống thật điêu đứng, chật hẹp, nóng bức, thuốc men không có, bệnh tật phát triển.

Đang còn bị “sống dở, chết dở” trong các trại định cư, thì Ngô Đình Diệm ra lệnh giải tán các trại định cư. Những tên tay sai được Diệm tin dùng đã bí mật đi đốt các trại1, thực hiện đuổi nhà triệt để ở Sài Gòn - Chợ Lớn dưới khẩu hiệu giả dối “làm đẹp thành phố”. Bảo an đoàn và dân vệ đoàn đến xua đuổi, cưỡng bức, áp giải hàng loạt người ở các trại định cư đi các đồn điền Mỹ Trạch, Đắc Song, An Khê, Sóc Trăng. Đặc biệt là đồn điền Cái Sắn (nằm giữa hai tỉnh Rạch Giá - Long Xuyên) được Diệm coi là nơi định cư chính của đồng bào công giáo di cư.
______________________________________
1. Chỉ tính từ tháng 2 đến tháng 4-1956 đã có nhiều trại định cư bị đốt cháy gây ra nhiều tai họa khủng khiếp.
- 16-2-1956: Thiêu hủy nửa làng định cư Tân Mai (Biên Hòa).
- 20-2-1956: Thiêu hủy 30 nóc nhà định cư Làng Muông (Plây Cu).
- 4-4-1956: Thiêu hủy 205 nóc nhà định cư Bình Trung (Thủ Đức).
- 5-3-1956: Thiêu hủy 120 nóc nhà định cư Mỹ Hòa (Gia Định).
- 6-3-1956: Thiêu hủy 300 nóc nhà định cư Lạc An (Biên Hòa).
- 22-4-1956: Thiêu hủy 300 nóc nhà định cư ở trại Thái Bình (Biên Hòa).

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #29 vào lúc: 23 Tháng Giêng, 2010, 07:40:13 pm »


Kết quả của chính sách cưỡng ép di cư của Mỹ - Diệm đã làm nhiều người vì thất nghiệp phải làm những việc bất lương như ăn trộm, ăn cắp, cờ bạc, một số chị em phải đi làm đĩ điếm để nuôi thân. Bảy vạn người di cư đã vào lính làm bia đỡ dạn. Một số trở thành ác ôn, ngoan cố chống phá cách mạng, hoặc trở thành gián điệp biệt kích quay lại chống phá miền Bắc.

Thấy rõ những thủ đoạn thâm độc của địch, đồng bào di cư ở các trại Đà Nẵng, Quy Nhơn, La Vang (Quảng Trị) đã biểu tình kéo đến trụ sở thị chính và Ủy ban quốc tế đòi giải quyết nạn thất nghiệp, đòi tự do đi lại làm ăn. Bốn vạn đồng bào ở ba trại định cư công giáo và một trại Phật giáo ở Gia Định đòi tỉnh trưởng mở chợ để họ có thể mua bán sinh sống. Ở Quy Nhơn, 400 đồng bào đưa đơn đến Quốc hội Diệm phản đối lệnh đuổi nhà và kiên quyết không chịu đi. Ở Gò Vấp (Gia Định) 2 vạn đồng bào đã mít tinh phản đối thông tư của chính quyền Diệm cưỡng bức đồng bào đi các đồn điền. Gần một vạn đồng bào đã tìm cách trốn tránh không đến đồn điền Cái Sắn. Ở Bình Thuận, đồng bào Nùng đã ngăn xe chở tên thủ hiến Trung Việt, đưa kiến nghị có 963 người ký tên, đòi trở về quê hương. Có những người phải lẩn trốn, xuyên rừng vượt núi để về đoàn tụ với gia đình.

Từ năm 1954 đến cuối năm 1955, ở miền Nam đã diễn ra các phong trào đấu tranh chính trị rộng lớn và sôi nổi, lôi cuốn được mọi tầng lớp nhân dân tham gia, làm cho trong hàng ngũ kẻ thù bị phân hóa nhiều người hoang mang, quay sang thái độ lừng chừng, không dám tích cực ủng hộ Diệm. Nhưng “vì lãnh đạo chưa được vững chắc nên phong trào phát triển chưa đều, có nơi sóm bộc lộ lực lượng, phong trào bị tổn thất trước sự khủng bố của địch nhất là khi dịch tiến hành các “chiến dịch tố cộng”1.

Để khắc phục những thiếu sót nói trên, ngày 1-12-1955, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra chỉ thị cho các đảng bộ miền Nam trong lãnh đạo chống địch “tố cộng” là phải giữ gìn, củng cố cơ sở đảng. Chỉ thị nêu ra bốn nhiệm vụ chính:

- Tập hợp đông đảo mọi lực lượng chống Mỹ - Diệm trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

- Chuyển hướng sự lãnh đạo phong trào đấu tranh của quần chúng thích hợp với tình hình cụ thể.

- Kiên quyết chống chính sách “tố cộng” của địch.

- Giữ gìn và củng cố tổ chức cơ sở của Đảng.

Bản chỉ thị nhấn mạnh chống “tố cộng” là nhiệm vụ trọng tâm trước mắt. Phải giải thích cho quần chúng thấy rõ âm mưu thâm độc của chính sách “tố cộng” của Mỹ - Diệm, nêu cao chính nghĩa và vai trò của Đảng đối với dân tộc và nhân dân, làm cho mọi người thấy rõ phải đoàn kết chặt chẽ chống âm mưu “tố cộng”, bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ thì mới bảo vệ được quyền lợi chính đáng của mình.

Thực hiện chỉ thị của Đảng, các cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam chống địch “tố cộng” giai đoạn I diễn ra liên tục và quyết liệt trong từng gia đình, từng thôn, ấp dưới nhiều hình thức công khai, hợp pháp và cả bất hợp pháp.

Địch bắt mọi người đi học “tố cộng”, đồng bào viện đủ lý do trì hoãn, không đi. Ở Phú Vang (Thừa Thiên), chúng cho bảo an, lính ngụy bắt 300 người đến lớp học. Đồng bào kiên quyết đấu tranh đòi về đi làm, nếu không để ruộng bỏ hoang, mất mùa, dân đói, buộc địch phải giải tán lớp học.

Ở nhiều nơi, những người bị lùa đến chỗ tập trung đã tìm cách đi chậm, đi “không đúng thành phần”, số đông là người già ốm yếu và trẻ con. Trong lớp học, chỗ này người ngủ gật, chỗ kia người vót nan đan rổ, đan rá. Thỉnh thoảng trẻ nhỏ lại la khóc ầm ĩ. Khi địch cho những tên đầu hàng, đầu thú lên nói xấu cộng sản, lập tức bị nhân dân chất vấn và phản đối, biến cuộc “tố cộng” thành cuộc đấu tranh tố cáo tội ác của chúng. Bằng lý lẽ đanh thép và khôn khéo, quần chúng đã vạch trần bộ mặt bán nước, hại dân của Mỹ - Diệm, bảo vệ và làm sáng tỏ chính nghĩa cách mạng.

Ở Quảng Trị, địch chuẩn bị một bản tội ác của cộng sản rồi bắt ông Lê Chí Khiêm (trong ban trị sự hội Phật học) lên đọc. Trước khi đọc ông tuyên bố: “Bản này không phải tự tay tôi viết ra, mà nói đây là tội ác của cộng sản thì chính tôi chưa bao giờ nghe và chưa bao giờ thấy, nhưng người ta đã viết ra bảo tôi đọc thì tôi xin đọc để bà con nghe”.
______________________________________
1. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8, tháng 8-1955.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM