Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 10:40:07 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2  (Đọc 88872 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #60 vào lúc: 30 Tháng Giêng, 2010, 11:17:42 pm »


II. MIỀN NAM ĐẤU TRANH CHỐNG ĐỊCH “TỐ CỘNG, DIỆT CỘNG”,
GIỮ GÌN VÀ PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG

Thực tiễn hai năm đấu tranh thi hành Hiệp định Giơnevơ cho thấy, đối với kẻ thù của giai cấp và dân tộc không thể đấu tranh chính trị đơn thuần mà phải dùng bạo lực cách mạng, vì chế độ Diệm là chế độ độc tài phát xít của bọn tư sản mại bản và phong kiến thân Mỹ, phản động nhất.

Nghị quyết về “Tình hình và nhiệm vụ cách mạng miền Nam” của Bộ Chính trị tháng 6-1956 khẳng định: “tính chất cuộc cách mạng của ta ở miền Nam là dân tộc và dân chủ, nhiệm vụ của cách mạng miền Nam là phản đế và phản phong”. Từ tình hình quốc tế và trong nước cho thấy cuộc đấu tranh này nhất định sẽ lâu dài, gian khổ và phức tạp nên phải chọn hình thức và phương pháp cách mạng thích hợp. Bộ Chính trị nhấn mạnh “Hình thức đấu tranh của ta trong toàn quốc hiện nay là đấu tranh chính trị, không phải là đấu tranh vũ trang. Nói như thế không có nghĩa là tuyệt đối không dùng hình thức tự vệ trong những hoàn cảnh nhất định, hoặc không tận dụng những lực lượng vũ trang của giáo phái chống Diệm”. Bộ Chính trị chủ trương phải “tổ chức tự vệ trong quần chúng, nhằm bảo vệ các cuộc đấu tranh và giải thoát cán bộ khi cần thiết”, “phải củng cố các lực lượng vũ trang và bán vũ trang hiện có và xây dựng căn cứ làm chỗ dựa, đồng thời xây dựng cơ sở quần chúng vững mạnh, làm điều kiện căn bản để duy trì và phát triển lực lượng vũ trang”, muốn vậy phải coi việc “củng cố Đảng ở miền Nam là một trọng tâm công tác có tính chất quyết định”1.

Với nghị quyết này, Bộ Chính trị đã vạch ra được những vấn đề chỉ đạo chiến lược mới đối với cách mạng miền Nam, trong đó quan trọng nhất là vấn đề tự vệ vũ trang để bảo vệ phong trào đấu tranh của quần chúng cách mạng, bảo vệ cơ sở và cán bộ của Đảng, vấn đề xây dựng lực lượng và căn cứ cách mạng. Đây thực sự là bước chuyển hướng đường lối cách mạng ở miền Nam. Bộ Chính trị cũng nêu sự cần thiết phải nhanh chóng thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi chống Mỹ - Diệm, lập chính phủ liên hiệp dân tộc, dân chủ ở miền Nam.

Do hệ thống thông tin liên lạc của ta thô sơ (chủ yếu chạy bộ), địch lại ngăn chặn quyết liệt, nên bản nghị quyết quan trọng này đến với các cơ sở rất chậm trễ, nhiều nơi không nhận được, nên không đáp ứng kịp chuyển biến của phong trào phát triển đấu tranh ở miền Nam. Mặc dù vậy, do sự đòi hỏi cấp thiết của cuộc sống chiến đấu một mất một còn, Đảng bộ và nhân dân miền Nam không thể để mặc cho kẻ thù dùng súng đạn, xe tăng, máy bay, đại bác, đàn áp cách mạng. Một số địa phương, cán bộ và nhân dân đã tìm đào các hàm chôn súng, đạn từ ngày tập kết, chế tạo thêm mìn, trái nổ... tổ chức chiến đấu chống địch, bảo vệ xóm làng. Ở Tây Ninh đầu năm 1957, một số huyện, xã đã tìm đào được một số hầm súng đạn, lập đội du kích bảo vệ phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng và bảo vệ các cơ sở cách mạng. Nhưng ngay sau đó sợ vi phạm quy định của trên, nên chôn súng trở lại. Việc đào lên, chôn vũ khí trở lại có nơi làm tới 3-4 lần. Tình trạng tương tự như vậy cũng diễn ra ở Rạch Giá, Trà Vinh, Vĩnh Long.

Tháng 8 năm 1956, đồng chí Lê Duẩn, Ủy viên Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng, công tác ở miền Nam, phân tích một cách khoa học tình hình chính trị, xã hội miền Nam và vận dụng những quy luật đấu tranh cách mạng vào hoàn cảnh cụ thể của ta, đã soạn thảo “Đề cương cách mạng miền Nam”. Đồng chí chỉ rõ: “Chế độ độc tài phát xít ở miền Nam chỉ là sản phẩm của sự câu kết giữa Mỹ, kẻ đang lăm le gây ra một cuộc chiến tranh mới chống nhân dân ta với tập đoàn Ngô Đình Diệm, kẻ đang cố sống, cố chết phản kích lại các lực lượng cách mạng nhằm mục đích trả thù và áp bức, bóc lột nhân dân”2. Do đó “Nhiệm vụ của cách mạng miền Nam là trực tiếp đánh đổ chính quyền độc tài phát xít Ngô Đình Diệm, tay sai của Mỹ, giải phóng nhân dân miền Nam khỏi ách đế quốc phong kiến, thiết lập ở miền Nam một chính quyền liên hiệp có tính chất dân tộc, dân chủ để cùng với miền Bắc thực hiện một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ nhân dân”3. Bản Đề cương khẳng định “nhân dân ta ở miền Nam chỉ có một con đường là vùng lên chống lại Mỹ - Diệm để cứu nước và tự cứu mình. Đó là con đường cách mạng. Ngoài con đường đó không có con đường nào khác”4.

Được Nghị quyết Bộ Chính trị (tháng 8-1956) và Đề cương cách mạng miền Nam vạch đường, tháng 12-1956, Xứ ủy Nam Bộ tiến hành hội nghị đề ra nhiệm vụ khẩn cấp cho cách mạng miền Nam là “phải dùng bạo lực tổng khởi nghĩa giành chính quyền”, trước mắt cần “tích cực xây dựng lực lượng vũ trang tuyên truyền, lập các đội vũ trang bí mật, xây dựng các căn cứ miền núi; tranh thủ vận động, cải tạo, tập hợp các lực lượng giáo phái bị Mỹ - Diệm đánh tan rã từng mảng đứng vào hàng ngũ nhân dân và lợi dụng danh nghĩa giáo phái ly khai để diệt ác ôn”. Đầu năm 1957, Xứ ủy Nam Bộ họp hội nghị mở rộng để xác định quyết tâm lãnh đạo nhân dân đấu tranh chặn bàn tay phát xít của Mỹ - Diệm, đòi quyền tự do, cơm áo, dân sinh, dân chủ, tiến tới hòa bình thống nhất đất nước. Trong hội nghị này, Xứ ủy đã đề ra kế hoạch cụ thể về xây dựng thực lực cách mạng - tức là củng cố Đảng, tăng cường uy thế và vai trò lãnh đạo của Đảng, củng cố khối đoàn kết công nông, mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất. Đối với các Đảng bộ cơ sở, Hội nghị chỉ rõ năm nguyên tắc chủ yếu, cụ thể cần khẩn trương thực hiện là: tuyên truyền giáo dục, tổ chức đấu tranh chính trị, đẩy mạnh công tác binh địch vận, xây dựng và củng cố các tổ chức cơ sở đảng, chính quyền và đoàn thể.
Với những nghị quyết của Bộ Chính trị và sự lãnh đạo năng động, sáng tạo của Xứ ủy Nam Bộ, phong trào cách mạng miền Nam từng bước giành lại thế chủ động.
______________________________________
1. Trích Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 6 năm 1956.
2. Lê Duẩn: Về chiến tranh nhân dân Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 104- 105.
3, 4. Sđd. tr.103, 101.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #61 vào lúc: 30 Tháng Giêng, 2010, 11:18:10 pm »


Để bảo vệ cán bộ, cơ sở bí mật của Đảng và phong trào cách mạng, khắp các địa phương trên toàn miền Nam từ thành thị đến nông thôn đều đẩy mạnh đấu tranh chống lại sự khủng bố, đàn áp, chống phá cách mạng của địch, trong đó cuộc đấu tranh chống “tố cộng, diệt cộng” của địch là điển hình. Cuộc đấu tranh diễn ra đều khắp, liên tục, mạnh mẽ bằng nhiều hình thức, lực lượng khác nhau.

Bước vào năm 1957, rút kinh nghiệm đợt I, địch dùng lực lượng lớn càn quét liên tục dài ngày để triệt phá các thôn xóm mà chúng nghi là có cộng sản. Sau đó chia lực lượng thành những bộ phận nhỏ chà đi xát lại nhiều lần, bắt, tra tấn và giết hại những người yêu nước, rồi dựng đồn bốt, lập dân vệ, củng cố tề điệp, khống chế kìm kẹp dân chúng. Với biện pháp này, các cơ sở cách mạng và cán bộ phong trào sống hoạt động trong lòng dân đã bị địch phát hiện, giam cầm, thủ tiêu bí mật.

Đồng bào miền Nam đã trải qua đấu tranh sống mái với quân thù, hiểu rõ bản chất trước sau không thay đổi của địch nên không bao giờ chịu khuất phục.

Đi đầu trong phong trào đấu tranh chống địch tố cộng đợt II vẫn là những cán bộ, đảng viên của Đảng và quần chúng trung kiên. Bất chấp sự vây ráp, lùng sục rất gắt gao của địch và những khó khăn về đời sống vật chất, tinh thần, cán bộ, đảng viên lãnh đạo phong trào vẫn tìm mọi cách móc nối liên lạc, tập họp và tổ chức quần chúng đấu tranh chống địch tố cộng dưới các hình thức “hợp pháp” và “không hợp pháp”. Tháng 5-1957, các chi bộ bí mật ở các xã thuộc huyện Hương Trà, Thừa Thiên đã móc nối, liên kết nhau, tổ chức cuộc biểu tình tại quận lỵ với gần 2.000 người tham gia, phản đối Mỹ - Diệm bắt dân tố cộng và đàn áp dã man những người dân vô tội. Đoàn biểu tình yêu cầu chính quyền ngụy ở Trị - Thiên phải bồi thường tính mạng, tài sản cho những gia đình bị hại.

Thời gian này, cán bộ phong trào ở tỉnh và huyện xuống tận các cơ sở, trực tiếp lãnh đạo, tổ chức, nên phong trào phát triển rộng, và có sự phối hợp chặt chẽ giữa các địa phương với nhau. Ở Quảng Ngãi, tỉnh ủy đưa ra chủ trương, kế hoạch hành động thống nhất và phân công cán bộ trực tiếp xuống địa phương, chỉ đạo trực tiếp phong trào, nên các huyện Mộ Đức, Đức Phổ, Sơn Tịnh, Bình Sơn... cùng lúc tổ chức được nhiều cuộc mít tinh, biểu tình, đưa yêu sách..., phản đối lệnh giới nghiêm, phản đối lính Diệm thúc ép dân “tố cộng”, đòi bãi bỏ chương trình dồn dân, lập khu dinh điền.

Khi quân ngụy tổ chức hành quân càn quét hỗ trợ cho chương trình “tố cộng” dồn dân, quần chúng còn tập hợp nhau lại chất vấn chỉ huy ngăn cản và thuyết phục binh sĩ ngụy không đốt phá xóm làng, bắt người trái phép.

Tháng 10-1957, tỉnh ủy Tây Ninh đã tổ chức được một cuộc đấu tranh quy mô lớn. Nhân dân các xã Gia Lộc, An Tịnh, Lộc Hưng, Gia Bình, Đôn Thuận, Thanh Phước, Phước Thanh, Hiệp Thạnh, Thanh Đức đã tập hợp kéo lên dinh quận trưởng Trảng Bàng, Gò Dầu, đấu tranh đòi ngụy quân địa phương không cho binh lính càn quét, dồn dân, bắt dân tố cộng. Nhân dân các xã Trí Bình, Thái Bình, Thanh Điền cùng nhau kéo vào thị xã Tây Ninh phản đối việc dồn dân vào trại tập trung, bắt giam và đánh đập tàn nhẫn người vô tội và yêu cầu chính quyền bỏ ngay những thủ đoạn bắt người “sám hối”. Cùng với đấu tranh chính trị hợp pháp, các đội vũ trang tuyên truyền, du kích tự vệ địa phương đã bí mật đột nhập vào một số khu dồn dân của địch, diệt những tên tay sai và tuyên truyền giác ngộ nhân dân nổi dậy, đánh đuổi quân đồn trú, phá khu dồn trở về quê cũ làm ăn. Trước sức đấu tranh kiên quyết của quần chúng có sự chỉ đạo trực tiếp của cán bộ, đảng viên, phong trào phát triển tương đối đều, liên tục ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long.

Trong cuộc đấu tranh sinh tử chống địch tố cộng, nhiều cán bộ, đảng viên và quần chúng trung kiên của Đảng đã bị địch bắt, tra tấn đến tàn phế hoặc giết chết, nhưng họ vẫn giữ được khí tiết của người cách mạng. Đồng chi Võ Tấn Nhất, Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre bị địch bắt tra tấn dã man, đóng đinh các đốt xương tay, đốt gan bàn chân, rồi nhốt vào hầm tối bỏ đói cho đến chết. Đồng chí Nguyễn Hữu Châu đảng viên lãnh đạo phong trào cơ sở ở Tuy Hòa bị địch bắt đưa đến địa điểm tố cộng buộc anh xé cờ Đảng và ảnh Bác Hồ trước dân và tuyên bố ly khai Đảng. Anh đã tố cáo tội ác của Mỹ - Diệm, kêu gọi đồng bào đoàn kết đấu tranh. Địch đã xả súng bắn chết anh tại chỗ. Má Nguyễn Thị Phiên ở phường Bảo An thị xã Phan Rang, má Nguyễn Thị Tiến ở Tân Lý Tây - Châu Thành, Mỹ Tho... là nhưng cơ sở của cách mạng. Các má đã che chở nuôi dưỡng cho cán bộ hoạt động những năm địch tố cộng, bị địch phát hiện bắt giam, tra điện, đốt các ngón tay, ngón chân... nhưng các má vẫn cắn răng, chịu đựng mọi cực hình, kiên quyết không khai báo những bí mật của cách mạng cho địch. Bên cạnh đó, địch còn bắt ép những phụ nữ có chồng tham gia tập kết phải ly hôn để lấy người trong hàng ngũ Diệm, nhưng chị em dứt khoát chống lại, thà chấp nhận cảnh bị o ép, tra tấn để giữ lòng thủy chung với chồng, với cách mạng.

Hành động phát xít của địch không chỉ bị người Kinh, người không theo đạo chống lại, mà cả người Thượng, người đi theo đạo cũng chống lại quyết liệt. Đó là nét mới của phong trào đấu tranh của nhân dân ta ở miền Nam thời gian này.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #62 vào lúc: 30 Tháng Giêng, 2010, 11:18:41 pm »


Để thực hiện chính sách dùng người dân tộc trị người dân tộc. Mỹ - Diệm mở các chiến dịch “Thượng du vận”, tiến công lên miền núi. Chúng tập trung lực lượng quân đội và cảnh sát đánh sâu vào các vùng có dân cư trú tự do và căn cứ của ta, bắt đồng bào thiểu số rời bỏ bản làng quen thuộc của họ, dồn vào các khu dinh điền. Những tên mật vụ người địa phương rất thông hiểu địa hình, được Diệm sử dụng dẫn đường chỉ điểm, nên cán bộ, đảng viên phong trào và quần chúng tích cực của Đảng, nhiều người đã bị địch bắt và giết hại, một số căn cứ và cơ sở bí mật bị vỡ.

Cuộc đấu tranh chống địch tố cộng và dồn dân ở miền núi diễn ra giằng co quyết liệt. Địch dùng súng đạn đàn áp, ta dùng đấu tranh chính trị, đấu lý với địch. Kết quả là ở Ninh Thuận, tháng 7-1958, lính Diệm và bọn tổng lý lên Bác Ái Đông dí súng cưỡng bức đồng bào dồn vào khu tập trung. Đồng bào dùng lý lẽ đấu tranh với địch không chịu đi. Cuộc đấu tranh diễn ra giằng co quyết liệt. Huyện ủy và cán bộ, đảng viên lại rút vào hoạt động bí mật, dân mất phương hướng hành động. Trước mũi súng địch 5.000 dân đã bị dồn vào khu tập trung Brâu, Đồng Dày và Tầm Ngân, trong số này có nhiều cán bộ, đảng viên.

Tình hình các khu tập trung hầu hết đều không có nhà hoặc ở nhà tôn thấp, chật hẹp, bị nắng nóng và ăn đói kham khổ, lao động quần quật, các bệnh truyền nhiễm lan nhanh, số ngươi chết ngày một tăng.

Huyện ủy Bác Ái, đã họp kiểm điểm, chỉ rõ khuyết điểm là thiếu cương quyết, không có chủ trương, biện pháp lãnh đạo kịp thời để mất dân, mất đất. Huyện ủy xác định quyết tâm bằng mọi cách phải phá khu tập trung, đưa dân về làng cũ làm ăn. Trong khi chưa có chủ trương mới của Trung ương, huyện ủy đưa ra mấy biện pháp lãnh đạo trước mắt là:

- Lãnh đạo nhân dân còn ở căn cứ đào hầm, cắm chông, bố phòng ngăn chặn địch tiếp tục dồn dân.

- Tổ chức móc nối với cơ sở đưa thêm cán bộ, đảng viên vào các ấp, khu tập trung để lãnh đạo bung dân về núi.

- Bảo vệ của cải của nhân dân còn lại ở căn cứ, làm rẫy sản xuất, chuẩn bị vật chất để khi dân bung về có chỗ ăn, ở, ổn định đời sống.

- Tổ chức lực lượng thanh niên, lập các tổ vũ trang tự vệ bảo vệ căn cứ.

Do có chủ trương và biện pháp lãnh đạo đúng, nên đa số cán bộ, đảng viện đã nhanh chóng trở lại với cơ sở tổ chức và lãnh đạo nhân dân cương quyết đấu tranh. Họ đã vận động đồng bào các dân tộc rời làng, bỏ khu tập trung vào rừng sâu, lập làng mới, bố phòng chống địch, bảo vệ cơ sở và xây dựng các đội vũ trang tự vệ, vũ trang tuyên truyền để trừng trị địch bảo vệ mình.

Cuối tháng 4 đầu tháng 5 năm 1958, do chủ động nắm địch, tổ chức tốt lực lượng, lập kế hoạch hành động sát thực, nhân dân huyện Đại Lộc, Quảng Nam đấu tranh làm thất bại các cuộc hành quân càn quét và tố cộng của địch. Họ cương quyết không tham gia tố cộng, không rời nhà bỏ làng vào khu tập trung. Ở những nơi địch đưa quân đội, công an, xe cơ giới đến vây ráp, lập tức nhân dân các làng xóm lân cận huy động lực lượng đến ứng cứu, kết hợp với những tổ vũ trang tự vệ đột nhập các trụ sở ngụy quân, ngụy quyền, trị tội những tên chỉ huy, chỉ điểm, cảnh cáo đe dọa chúng. Nhờ kết hợp được đấu tranh chính trị có vũ trang hỗ trợ, nhân dân huyện Đại Lộc đã làm cho địch phải xuống thang bộ phận, không công khai bắn giết, tra tấn người vô tội như trước nữa. Thắng lợi của Đại Lộc càng làm sáng tỏ chân lý khi quân thù đã dùng súng đạn đàn áp thì con đường giải phóng nhân dân là dùng bạo lực cách mạng, kết hợp chính trị với vũ trang mới giành được thắng lợi.

Ở Nam Bộ, do chủ động có kế hoạch bố trí, sắp xếp lực lượng từ trước, lại sớm tiếp thu bản “Đề cương cách mạng miền Nam”, nên lực lượng vũ trang mang danh nghĩa giáo phái được tổ chức ở nhiều nơi. Các đội tự vệ vũ trang được bí mật thành lập ở hầu khắp các tỉnh, thành phố. Riêng thành phố Sài Gòn, các đội tự vệ ra đời trong phong trào chống đuổi nhà, cướp đất... tồn tại dưới danh nghĩa “Hội chống cướp giật”, “Hội phòng cháy, chữa cháy”, còn nông thôn thì lập các đội hành động bí mật.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #63 vào lúc: 30 Tháng Giêng, 2010, 11:19:30 pm »


Đến giữa năm 1957, ở Rừng U Minh (Tây Nam Bộ), Đồng Tháp Mươi (Trung Nam Bộ). các đội vũ trang cách mạng hoạt động dưới danh nghĩa giáo phái: Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo... cũng được phát triển thành các đơn vị vũ trang - tuyên truyền, như các tiểu đoàn Ngô Văn Sở, tiểu đoàn Đinh Tiên Hoàng ở Cà Mau, tiểu đoàn Đinh Tiên Hoàng ở Sóc Trăng, tiểu đoàn Đinh Tiên Hoàng ở Cần Thơ, tiểu đoàn U Minh ở Rạch Giá, tiểu đoàn 502 ở Kiến Phong, tiểu đoàn 504 ở Kiến Tường, tiểu đoàn 506 và 508 hoạt động ở bắc, nam đường 4 và căn cứ Rừng Sác, tiểu đoàn 510, 512 hoạt động ở khu vực sông Tiền và Bảy Núi. Tháng 8 năm 1957, Vĩnh Long thành lập tiểu đoàn Trần Hững Đạo hoạt động ở vùng Lấp Vò, Tam Bình (Sa Đéc).

Tại căn cứ miền Đông Nam Bộ; Xứ ủy điều động 2 đại đội và 2 trung đoàn từ miền Tây và miền Trung Nam Bộ lên làm nòng cốt, kết hợp với lực lượng tại chỗ, thành lập 6 đại đội vũ trang mang số hiệu: 50, 60, 70, 80, 200, 300. Cùng với sự ra đời của bộ đội chủ lực, tự vệ và du kích mật cũng phát triển, mỗi xã, ấp có từ 1 đến 2 tiểu đội. Một số tỉnh thành lập các đại đội vũ trang của tỉnh như: đại đội 250 của Biên Hòa, đại đội 40 của Bà Rịa. Riêng ở Long An các trung đội 29, 30, 31 hoạt động ở bắc đường 4 được tổ chức thành các đại đội 231, 233, 235 và đưa về hoạt động ở Thủ Thừa, Đức Hòa. Cũng trong năm 1957, 7 cán bộ phong trào của ta bị địch bắt giam giữ tại trại giam Tân Hiệp (Biên Hòa) đã tổ chức vượt ngục ra căn cứ Rừng Sác, mang theo 3 súng trường và 1 trung liên, kết hợp với lực lượng tại chỗ, thành lập đơn vị vũ trang Rừng Sác, lấy phiên hiệu là đại đội 12 Bình Xuyên. Để khuếch trương thanh thế và lực lượng, nên các đại đội này được gọi là các tiểu đoàn do liên tỉnh ủy hay tỉnh ủy trực tiếp chỉ đạo.

Tháng 10-1957, đơn vị chủ lực đầu tiên ở Nam Bộ chính thức được Xứ ủy phê chuẩn thành lập - đó là Tiểu đoàn 250. Đến giữa năm 1958, Bộ tư lệnh miền Đông Nam Bộ được thành lập để chỉ đạo trực tiếp lực lượng vũ trang miền Đông.

Để có vũ khí trang bị cho lực lượng vũ trang, tỉnh Tân An, Chợ Lớn đã đào được số vũ khí đủ để trang bị cho 3 đại đội của 3 tỉnh Mỹ Tho, Gò Công, Tân An. Ở Kiến Tường, bộ đội chủ lực đào được 280 khẩu, các huyện, du kích và tự vệ mật cũng đào được đủ số súng trang bị cho từ 1 đến 2 trung đội. Bên cạnh việc thành lập các đơn vị vũ trang, cấp ủy và cán bộ phong trào ở các địa phương miền Nam đã vận động xây dựng các tổ chức nòng cốt từ đảng viên, quần chúng trung kiên đến nhân dân, bí mật cài nhân cốt và đặt cơ sở mật trong hội tề, dân vệ và các đơn vị quân ngụy.

Khi Mỹ - Diệm mở các chiến dịch tố cộng giai đoạn II, những cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân đã có vũ trang hỗ trợ. Tuy quy mô lực lượng vũ trang và mức độ hỗ trợ ở các tỉnh không đều, nhưng những trận diệt ác trừ gian liên tục diễn ra đã có tác dụng kích thích tinh thần đấu tranh của quần chúng và răn đe quân địch. Những tên tay sai ác ôn như Lê Phú Nhung, quận trưởng Đầm Dơi (Cà Mau), Lê Nhất Hữu, quận trưởng Ô Môn (Cần Thơ), Lê Duẩn Phòng, tỉnh trưởng Kiến Giang v.v… bị lực lượng vũ trang ta trừng trị đã gây cho nội bộ ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn dao động thật sự.

Tháng 5-1957, 3 trung đội “Bình Xuyên” và 1 tiểu đội bộ đội tỉnh Sông Bé đã tập kích đồn Bến Củi, tiêu diệt hơn chục tên địch, làm chủ mục tiêu, thu 2 triệu đồng, 2 xe vận tải, 1 số súng trường và quân trang quân dụng.

Để hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, Ban quân sự Miền quyết định dùng lực lượng mang danh nghĩa Bình Xuyên, tiến công thị trấn Minh Thanh. Lực lượng tham gia gồm bộ đội tỉnh Thủ Dầu Một, đại đội 20 của tỉnh Tây Ninh, đại đội 60 của Miền Đông và Xứ ủy, cùng lực lượng bộ đội Bình Xuyên giác ngộ (tổng cộng khoảng 21 tiểu đội), do đồng chí Lâm Quốc Đăng chỉ huy1. Lúc 9 giờ sáng ngày 10-8-1957 quân ta tiến công diệt các ổ đề kháng vòng ngoài và bọn cảnh sát, lính bảo vệ xung quanh, rồi đột nhập vào thị trấn, tiến đánh các mục tiêu bên trong. Suốt đêm 10-8, ta huy động 20 xe vận tải, và xe ngựa của sở cao su, cùng công nhân đồn điền chuyển chiến lợi phẩm về căn cứ. Tuy chỉ diệt được một bộ phận nhỏ sinh lực địch, nhưng trận đánh có quy mô tương đối lớn đầu tiên của lực lượng vũ trang tập trung miền Đông.

Ngày 10-9-1957, trong lúc địch đang càn quét lớn vào chiến khu Đ, Ban chỉ huy quân sự miền Đông sử dụng đại đội 250 và lực lượng “Bình Xuyên” đánh vào trại Be (Biên Hòa) - một cơ sở khai thác gỗ của Trần Lệ Xuân, án ngữ phía nam chiến khu Đ do 1 tiểu đoàn bộ binh, và một số cảnh sát dã chiến và thám báo ngụy chốt giữ. Trinh sát ta cải trang, trà trộn vào công nhân khai thác gỗ, nắm chắc lực lượng và cách phòng ngự của địch. Vì vậy khi ta nổ súng, quân địch bất ngờ trở tay không kịp. Ta diệt gọn 1 đại đội và làm thiệt hại nặng 2 đại đội khác, phá hỏng và thu gần 80 xe quân sự, cùng nhiều vũ khí và phương tiện chiến tranh... làm chủ trận địa.

Tháng 12-1957, bộ đội tập trung của Xứ ủy và miền Đông phục kích ở Lò Than (Biên Hòa) diệt gọn 1 đại đội, đánh tan 1 tiểu đoàn địch lúc chúng đang càn quét vào căn cứ của ta.
______________________________________
1. Đồng chí Lâm Quốc Đăng là chỉ huy trưởng lực lượng vũ trang cách mạng ở chiến khu Đ với danh nghĩa giáo phái Bình Xuyên ly khai (lực lượng này gồm 3 đại đội thành lập khoảng đầu 1957).
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #64 vào lúc: 30 Tháng Giêng, 2010, 11:20:15 pm »


Từ sau khi các đội võ trang tuyên truyền, võ trang tự vệ ra đời, diệt trừ những tên tay sai ác ôn và đánh thắng một số trận, thì quần chúng đã có chỗ dựa tin cậy. Tuy hoạt động vũ trang còn ở mức hạn chế, nhưng đã có tác dụng hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân chống địch tố cộng, dồn dân ở nông thôn, đồng thời khích lệ tinh thần đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, chống sa thải, chống bắt bớ giam cầm, đòi tự do nghiệp đoàn của công nhân và lao động thành thị. Chỉ trong thời gian từ tháng 6 đến tháng 8-1957, công nhân các nhà ga xe lửa Chí Hòa, Dĩ An, Đà Nẵng... tổ chức hàng chục cuộc biểu tình, mít tinh chống chế độ làm việc hà khắc, chống đuổi việc, đòi chấm dứt việc bắt và tra tấn, tù đầy các cán bộ nghiệp đoàn. Tháng 11-1957, công nhân toàn ngành hỏa xa miền Nam tiến hành đại hội vạch chủ trương, biện pháp đấu tranh bảo vệ quyền lợi cho công nhân và ra kiến nghị đòi nhà cầm quyền Sài Gòn trả tự do cho Chủ tịch và thư ký nghiệp đoàn ngành, cùng những công nhân đang bị giam giữ. Cuộc đấu tranh của công nhân và những kiến nghị, yêu sách thiết thực của đại hội ngành hỏa xa đưa ra, được nghiệp đoàn công nhân các ngành khác ở Sài Gòn, Chợ Lớn và một số thành phố, thị xã đồng tình ủng hộ. Họ phản đối chính quyền Diệm hà khắc, bóp nghẹt tự do dân chủ. Cũng trong thời gian này, công nhân thương cảng Sài Gòn, Nha Trang,... cũng liên tiếp đình công, lãn công, đưa yêu sách đòi chủ cảng điều chỉnh lương, trả tiền phụ cấp đắt đỏ, chống đánh đập, đuổi việc, làm cho các thương cảng tê liệt nhiều ngày, gây ách tắc lưu thông cảng, lưu thông hàng hóa.

Hòa nhịp với phong trào đấu tranh của công nhân ngành hỏa xa và công nhân thương cảng, ngay từ những tháng đầu năm 1957, công nhân ở các đồn điền trồng cây công nghiệp miền Nam đã đấu tranh quyết liệt với giới chủ đòi cải thiện đời sống, cải tiến chế độ làm việc, chống bắt giữ và bí mật thủ tiêu những cán bộ cơ sở, nòng cốt và những công nhân tích cực của phong trào. Mặc dù bọn chủ các đồn điền đã dùng vũ lực đàn áp với bố thí nhỏ giọt một số quyền lợi về đời sống, điều kiện làm việc, nhưng các cuộc lãn công, đình công, bãi công vẫn tiếp tục. Chỉ trong năm 1957, công nhân các đồn điền ở Biên Hòa, An Lộc, Minh Thạnh, Dầu Tiếng... đã tổ chức được hơn 70 cuộc đấu tranh dưới các hình thức hợp pháp và không hợp pháp. Để thống nhất chủ trương và hành động, cuối năm 1957, công nhân đồn điền thuộc các tỉnh miền Đông Nam Bộ tổ chức đại hội đại biểu, bầu ra cơ quan lãnh đạo thống nhất trong toàn ngành. Sau khi đại hội kết thúc, hơn 10.000 công nhân các đồn điền Xa Cát, Xa Trạch, Dầu Tiếng và hàng nghìn công nhân Lộc Ninh, Phước Hòa, Tây Ninh, Khánh Hòa, 12.000 công nhân ở Đà Lạt, Lây Cu, Kon Tum, Buôn Ma Thuột, đã tổ chức đấu tranh đòi quyền sống, làm việc, chống bắt bớ, đánh đập và sa thải công nhân, đòi thành lập nghiệp đoàn... Trước sức đấu tranh của công nhân trên quy mô lớn làm cho giới chủ đồn điền cũng như ngụy quyền miền Nam lúng túng, chúng buộc phải chấp nhận một số điểm trong yêu sách của công nhân.

Cùng với công nhân hỏa xa, công nhân thương cảng, công nhân đồn điền, công nhân các nhà máy điện ở Sài Gòn, Tân Sơn Nhất, Vĩnh Long, Đà Nẵng... cũng tích cực đấu tranh. Được tổ chức chặt chẽ và chuẩn bị chu đáo, nên phong trào đấu tranh của công nhân ngành điện đã giành được những thắng lợi quan trọng. Tiếp đó, các nghiệp đoàn thuộc Liên hiệp các nghiệp đoàn công nhân thuộc thành phố Sài Gòn, Chợ Lớn, các nghiệp đoàn thuộc tổng liên đoàn lao động nghiệp đoàn tỉnh Cần Thơ, Thủ Dầu Một, nghiệp đoàn công nhân đồn điền ở Tây Nguyên, Nam Bộ... đã liên tiếp lãnh đạo công nhân ngành mình tổ chức bãi công, đình công, gửi đơn thư đòi tự do hội họp, đòi chính quyền tôn trọng và bảo vệ quyền lợi cho các nghiệp đoàn, chống việc bắt giữ, thủ tiêu các cán bộ nghiệp đoàn một cách tràn lan vô căn cứ. Các nghiệp đoàn ban bố những nội quy hoạt động, yêu cầu chính quyền chấp nhận, đòi được cấp chứng nhận để các nghiệp đoàn được công khai hoạt động theo pháp luật.

Đến hết năm 1957, các nghiệp đoàn công nhân miền Nam đã tổ chức được hơn 450 cuộc đấu tranh lớn, nhỏ, dưới nhiều hình thức phong phú, liên kết hỗ trợ nhau giữa các ngành, trên hầu khắp các địa phương. Tiêu biểu nhất, thống nhất và rộng lớn nhất là cuộc đấu tranh nhân kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 1-5-1957 của 289.000 công nhân thuộc các nhà máy, đồn điền, công sở và nhân dân thành phố Sài Gòn - Gia Định, cùng các địa phương lân cận được tổ chức tại ba trung tâm: công trường Diên Hồng, trường Pétrus Ký, sân Tao Đàn. Họ đòi ổn định cuộc sống và thống nhất đất nước... Đây thực sự là cái mốc quan trọng đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của giai cấp công nhân miền Nam.

Bước sang năm 1958, để phát huy đòn tiến công quân sự, hỗ trợ cho đấu tranh chính trị, Bộ tư lệnh miền Đông đề nghị Xứ ủy Nam Bộ cho tập trung lực lượng đánh chi khu, quận lỵ Dầu Tiếng nằm ở phía Bắc thị xã Thủ Dầu Một, cách Sài Gòn khoảng 70km. Xứ ủy chuẩn y, Bộ tư lệnh Miền sử dụng hai đơn vị của Miền mang danh nghĩa “Bộ đội Bình Xuyên” và “Liên quân Hòa Hảo”, cùng các đơn vị tỉnh Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Biên Hòa với tổng quân số 1500 người tiến công vào Dầu Tiếng. Lực lượng địch ở đây có 2 tiểu đoàn Cộng hòa thuộc sư đoàn 3, 1 đại đội và 1 trung đội bảo an, lực lượng cảnh sát, dân vệ tại chỗ. 0 giờ ngày 11-10-1958, quân ta nổ súng khống chế đồn Bến Củi và tiến công vào quận lỵ Dầu Tiếng. Sau 30 phút chiến đấu, quân ta diệt và làm bị thương 300, bắt 30 tên địch, thu 200 súng và nhiều đồ dùng quân sự. Quân cách mạng làm chủ quận lỵ 24 giờ. Địch đóng ở 20 đồn, bốt quanh Dầu Tiếng, hoang mang bỏ chạy. Đây là trận đánh lớn đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam, thể hiện bước phát triển mới về thế và lực của cách mạng. Trận đánh đã có tác dụng khích lệ tinh thần đấu tranh của quần chúng và răn đe quân địch. Vì vậy, ngay từ tháng đầu năm toàn bộ công nhân đồn điền cao su Quản Lợi, Xa Trạch đã bãi công một tuần liền đòi chủ đồn điền trả tiền thù lao đắt đỏ. Tiếp đó, 5.000 công nhân đồn điền Đất Đỏ bãi công phản đối các hành động côn đồ, trả lương không đúng kỳ hạn, tự ý tăng giờ làm việc của giới chủ. Những cuộc đình công, bãi công trên, ngoài sự hưởng ứng giúp đỡ của công nhân đồn điền cao su Sóc Trăng, Sóc Xuân, Phú Riềng, An Lộc, công nhân xe lửa Sài Gòn... còn có sự ủng hộ mọi mặt của liên đoàn nông dân Đà Nẵng, Nam Bộ... Sự kiện này chứng tỏ phong trào công nhân và phong trào nông dân đã liên kết và hỗ trợ tích cực cho nhau trong công cuộc chống kẻ thù chung là Mỹ - Diệm. Đỉnh cao của tinh thần đoàn kết đấu tranh trong năm 1958 được thực hiện trong cuộc xuống đường biểu tình chống chính quyền ngụy của hơn 500.000 công nhân, nông dân, trí thức và tầng lớp lao động khác thuộc 144 nhà máy, xí nghiệp, vùng nông thôn ngoại thành ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định ngày 1-5. Những người biểu tình đưa ra khẩu hiệu đòi chính quyền không được khủng bố, bắt giam, thủ tiêu những người kháng chiến cũ, đòi để cho quần chúng được tự do hội họp, cải thiện chế độ làm việc và tiền lương cho công nhân viên chức, đặc biệt là những người trực tiếp lao động. Ngày 14-11, 14.000 công nhân ở đồn điền Bình Long lãn công, tổ chức mít tinh phản đối Bộ Nội vụ và Bộ Lao động ngụy với việc ra lệnh trục xuất các cán bộ nghiệp đoàn ra khỏi các cơ sở và không cấp phái lai cho nghiệp đoàn hoạt động. Cuộc đấu tranh kéo dài hàng tuần làm công việc đình đốn, giới chủ bị thất thiệt lớn về ngân sách, gây tình trạng mất an ninh nghiêm trọng trung khu vực. Cuối cùng, Bộ Nội vụ đành phải ra lệnh thả những người bị bắt, Bộ Lao động đồng ý cấp phái lai cho nghiệp đoàn công nhân Bình Long hoạt động hợp pháp. Giới chủ đồn điền cũng hứa sẽ không tự ý giảm lương, tăng giờ làm như trước nữa.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #65 vào lúc: 30 Tháng Giêng, 2010, 11:20:44 pm »


Những cuộc đấu tranh của công nhân và các tầng lớp lao động, trí thức, công chức miền Nam trong hai năm 1957-1958 đã góp phần làm cho tình hình chính trị ở Sài Gòn thêm rối ren và khẳng định tính chất bấp bênh của một chính quyền tay sai Mỹ không có cơ sở xã hội.

Đi đôi với phong trào đấu tranh chống “tố cộng, diệt cộng” của Mỹ - Diệm đang diễn ra ở khắp các địa phương toàn miền Nam, phong trào đấu tranh chống chính sách “cải tiến nông thôn”, chống cướp đất... cũng gay go, quyết liệt thu hút đông đảo các tầng lớp nông dân, đồng bào di cư, đồng bào các sắc tộc miền núi tham gia. Năm 1957, đã có 150 cuộc đấu tranh lớn nhỏ chống dồn dân, cướp đất, đuổi nhà của chính quyền Diệm, đòi tự do làm ăn sinh sống, tự do khai khẩn đất hoang, canh tác và gia hạn các khế ước vay nợ đối với địa chủ. Mở đầu cho phong trào này là cuộc đấu tranh của đại diện nông dân ở 14 tỉnh Nam Bộ trong tháng đầu năm 1957, đòi định lại giá cả đất đai canh tác. Tiếp đó, đại biểu nông dân ở 37 xã của tỉnh Gò Công, 600 nông dân tỉnh Sa Đéc, Vĩnh Long tổ chức mít tinh biểu tình, đưa yêu sách đòi hạ mức thuế và không được xáo canh ruộng đất, làm ảnh hưởng không tốt tới việc trồng cây của nông dân. Giữa năm 1957, bà con nông dân xã Phước Long, quận Thủ Đức - tỉnh Gia Định đã tập hợp nhau lại chống tên địa chủ Thuận (tên này đã từng gây cho dân ở đây nhiều tai họa) đòi giảm mức tô, thuế, hạ thấp lãi suất cho vay nợ trong những thời điểm giáp hạt. Cuộc đấu tranh đã kéo dài hàng tuần và được Hội nông dân Gia Định, Sa Đéc, Rạch Giá, Hà Tiên, Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh... ủng hộ mọi mặt. Trước khí thế đấu tranh không khoan nhượng của nông dân, tên Thuận đã phải chịu nhượng bộ. Trước cách mạng, ruộng đất xã Hòa An huyện Trảng Bàng, Tây Ninh nằm trong tay gia đình địa chủ Đấu. Cách mạng thành công, chính quyền đã tịch thu, trưng thu số ruộng đất của Đấu, chia cho bà con nông dân canh tác. Khi Diệm lên nắm quyền và đưa ra chỉ dụ số 57, tên Đấu câu kết với tên quận trưởng, sử dụng dân vệ, lôi cuốn con cháu, họ hàng bắt dân phải trả lại ruộng đất cho chủ cũ - tức là cho gia đình Đấu. Bị nông dân phản đối, Đấu cho người nhà ra ngang nhiên chăng giây cắm đất. Đến tình thế này, nông dân đã đoàn kết nhau lại người cầm cuốc, người mang dao, gậy, đòn gánh... Xông ra chống trả kịch liệt. Để yếm trợ cho Đấu cướp ruộng, quận trưởng Trảng Bàng đã cho bảo an, cảnh sát đến đàn áp cuộc nổi dậy và bắt đi một số người lãnh đạo cuộc đấu tranh. Hành động đàn áp, bắt bớ của địch đã kích động lòng căm thù của quần chúng, khí thế của cuộc đấu tranh lên mức cao hơn. Tên quận trưởng Trảng Bàng buộc phải chấp nhận thả hết những người bị bắt, địa chủ Đấu phải lùi bước không dám cướp lại ruộng đất nữa. Thắng lợi của nông dân Hòa An đã tạo khí thế mới cho phong trào nông dân các xã còn lại của Trảng Bàng và cả tỉnh Tây Ninh đấu tranh bảo vệ quyền lợi của mình.

Bên cạnh những hình thức đấu tranh công khai hợp pháp, nông dân ở một số địa phương đã bí mật thủ tiêu một số tên địa chủ có nợ máu để cảnh cáo và ngăn đe chúng.

Ở các tỉnh Vĩnh Long, Phước Tuy... nông dân đã tổ chức những cuộc mít tinh, viết đơn thư thỉnh cầu lên chính quyền các cấp, yêu cầu sửa đổi thể lệ cho nông dân vay vốn tín dụng để sản xuất kinh doanh... Nông dân Quảng Trị, Gia Định, Châu Đốc phản đối không cho quân ngụy đến cào nhà, triệt làng, đào mồ mả mang đi nơi khác để xây dựng căn cứ quân sự và trụ sở ngụy quyền. Ở Cà Mau, Phong Dinh, Kiến Phong, Thừa Thiên... phong trào đấu tranh của nông dân lại hướng vào thực hiện những mục tiêu đòi tự do làm ăn sinh sống, chống bắt dân đi khai hoang xây dựng căn cứ, rời làng đến sống xung quanh các đồn bốt khu căn cứ quân sự của địch, đòi thay đổi chính quyền địa phương, tố cáo tội ác của bọn mật vụ, công an tra tấn, dùng nhục hình dã man đối với những người yêu nước. Ở Ninh Thuận, đồng bào Thượng đã đồng lòng đấu tranh không làm thẻ căn cước, không rời buôn làng vào khu tập trung. Đồng bào Khơme đấu tranh đòi được tự do học chữ và nói tiếng nói của họ. Đồng bào Chăm, Hoa kiều... Ở vùng biên giới An Giang đã cùng nhau lên án chính quyền ngụy bắt dân luyện lập quân sự, làm xâu đi xây dựng các công bình quân sự. Tín đồ Cao Đài yêu nước Nam Bộ phản kháng chính quyền Diệm chủ trương bắt các tín đồ vào quân đội v.v…

Bên cạnh những cuộc đấu tranh chống nạn cướp ruộng đất, chống nâng sưu thuế, những cuộc đấu tranh chống dồn dân vào các khu dinh điền, khu tập trung cũng diễn ra không kém phần sôi nổi và quyết liệt.

Nhân dân huyện Mộ Đức, Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi không thực hiện chủ trương của chính quyền Diệm bắt rời làng vào sống trong khu dinh điền. Địch dùng xe ô tô và đưa binh lính tới dồn ép, bắt người lên xe chở đi, nhiều người đã nằm chắn ngang đường ngay trước đầu xe để phản đối hành động bạo ngược của chúng. Ở huyện Sơn Tịnh, Quảng Ngãi, địch ép đưa đi hôm trước, hôm sau đồng bào đã bỏ trại trở về quê gần hết. Ở những nơi địch cai quản chặt chẽ, nhân dân đã chống lại bằng cách phá máy móc, công cụ sản xuất, cơ sở vật chất trang bị, bí mật bắt cóc thủ tiêu tên cầm đầu rồi nổi dậy phá trại trở về.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #66 vào lúc: 30 Tháng Giêng, 2010, 11:21:08 pm »


Trên vùng rừng núi Tây Nguyên những cuộc đấu tranh chống địch phá làng, phá buôn rẫy lập khu dinh điền thu hút được đồng bào đồng bào Kinh, Thượng và một số nhân viên ngụy quyền tham gia. Được cán bộ cách mạng trong buôn làng trực tiếp lãnh đạo, nhân dân đã cùng nhau cắm cọc, đào hào sâu, khoanh vùng rào giữ đất, kiên quyết không cho quân ngụy lấn sâu vào chiếm nương rẫy, bản làng. Khi địch dùng xe cơ giới ủi phá hàng rào, toàn bộ phụ nữ đã tập trung nhau lại chặn xe, chặn quân lính không cho chúng hành động. Bọn chỉ huy ngoan cố ra lệnh cho lính “xúc” cả đất và người lên xe chở đi. Lập tức, hàng trăm người già, trẻ, gái, trai xông vào dùng dao, cuốc, gậy gộc... đánh trả quân địch và cứu người bị nạn. Địch phải lui quân, dừng hành động ủi phá buôn rẫy.

Tháng 8-1958, quân ngụy tập trung lực lượng mở cuộc hành quân “Thồ Lồ” đánh vào miền tây hai tỉnh Bình Định và Phú Yên, hòng chiếm cho được Thồ Lồ - một cán cứ kháng chiến quan trọng của ta và lập các vùng dinh điền. Địch từ Vân Canh (Bình Định) và Đồng Xuân (Phú Yên) đánh lên, từ Cheo Reo (Phú Bổn) đánh xuống, đánh đến đâu chúng bắt dân đưa vào trại tập trung và triệt hạ bản làng đến đấy. Sau hơn một tháng lùng sục và cưỡng ép, địch đã “đưa” được hơn 2000 dân về các trại ở xung quanh quận lỵ Vân Canh. Nhưng chỉ ba tuần sau đó, một số bí mật tìm vào các khu căn cứ trong rừng sâu cắm chông gài thò... lập làng chiến đấu.

Để xây dựng các trụ sở chính quyền, quân đội, các cư xá khách sạn dành cho sĩ quan, cán bộ các ngành trong chính quyền Diệm, nhiều gia đình, nhiều khu dân cư ở một số thành phố và thị xã được lệnh phải rời đi nơi khác. Phong trào chống giải tỏa, đuổi nhà, di dân ở thành thị nổ ra không kém phần gay gắt và quyết liệt. Đầu năm 1957, hàng vạn hộ gia đình thuộc khu lao động ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, các trại định cư ở Biên Hòa, Châu Đốc... gửi nhiều đơn, thư khiếu nại lên các cơ quan chính quyền và Quốc hội ngụy, đòi được ở lại chỗ cũ, đòi bồi thường tài sản và nhà cửa do binh lính đốt phá. Ở thành phố Sài Gòn, 30.000 đồng bào di cư thuộc trại An Lạc, Chí Linh (Tân Sơn Hòa) bị địch đuổi nhà để lập cư xá Cộng hòa đã gửi hàng trăm đơn phản đối việc làm của chính quyền Diệm. 3000 người cư trú tại đường Trương Tấn Bửu kéo tới Dinh Độc Lập, 200 đồng bào ở khu Chương Dương, Vân Đồn, Phú Nhuận, An Bình, 1000 gia đình ở các trại định cư Trần Hưng Đạo, Lăng Cha Cả, Tân Sơn Nhất, 700 gia đình ở khu Trần Quí Cáp, xóm Từ Dũ, Nguyễn Huỳnh Đức, Phú Thọ đã kéo đến Tổng liên đoàn lao động ngụy yêu cầu bãi bỏ lệnh đuổi nhà. Đồng bào xóm Sáu Lèo (Bùi Viện) đã giành giật với cảnh sát, kiên quyết đòi dựng nhà trên nền đất cũ, phản đối âm mưu giải tỏa để tạo “thẩm mỹ cho thành phố” của chính quyền ngụy. Để hỗ trợ kịp thời cho phong trào, nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn, nghiệp đoàn các nhà máy, xí nghiệp, đồn điền, hiệp hội buôn bán các thành phố đã quyên góp tiền, lương thực, quần áo, thuốc chữa bệnh mang đến giúp đỡ cho các gia đình bị nạn. Nữ sinh trường Trưng Vương đã đến dọn dẹp và tham gia dựng lại nhà cửa cho những gia đình bị lính địch đốt phá. Các Nghiệp đoàn nghệ sĩ, Nghiệp đoàn giáo dục tư thục, các dược sĩ, Hội phụ nữ, Hội Phật giáo, Đạo Tin Lành... cũng trích quỹ mua vật chất để ủng hộ. Hội Dục Anh nhận nuôi con nhỏ cho các gia đình bị địch đốt phá mất nhà ở.

Trong tháng 8 và tháng 9-1957, đã có hơn 3 vạn người ở quận Châu Phú (Châu Đốc) Thị Nghè, Quảng Nam, Quảng Trị... đề đơn kháng nghị lên chính quyền các cấp về lệnh đuổi nhà để xây dựng đường chiến lược và căn cứ quân sự.

Đầu năm 1958, Mỹ - ngụp khởi công xây dựng con đường chiến lược Sài Gòn - Biên Hòa, buộc nhiều gia đình phải chuyển đi nơi khác, một đợt đấu tranh mới lại nổi lên làm cho địch không thực hiện được kế hoạch làm xong con đường vào năm 1959, phải kéo dài đến hết năm 1960 mới hoàn thành.

Ở Tây Nguyên, có 950 gia đình ở thị xã Buôn Ma Thuột, 2000 gia đình ở Gia Kiệm đã biểu tình đòi chính quyền địch bồi thường thiệt hại nhà cửa do binh lính của Diệm đốt phá và đòi ở lại chỗ cũ. Cùng thời gian trên, 1000 gia đình ở thành phố Huế đã hiệp sức nhau lại quyết “tử thủ” không cho quân đội Diệm dồn đi nơi khác lấy đất xây dựng sân vận động, chuẩn bị cho duyệt binh.

Trước sự phát triển ngày càng mạnh về mọi mặt của phong trào đấu tranh của các tầng lớp, các giai cấp ở miền Nam, Mỹ - Diệm đã ban hành luật “quân dịch”, tăng cường bắt ép thanh niên vào quân đội. Vì vậy, một phong trào đấu tranh nữa đã xuất hiện - phong trào chống bắt lính đã diễn ra khắp ở thành thị và nông thôn toàn miền Nam. Nhiều thanh niên đã tự hủy hoại thân thể hoặc khai đau ốm, mắc bệnh kinh niên để tránh phải khám tuyển quân dịch. Nhiều người khác tìm cách trốn sang đất Campuchia, chuyển chỗ ở làm ăn sinh sống, có người đã tự sửa thẻ căn cước, nâng số tuổi của mình lên để khỏi phải tham gia quân đội. Số người không trốn được phải gia nhập quân đội thì sau một thời gian đã tìm cách đào ngũ. Học sinh, sinh viên các trường đại học, cao đẳng cũng tổ chức biểu tình, đưa đơn lên Chính phủ và Bộ Quốc phòng ngụy yêu cầu được hoãn nhập ngũ để tiếp tục học tập, thi cử. Trước yêu cầu chính đáng của sinh viên, chính phủ Diệm đã chấp nhận miễn quân dịch cho những đối tượng này.

Kết quả của phong trào đấu tranh đã làm cho kế hoạch quân dịch của chính quyền Diệm trong năm 1957 không thục hiện được. Nhiều địa phương như Biên Hòa, Vĩnh Long, Phú Yên, Phan Thiết... đã có từ 20-30%, Bình Định đến 50%, Bình Thuận tới 79% thanh niên không tham gia khám tuyển và gia nhập quân đội ngụy.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #67 vào lúc: 30 Tháng Giêng, 2010, 11:21:34 pm »


Sang năm 1958, phong trào chống quân dịch ở miền Nam xuất hiện nhiều nét mới có chiều sâu. Ở Sơn Tịnh - Quảng Ngãi, Mỏ Cày - Bến Tre, toàn dân chống quân dịch với khẩu hiệu: “Không tham gia quân dịch vì không muốn chiến tranh chết chóc”, “Không chống lại nhân dân mình”.

Số thanh niên bị cưỡng ép vào quân đội đã tìm cách đào ngũ, trốn trại về quê làm ăn sinh sống.

Phối hợp một cách tích cực và kịp thời với các phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam, ngày 7-3-1958, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã gửi công hàm cho chính quyền Diệm, đề nghị hiệp thương, tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Diệm đã từ chối, một làn sóng đấu tranh mới diễn ra ở cả nông thôn và thành thị miền Nam ủng hộ bức công hàm của Chính phủ ta.

Các tỉnh Quảng Trị, Quảng Nam, Cao Lãnh, Rạch Giá, Hà Tiên, Long An, Vĩnh Long tổ chức hoạt động vũ trang tuyên truyền, giải thích những âm mưu của địch đối với cách mạng miền Nam và phân tích rõ nội dung bức công hàm của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa để nhân dân không mắc phải âm mưu xuyên tạc của địch. Bên cạnh đó, báo chí công khai ở Sài Gòn đã đăng lại nhiều bài phản ánh nguyện vọng thiết tha của nhân dân mong muốn hòa bình, độc lập và thống nhất Tổ quốc. Ngày 4-7-1958, một nhóm nhân dân lao động yêu nước ở tỉnh Bạc Liêu đã viết thư gửi Tổng thống Diệm, nêu rõ ước muốn được tự do trao đổi thư tín, lưu thông kinh tế... giữa hai miền Bắc - Nam và mong mỏi các nhà lãnh đạo hai miền sớm gặp nhau để bàn bạc việc thống nhất nước nhà bằng phương pháp hòa bình.

Tại Cao Lãnh, Cà Mau, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Cần Thơ, Quảng Ngãi,... nhân dân đã dùng loa phát thanh, rải truyền đơn, trưng biểu ngữ kêu gọi công chức, binh lính hưởng ứng phong trào đấu tranh thống nhất nước nhà và ủng hộ công hàm của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ở Sài Gòn và các thành phố lớn, nhân dân thả bồ câu mang theo cờ đỏ sao vàng và biểu ngữ đả đảo chính quyền độc tài phát xít Ngô Đình Diệm, đòi hiệp thương thống nhất Tổ quốc.

Do sự kết hợp giữa đấu tranh chính trị với các hoạt động vũ trang tự vệ, nên phong trào đấu tranh chống Mỹ - Diệm ngày càng phát triển, gây lòng tin tưởng trong nhân dân. Tuy vậy, thực tiễn phong trào đấu tranh chống địch “tố cộng, diệt cộng” cũng như các phong trào đấu tranh khác trên các địa phương miền Nam còn có những khuyết, nhược điểm. Ở một số tỉnh do chỉ đạo, chỉ huy không chặt chẽ, tổ chức diệt ác trừ gian một cách tràn lan, để bộc lộ hết lực lượng; ngược lại, một số địa phương hiểu không đầy đủ tinh thần nghị quyết, chỉ thị của Trung ương và Xứ ủy, cho là cấp trên cấm không được hoạt động vũ trang tự vệ, nên không dám dùng vũ khí đánh trả địch. Thậm chí có nơi đào súng lên rồi lại đem chôn giấu súng trở lại. Do đó, mặc dù phong trào cách mạng miền Nam năm 1958 lên mạnh hơn các năm trước. Nhưng phát triển không đồng đều, các căn cứ địa nhỏ, hẹp chưa vững chắc, nên lực lượng ta vẫn bị tổn thất nghiêm trọng.

Để khắc phục tình trạng trên, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng và Xứ ủy Nam Bộ đã chỉ thị cho các địa phương một mặt tiếp tục duy trì và phát triển lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị, mặt khác cần khẩn trương xây dựng, mở rộng các căn cứ địa làm chỗ đứng chân, nơi cất giấu, dự trữ vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm và tổ chức huấn luyện lực lượng cách mạng.

Ngay từ đầu năm 1957, Xứ ủy Nam Bộ đã đưa ra kế hoạch xây dựng căn cứ địa ở miền Đông Nam Bộ, bao gồm hai vùng căn cứ Đông Bắc và Tây Bắc. Căn cứ Đông Bắc, nguyên là địa bàn Chiến khu Đ cũ, được mở rộng lên giáp với biên giới Việt Nam - Campuchia; căn cứ Tây Bắc, nguyên là Căn cứ Dương Minh Châu, cũng được mở rộng thêm nhiều so với trước. Năm 1958, đồng thời với việc mở rộng các căn cứ địa, ta xây dựng và củng cố các công binh xưởng ở Mã Đà (vùng Đông Bắc), Bà Chiêm (vùng Tây Bắc), mở các lớp đào tạo y tá, huấn luyện bộ đội biệt động, đặc công. Đối với miền Trung và miền Tây Nam Bộ, Xứ ủy cũng tăng cường cán bộ và chỉ thị cho các tỉnh huy động nhân tài, vật lực để củng cố và mở rộng căn cứ Đồng Tháp Mười và U Minh. Riêng tỉnh Cà Mau từ giữa năm 1958, những gia đình có người đi tập kết và quần chúng cách mạng thuộc các huyện Ngọc Hiển, Cái Nước, Thới Bình, Trần Văn Thời (Cà Mau) đã anh dũng chống lại những hành động khủng bố, dồn dân lập ấp của địch, rồi chủ động rời làng vào cư trú tại địa bàn từ phía nam Rừng U Minh đến Rừng đước Ngọc Hiển, hình thành lên những “làng rừng” đầu tiên. Có “làng rừng” đông tới hàng ngàn người. Trong “làng rừng” có những đội vũ trang tự vệ, trang bị bằng súng trường, mã tấu... Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Cà Mau, những “làng rừng” đã mau chóng trở thành những căn cứ cách mạng vững chắc. Đến cuối năm 1958, Cà Mau đã xây dựng được 15 “làng rừng” với số dân lên tới hơn 20.000 người. Đây thực sự là những làng, xã tự do đầu tiên ở Nam Bộ được xây dựng dưới thời Mỹ - Diệm, là những căn cứ để tích lũy cơ sở vật chất, duy trì và phát triển lực lượng cách mạng, tạo điều kiện thuận lợi cho ta tổ chức các trận tiến công tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch trong quá trình kháng chiến chống Mỹ.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #68 vào lúc: 30 Tháng Giêng, 2010, 11:22:01 pm »


Tây Nguyên và các tỉnh Trung Bộ là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng. Mùa hè 1958, Khu ủy Khu V ra nghị quyết về xây dựng căn cứ Tây Nguyên và miền tây các tỉnh Trung Trung Bộ, lập cơ sở sản xuất, dự trữ lương thực, thực phẩm, vũ khí đạn dược, thuốc men, động viên nhân dân tích cực tham gia làm “rẫy cách mạng”, bước đầu xây dựng lực lượng bán vũ trang và một số đơn vị vũ trang tập trung. Khu ủy cũng chỉ thị cho các địa phương tổ chức các đội tự vệ ở các buôn, làng, xã để bảo vệ cơ sở, hỗ trợ cho các cuộc đấu tranh của quần chúng tại chỗ, giải thoát cho cán bộ khi bị địch bắt, diệt các tên phản động, ác ôn, phục hồi và mở rộng các cơ sở chính trị.

Thực hiện chủ trương đúng đắn trên, các cán bộ, đảng viên ở cả miền núi và đồng bằng đã nhanh chóng lập ra các “rẫy cách mạng”, sản xuất lương thực, thực phẩm, từng bước phát triển thành những căn cứ của khu, tỉnh. Trong khu căn cứ, các công binh xưởng sản xuất, sửa chữa vũ khí được xây dựng. Ở Kon Tum, có xã Đoàn, xã Hiếu, Tung Bung, Côxia, Tân Túc, Đắc Min; ở Gia Rai có huyện 2, huyện 7; Quảng Nam có căn cứ Hiên; ở Quảng Ngãi có khu căn cứ bao gồm 22 xã thuộc vùng cao hai huyện Trà Bồng, Sơn Hà và 12 xã trong khu vực tiếp giáp giữa ba huyện Sơn Hà, Minh Long, Ba Tơ và 8 xã thuộc địa phận phía nam huyện Ba Tơ. Tỉnh Bình Định có Khu căn cứ Vĩnh Thạnh; Phú Yên có các Khu Thồ Lồ, Ma Dú; Đắc Lắc có Plây Ya; Khánh Hòa có Vĩnh Sơn, Khánh Sơn; Ninh Thuận có Bác Ái; Bình Thuận, Lâm Đồng có Tánh Linh, Di Linh nối lên nhau từ vùng giáp ranh đồng bằng đến ven đường quốc lộ 20.

Việc xây dựng các khu căn cứ cách mạng ở miền Nam có ý nghĩa chiến lược to lớn, nó tạo sức mạnh vật chất và lực lượng cho cách mạng. Từ các căn cứ kháng chiến này, lực lượng cách mạng được giữ gìn và phát triển. Căn cứ địa miền Nam hợp cùng với hậu phương lớn miền Bắc là nhân tố bảo đảm chắc chắn cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh.


*
*   *

Âm mưu và hành động của Mỹ - Diệm hơn bốn năm qua tự nó đã nhen nhóm và thổi bùng ngọn lửa chiến tranh ở miền Nam. Nhân dân miền Nam muốn sống trong hòa bình, độc lập, tự do buộc phải đứng lên cầm - lấy vũ khí chống lại kẻ thù. Bởi Mỹ - Diệm đã dùng súng đạn dìm các cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân trong bể máu.

Vượt qua những đau thương mất mát, hy sinh, nhân dân ta ở miền Nam đã trụ vững, sáng tạo ra phương thức đấu tranh với những hình thức phong phú, từng bước tích lũy, xây dựng, phát triển lực lượng đưa phong trào cách mạng tiến lên. Mặc dù còn khó khăn chồng chất, cách mạng còn lắm gian truân, nhưng sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam Việt Nam bước đầu đã tạo được thế mới, lực mới. Đó là thành quả trong thời kỳ đấu tranh chính trị đầy khó khăn, gian khổ, hy sinh, là tiền đề quan trọng để Đảng hoạch định đường lối cách mạng miền Nam, đưa phong trào đấu tranh của nhân dân ta từ thế giữ gìn lực lượng chuyển dần sang thế tiến công vào những năm sau.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #69 vào lúc: 30 Tháng Giêng, 2010, 11:25:02 pm »


Chương VII
NGHỊ QUYẾT HỘI NGHỊ LẦN THỨ 15 CỦA TRUNG ƯƠNG ĐẢNG
VÀ NHỮNG CUỘC NỔI ĐẬY ĐẦU TIÊN Ở MIỀN NAM


I. CHỈ CÓ CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG NHÂN DÂN MIỀN NAM MỚI CỨU ĐƯỢC MÌNH VÀ CỨU NƯỚC

Qua năm 1958, mặc dù cách mạng miền Nam đã tạo được những nhân tố để tiến lên, nhưng vì đường lối đấu tranh chưa được xác định cụ thể, việc chỉ đạo thực hiện thiếu thống nhất, nên bước sang năm 1959, phong trào cách mạng miền Nam vẫn chưa ra khỏi tình trạng khó khăn, nhiều nơi còn bị động, lúng túng. Trong khi đó, Mỹ - Diệm tiếp tục đẩy mạnh các chiến dịch “tố cộng, diệt cộng”, dồn dân lập “khu dinh điền”, “khu trù mật”, xây dựng căn cứ quân sự. Các cuộc đánh phá, khủng bố của chính quyền Diệm đối với nhân dân đã đến đỉnh cao về múc độ khốc liệt và tính chất man rợ. Những đảng viên cộng sản, những người yêu nước bị truy lùng ráo riết. Lực lượng cách mạng tiếp tục bị thiệt hại. Ở QuảngNam, Sài Gòn - Chợ Lớn, Gia Định. Tây Ninh, Mỹ Tho bị thiệt hại nặng nhất, có nhiều chi bộ, đảng bộ bị địch bắt, giết gần hết số đảng viên phải “lột xác” tới ba, bốn lần mới duy trì được hạt nhân lãnh đạo. Theo số liệu của Bộ Thông tin chính quyền Sài Gòn công bố năm 1960 thì, từ 1954 đến 1959, Diệm đã bắt giam 48.200 “cán bộ cộng sản”, bắt 18 triệu 739 ngàn lượt người học tập “cải huấn”, “phản tỉnh”, “sám hối” và xử án tử hình hàng chục ngàn người yêu nước khác. Con số này còn ít so với sự thật1. Nhưng những cảnh bắt người hành hình ghê sợ kiểu khoét mắt, xẻo tai, moi gan, mổ bụng, bỏ rắn vào ống quần phụ nữ, cột sau xe ôtô, chạy cho đến khi thân thể nạn nhân tan nát thịt xương diễn ra hàng ngày ở miền Nam. Ở dinh điền Bình Hưng thuộc xã Tân Hưng Tây, huyện Cái Nước, gia đình bác Tám Sáu bị giết hết không còn một người, gia đình anh Sáu Hòa bị địch bắt, giết gần hết bằng cách trói chân tay rồi dội nước sôi cạo đầu, xẻo thịt. Chỉ với nhưng số liệu và phương pháp giết người mà tính chất man rợ của nó vượt xa thời kỳ Trung cổ đó cũng đủ làm xúc động lương tri loài người và “làm kinh hoàng người nông dân Việt Nam, làm cho dân chúng thêm căm ghét chế độ Diệm”2. Những gì mà người dân miền Nam được hưởng sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống Pháp đều bị thủ tiêu một cách tàn nhẫn. Mỹ - Diệm đã phá nát cơ cấu làng xã - những tế bào của xã hội vốn sinh thành, cố kết tự nhiên của cộng đồng người Việt qua hàng ngàn năm lịch sử và biến miền Nam thành địa ngục trần gian mà ở đó quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của con người bị tước đoạt hoàn toàn. Chỉ còn lại những người được Diệm hữu sản hóa trở thành địa chủ, tư sản mại bản mới hàm ơn Mỹ, điên cuồng chống phá cách mạng, chống lại hòa bình, hòa hợp dân tộc.

Mỹ - Diệm đã đẩy nhân dân miền Nam đến cảnh khốn cùng như vậy, muốn tồn tại, người dân miền Nam không có con đường nào khác ngoài con đường phải nổi dậy cầm vũ khí chống lại kẻ thù.

Là người lãnh đạo đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí trong Trung ương Đảng, Chính phủ ngày đêm suy nghĩ để vạch ra chủ trương và phương pháp, bước đi cho cách mạng miền Nam sao cho giành thắng lợi mà ít tổn thất nhất, lại phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế. Đây là vấn đề cực kỳ khó khăn và phức tạp. Bởi vì, lúc này đường lối đối ngoại cùng tồn tại hòa bình giữ cách mạng trong thế thủ đang thắng thế trong phong trào cộng sản quốc tế. Mâu thuẫn Xô-Trung phát sinh và ngày càng gay gắt. Xuất phát từ chiến lược và lợi ích dân tộc của mỗi nước, Liên Xô, Trung Quốc đều giúp ta, nhưng đều muốn ta phải theo chiến lược của họ. Liên Xô khuyên ta phải thi đua xây dựng hòa bình, làm cho miền Bắc mạnh lên sẽ phát huy tác dụng đối với miền Nam. Trung Quốc lại cho rằng Việt Nam “chỉ có thể dùng phương châm thích hợp là trường kỳ mai phục, tích trữ lực lượng, liên hệ quần chúng, chờ đợi thời cơ”3. Đây là thời kỳ phức tạp nhất về chính trị đối với việc hoạch định đường lối chỉ đạo cách mạng. Trong tình hình thế giới có hai phe, sự giao lưu và thông tin quốc tế mở rộng lợi ích của mỗi nước đều gắn chặt với lợi ích của phe và của cộng đồng quốc tế, nên những lời khuyên, những ý kiến gợi ý của Liên Xô, Trung Quốc và bè bạn xa gần dù ở khía cạnh, quan điểm nào, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đều phải suy nghĩ, nghiên cứu nghiêm túc, tính toán thận trọng khi xác định đường lối cách mạng của mình, vừa giữ vững độc lập tự chủ, vừa tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của các nước anh em đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.

Cùng vào thời điểm này ở miền Bắc đang khôi phục kinh tế, củng cố quốc phòng - an ninh, tiếp tục giải quyết những tồn đọng trong chiến tranh và tìm tòi con đường phát triển đất nước phù hợp với những điều kiện cụ thể của Việt Nam. Việc xây dựng lực lượng vũ trang, tích trữ vật chất còn đang trong quá trình chuẩn bị.
______________________________________
1. Theo thống kê của Thành ủy Sài Gòn - Gia Định, chỉ riêng ở thành phố này năm 1956 đã có 108 ngàn người bị bắt, hàng ngàn người bị giết.
2. Tài liệu Mật Bộ Quốc phòng Mỹ, Tlđd.
3. Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc 30 năm qua, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1979, tr. 40.

Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM