Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 07:58:10 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2  (Đọc 88899 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #10 vào lúc: 16 Tháng Giêng, 2010, 11:40:16 pm »


Cuối tháng 7-1954, địch dồn số đồng bào công giáo các tỉnh về Hà Nội chờ ngày xuống Hải Phòng “theo Chúa vào Nam”. Hàng chục nhà thờ, trường học, công sở bị chúng biến thành các trại di cư. Mỗi trại chứa trên, dưới một ngàn dân. Những người trong trại bị cấm không được tiếp xúc với bên ngoài.

Một số máy bay vận tải hạng lớn C46, DC3, DC4 của Mỹ đậu sẵn ở sân bay Bạch Mai, Gia Lâm để chuyến chở người di cư ở khu vực Hà Nội đi Nam. Chúng tuyên bố: mỗi gia đình công chức có thể nhận thêm năm, sáu gia đình cùng đi, không mất phí tổn. Nhiều chuyến bay dành riêng chuyên chở những người đã làm việc trong bộ máy chính quyền cũ.

Cũng trong tháng 7, Ngân hàng Đông Dương không cho rút tiền ra. Sang tháng 8, chúng chuyển tiền vào Nam buộc những người có tiền gửi ngân hàng phải vào Sài Gòn để lĩnh.

Chúng ra lệnh chuyển địa điểm các kỳ thi vào Nam và đóng cửa, phá phách các trường học, buộc thầy giáo và học trò phải đi theo chúng.

Hàng vạn đồng bào ta ở khắp các tỉnh miền Bắc phải bỏ nhà cửa, ruộng vườn, họ hàng, làng mạc, tập trung về Hải Phòng đón tàu. Tình cảnh đồng bào trong các trại rất cơ cực, đói khổ, thiếu thốn đủ bề, bệnh tật phát triển. Một số gia đình không chịu nổi cảnh sống đó đã đòi trở lại quê hương.

Trong gần một năm, các tàu chiến của Pháp chở 514.000 giáo dân từ Hải Phòng đi Nam1.

Để đối phó với âm mưu của địch, Trung ương Đảng đã ra chỉ thị nêu rõ: “Việc phá tan âm mưu của địch bắt ép đồng bào ta vào Nam là một cuộc đấu tranh chính trị gay go và cấp bách hiện nay, cốt tranh thủ quần chúng ở lại quê hương, làm nhiệm vụ tham gia công tác kiến thiết nước nhà, không bị địch bắt đi làm lính, làm đồn điền, đầy ải, khổ sở…”2. Tiếp đó, Đảng và Chính phủ ta đã đề ra nhiều chính sách cụ thể đối với tôn giáo; chính sách đối với công chức, trí thức, giáo viên trước đây làm việc cho địch, chính sách đối với những nhà công thương nghiệp...

Các ban chỉ đạo chống cưỡng ép di cư được thành lập, hàng vạn cán bộ, bộ đội được huy động về giúp các địa phương vận động quần chúng đấu tranh, vạch trần âm mưu và thủ đoạn của địch. Nhiều nơi cán bộ, bộ đội ta đến vận động, bà con giáo dân tỏ thái dộ thờ ơ, lạnh nhạt. Những người bị các phần tử xấu xúi giục, kích động đã gây xung đột, đánh đập cán bộ, bộ đội. Nhiều cán bộ, chiến sĩ bị thương nặng, có người đã hy sinh.

Mặc dù đồng bào không chịu tiếp xúc, nhưng cán bộ, chiến sĩ ta vẫn kiên trì giải thích chính sách tự do tín ngưỡng cho nhân dân hiểu. Bằng hành động thực tế, cán bộ, bộ đội ta tận tình giúp đỡ đồng bào khắc phục khó khăn về sản xuất và đời sống. Những nơi nhân dân đã bỏ đi, ta vận động bà con còn lại chăm sóc ruộng vườn, trông nom, cất giữ chu đáo tài sản cho họ, khi họ về thì giao lại và giúp đỡ ổn định cuộc sống.

Những việc làm tận tình của cán bộ, bộ đội làm cho nhiều người tỉnh ngộ, nhận rõ lẽ phải, hiểu được chính sách đúng đắn của Đảng và Chính phủ, mạnh dạn vạch mặt bọn phản động đội lốt cha cố. Một số người đã cùng cán bộ, bộ đội tiếp tục vận động bà con thân thuộc. Có nơi ta mời được cả các vị linh mục về nhà thờ làm lễ để đồng bào yên tâm ở lại quê hương.

Tỉnh Nam Định, có 936 giáo dân đến gặp chính quyền ta tố cáo kẻ chủ mưu dụ dỗ, cưỡng ép họ bỏ nhà ra đi. Giáo dân ở đây cũng đã kịp thời báo cáo và giúp đỡ chính quyền cách mạng đập tan âm mưu của bọn đầu sỏ tập trung giáo dân ở 14 xứ đạo về Xuân Ninh (Xuân Trường) dụ dỗ họ di cư hàng loạt.

Đối với những phần tử ngoan cố, vi phạm luật pháp Nhà nước, ta kiên quyết trừng trị.

Ngày 1-11-1954, Ủy ban hành chính tỉnh Ninh Bình ra lệnh giải tán các trại tập trung ở Phát Diệm. Hàng ngàn đồng bào tấp nập quay về. Ngày 12-12-1955, Tòa án nhân dân Ninh Bình kết án tử hình một tên, phạt tù giam hai tên khác vì đã giết hại cán bộ ta và chống phá đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ. Trong năm 1955, các tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình đã phát hiện và xử lý 17 vụ bọn phản động tấn công vào bộ đội, 4 vụ cài mìn...

Cùng thời gian này, tại Thanh Hóa, bọn phản động lôi kéo giáo dân gây ra vụ bạo loạn ở Ba Làng. Chúng lập ra đội vũ trang, chém giết cán bộ, nói xấu chủ trương, chính sách của ta. Được sự chỉ đạo kịp thời của trên, bộ đội sư đoàn 305 kết hợp cùng chính quyền và nhân dân địa phương tước vũ khí, bắt toàn bộ bọn phản động, dập tắt hành động bạo loạn của địch.
_________________________________
1. Theo số liệu lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của Hải Phòng.
2. Chỉ thị số 91-CT/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ngày 5-9-1954.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #11 vào lúc: 22 Tháng Giêng, 2010, 10:45:40 pm »


Tháng 4-1955, tại Diễn Tiến (Diễn Châu, Nghệ An) địch cho 17 tên phản động từ trong Nam ra, tổ chức một đội vũ trang 100 người, được trang bị giáo mác, kết hợp với bọn phản động địa phương lôi kéo giáo dân đi Nam, kích động bạo loạn... Bị bọn chúng lừa bịp, cưỡng ép, giáo dân các huyện Yên Thành, Diễn Châu, Quỳnh Lưu kéo đến tập trung xung quanh nhà thờ Diễn Tiến hơn hai vạn người.

Liên khu IV và tỉnh đội Nghệ An đã chỉ đạo và phối hợp với ba huyện trên dập tắt bạo loạn.

Ta tổ chức giáo dục, huấn luyện 1.000 người cả lương lẫn giáo, đi vào đám đông, giải thích rõ âm mưu kẻ thù, khuyên bà con trở về làm ăn. Tiếp đó, ta cho một đội vũ trang vào nhà thờ Diễn Tiến bắt 5 tên phản động đội lốt thày tu đưa ra trước đồng bào quần chúng buộc phải công khai nói rõ ý đồ đen tối của bọn chúng.

Sau tám ngày đấu tranh liên tục, vừa vận động quần chúng, vừa trấn áp bọn đầu sỏ, ta đã dập tắt cuộc bạo loạn của địch, bắt 23 tên phản động. Bà con giáo dân thấy rõ âm mưu thâm độc của chúng đã quay trở về.

Tại xã Thạch Tâm (Thạch Hà, Hà Tĩnh), bọn phản động tổ chức một đội “cảm tử về đạo” gồm 30 người đem giáo mác đi cưỡng ép đồng bào bán nhà, làm đơn lên chính quyền đòi đi Nam. Ngày 7-4-1955, chúng đốt một nhà dân rồi bắt chủ tịch xã ký đơn vu cáo cho bộ đội. Trước hành động trắng trợn đó ta đã bắt 3 tên đầu sỏ, đồng thời vận động giải thích cho dân hiểu rõ âm mưu của địch. Kết quả trong 3 ngày đã có 70 gia đình xin ở lại.

Vừa tổ chức các cuộc bạo loạn chống cách mạng, địch vừa tìm cách đưa các tổ kiểm soát và giám sát quốc tế về điều tra với ý đồ tố cáo ta vi phạm Hiệp định. Trong khi đó, tàu chiến Mỹ, Pháp rập rình ngoài biển Đông sẵn sàng can thiệp quân sự, nếu ta nổ súng vào bọn phản loạn. Tại những nơi tổ kiềm soát và giám sát quốc tế đến, cán bộ ta niềm nở đón tiếp, tạo thuận lợi để họ trực tiếp gặp gỡ các nhân chứng, giúp họ tận mắt thấy rõ sự thật về hành động thâm độc của bọn phản động, thể hiện chính sách đúng đắn của ta.

Cuộc đấu tranh chống địch dụ dỗ và cưỡng ép di cư diễn ra rất phức tạp. Nhờ có sự chỉ đạo kịp thời, kiên quyết của Đảng và Chính phủ, cán bộ, bộ đội công an ta kiên trì, chịu đựng gian khổ, bám sát nhân dân, đã hạn chế được hành động của địch đưa người ồ ạt vào Nam.

Tuy vậy, ban đầu nhiều cấp ủy, cán bộ ở vùng có nhiều đồng bào theo đạo Thiên chúa chưa thấy hết tính chất gay go và cấp bách của cuộc đấu tranh, chưa nhận rõ đầy đủ âm mưu thâm độc của địch, nên còn lúng túng, không có những chủ trương, biện pháp đối phó kịp thời. Ta cũng chưa có nhiều cán bộ am hiểu giáo lý, tục lệ đạo Thiên Chúa để vạch trần những thủ đoạn lợi dụng thần quyền của bọn phản động, nên công tác tuyên truyền, vận động có phần còn bị hạn chế. Có nơi còn hữu khuynh không dám trấn áp bọn phản động cầm đầu, sợ vi phạm Hiệp định đình chiến, nên địch đã cưỡng ép được 887.000 người vào Nam, trong đó có 764.000 là giáo dân (có 568 linh mục, 4 giám mục).

Song song với các mặt công tác trên, việc tiếp quản các thành thị và những vùng nông thôn mới giải phóng được tiến hành khẩn trương. Từ ngày 3-7-1954, Trung ương Đảng và Chính phủ ra chỉ thị về “Bảo hộ các thành phố mới được giải phóng” định rõ phương châm, chính sách và chế độ quân quản và ban hành 8 chính sách đối với những thành phố (thị xã) mới được thu hồi, 10 điều kỷ luật của bộ đội, nhân viên công tác khi vào tiếp quản.

Những đơn vị làm nhiệm vụ tiếp quản, cán bộ, chiến sĩ được giáo dục nâng cao tinh thần cảnh giác, giữ vững ý chí trước những cám dỗ về vật chất và lối sống xa hoa. Đảng và Chính phủ còn chỉ thị cho các đơn vị “… Phòng ngừa tình trạng hỗn loạn, phòng ngừa bọn phản động, bọn lưu manh, côn đồ lẩn lút trong thành phố lợi dụng thời cơ quấy rối; phòng ngừa những hành động vô tổ chức, vô kỷ luật, vô trật tự có thể xảy ra trong một số bộ đội và đơn vị, trong một số dân quân du kích ở nông thôn và quần chúng nông dân vào thành”1.

Từ ngày 1 đến ngày 8-8-1954, ta đã hoàn thành tiếp quản các thị xã và thị trấn: Vĩnh Yên, Móng Cái, Phúc Yên, Sơn Tây, Phủ Lạng Thương, Hưng Yên và Ninh Giang, bảo đảm an ninh, trật tự, ổn định tinh thần và sinh hoạt của nhân dân. Đồng bào vùng mới giải phóng vô cùng phấn khởi, thực sự bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới.

Cùng với việc tiếp quản, ta và Pháp đã thỏa thuận việc trao trả tù binh của hai bên. Đây là vấn đề khá phức tạp có liên quan đến sinh mệnh của hàng vạn đồng chí, đồng bào ta đang bị địch giam giữ trong các nhà tù. Âm mưu của địch là tìm mọi cách trì hoãn và đưa số lớn người của ta bị bắt vào Nam. Nhưng số đông binh lính, sĩ quan Âu-Phi, trong đó có nhiều người thuộc gia đình có thế lực đang bị ta giam giữ, nếu Pháp trì hoãn không trả người của ta thì họ cũng không nhận được người của họ, trong khi đó nhân dân Pháp đang gây áp lực đòi Chính phủ phải sớm đưa thân nhân của họ về đoàn tụ với gia đình. Biết chỗ yếu của địch, ta kiên quyết đấu tranh, buộc phía Pháp phải thi hành đúng các điều khoản về trao trả người bị bắt trong chiến tranh. Kết quả là đến ngày 9-9-1954, ta và Pháp đã hoàn thành việc trao trả tù binh. Số lượng tù binh ta giao cho Pháp là 13.414 người, trong đó có 9.247 người Âu-Phi. Pháp trao trả cho ta 68.358 cán bộ, chiến sĩ và thường dân bị bắt, trong đó có 11.114 quân nhân.

Tướng Đờ Cáttơri (chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ) được trả vào ngày 3-9-1954, trước khi kết thúc trao trả tù binh một ngày2.
____________________________________
1. Văn kiện Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, t.1, Nxb Sách giáo khoa Mác - Lênin, Hà Nội, 1978, tr. 14.
2. Trong số tù binh ta giao cho Pháp có: 1 tướng, 3 đại tá, 12 trung tá, 38 thiếu tá, 530 sĩ quan cấp úy.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #12 vào lúc: 22 Tháng Giêng, 2010, 10:47:04 pm »


Để tiếp quản thủ đô Hà Nội, Trung ương Đảng và Chính phủ quyết định thành lập Đảng ủy tiếp quản thủ đô (6-9-1954) do đồng chí Trần Quốc Hoàn, ủy viên Trung ương Đảng làm bí thư và Ủy ban quân chính Hà Nội (17-9-1954) do Thiếu tướng Vương Thừa Vũ làm Chủ tịch, bác sĩ Trần Duy Hưng làm Phó chủ tịch.

Đảng ủy tiếp quản gấp rút mở các lớp huấn luyện ngắn ngày cho hon 500 cán bộ các ngành và cấp tốc bồi dưỡng đào tạo hàng trăm cán bộ cốt cán từ thành phố đưa ra.

Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm chuẩn bị mọi mặt cho các đơn vị về tiếp quản thủ đô. Người trực tiếp viết “Mấy lời căn dặn các đơn vị bộ đội vào thành”: “Suốt tám năm kháng chiến, các chú đã làm kiểu mẫu anh dũng, do đó mà chúng ta đã thắng lợi. Nay chúng ta về thành thị, các chú cũng phải làm kiểu mẫu đúng đắn, để tranh lấy thắng lợi trong hòa bình”1.

Ngày 19-9-1954, đại biểu cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn 308 làm nhiệm vụ tiếp quản Hà Nội, vinh dự được gặp Bác tại Đền Hùng (Phú Thọ), được Bác trực tiếp căn dặn: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước. Trải bao nhiêu thời đại đấu tranh, ông cha ta mới giữ được Thủ đô. Tám, chín năm nay do quân dân ta kiên quyết kháng chiến nên mới có thắng lợi trở về Hà Nội. Vì thế các chú được Trung ương Đảng và Chính phủ giao cho nhiệm vụ tiếp quản Thủ đô, là được nhận một vinh dự rất lớn... Đồng bào Hà Nội chờ các chú từ ngày các chú ra đi, nay đang may cờ đỏ sao vàng chờ đợi hoan hô các chú”2.

Lời Bác thấm sâu vào lòng mỗi cán bộ, chiến sĩ. Mọi người đều ghi lòng tạc dạ và hứa quyết tâm thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.

Được sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Bác Hồ, được chi viện tích cực của các ngành, các địa phương, công tác chuẩn bị tiếp quản Hà Nội được triển khai nhanh chóng, đúng với thời gian quy định.

Ngày 9-10-1954, Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp ra nhật lệnh cho các đơn vị làm nhiệm vụ tiếp quản Thủ đô. Đồng chí căn dặn: “Phải đoàn kết giữa các lực lượng để giữ gìn trật tự an ninh Thủ đô. Phải nêu cao kỷ luật, triệt để chấp hành 8 chính sách và 10 điều kỷ luật của Chính phủ, bảo vệ, tôn trọng và giúp đỡ nhân dân, luôn nâng cao cảnh giác sẵn sàng đập tan mọi âm mưu khiêu khích của bọn phá hoại”3. Lúc 5 giờ sáng cùng ngày, sĩ quan liên lạc của ta và Pháp gặp nhau để chuẩn bị bàn giao và tiếp quản. Một bộ phận của Đại đoàn 308 được phái vào trước tiếp nhận các công sở nhà máy, bệnh viện và doanh trại của địch. Tại các khu vực ta tiếp quản xong, tự vệ và công nhân các nhà máy, đường phố, các đội công an, các đội hình chính vào trước đã cùng bộ đội tuần tra canh gác giữ gìn trật tự, an ninh.

Đúng 16 giờ, những tốp lính Pháp ở bốt gác cầu Long Biên đã phải rời khỏi mảnh đất cuối cùng của thành phố, rút hết sang phía Gia Lâm. Viên đại tá Đarăngxơ là người lính Pháp cuối cùng rút khỏi Hà Nội.

Ngày 10-10-1954, Thủ đô Hà Nội hoàn toàn được giải phóng. Đúng 8 giờ, các lực lượng chủ yếu của Đại đoàn 308 và các đơn vị phối thuộc từ năm cửa ô tiến quân vào thành phố. Cả Hà Nội rạo rực niềm vui giải phóng. Hai mươi vạn nhân dân trang phục nhiều màu sắc, hân hoan xuống đường đón mừng bộ đội chiến thắng trở về. Quân ta đi đến đâu là rừng cờ và hoa mọc lên đến đó.

Chiều 10-10-1954, tại sân Cột Cờ, ta tổ chức lễ chào cờ Thiếu tướng Vương Thừa Vũ, Chủ tịch Ủy ban Quân chính Hà Nội đọc lời kêu gọi của Chù lịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào thủ đô Hà Nội. Người kêu gọi “Chính phủ và nhân dân thủ đô ta phải cố gắng nhiều để khôi phục, củng cố và phát triển đời sống tinh thần và vật chất”, “giữ gìn trật tự, an ninh”, thực hiện “cần, kiệm, liêm chính...”4.

Việc tiếp quản Hà Nội diễn ra an toàn và trật tự đã kết thúc thắng lợi chặng đường lịch sử vô cùng gian khổ nhưng rất oanh liệt vẻ vang. Đó là kết quả của cuộc đấu tranh toàn diện trên các mặt chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa, kết họp với lực lượng tại chỗ của công nhân, viên chức cùng nhân dân thủ đô chống địch vét người, cướp của, phá hoại tài sản.

Ngày 1-1-1955, hai mười lăm vạn đồng bào Thủ đô họp mít tinh tại Quảng trường Ba Đình, chào mừng Trung ương Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ Tịch trở về sau 9 năm xa cách.
____________________________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987 tr. 44.
2. Hồ Chí Minh: Về vấn đề quân sự, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1975, tr. 293.
3. Lịch sử Bộ Tổng tham mưu trong kháng chiến chống Pháp 1945-1954, Ban tổng kết - biên soạn lịch sử Bộ Tổng tham mưu xuất bản, Hà Nội 1991, tr. 829.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập. t 7, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr. 46.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #13 vào lúc: 22 Tháng Giêng, 2010, 10:48:03 pm »


Để thi hành Hiệp định Giơnevơ, ngày 18-10-1954, bộ đội tình nguyện Việt Nam ở Campuchia, ngày 16-11-1954 bộ đội tình nguyện Việt Nam ở Lào đã hoàn thành cuộc rút quân về nước.

Sau khi tiếp quản Hà Nội, ngày 26- 10-1954, ta và Pháp tiến hành ký Hiệp nghị chuyển giao khu vực Hải Dương.

Sáng 29-10, các thị trấn Phả Lại, Kẻ Sặt và Cẩm Giàng được tiếp quản. Ngày 30-10, Trung đoàn 42 vào tiếp quản thị xã Hải Dương. Cùng ngày, Pháp rút khỏi Đông Triều về Hải Phòng.

Tiếp quản xong Hải Dương, các đơn vị tổ chức rút kinh nghiệm để tiếp quản Hồng Gai và Hải Phòng. Bộ Tổng tham mưu đã dự kiến kế hoạch đề phòng tình huống xấu nhất có thể địch không chịu rút khỏi Hải Phòng hoặc kéo dài thời gian rút quân. Đại đoàn 312 được lệnh của cấp trên giao cho chuẩn bị kế hoạch sẵn sàng chiến đấu ở khu vực này.

Tại Liên khu V, ta vẫn để lại lực lượng đủ bảo đảm giữ khu vực còn lại và nếu địch tráo trở thì nhanh chóng khôi phục vùng giải phóng cũ. Cục Quân báo được lệnh đưa hai đại đội theo dõi hoạt động của địch ở khu chu vi Hải Phòng và cử thêm cán bộ quân báo vào Liên khu V nắm sát tình hình, giúp trên kịp thời xử lý. Mặt khác, Trung ương chỉ đạo tranh thủ trao đổi với Pháp về hoạt động kinh tế, văn hóa tạo điều kiện cho công tác tiếp quản được thuận lợi.

Do chủ động phòng ngừa trước và đấu tranh khôn khéo của ta, nên thực tế diễn ra không bị trắc trở. Theo đúng kế hoạch đã thống nhất với Pháp, từ 22 đến 24-4-1955 bộ đội ta lần lượt tiếp quản các thị xã Quảng Yên, Hồng Gai, Cửa Ông, Cẩm Phả. Từ ngày 28-4 đến 12-5-1955, tiếp quản các huyện lỵ, thị trấn xung quanh Hải Phòng.

Trước khi tiếp quản khu chu vi Hải Phòng, Đại tướng Tổng tư lệnh ra nhật lệnh: “Khu chu vi Hải Phòng được giải phóng là miền Bắc nước Việt Nam được giải phóng... Các đơn vị làm nhiệm vụ tiếp quản phải nhận rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của nó... phải giữ vững ý chí chiến đấu, để cao cảnh giác”1.

Sáng sớm ngày 13-5-1955, các cánh quân của Đại đoàn 320 và các đơn vị phối thuộc, đội ngủ chỉnh tề, rầm rập tiến vào tiếp quản Hải Phòng. Thành phố cảng tràn ngập cờ hoa, biểu ngữ hân hoan đón mừng ngày hội giải phóng. Chiều ngày 13-5, chiếc tàu Đirin Boócđô chở những tên lính Pháp cuối cùng rời cảng Hải Phòng.

Những ngày 14, 15 và 16-5, ta tiếp quản vùng Kiến Thụy, Đồ Sơn và các đảo ven biển.

Trải qua 300 ngày đấu tranh vô cùng gay go, quyết liệt miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng. Như vậy: “Sau hơn 80 năm nô lệ, ngày nay cả miền Bắc là của nhân dân ta, dưới chế độ dân chủ cộng hòa do nhân dân ta làm chủ. Thắng lợi to lớn ấy là do từ Nam đến Bắc, đồng bào ta đoàn kết, bộ đội ta anh dũng, Đảng và Chính phủ ta lãnh đạo đúng đắn. Ta lại có nhân dân các nước bạn, nhân dân Pháp và nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới ủng hộ”2.

Miền Bắc được giải phóng, nhưng nền kinh tế vốn lạc hậu lại bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh. Về nông nghiệp, hơn 140.000 hécta đất bỏ hoang không người trồng cấy. Hệ thống thủy lợi hư hại, khiến 200.000 hécta ruộng đất không nước tưới tiêu, hoang cằn và úng ngập, xóm làng xơ xác, dân tình xiêu tán chưa kịp hồi cư. Cuối năm 1954 và nửa đầu 1955, thiên tai tàn hại mùa màng, nạn đói lan rộng hơn 200 xã.

Công nghiệp nhỏ bé, què quặt, mất cân đối nghiêm trọng. Một số nhà máy, xí nghiệp bị đối phương phá hoại, tháo dỡ máy móc, thiết bị. Hầu hết các nhà máy, xí nghiệp tư bản Pháp, tư sản dân tộc đều ngừng hoạt động. Cuối năm 1954, tỷ trọng sản xuất nông nghiệp trong tổng sản lượng nông, công nghiệp từ 10% trước chiến tranh (1939), tụt xuống còn 1,5%.

Là mạch máu của nền kinh tế quốc dân, nhưng giao thông vận tải và bưu điện lạc hậu. Các tuyến đường sắt, đường ô tô bị đào xẻ, cầu cống sập đổ. Đường sông không được nạo vét trong nhiều năm càng nông cạn. Phương tiện vận tải cũ nát. Một loạt thiết bị bưu điện bị chuyển vào Nam. Ở vùng mới giải phóng, với 1750 hộ tư sản thương nghiệp, hơn 226.000 tiểu thương, hoạt động đầu cơ, nâng giá, lũng đoạn thị trường khá phổ biến. Hàng hóa khan hiếm. Đồng tiền chưa thống nhất. Phân phối lưu thông, giá cả thị trường không ổn định, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
____________________________________
1. Lịch sử Bộ Tổng tham mưu trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954) Ban tổng kết - biên soạn lịch sử Bộ Tổng tham mưu xuất bản, Hà Nội 1991, tr. 833.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 7 Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr. 252-253.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #14 vào lúc: 22 Tháng Giêng, 2010, 10:49:19 pm »


Hòa bình lập lại, Đảng, Chính phủ và nhân dân ta ở miền Bắc đứng trước nhiều vấn đề xã hội nóng bỏng, phức tạp và khó khăn. Số người mù chữ rất đông. Hệ thống y tế nhỏ bé, lạc hậu. Các bệnh xã hội như lao phổi, hoa liễu, sốt rét... hoành hành. Các tệ nạn mại dâm, nghiện hút, cướp giật, cờ bạc... phổ biến khắp nơi. Hơn 50.000 lao động không có việc làm, hàng trăm ngàn người lâm vào thiếu đói. 240.000 tề ngụy rã đám chưa qua cải tạo, 11.000 phỉ vẫn tác oai tác quái ở vùng cao, hàng nghìn gián điệp và đặc vụ nước ngoài cài lại ngấm ngầm hoạt động. Vấn đề tôn giáo, dân tộc vốn phức tạp do chính sách cai trị của người Pháp trước đây, bây giờ càng căng thẳng bởi âm mưu và hành động phá hoại của kẻ thù.

Từ chiến tranh chuyển sang hòa bình, từ nông thôn chuyển vào thành thị, từ phân tán chuyển vào tập trung... là một thay đổi lớn phải cần có thời gian mới ổn định được… Tại những vùng mới giải phóng, chính quyền cách mạng vừa thành lập chưa được củng cố, thiếu cán bộ. Kinh nghiệm tổ chức quản lý xã hội, quản lý kinh tế của các ngành, các cấp từ trung ương đến địa phương không có.

Để từng bước khắc phục điều đó, ngay khi hòa bình mới lập lại, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã chỉ rõ: “Chúng ta sẽ đứng trước một nhiệm vụ to lớn trong công tác kinh tế là hàn gắn vết thương của chiến tranh, khôi phục kinh tế quốc dân, giảm bớt những khó khăn vì đời sống nhân dân, phát triển kinh tế một cách có kế hoạch và làm từng bước, mở rộng giao lưu kinh tế giữa thành thị và nông thôn”1.

Sản xuất nông nghiệp được đặc biệt coi trọng, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8 nhấn mạnh: “Phải nhận thức đầy đủ và sâu sắc về tính chất rất trọng yếu của sản xuất nông nghiệp đối với cả nền kinh tế nước ta hiện nay và sau này. Phải khôi phục sản xuất nông nghiệp để giải quyết vấn đề lương thực (trước mắt là cứu đói và phòng đói) làm cơ sở cho việc khôi phục và phát triển công thương nghiệp. Phải khôi phục sản xuất nông nghiệp và làm nghề phụ ở nông thôn để nâng cao sức sống của nông dân, do đó, củng cố công nông liên minh”.

Hưởng úng lời kêu gọi của Trung ương Đảng, Chính phủ và của Hồ Chủ Tịch, toàn dân ta hăng hái tham gia phong trào tăng gia sản xuất, tiết kiệm, chống đói, vận động nhân dân giúp đỡ lẫn nhau cứu đói2. Nhà nước cho nhân dân vay vốn để đầu tư vào sản xuất3, ổn định đời sống.

Cùng với nhiệm vụ khôi phục kinh tế, Đảng và Nhà nước ta chú trọng tăng cường quốc phòng, xây dựng quân đội “làm cho mọi mặt biên chế, trang bị huấn luyện, chế độ, kỹ thuật v.v.... của quân đội nhân dân dần được nâng cao lên một bước dài. Phải làm cho cán bộ, chiến sĩ thông thạo những vũ khí trong tay mình và hiểu biết nghệ thuật quân sự tiên tiến”4. Đảng xác định đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng, khẩn trương của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân. Ngày 20-12-1954, quân đội bước vào khóa huấn luyện quân sự đầu tiên trong thời bình. Công tác giáo dục chính trị cũng được tiến hành bằng các đợt chỉnh huấn tập trung về nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, nhiệm vụ đấu tranh thống nhất Tổ quốc, bản chất và truyền thống quân đội nhân dân... đã nâng cao giác ngộ giai cấp, giác ngộ lý tưởng cho cán bộ, chiến sĩ. Vừa học tập quân sự, chính trị, cán bộ và chiến sĩ các đơn vị vừa tích cực tham gia khôi phục kinh tế, cứu đói, chống địch cưỡng ép di cư và tiễu phi ở vùng rừng núi Tây Bắc, Đông Bắc. Nhiệm vụ nào quân đội ta cũng hoàn thành.

Trên mặt trận khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, quân đội đã cùng với nhân dân nhanh chóng tháo gỡ bom mìn dây kẽm gai, khôi phục ruộng đất xung quanh đồn bốt địch và những khu vành đai trắng bị bỏ hoang hóa để cho dân cày cấy. Tại các khu vực đóng quân, bộ đội đã giúp dân hàng chục vạn ngày công cày, bừa, cấy, gặt... Cán bộ, chiến sĩ các sư đoàn 324, 325, trung đoàn 270, 271, Quân khu IV đã giảm bớt khẩu phần lương thực, dành ra hơn 14 tấn gạo giúp đỡ đồng bào các vùng bị đói.

Đầu năm 1955, miền Bắc bị hạn hán nghiêm trọng. Các đơn vị quân đội đã góp trên sáu triệu ngày công, đào vét hàng trăm kilômét mương máng và hàng nghìn giếng nước để giúp dân chống hạn, cứu lúa.

Mùa thu năm 1955, miền Bắc lại bị bão lớn. Đê Mai Lâm (Đông Anh, Hà Nội), bị vỡ, nước tràn vào ngập trắng đồng ruộng, xóm làng. Không quản ngại khó khăn, vất vả hy sinh, hàng trăm cán bộ, chiến sĩ đã ngày đêm dầm mình dưới nước, nắm chắc tay nhau làm hàng rào chặn dòng nước lũ, để đồng đội đóng cọc, làm kè, đổ đất, đá hàn vá đoạn đê vỡ.
____________________________________
1. Nghị quyết Bộ Chính trị về tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách của Đảng tháng 9-1954.
2. Tính đến cuối tháng 4-1955 nhân dân khu Tả Ngạn đã giúp nhau trên 2.000 tấn thóc, 200 tấn gạo, 40 tấn ngô, khoai và 80 triệu đồng.
3. Chính phủ đã bỏ ra 40.000 tấn thóc và 193 triệu đồng cứu đói, cho mượn 228 tấn thóc giống Nam Ninh, 312 tấn thóc giống lúa nước mặn và tiếp tế 5 vạn trâu bò cho vùng đồng bằng. Ngân hàng cho 17 vạn gia đình nông dân vay tiền để mua trâu bò, nông cụ để bảo đảm cấy cày.
4. Nghị quyết Bộ Chính trị về tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách của Đảng, tháng 9-1954.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #15 vào lúc: 22 Tháng Giêng, 2010, 10:50:42 pm »


Ngày 25-9-1955, một cơn bão lớn đổ bộ vào Hải Phòng. Nước biển dâng cao tràn vào các xã ven đê thuộc các huyện Hải An, Thủy Nguyên, Kiến Thụy, gây tổn thất nặng nề về người và tài sản của nhân dân. Các đơn vị vũ trang được lệnh hành quân cấp tốc tham gia chống lụt cứu dân và cứu hộ đê bao bị vỡ. Giữa cơn sóng to, gió lớn đã xuất hiện hàng trăm tấm gương sáng ngời phẩm chất “Bộ đội cụ Hồ” sẵn sàng hy sinh thân mình vì cuộc sống của nhân dân. Đồng chí Phạm Minh Đức chiến sĩ Đại đội 1, trung đoàn 53, Sư đoàn 350, liên tục vật lộn với sóng gió, cứu được 14 người. Anh đã anh dũng hy sinh trong khi làm nhiệm vụ, được Quốc hội, Chính phủ truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Phạm Minh Đức là người anh hùng đầu tiên của quân đội ta được tuyên dương trong thời kỳ xây dựng hòa bình. Trong trận bão này, các lực lượng vũ trang ta đã cứu được 1.193 người dân; hàng ngàn con trâu, bò, lợn và nhiều tài sản quý. Sau khi bão tan bộ đội đã giúp dân dựng lại 279 ngôi nhà, sắp xếp chỗ ở cho 5.913 gia đình có nhà bị đổ hoặc tốc mái.

Trên mặt trận sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, các lực lượng vũ trang phối hợp chặt chẽ với chính quyền, đoàn thể các tỉnh biên giới, phát động quần chúng, xây dựng cơ sở vững mạnh, đánh đổ uy thế bọn phản động và đập tan bọn phỉ ngoan cố còn lẩn trốn trong rừng.

Trước ngày Hiệp định Giơnevơ có hiệu lực, thực dân Pháp đã cho máy bay liên tục thả vũ khí, lương thực, điện đài cho bọn phản động cài lại để chúng đánh phá ta. Bọn phỉ đầu sỏ được tiếp tế cả bản dỗ quân sự vàbạc trắng, để phòng khi bị lộ thì trốn sang Lào. Bọn chỉ huy còn dùng máy bay trực thăng đổ bộ xuống một số vị trí trú ẩn của phỉ để bày mưu, vạch kế hoạch cho bọn này hoạt động, đồng thời đón một số tên quan trọng đưa vào Nam để sử dụng phá hoại ta lâu dài. Trước mắt, chúng chủ trương tiếp tục gây phỉ, tổ chức hoạt động gián điệp, biệt kích, tránh gặp lực lượng bộ đội, nếu bị đánh mạnh thì cất giấu vũ khí lần trốn tìm đường rút sang Lào hoặc trá hàng.

Lực lượng phỉ ở Lào Cai có 5.025 tên, Hà Giang 798 tên, Yên Bái 147 tên...

Tranh thủ lúc quân Pháp chuẩn bị rút, hệ thống tổ chức của chúng tan rã, tinh thần bọn phỉ hoang mang, dao động mạnh vì không còn chỗ dựa, ngày 30-7-1954, trung đoàn 246 từ Phú Thọ được lệnh lên Tây Bắc, phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương tiêu diệt bọn phỉ ở đây.

Bị đánh quyết liệt, bọn này chuyển phương thức hoạt động “tránh mạnh, đánh yếu”, chúng phân tán thành từng tốp nhỏ, lợi dụng những sơ hở của ta để đánh lén, hoặc chặn đường tiếp tế. Các lực lượng tiễu phỉ nhanh chóng rút kinh nghiệm chuyển sang cách “đánh nhỏ, thọc sâu” kết hợp với việc phát hiện của dân, khai thác những tên phỉ bị bắt hoặc ra hàng để mở các trận tiến công vào hang ổ của bọn trùm phỉ.

Trong đợt truy quét này, ta diệt 128 tên, bắt 88 tên, gọi hàng 1.203 tên, thu 1299 súng các loại, 14 máy thông tin, 178 cái dù.

Ngày 16-4-1955, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra chỉ thị nhắc nhở các cấp ủy tiếp tục lãnh đạo phá âm mưu gây phỉ của đế quốc. Bản chỉ thị nêu yêu cầu chung là: “Đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, phá âm mưu gây phỉ của đế quốc, xây dựng và củng cố cơ sở, củng cố biên phòng”. Phương châm công tác là: “Hoạt động chính trị kết hợp với cải thiện dân sinh là chính. Dùng lực lượng quân sự làm lực lượng chủ yếu”.

Thực hiện chỉ thị của Ban Bí thư, ở những tỉnh trọng điểm Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Cao Bằng, Hải Ninh, các trung đoàn 246, 238, 148 và toàn bộ lực lượng vũ trang địa phương đã đi vào từng bản làng của đồng bào dân tộc, tuyên truyền chính sách của Đảng và Chính phủ, vạch trần tội ác của địch, phân hóa, cô lập bọn phản động. Bộ đội ta tận tình giúp đỡ đồng bào sản xuất, thực hiện “ba cùng” với dân, kiên trì tiến hành các bước phát động quần chúng. Hành động của cán bộ, chiến sĩ ta có sức thuyết phục mạnh mẽ đối với nhân dân, cảm hóa được những người lầm đường. Hàng ngũ phỉ tan rã dần, nhiều tên nộp súng trở về nhà làm ăn. An ninh ở các vùng biên giới được lập lại. Khối đoàn kết các dân tộc được củng cố.

Tuy nhiên, một số tên, nhất là những tên phỉ đầu sỏ vẫn còn rất ngoan cố, lén lút trong rừng để tìm cách chống lại ta. Vấn đề tiễu phỉ chưa xong, ta còn phải tiếp tục giải quyết cho đến năm 1960 mới căn bản kết thúc.

Bên cạnh việc gây phỉ, kẻ địch còn khuyến khích các đảng phái cũ như Đại Việt, Việt Nam Quốc dân đảng hoạt động và lập các đảng phái phản động mới như Năm Sao Trắng, Hoa Kiều cứu quốc ở vùng Đông Bắc để phá hoại ta. Riêng ở Quảng Bình, đảng Cù Xuân trước đây do Pháp thành lập tại Hướng Hóa (Quảng Trị), đầu năm 1956 đã mở rộng phạm vi hoạt động ra huyện Lệ Thủy. Bọn này lợi dụng giáo lý, thần quyền để kích động quần chúng, chia rẽ lương, giáo, nói xấu chế độ ta. Cũng ở Quảng Bình bọn phản động còn thành lập một tổ chức mới lấy tên là đảng Việt Hưng, hoạt động chủ yếu trên địa bàn một số xã của hai huyện Quảng Trạch và Tuyên Hóa. Bọn chúng đã bí mật may cờ, soạn thảo cương lĩnh, sắp xếp khung cán bộ từ tỉnh xuống xã. Nhưng mọi hành động của các đảng phái phản động đã không lọt qua khỏi tai mắt của quần chúng. Được nhân dân địa phương phát hiện, giúp đỡ, bộ đội và lực lượng công an đã kịp thời trấn áp và bắt gọn bọn chúng.

Cùng với công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa, xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng toàn dân, trong hai năm 1955 và 1956, Đảng và Nhà nước đã phát động phong trào đấu tranh chính trị toàn miền Bắc phản đối Mỹ - Diệm vi phạm Hiệp định, góp cùng đồng bào miền Nam ruột thịt đòi tự do dân chủ, đòi hiệp thương, tổng tuyển cử. Hàng ngàn cuộc mít tinh của mọi tầng lớp nhân dân lên án đế quốc Mỹ và tay sai tàn sát đồng bào ta ở Kim Đôi, Vĩnh Trinh, chợ Được, Mỏ Cày... Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã hơn 30 lần gửi thư, kiến nghị cho chính quyền Sài Gòn, phản đối những hành động dã man của chúng và yêu cầu Diệm phải để cho nhân dân tự do gửi thư tín, tự do đi lại. Nhưng tất cả những đề nghị của ta đều bị Mỹ và Ngô Đình Diệm chống lại.

Ngày 6-7-1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào cả nước vạch rõ nguyên nhân không có tổng tuyển cử để thống nhất đất nước là do đế quốc Mỹ và tay sai Ngô Đình Diệm phá hoại Hiệp định Giơnevơ. Người khẳng định: “Thống nhất nước nhà là con đường sống của nhân dân ta. Đại đoàn kết là một lực lượng tất thắng”1.
____________________________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 7, Sđd, tr. 464.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #16 vào lúc: 23 Tháng Giêng, 2010, 07:15:16 pm »


II. NHÂN DÂN MIỀN NAM ĐẤU TRANH CHỐNG MỸ-DIỆM ÁP ĐẶT CHỦ NGHĨA THỰC DÂN KIỂU MỚI


Trong khi Đảng, Chính phủ và nhân dân ở miền Bắc thi hành những điều khoản của Hiệp định Giơnevơ và tập trung sức lực củng cố hòa bình, băng bó vết thương chiến tranh, ổn định đời sống, thì ở miền Nam, đế quốc Mỹ và Ngô Đình Diệm ra sức phá hoại Hiệp định. Mỹ biết chắc nếu “tổng tuyền cử thì cuối cùng có nghĩa là thống nhất nước Việt Nam dưới quyền ông Hồ Chí Minh, do đó điều quan trọng hơn hết là trì hoãn càng lâu càng tốt cuộc tuyển cử đó”1.

Ngày 21-7-1954, Tổng thống Mỹ Aixenhao tuyên bố Hoa Kỳ không bị ràng buộc vào những quyết định của Hội nghị Giơnevơ. Chủ tịch Ủy ban đối ngoại Thượng nghị viện Mỹ thì nói thẳng rằng Hiệp định Giơnevơ chỉ là một hiệp định ngừng chiến sẽ có thể hủy bỏ bất cứ lúc nào.

Sở dĩ Mỹ phản ứng quyết liệt vì lo sợ sự thất bại ở Việt Nam, sẽ dẫn đến một sự phát triển của phong trào cách mạng ở Đông Nam Á. “Chớp lấy cơ hội thuận lợi, trước thất bại của Pháp, Mỹ ráo riết tìm cách hất cẳng Pháp để nhảy vào miền Nam Việt Nam, thực hiện âm mưu cơ bản là tiêu diệt bằng được phong trào yêu nước của nhân dân ta, thôn tính miền Nam, chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ, lập phòng tuyến ngăn chặn chủ nghĩa xã hội lan xuống Đông Nam châu Á đồng thời lấy miền Nam làm căn cứ để tiến công miền Bắc, tiền đồn của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới ở Đông Nam châu Á, hòng đè bẹp và đẩy lùi chủ nghĩa xã hội ở vùng này, bao vây và uy hiếp các nước xã hội chủ nghĩa khác”2.

Nhưng nhảy vào miền Nam Việt Nam trong lúc Pháp đã bị đánh bại, kéo theo sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ, buộc Mỹ phải xây dựng hình thức chủ nghĩa thực dân mới để xâm lược miền Nam Việt Nam. Đặc điểm của chủ nghĩa thực dân mới là “không phải bằng hệ thống cai trị trực tiếp của bọn đế quốc mà thông qua một chính quyền tay sai đại biểu quyền lợi cho giai cấp địa chủ phong kiến và tư sản mại bản khoác áo “dân tộc dân chủ” giả hiệu”3. Do vậy, Mỹ chọn Ngô Đình Diệm4 một quan lại trong triều Nguyễn, lại là tín đồ Thiên chúa giáo, chống cộng khét tiếng, được đào tạo ở Mỹ với sự đỡ đầu của Hồng y giáo chủ Spenman, cầm đầu bộ máy tay sai ở Sài Gòn.

 Ngày 8-8-1954, Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ đưa ra bốn chính sách lớn:

1- Mỹ trực tiếp viện trợ cho ngụy quyền Sài Gòn. Mỹ chỉ dành cho Pháp 100 triệu đôla trong tổng số 400 triệu viện trợ.

2- Mỹ trực tiếp chỉ huy và huấn luyện quân đội ngụy.

3- Pháp phải rút hết quân khỏi miền Nam.

4- Loại bỏ Bảo Đại và những ảnh hưởng của Pháp.

Ngày 8-9-1954, Mỹ lôi kéo các nước đồng minh ký hiệp ước Manila (Philíppin) thành lập tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (gọi tắt SEATO), đặt Nam Việt Nam, Lào, Campuchia dưới sự bảo hộ của tổ chức này. Thực chất SEATO là liên minh chống cộng khu vực làm chỗ dựa cho Mỹ xâm lược Việt Nam5.
______________________________________
1. Tài liệu mật của BQP Mỹ về cuộc CTXLVN, t. 1, VN thông tấn xã phát hành tháng 8-1971. tr. 95.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, NXB Sự thật, Hà Nội: 1977: tr. 15.
3. Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới, NXB Sự thật, Hà Nội, 1970, tr. 18.
4. Ngô Đình Diệm sinh ngày 3-1-1907, tại Quảng Bình. Năm 1933, làm Thượng thư Bộ lại trong nội các Bảo Đại. Năm 1944, bị Pháp gạt bỏ. Năm 1945 sang Mỹ sống tại chủng viện Knoll Lakenodd bang New Jersey do Hồng y giáo chủ Spenman đỡ đầu và được Mỹ nuôi dưỡng để chuẩn bị đưa về miền Nam nắm quyền cai trị. Những năm 1949, 1952, Mỹ định ép Pháp đưa Diệm về nhưng Pháp từ chối.
5. Các nước trong Hiệp ước SEATO là: Mỹ, Anh, Pháp, Ôxtrâylia, Thái Lan, Philíppin, Pakixtan.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #17 vào lúc: 23 Tháng Giêng, 2010, 07:16:43 pm »


Ngày 17-11-1954, Mỹ cử tướng Côlin1 làm đại sứ ở Sài Gòn. Bộ Ngoại giao Mỹ tuyên bố: “Miền Nam Việt Nam phải có một chính phủ mạnh, có lực lượng cảnh sát và an ninh hữu hiệu. Ông tân đại sứ có quyền khuyến cáo những biện pháp cần thiết và nếu cần cũng có thể tự mình quyết định những biện pháp ấy”2.

Đến Sài Gòn, Côlin đề ra kế hoạch sáu điểm để thực thi chủ nghĩa thực dân mới. Kế hoạch Côlin gồm:

1- Bảo trợ chính quyền Diệm. Viện trợ trực tiếp cho chính phủ Sài Gòn.

2- Xây dựng quân đội Sài Gòn gồm 15 vạn do Mỹ huấn luyện, trang bị.

3- Bầu cử quốc hội, hợp pháp hóa chính quân Sài Gòn.

4- Định cư cho số công giáo miền Bắc di cư và vạch kế hoạch cải cách điền địa.

5- Thay đổi chế độ thuế khóa, dành ưu tiên cho hàng Mỹ vào miền Nam.

6- Đào tạo cán bộ hành chính.

Với Hiệp định Gơnevơ 1954, Pháp chủ trương chỉ thực hiện những điều khoản có lợi cho Pháp. Tướng Pôn Êly (Paul Ely) tổng tư lệnh quân viễn chinh Pháp tại Đông Dương thừa nhận: “Những thỏa hiệp này cũng còn bảo đảm được cho tương lai vị trí quan trọng của Pháp tại phần đất này của thế giới”3. Hiện tại, Pháp vẫn còn 167.000 quân chính quy và 37.000 lính phụ thuộc; còn có lực lượng Bình Xuyên đang khống chế Sài Gòn; tín đồ Cao Đài có vũ trang chiếm các vùng tây bắc Sài Gòn; tín đồ Hòa Hảo có vũ trang kiểm soát một số khu vực ở dồng bằng sông Cửu Long. Về kinh tế, Pháp còn nắm trong tay quyền chi phối tổng số vốn đầu tư 95 tỷ đồng Đông Dương. Về văn hóa - xã hội, ảnh hưởng của Pháp còn khá mạnh trong các tầng lớp trung gian. Với lực lượng đó, Pháp vẫn còn tham vọng giữ được một số căn cứ quân sự, duy trì được ảnh hưởng về chính trị, văn hóa và một số quyền lợi kinh tế ở Việt Nam và Đông Dương. Nhưng muốn duy trì được quyền lợi và ảnh hưởng của mình trong lúc ở chính quốc nền kinh tế đang kiệt quệ, nền chính trị rối ren, nội bộ chia rẽ, lại phải đối phó với cuộc chiến tranh giành độc lập của nhân dân Angiêri, nên Pháp buộc phải “hợp tác với Mỹ, một lực lượng chống cộng duy nhất trong khu vực Đông Nam châu Á, có thế lực”. Chính phủ Pháp coi đó là chính sách đối ngoại quan trọng của họ lúc bấy giờ. Pháp đã câu kết với Mỹ hỗ trợ và khuyến khích Ngô Dình Diệm đàn áp nhân dân miền Nam, cưỡng ép giáo dân miền Bắc di cư và tổ chức những vụ phá hoại, gây rối trật tự trị an ở miền Bắc, phá hoại Hiệp định Giơnevơ mà Pháp đã cam kết thực hiện.

Ngày 13-12-1954 tướng Êly thay mặt cho Chính phủ Pháp và Côlin thay mặt cho Chính phủ Mỹ ký thỏa hiệp cam kết cùng lo việc huấn luyện cho quân ngụy. Nhưng trên thực tế Êly không có quyền hành, người chịu trách nhiệm thực hiện thỏa hiệp trên là tướng Ô Đanien trưởng phái đoàn viện trợ Hoa Kỳ (MAAG)4.

Ngày 22-12, Rátpho, Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ đến Sài Gòn hứa viện trợ thẳng cho Diệm 300 triệu đôla trong năm 1955.

Ngày 13-1-1955, theo sự sắp đặt trước, Ngô Đình Diệm ký một công hàm gửi cho tướng Côlin yêu cầu từ nay Hoa Kỳ “đảm trách hoàn toàn vấn đề tổ chức và huấn luyện quân đội Việt Nam”5.

Ngày 12-2-1955, trong một cuộc họp báo, Ngô Đình Diệm tuyên bố rằng “từ nay trở đi chỉ có tướng Mỹ Ô Đanien là người chịu trách nhiệm huấn luyện cho các lực lượng quân đội” Các “siĩquan Việt Nam” được lệnh tổ chức đốt tượng trưng những quân hàm quân hiệu của quân đội Pháp mà họ vẫn đeo tại sân Bộ Quốc phòng có đại diện của người Mỹ. Và những phù hiệu mới theo kiểu Mỹ bắt đầu xuất hiện trên vai áo quân đội Sài Gòn.

Ngày 14-5-1956, Pháp gửi cho hai đồng chủ tịch Hội nghị Giơnevơ (Liên Xô - Anh) thông báo cho biết quân đội Pháp sẽ rút khỏi Việt Nam và kể từ ngày 28-4-1956 nước Pháp không còn trách nhiệm thi hành Hiệp định năm 1954 nữa. Cuối tháng 4-1956, đơn vị cuối cùng của thực dân Pháp rút khỏi miền Nam. Đến đây Pháp đã rũ bỏ trách nhiệm một bên phải thực hiện các điều khoản của Hiệp nghị Giơnevơ về Đông Dương.
______________________________________
1. Côlin sinh ngày 1-5-1896. Từ năm 1948-1953, làm Tham mưu trưởng lục quân Hoa Kỳ. Đầu năm 1954, Colin được Tổng thống Mỹ Eisenhowe cử sang Nam Việt Nam với tư cách đại diện tổng thống giúp chính qvền Diệm thực hiện chương trình viện trợ quân sự và cải cách ruộng đất. Ngày 17-11-1954 tướng Côlin được chính thức cử làm đại sứ Mỹ ở Nam Việt Nam.
2. Gioócgiơ Sáppha: Hai cuộc chiến tranh của Việt Nam từ Valuy đến Oétmolen, Sđd, tr. 223.
3. Dẫn theo Măngđéc Frănxơ: Đông Dương mười năm độc lập.
4. MAAG thành lập 1950 có 35 ngưòí đến 1956 tăng lên 699 người.
5. Gioócgiơ Sáppha: Hai cuộc chiến tranh của Việt Nam từ Vauy đến Oétmolen, Sđđ, tr. 254.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #18 vào lúc: 23 Tháng Giêng, 2010, 07:17:52 pm »


Được Mỹ viện trợ, giúp sức điều hành, nhưng những tháng cuối năm 1954, chính quyền Ngô Đình Diệm vẫn bị uy hiếp từ nhiều phía. Các thế lực thân Pháp trong hàng ngũ sĩ quan quân đội Liên hiệp Pháp tập hợp quanh tướng Nguyễn Văn Hinh, tham mưu trưởng quân ngụy, ra sức chống Diệm. Tháng 10 và 11-1954, Hinh đã ba lần âm mưu lật Diệm, Mỹ phải ép Pháp thông qua Bảo Đại đưa Hinh sang Pháp.

Các giáo phái có lực lượng vũ trang riêng, đang kiểm soát nhiều vùng, được Pháp ủng hộ, tìm cách móc mối với bọn ngụy quân còn thân Pháp để lật đổ Diệm.

Mặt khác, lực lượng cách mạng đang tồn tại ở khắp các thôn, xã trên toàn miền Nam, nhất là ở các tỉnh tự do cũ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, các khu căn cứ kháng chiến U Minh, Đồng Tháp Mười, chiến khu Đ, chiến khu Dương Minh Châu, Tây Nguyên. Đây là lực lượng đối kháng lớn nhất, đe dọa sự tồn tại của chính quyền Mỹ - Diệm ở Miền Nam.

Để đối phó với tình hình trên, Mỹ - Diệm đã tập trung xây dựng quân đội ngụy thành một công cụ chủ yếu để tiêu diệt các phái đối lập, đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân, phá hoại cơ sở cách mạng và củng cố thế lực của chúng.

Khi quân Pháp rút về nước Mỹ buộc Pháp phải bàn giao lại phi cơ tàu thủy, xe cơ giới, vũ khí, dụng cụ chiến tranh cho quân đội do Mỹ tổ chức. Diệm còn mời chuyên viên quân sự Nhật vào để nghiên cứu tình hình trang bị cho quân đội và dựa vào Nhật để sửa chữa hoặc đổi các vũ khí, dụng cụ chiến tranh. Phái bộ quân sự hỗn hợp huấn luyện của Pháp - Mỹ (TRIM)1 trước đây, nay Mỹ gạt hẳn Pháp và đổi thành CATO2. Tổ chức này tháng 9-1955 có 351 cố vấn và huấn luyện viên, đến 3-1956 đã tăng lên 1200. Cuối tháng 4-1956, Mỹ đưa thêm vào CATO một đoàn nhân viên quân sự lấy tên là TERM3 gồm 350 tên với danh nghĩa kiểm tra thanh toán viện trợ của Mỹ cho Pháp. Dưới CATO có các “Ban nghiên huấn” tức là các bộ máy chỉ huy để nắm từ Bộ Tổng tham mưu ngụy, các quân khu, đến các đơn vị và kiểm soát mọi mặt các căn cứ, kho tàng, các trường huấn luyện và hoạt động tác chiến, quản lý hành chính.

Nằm cạnh Bộ Tổng tham mưu ngụy, là cơ quan trung ương của CATO do Xamuen Viliam (Samuel Villiams) cầm đầu, gồm 170 người (3 cấp tướng, 49 đại tá, 68 trung tá, 50 thiếu tá) phân ra nắm mọi ngành.

Mỗi sư đoàn nặng có từ 6 đến 8 đại tá Mỹ, mỗi sư đoàn nhẹ từ 3 đến 5 trung tá Mỹ. Cố vấn Mỹ nắm đến cấp lrung đoàn.

Mỗi quân khu có một đại tá và một số sĩ quan khác nằm cạnh Bộ tư lệnh quân khu.

Ở các trường huấn luyện, chúng tổ chức từng đoàn cố vấn và huấn luyện viên. Trung tâm huấn luyện Quán Tre có tới 81 tên, trường Đà Lạt đào tạo sĩ quan trung đội đại dội có 8 tên Mỹ và 5 sĩ quan người Philíppin.

Ở Huế, cố vấn Mỹ có hơn 100 tên, Buôn Ma Thuột 81 tên, tổ chức thành các phái đoàn đặc trách xây dựng căn cứ Tây Nguyên và khu giới tuyến Trị - Thiên. Các căn cứ quân sự quan trọng như Biên Hòa, Tân Sơn Nhất, Nha Trang, v.v… các kho tàng quan trọng như kho đạn, kho vật liệu quân cụ tại Nha Trang, Đà Nẵng đều có cố vấn Mỹ. Các tiểu đoàn ở gần giới tuyến, Mỹ cũng có cố vấn trực tiếp; riêng về hải quân, không quân còn phải dùng cố vấn Pháp, nhưng cũng có sĩ quan Mỹ kiểm tra.

Mỹ còn đưa những phái đoàn quân sự Anh, Ôxtrâylia, Philíppin vào kiểm tra các đơn vị, các căn cứ, các trung tâm huấn luyện.

Phái bộ viện trợ quân sự MAAG chi phối mọi hoạt động của quân ngụy kiểm soát việc sử dụng viện trợ và chỉ huy phái bộ CATO.

Cơ cấu tổ chức và chỉ huy, điều hành trên đây của hệ thống cố vấn Mỹ cho thấy phương hướng lâu dài xây dựng quân ngụy thống nhất theo khuôn mẫu quân đội Mỹ. Nhưng trước mắt phải cải tổ quân đội do Pháp để lại, từng bước nâng cao chất lượng “quân đội quốc gia” làm đòn bẩy củng cố chính quyền và dần dần đáp ứng yêu cầu làm lực lượng nòng cốt thực hiện chiến lược chiến tranh thực dân mới ở Đông Nam Á.
______________________________________
1. TRIM: Phái bộ thanh tra và tổ chức lại việc huấn luyện.
2. CATO Tổ chức huấn luyện và chiến đấu.
3. TERM: Phái bộ sưu tầm trang bị tạm thời.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #19 vào lúc: 23 Tháng Giêng, 2010, 07:22:11 pm »


Tháng 7-1955 theo lệnh Mỹ, Bộ Quốc phòng ngụy quân đề ra kế hoạch xây dựng một đội quân chính quy 155.000 người và đội quần bảo an đoàn 52.000 người. Đến tháng 6-1956 chúng đã hoàn tất việc xây dựng.

Lục quân: có 4 sư đoàn dã chiến, 6 sư đoàn khinh chiến, 13 trung đoàn địa phương 5 trung dàn giáo phái, 1 trung đoàn dù. Pháo binh có 7 tiểu đoàn và 9 đại đội. Cơ giới có 5 trung đoàn (có 1 trung đoàn xe lội nước). Công binh có 6 tiểu đoàn, 14 đại đội. Vận tải có 12 đại đội.

Không quân: lực lượng máy bay chiến đấu có 100 chiếc, dự trữ có 132 chiếc. Các căn cứ không quân Pháp đã chuyển giao cho ngụy, được Mỹ sửa chữa, thiết bị đầy đủ hơn. Bốn căn cứ: Đà Nẵng, Tân Sơn Nhất, Phú Bài, Nha Trang máy bay phản lực F84, F86 lên xuống được. Còn lại 58 sân bay loại nhỏ dành cho máy bay DAKOTA sử dụng, phần lớn hư hỏng đang sửa chữa lại.

Hải quân: có 2 tiểu đoàn thủy quân lục chiến, 4 đại đội không quân trợ chiến, 1 đại đội biệt kích hải quân, 121 tàu chiến đấu trên sông, trọng tải 5.130 tấn, 25 tàu hải quân trên biển trọng tải 7.795 tấn, 95 tàu của lực lượng ở các căn cứ, trọng tải 2.680 tấn. Các căn cứ hải quân cũ được tổ chức lại thành 4 hải khu, Mỹ đã bỏ ra 350 triệu động tiền Sài Gòn sửa chữa lại và lắp thêm một hệ thống hải đăng dọc bờ biển.

Lực lượng bảo an đoàn được tăng cường lên tới 60.000 tên. Mỗi quận có một đại đội, quận nhiều có hai đại đội.

Các đơn vị dân vệ và phòng vệ dân sự được tổ chức hầu khắp ở mọi liên xã, cứ 12.000 dân có một đội dân vệ từ 20 đến 25 người, được trang bị súng trường và lựu đạn.

Công an, cảnh sát cũng được xây dựng thành lực lượng công khai và bí mật từ tỉnh, thành đến quận, phường và xã thôn. Riêng Sài Gòn - Chợ Lớn từ 6.000 tăng lên 10.000 cảnh sát. Công an Trung Bộ 2.470 tăng lên 3.500, cứ 1.000 dân có 1 công an.

Ngoài ra còn lực lượng hiến binh quân đội, lực lượng dân vệ đoàn, công dân vụ. Tổng cộng lực lượng bán vũ trang của Diệm lên tới trên dưới 30 vạn. Địch có chủ trương sẽ dùng lực lượng bảo an đoàn, công an, cảnh sát và các lực lượng bán vũ trang thay thế cho quân chính quy càn quét nội địa, đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân và làm lực lượng hậu bị bổ sung cho quân chính quy.

Năm 1955, Mỹ đã đào tạo cho Diệm 14 sĩ quan cấp sư đoàn, 141 cấp trung đoàn, 318 cấp tiểu đoàn, bổ túc luân lưu 2400 sĩ quan cấp úy và 3.600 hạ sĩ quan, ngoài ra còn đào tạo bổ túc cán bộ tham mưu các ngành. Theo kế hoạch của Mỹ đầu tháng 1-1957 sẽ hoàn thành kế hoạch bổ túc và đào tạo cho Diệm 225 sĩ quan tại Mỹ, 157 tại Pháp, 350 tại Philíppin, 130 tại Ôxtrâylia.

Như vậy trong vòng hai năm, ngụy quân đã có những biến đổi căn bản. Trước kia là những đơn vị khinh quân lẻ và những đơn vị nằm trong quân đội viễn chinh Pháp, nay đã tổ chức thành những đơn vị sư đoàn, trung đoàn, có đủ các binh chủng hải, lục, không quân. Về huấn luyện, tuy vẫn dựa vào chương trình, nội dung của Pháp, nhưng theo phương pháp của Mỹ. Quân chính quy được trang bị vũ khí Mỹ, quần áo, cấp hiệu Mỹ. Số sĩ quan thân Pháp bị khuất phục phải theo Mỹ hoặc bị sa thải khỏi các vị trí điều hành quân đội, những sĩ quan tin cậy được cất nhắc vào các cấp chỉ huy. Quân đội Sài Gòn dần dần biến thành một thứ quân đội Hoa Kỳ bản xứ.

Tuy vậy phương tiện vũ khí hư hỏng nhiều, cán bộ nhân viên chuyên môn còn thiếu. Tư tưởng sĩ quan, binh lính lo sợ chiến trận, cầu an hưởng lạc. Mâu thuẫn giữa Mỹ - Pháp, giữa Diệm với các giáo phái đã ảnh hưởng nhiều đến binh lính. Nhưng do thi hành chính sách khủng bố, bắt bớ và thanh lọc đi đôi với mua chuộc bằng tiền tài, địa vị chúng đã nắm được bọn sĩ quan từ tiểu đoàn, trung đoàn trở lên, khống chế được tinh thần binh lính.

Đi đôi với việc xây dựng quân ngụy, gạt bỏ các thế lực thân Pháp, Mỹ - Diệm dùng lực lượng quân sự diệt lực lượng vũ trang giáo phái.

Các giáo phái có lực lượng vũ trang riêng do Pháp xây dựng để chống lại cách mạng. Mỗi giáo phái cát cứ ở một số địa phương cả về chính trị và kinh tế.

Phái Bình Xuyên có khoảng 4.000 quân (kể cả lực lượng cảnh sát, công an ở Sài Gòn) hoạt động ở miền Đông do Bẩy Viễn làm thủ lĩnh.

Lực lượng Hòa Hảo có khoảng 25.000 quân, hoạt động ở một số tỉnh miền Trung và miền Tây Nam Bộ, chia thành 4 nhóm do Năm Lửa, Hai Ngoán, Ba Cụt và Nguyễn Giác Ngộ nắm từng nhóm.

Phái Cao Đài có khoảng 6.000 quân, hoạt động chủ yếu ở Tây Ninh và một số tỉnh Nam Bộ, đứng đầu là giáo chủ Phạm Công Tắc.

Quyền lợi của các giáo phái gắn liền với Pháp, nhưng trong tình thế mới, muốn lợi dụng viện trợ Mỹ, nên lúc đầu họ tạm thời hợp tác với Diệm. Đến đầu năm 1955, Pháp không còn khả năng trợ cấp cho các giáo phái nữa, Mỹ - Diệm tìm cách mua chuộc, phân hóa, tiến tới giải thể hoặc sáp nhập lực lượng vũ trang của các phái vào quân đội của Diệm. Nhưng được Pháp ngầm xúi giục, các giáo phái lập “Mặt trận thống nhất quốc gia” đòi Diệm không được xâm phạm tới những khu vực ảnh hưởng của họ, đòi Diệm mở rộng “chính phủ chống cộng” để họ tham gia chính quyền. Họ tìm cách móc nối với bọn ngụy quân thân Pháp để chuẩn bị lật đổ Diệm.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM