Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 09:54:10 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Bay đến Hà Nội và thoát về  (Đọc 83728 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
ngao5
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 756


« Trả lời #110 vào lúc: 29 Tháng Tư, 2010, 06:42:37 pm »

Tuy Bộ tư lệnh không quân chiến lược có một vài thay đổi quan trọng về chiến thuật trong Linebacker II, tổ lái B-52 cằn nhằn rằng những thay đổi đó nên được dạy nhiều trước đó, thậm chí trước khi bắt đầu chiến dịch. Tháng 11, một tổ lái phải nhảy dù trên đất Thái Lan sau khi B-52 của họ trúng SAM gần Vinh, Bắc Việt Nam(1), Đây là chiếc B-52 đầu tiên bị kẻ thù bắn rơi, và tổ lái B-52 ở Thái Lan và Guam không nghĩ rằng Bộ tư lệnh không quân chiến lược trụ sở ở Omaha, Nebraska, lo lắng đầy đủ về mất mát này. Sự cố chấp của tư lệnh SAC rằng mọi máy bay B-52 “ấn nút” tương phản với sự hướng dẫn trước đây thúc giục tránh xa phòng không địch. Tướng Meyer biết trước có một số mất mát như là hậu quả, dù ông có một mô hình máy tính đánh giá sự mất mát B-52 trong phi vụ ném bom hạt nhân chống lại Liên Xô, nhưng Meyer không so sánh được chiến tranh thông thường. Trưởng phòng tình báo của ông nghi ngờ rằng Meyer có thể áp dụng “chính trị kiểu Anh”; Việc Meyer đánh giá mất mát khoảng 3% số lượt xuất kích báo động chính quyền rằng sinh mạng người Mỹ có thể bị mất và chỉ ra rằng Bộ tư lệnh không quân chiến lược có thể làm việc này tại mức giá khiêm tốn theo tiêu chuẩn thế chiến II.
Theo cách nhìn nhận của các tổ lái B-52, tướng Meyer nằm ở Omaha xa xôi đang đương đầu tình hình thực tại của họ một cách đày đủ. Tham mưu của Meyer đã rất khó khăn nhận quyết định từ ông đủ sớm trong vòng được hoạch định. “Sau khoảng hai ngày chiến đấu, bao gồm trao những bao cho tổ lái khi họ lăn bánh ra đường băng”, trưởng phòng tình báo của ông nhớ lại, “một biểu đồ đang phát triển để giúp “khơi dậy” tướng Meyer đi đến một quyết định. Biểu đồ này dài xấp xỉ 20 feet, và tỏ ra là một công cụ khá hữu ích”. Rõ ràng đối với Meyer có nhiều bước cần thiết phải được làm trong thời gian hạn chế giữa quyết định của ông và bom rơi vào mục tiêu. Tại bất cứ thời điểm nào trong chiến dịch, ban tham mưu vạch kế hoạch không kích hai ngày trước khi có những thay đổi trong mệnh lệnh cho ngày hôm sau và nhận phản hồi trong ngày hôm đó. Với sự chênh lệch thời gian mười một giờ, cuộc không kích về ban đêm ở Hà nội xảy ra trong phiên ban ngày tại đại bản doanh Bộ tư lệnh không quân chiến lược. Ban tham mưu làm việc quanh một giờ ở đó cũng như ở các trụ sở khác tương ứng với những mệnh lệnh từ Omaha: Tập đoàn không quân số 8 ở Guam, Tập đoàn không quân số 7 ở Sài Gòn, và Lực lượng đặc nhiệm 77 ở Vịnh Bắc Bộ. Khi những hướng dẫn cuối cùng đến được những phi đoàn và các phi đoàn, thì chỉ còn ít thời gian dư thừa.
Trước lúc bắt đầu, Meyer có ba ngày biết trước một chiến dịch ném bom ba ngày; một phần tư ngày chuẩn bị thêm về những lý do chính trị và ngoại giao để được phép triển khai đúng lúc nhiều máy bay tiếp dầu hơn.
Việc dồn nén hàng trăm lượt xuất kích hàng ngày thành ba đợt một đêm (khác hẳn nhiều lần so với những xuất kích thông thường đưa một B-52 xuất kích trong vòng một giờ của tốp ba chiếc) gây ra căng thẳng trong việc bảo trì và điều khiển cũng như tiếp dầu trên không. May mắn, Guam có được một số kinh nghiệm thích đáng vài tuần trước đó khi một cơn bão buộc họ phải sơ tán nhanh B-52. Tuy thế, có những tiếng thở dài khi trận ném bom đêm đầu tiên bị tổn thất. Mất ba chiếc B-52 đêm đó nằm trong dự tính 3% của Meyer, và việc không mất chiếc nào trong đêm thứ hai hình như xác nhận rằng Meyer biết cách làm việc.
Nhưng mất 6 chiếc B-52 vào đêm thứ ba khiến cho cả cấp dưới và cấp trên của Meyer bối rối. Khi đợt đầu tiên mất hai B-52Gs (do thiết bị gây nhiễu kém) và một B-52D khi tấn công ga Yên Viên nằm ở đông bắc Hà nội, tướng Johnson gọi từ Guam cho Meyer và Meyer quyết định dồn đợt hai và ba lại, đồng thời huỷ bỏ đợt không kích thứ hai bằng sáu B-52G vào ga Gia Lâm và nhà máy sửa chữa xe toa xe bên kia sông Hồng.
Đợt không kích thứ ba bằng B-52D vào Gia Lâm được trả giá bằng một B-52D. Khi hai B-52G trong đợt ba bị bắn rơi lúc tấn công ga Kim Nỗ và khu kho hàng ở tây bắc Hà nội, Meyer đưa B-52G ra khỏi khu vực Hà nội trong những ngày còn lại của chiến dịch đến nỗi tổng thống Nixon đã phải kéo dài vô hạn trong ngày thứ hai.
Việc cho phép những mục tiêu mới đôi khi buộc Meyer phải chỉnh sửa những mệnh lệnh của ông lúc cuối kế hoạch. Thí dụ, ngày 23-12 sau khi đưa cho Tập đoàn không quân số 8 những mục tiêu để ném bom đêm hôm sau (24-12) ở khu vực Thanh Hoá cũng như ở nam Hà Nội, Meyer nhận được phép đánh nhà ga Kép và Thái Nguyên; ông thay đổi những mục tiêu ném bom ngày 24-12 một cách phù hợp, hơn là chờ đến tận sau lễ Giáng sinh mới đánh những mục tiêu mới.
Mặc dù Meyer nắm quyền chỉ huy suốt chiến dịch Linebacker II, thực tế ông san sẻ cho Johnson ở Guam nhiều trách nhiệm trong các phi vụ. Đối với cuộc tập kích lớn nhất sau Giáng sinh, những mệnh lệnh của Johnson là đưa 7 đoàn máy bay cùng một lúc từ các hướng khác nhau vào đồng bằng sông Hồng - bốn đoàn B-52D đổ về khu vực Hà nội trong khi ba đoàn B-52G đánh Hải Phòng và Thái Nguyên. Johnson và ban tham mưu Tập đoàn không quân số 8 chọn những trục tấn công và mũi tấn công cho từng đoàn; đây là sự thử thách khắt khe để phối hợp đồng bộ khá nhiều máy bay tụ hợp đông đúc mà không gây ra va chạm.
Bộ trưởng quốc phòng Laird đòi quyền của mình trong Linebacker II ngay lúc ông tham gia Linebacker. Mãi tới tháng 27-12, đô đốc Moorer phải xin được Laird tán thành từng mục tiêu; hôm đó, Laird đồng ý để Moorer được phép lựa những mục tiêu cho máy bay chiến thuật ở ngoại vi vùng hạn chế Hà Nội và Hải Phòng và vùng đệm dọc biên giới Trung Quốc, đó là những mục tiêu đã được phép trong Linebacker. Trong khi cho phép phần lớn mục tiêu mà Moorer chọn, thì bộ trưởng không đồng ý ném bom phi trường Gia Lâm - sợ rằng bom rơi lạc vào ga Gia lâm. Tuy thế, ông đồng ý dùng bom dẫn đường ném xuống nhà máy điện Hà nội, từng bị hạn chế ném bom trong thời gian Linebacker.
Meyer thường xin Washington cho phép tấn công các mục tiêu, nhưng trong trường hợp ga Lạng Giang, Moorer liên tục đề nghị được không kích. Ga này trở thành mục tiêu bị bỏ bom nặng nhất trong chiến dịch. Hơn tám mươi lượt B-52 xuất kích ném khoảng 4500 bom xuống Lạng Giang trong bốn cuộc tập kích. Người ta lý luận rằng rằng có một số lượng lớn xe tải chở hàng mà ảnh trinh sát đếm được ở mục tiêu này. Lạng Giang nằm ở vùng đệm dọc biên giới Trung Quốc, và Bắc Việt dùng tuyến đường sắt đông bắc chở tiếp liệu từ Trung Quốc ít nhất là đến được Lạng Giang. Sức lôi cuốn của Moore vào Lạng Giang là khả năng không bị tổn thất của B-52 khi không kích nó. Cuộc tấn công đầu tiên vào Lạng Giang ngày 23-12 đã cho thấy điều này. Đây là một chỗ tốt cho B-52G, vì máy phát nhiễu của chúng không đủ mạnh chống lại mạng radar phòng không Hà nội.
Bất chấp tất cả những thay đổi về mục tiêu và chiến thuật nhằm cho các tổ lái B-52 sống sót trong Linebacker II, một số phi công B-52 vẫn mang nỗi cay đắng với Meyer. Đây là sự thật đặc biệt ở Guam. Khi ông tới căn cứ không quân Andersen sau khi chiến dịch để tặng huân chương, sự căng thẳng suýt dẫn đến chuyện gần như nổi loạn - dù chuyện này xảy ra trong óc những người căm ghét Meyer.
Mặc dù chỉ có một tổ lái B-52 ở sân bay U-Tapao từ chối phi vụ Linebacker II, nhưng những vụ bất bình nhỏ hơn lại sôi sục lên ở đó hơn là ở Guam.
Ba đêm đầu tiên, U-Tapao chỉ hai chiếc rơi, trong khi Guam là 7. Tất cả B-52G của tập đoàn không quân số 8 đỗ tại Guam, và những mục tiêu quan trọng đầu tiên và những mục tiêu khác gần Hà Nội phần nhiều được giao cho những máy bay ở Guam. Trong đêm đầu tiên, những B-52 của Guam trước tiên ném bom những mục tiêu: nhà ga Kim Nỗ, Yên Viên, và Gia Lâm - trong khi B-52 của U-Tapao cố gắng trấn áp MiG bằng cách ném bom sân bay Phúc Yên, Kép, và Hoà Lạc (xa Hà nội hơn nhà ga). Trong khi tổ lái Guam gặp những mất mát đặc biệt gay gắt vào đêm thứ ba, một nhân viên tổ lái ở U-Tapao thậm chí còn hài hước bằng cách huýt sáo; những đồng đội của anh ta về sau này thề rằng Bắc Việt ngừng phóng tên lửa trong vòng 90 giây.
Tổ lái Guam mất nhiều thời gian hơn tổ lái U-Tapao để nguôi đi những mất mát của họ. Ba trong bốn đêm sau, các tổ lái U-Tapao đã bay tất cả những phi vụ Linebacker II và những tổ lái Guam trở lại những phi vụ tương đối an toàn ở Nam Việt nam. Thậm chí khi bay ở phía nam, tổ lái Guam cũng chẳng bay nhiều hơn mọi ngày, mà phần đông còn bay ít hơn. Những phi vụ kéo dài 12 giờ cắt giảm tần suất bay của tổ lái Guam, cũng đem lại nhiều giờ rỗi rãi trên không để họ kêu ca.
Trong 5 đêm đầu tiên Linebacker II, phần đông tổ lái U-Tapao đã bay. Trong khi phi vụ của họ kéo dài chỉ ba giờ, đêm này sang đêm kia chiến đấu làm mệt lử và Tập đoàn không quân số 8 cuối cùng phải luân phiên đủ tổ lái từ Guam đến U-Tapao để tổ lái ở đó chỉ bay vào những đêm khác.
Việc sử dụng tối đa U-Tapao là sự khôn ngoan; một B-52D từ U-Tapao có thể chở lượng bom tới Hà Nội (30 tấn) hơn ba lần mà một B-52G từ Guam (chín tấn) và gần gấp đôi một B-52D bay từ Guam (mười sáu tấn), với thời gian bốn lần nhanh hơn. B-52D đã được cải tiến để chở bom thường nặng hơn ở Đông Nam Á, trong lúc loại mới hơn B-52G tầm xa vẫn tiếp tục chuẩn bị khả năng chiến tranh hạt nhân chống lại Liên Xô. Với một phần ba B-52, tổ lái U-Tapao ném gấp hai lần lượng bom tổ lái Guam trong Linebacker II. Khi tổ lái Guam ngừng bay do những mất mát lớn của đêm thứ ba, tổ lái U-Tapao bắt đầu ném bom những mục tiêu dễ dàng hơn bằng chiến thuật được cải tiến do Bộ tư lệnh không quân chiến lược đề xuất. Vì phần đông tổ lái Guam không tham gia vào sự cải tiến này, nên nhiều người có ấn tượng sai lầm rằng Đại bản doanh Omaha đã thất bại phản ứng cho đến sau Giáng sinh.
Đối với U-Tapao, tinh thần được nâng lên đêm thứ năm, khi chiến thuật mới kết hợp với may mắn không có chiếc máy bay nào bị rơi. Một số biểu ngữ viết tỷ số vào sáng hôm đó; “Christians 30; Gomers 0”. Tổ lái nhắc câu nói này của vua hề Bob Hope để kỷ niệm vua hề nổi tiếng đã biểu diễn cho họ, vừa tròn hơn một năm ông tới đây.
“Điều đáng nguyền rủa nhất xảy ra toàn bộ cuộc chuyến bay không dừng tại ra áp lực là buổi diễn của vua hề Bob Hope - một đại uý nhớ lại - Nó cứu nhiều các chàng trai”. Sau buổi diễn, Hope gặp tất cả tổ lái trong cuộc gặp ngắn. “Ông rất tỉnh táo về việc đó, - một đại uý khác nhớ lại. - Ông nói ông không biết gì buồn cười để kể tình hình”, nhưng ông đã nói với những lính Bắc Phi trong thế chiến câu chuyện “làm dịu bầu không khí”.
Một khía cạnh cổ vũ khác của Linebacker II là MiG hoạt động lờ đờ. Một số bay gần vào ban đêm, có lẽ để xác định độ cao của B-52 cho tên lửa SAM. Khi máy bay MiG đe doạ B-52 trực tiếp, các xạ thủ B-52 chứng tỏ có cơ hội hơn. Tuy thế, sự đáp trả thành công của các xạ thủ là ít nổi hơn chiến công lừng danh của các phi công. Lính không quân hạng nhất Albert E. Moore, người bắn rơi một trong hai chiếc MiG để các xạ thủ B-52 nhận điểm, cảm thấy có chút băn khoăn.
Trên đường về căn cứ - sau này ông kể - tôi không tin rằng mình có thể hạnh phúc hoặc rủi ro. Anh biết đấy, có một chàng trai trên chiếc MiG đó. Tôi tin rằng anh ta có lẽ cũng muốn bay về căn cứ. Nhưng đó chỉ là hoặc anh ta hoặc tổ lái chúng tôi”.
______________________

(1) Vài tuần trước khi chiếc B-52 đầu tiên bị rơi, lực lượng phòng không Bắc Việt nam đã tổ chức một hội nghị bàn về kỹ thuật tốt nhất dùng SAM hạ rơi B-52; một tài liệu được phát triển từ 1969 được đưa ra sau hội nghị. Trong Linebacker II, tuy thế, ra khỏi lời khuyên đôi khi gặp thành công rõ rệt. Xem bản dịch “Linh Cuu My” tướng Hoàng Văn Khánh “Nhằm thẳng B-52” trong tạp chí Vietnam magazine, tháng 4-1996, đặc biệt trang 30-31. Một bản khác về hội nghị và chiến thắng bắn rơi ban đầu do Merle Pribbenow dịch “Lịch sử quân đội nhân dân Việt nam” tập 2 (Hà Nội, 1994), chương 12, phần 4.
Logged
ngao5
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 756


« Trả lời #111 vào lúc: 29 Tháng Tư, 2010, 06:43:36 pm »

Trong thời gian ấy, khả năng không chiến mới nhất của Tập đoàn không quân số 7 có ít dịp may để chứng tỏ. Ngay khi Linebacker II đang trên đường đi, nửa tá F-4E “Rivet Haste” được nâng cấp đã đến Udorn tháng 11. Tháng 12 lực lượng mới bổ xung này thể hiện khả năng nhận dạng MiG dựa trên tầm nhìn xa bằng thiết bị nhận dạng bạn thù, một khả năng chưa từng xuất hiện ở F-4E tại Đông Nam Á trừ một số F-4D sử dụng vài tháng nay. Tất cả 12 chiếc F-4E mới, tuy thế, có một ống nhòm điện tử cho phép vào ban ngày nhận dạng được máy bay địch dựa vào tầm nhìn xa dường như những máy nhận dạng bạn thù của họ không cần bật lên. Tất cả 12 chiếc F-4E có đầu cánh được gắn những thanh mỏng tăng tính cơ động không chiến. Những khả năng này không thành công bắn được MiG nào trong Linebacker II, nhưng ống nhòm điện tử không ngăn được một F-4E bắn rơi một F-4E khác ngày 29-12. Những chiến thắng không chiến vào tháng 12 của ba phi đội thuộc về tổ lái F-4 cũ và mà không thuộc về những người mới đến, những người chưa từng trải để thay thế nổi những cựu chiến binh dày dạn của liên đoàn “Bộ ba Nickel” nổi tiếng (từng có nhiều chiến thắng không chiến hơn mọi phi đội không quân khác trong chiến tranh).
Trong khi rất hài lòng với cách trị MiG từ khi bắt đầu chiến dịch, những tổ lái B-52 phàn nàn SAM bắn họ, đặc biệt trong ba đêm đầu tiên chiến dịch. Mặc dù nhiều lời phàn nàn của họ đã được đáp ứng bằng sự cải tiến những mệnh lệnh Đại bản doanh Bộ tư lệnh không quân chiến lược đưa ra, những lời phàn nàn khác chạm phải sự chống đối bằng mọi cách ở mắt xích chỉ huy. Những B-52 khổng lồ chậm chạp hơn máy bay tiêm kích tự thân tỏ ra không chịu đựng được tên lửa, và sau những phi vụ ban đầu, các tư lệnh phi đoàn tại U-Tapao và Andersen trách móc một số phi công của họ không làm những động tác thoát ra khi bom đang rơi. Không những sự ném bom cứng nhắc này liên quan đến cách làm cũ của tướng LeMay trong thế chiến II, mà nó còn là lý do kỹ thuật mới để ủng hộ nó. Sự vững vàng khi ném bom luôn luôn cải thiện độ chính xác, nhưng bây giờ theo cách này, B-52 có thể duy trì một tốp ba chiếc sử dụng tốt nhất máy gây nhiễu điện tử để tránh được SAM.
Sự lôi cuốn thủ đoạn khi ném bom rất khó chống lại. Những phi công B-52 chưa từng trải kiểu căng thẳng này trước đây, và phải mất vài ngày họ mới dần quen được bầu không khí nguy hiểm quanh họ. Một hoa tiêu lưu ý sự hỗn độn do sao băng phát sáng trên bầu trời trong đêm đầu tiên: “Phi công nhìn thấy một thứ tệ hại và nghĩ rằng đó là một quả SAM, nhưng đó là một sao băng cháy sáng trên bầu trời”. Mặc dù họ bay cao hơn 30 nghìn feet và ngoài tầm chính xác của đạn pháo cao xạ ở phía dưới, nhưng cũng làm yếu bóng vía. Một phi công kể “nó giống như nhìn ngày quốc khánh 4-7 từ trên đỉnh cao nhìn xuống”.
Việc Bộ tư lệnh không quân chiến lược vạch ra phần lớn kế hoạch Linebacker II ở Nebraska nằm không có khoảng cách với Hà Nội, nhưng có khoảng cách tổ lái. Ban tham mưu tại Offutt được trang bị mạnh và tốt nhất, nhưng những phi công đang thực hiện phi vụ chiến đấu đương nhiên có cái nhìn mờ mịt về những mệnh lệnh của Đại bản doanh từ nơi xa bắt họ liều mạng như thế nào. Thà rằng là Đại bản doanh Omaha giúp đỡ tư lệnh Tập đoàn không quân số 8 ở chiến trường - hơn là nói họ chính xác phải làm gì. Quy trình này không cần thiết phải đưa ra những mệnh lệnh tốt hơn, nhưng các phi công phải nhận chúng từ một vị chỉ huy giữa chừng.
Việc tướng Meyer chú trọng ném bom nhà ga và kho hàng tiếp liệu đã gây ồn ào. Chúng là những mục tiêu rộng và đã bị ít nhiều hư hại trước trận ném đầu hè bằng bom dẫn bằng laser. Quan trọng nhất là một vài mục tiêu này nằm ở ngoại vi Hà nội và Hải Phòng nơi có số ít dân thường bị chết, nhưng nhiều người sống giáp thành phố có thể hoảng sợ bởi những tiếng bom nổ mạnh khá chưa từng thấy khá gần.
Chỗ yếu của các nhà ga được xem như hệ thống mục tiêu là vị trí nhà ga lớn nhất và quan trọng nhất ở trái tim Hà nội. Trong khi ga tàu hoả thành phố bị tấn công bởi bom dẫn bằng laser trong Linebacker II, thì toàn bộ sân ga ó thể chỉ bị hư hại nặng nề bởi B-52 ném bom diện rộng và điều này là bị cấm để bảo vệ dân cư khu trung tâm. Nhà ga Gia Lâm nằm bên kia sông Hồng bị B-52 làm hư hại nặng nề không những đầu máy xe lửa, và những đường ray trong sân ga, mà thiết bị sửa chữa còn bị. Đây là một trong chín nhà ga mà tình báo không quân phán đoán bị phá huỷ hơn 50% trong Linebacker II. Một kho hàng gần đó tại Gia Thượng cũng chịu những thiệt hại nặng, và kho dầu Thanh Am (kho xăng Đức Giang) kề giáp cũng bị ném bom lại sau khi mất hai phần ba năng lực chứa trong năm trước đây.
Nhà ga và kho chứa hàng tại Yên Viên, qua sông Đuống một dặm trên tuyến đường sắt đông bắc, nơi giao nhau với tuyến đường sắt tây bắc cũng bị thiệt hại vô cùng nặng nề. Tuy là tuyến đường sắt tây bắc tới Trung Quốc dài và ít quan trọng hơn, nhưng Kim Nỗ là một ga rất quan trọng (ở đây tuyến đường sắt tây bắc cắt một tuyến đường ngắn tới khu gang thép Thái Nguyên và nối với tuyến đường sắt đông bắc tại Kép). Những nhánh đường sắt xung quanh ga Kim Nỗ là một tổ hợp kho tàng rộng lớn nhất ở Bắc Việt nam. Suốt nhiều tháng, ga này được Meyer để ý trước tiên, và Bộ tư lệnh không quân chiến lược đã ném bom phá huỷ 75% nhà ga này trong Linebacker II. Mặc dù ga Dục Nội cạnh đó theo phán đoán bị phá huỷ 50%, một kho thiết bị phụ tùng giáp đó cũng bị bay sạch hoàn toàn.
Lượng bom khổng lồ ném xuống ga Kim Nỗ đã vượt lượng bom ném xuống ga Lạng Giang (trên tuyến đường sắt đông bắc cách Hà nội 60 dặm gần biên giới Trung Quốc), nhưng tình báo Mỹ phán đoán rằng chỉ dưới một phần ba cơ sở hạ tầng bị phá huỷ. Khi Washington yêu cầu đánh lại nhà ga này nhiều lần ở cuối chiến dịch, hàng nghìn quả bom đã thổi bay đa số thiết bị của nó. Vận may trả ơn cuộc không kích vào nhà ga xe lửa tại Thái Nguyên và Kép, cũng như vào nhà ga gần Hải Phòng (ga Thượng Lý). Nhà ga ở khu đông dân cư Hải Phòng, như ga Hàng Cỏ ở Hà nội, vẫn chưa bị B-52 đụng đến, nhưng kho dầu ở rìa Hải Phòng đã bốc khói.
Chiến dịch đánh chặn, những đợt không kích vào nhà ga xe lửa và kho tàng đã hạn chế tiềm lực của Bắc Việt nam. Cuộc tấn công những cây cầu vào buộc Bắc Việt phải chuyển tải hàng nhập khẩu bằng xe tải. Sự thay đổi này thậm chí dễ dàng hơn trong Linebacker II, khi thời tiết xấu cho phép chỉ bom laser tấn công vào một chiếc cầu; một phi đội F-4 đánh gục cầu Đuống. Những cuộc tấn công F-111 tầm thấp với bom thường đã không hạ gục nổi chiếc cầu khác. Chỉ những mục tiêu khác liên quan hoàn toàn tới xe tải là kho xăng dầu và các xưởng sửa chữa. Xưởng sửa chữa xe tải tại Văn Điển rìa phía nam Hà Nội; 21 lượt xuất kích B-52 phá hỏng một phần tư máy móc ở đây. Thậm chí sự phá huỷ toàn bộ cũng chỉ có tác động vừa phải, vì Trung Quốc láng giềng không những nguồn hàng, mà còn là nguồn cung cấp xe tải.
Nỗi sợ hãi, không phải là do đánh chặn, chính là những cuộc tấn công của B-52 vào Văn Điển, Gia Lâm, Yên Viên, Kim Nỗ, và những mục tiêu khác quanh Hà Nội. Cuộc tấn công B-52 về ban đêm được bóng đêm bảo vệ tránh bị MiG tấn công, nhưng bóng cũng là thời gian sợ hãi nhất khi bị tấn công. Hà Nội đã quen với những cuộc tấn công ban ngày bởi một số máy bay chiến đấu. Giờ đây hàng trăm B-52 khổng lồ ném hàng nghìn quả bom ở rìa thành phố. Một sai sót ngẫu nhiên nào đó bom B-52 rơi vào trung tâm thành phố và bóng gió đe doạ nhiều trận nữa sẽ tiếp tiếp theo. Nếu Mỹ hài lòng đưa máy bay chiến đấu ném bom ga xe lửa (dù là bom dẫn đường), họ rút cục phải dùng B-52 ở đó ngay khi họ ném bom tất cả nhà ga ở ngoại ô? Thêm nữa, vệt bom B-52 ném xuống phố Khâm Thiên phía nam ga Hàng Cỏ (Hà nội) gây ấn tượng sai lầm rằng Mỹ muốn làm như thế.
Cơn sốc mạnh của Linebacker II được mở rộng bởi yếu tố bất ngờ ban đầu. Nấc thang của chiến dịch này là quá xa những gì Bắc Việt nam dự kiến. Tuy thế, cũng có những tín hiệu cảnh báo giúp Bắc Việt nam chuẩn bị. Việc đổ vỡ cuộc nói chuyện ngày 13-12, tiếp theo là máy bay trinh sát chiến thuật bay trở lại vùng đồng bằng sông Hồng ngày 15-12, cùng với việc tăng SR-71 và máy bay không người lái trinh sát. 30 máy bay tiếp dầu từ Hoa Kỳ tới Okinawa ngày 17-12 và 18 chiếc để hỗ trợ những đợt B-52 từ Guam; 25 máy bay tiếp dầu khác đến Philippines sau khi bắt đầu chiến dịch, đưa tổng cộng số máy bay tiếp dầu làm việc ở chiến trường gần hai trăm chiếc.
Ngày 16-12, Bắc Việt huỷ bỏ lệnh đưa trung đoàn SAM của Hà Nội vào Nam Việt nam. Điều này làm giảm số lượng trận địa tên lửa sẵn sàng chiến đấu từ 12 xuống tám. Trung đoàn trưởng trung đoàn đã quyết định di chuyển, cũng như hai tiểu đoàn trưởng và nhiều người khác. Thậm chí khi Tổng tham mưu trưởng báo động mức độ cao nhất sẵn sàng chiến đấu ngày 17-12, thì trung đoàn trưởng vẫn đang ở trạng thái chuyển đi.
Trong thời gian ấy, những tín hiệu cuộc tấn công lơ lửng trên đầu. Sáng sớm ngày 18-12, Bắc Việt bắt được bức thông điệp của tàu sân bay điều động trực thăng cứu phi công và buổi chiều bắt đượcbức thông điệp RF-4 báo cáo thời tiết khu vực Hà nội. Khi hơn 40 chiếc B-52 cất cánh từ Guam vào buổi chiều, chẳng có cách nào giấu được tàu đánh cá Liên Xô ở gần đó. Luôn luôn đi trước, Guam tung những tốp ba chiếc hơn nửa giờ một đợt - trừ vĩ tuyến 17, chẳng có xuất kích B-52 nào. Bộ tổng tham mưu Bắc Việt ra lệnh lực lượng phòng không chờ đợi B-52 tấn công đêm đó. Một xe được cử đi tìm trung đoàn trưởng. Vị trung đoàn trưởng đến đúng lúc đợt tấn công đầu tiên, nhưng một trong những tiểu đoàn trưởng của ông không kịp về. Tuy thế, tiểu đoàn khác của ông đã bắn rơi chiếc B-52 đầu tiên trong Linebacker II.
“Kẻ địch không thể gây được bất ngờ - trung tướng Hoàng Phương nói - bởi vì họ không thể giữ được bí mật ý định chiến lược, những mục tiêu họ dự định tấn công, lực lượng mà họ sử dụng, hướng tấn công, đường bay đến mục tiêu, dịp may đối với những cuộc tấn công v.v… Mặc dù đây là một thứ gì đó chưa từng bao giờ được làm trong những chiến dịch quân sự, đây là một sai lầm mà kẻ địch mắc phải”. Điều này chỉ ra rằng ít nhất thì việc bắn rơi B-52 là yếu tố quan trọng về mặt tinh thần của Bắc Việt nam. Giá như B-52 từ Guam không xuất phát trước B-52 ở U-Tapao thì Bộ tư lệnh không quân chiến lược có thể gây bất ngờ lớn nhất cho đợt đầu tiên. Về sau, sự bất ngờ bị mất tác dụng. Sự biến hoá chiến thuật trong ba đêm đầu tiên có thể đã giúp được cuộc đọ sức với tên lửa SAM. Mặc dù yếu tố bất ngờ đã thu được trong đêm đầu tiên bất chấp có một số cảnh báo, dân chúng Hà nội ít nhiều phải quen với B-52 đêm này qua đêm khác ném bom ngoại vi thành phố. Tuy thế họ bắt đầu cảm thấy bất lực nếu việc ném bom vẫn tiếp tục mà không gặp phải sự chống trả của tên lửa SAM.
Các máy bay chiến đấu cũng đóng góp vào tác động tinh thần trong Linebacker II. Hà nội chỉ còn ít điện thắp sáng. Nhà máy điện thành phố, từng được hạn chế ném bom trong Linebacker, đã ngừng vận hành sau khi một phi đội gồm bốn F-4 ném bom dẫn bằng laser vào nồi hơi, máy phát, phòng điều độ, và xuống sửa chữa. Linebacker đã làm hư hại nặng lưới điện quốc gia và một vài mục tiêu điện lực bị bỏ bom trong Linebacker II. Trong bốn cơ hội, sáu F-111 không kích tầm thấp bằng bom thường vào trung tâm điều độ, trạm biến thế Đông Anh ngay bắc Hà Nội. Một lần nữa Đông Anh bị ngừng hẳn, như nó từng bị trong chiến dịch Sấm Rền và Linebacker.
Logged
ngao5
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 756


« Trả lời #112 vào lúc: 29 Tháng Tư, 2010, 06:44:31 pm »

Có lẽ vụ máy bay chiến đấu bị trục trặc hệ thống dẫn đường laser để bom trượt nhà máy điện Hà nội và rơi vào một toà nhà văn phòng là sự việc quan trọng nhất. Sự việc xảy ra vào chiều ngày 21-12, khi thời tiết tạo cơ hội may mắn ném bom dẫn bằng laser. Tướng Vogt đưa ba tốp F-4 đánh phá ba mục tiêu khác nhau ở Hà nội. Dù thời tiết tương đối trong trẻo, phi đội tấn công nhà máy điện gặp phải đám mây đến mức những F-4 có định vị laser phải lao xuống 2500 feet. Thậm chí hành động nguy hiểm như thế không đem lại thành công ném tám quả bom vào mục tiêu. Hai quả không thành công. Khi phi đội trở về Ubon, tổ lái nói rằng một trong những quả bom không được dẫn đã rơi trúng vào một toà nhà phía nam nhà máy điện. Tình báo Tập đoàn không quân số 7 kết luận rằng bom ném trúng một trụ sở của Đảng cộng sản, và tướng Vogt chờ đợi những hậu quả thảm khốc. Nhưng vì Bắc Việt Nam chẳng nói gì về việc này, và nó cũng chẳng lên mặt báo. “Và như bạn biết - Vogt nói - Tôi nghĩ điều này có tác dụng bổ ích đối với kết quả thương lượng, bởi vì tôi thực tâm nghĩ rằng những chàng trai này nghĩ bây giờ chúng ta sẽ tìm giới lãnh đạo cộng sản”.
Dù Vogt suy diễn thế nào đi nữa, quyết định của Hoa Kỳ lúc bắt đầu cuộc chiến tranh là không đe doạ sự tồn vong chế độ Bắc Việt đã hạn chế tác động những chiến dịch không kích ở đây. Trong Linebacker II, chỉ cho phép ném bom mục tiêu duy nhất liên quan trực tiếp với giới cầm quyền là Đài phát thanh Hà Nội. Công cụ tuyên truyền và biểu tượng của chế độ này bị ném bom một vài lần, nhưng thậm chí bom dẫn bằng laser không thành công trong việc bịt miệng nó. Washington đã háo hức ném bom mục tiêu này, và trong hai đêm đầu tiên, tướng Meyer cho B-52 ném bom nó. Việc ném bom diện rộng là không thích hợp với mục tiêu khá nhỏ. Một vài mục tiêu thông tin và trận địa tên lửa bị B-52 ném bom đã không mang lại hiệu quả. Những phi vụ như thế làm thất vọng khả năng ném bom chính xác trong thời tiết xấu.
Thời tiết xấu cũng buộc Bộ tư lệnh không quân chiến lược và Tập đoàn không quân số 7 không nhìn thấy những gì mà họ đã ném bom. Đánh giá thiệt hại vì bom rất khó khăn khi không có được những bức ảnh mà phải chờ thời tiết tốt. Thậm chí máy bay trinh sát không người lái, có thể bay tầm thấp trong bất kỳ thời tiết nào, có thể trá hình trong sương mù của gió mùa đông bắc. Dù rằng Bộ tư lệnh không quân chiến lược đưa bốn máy bay không người lái một ngày bắt đầu từ Linebacker II; sau Giáng sinh tốc độ phóng tăng lên sáu chiếc một ngày khi một phần ba máy bay mẹ C-130 phóng nó được triển khai. Bay tại độ cao vài trăm feet trên đồng bằng sông Hồng, máy bay không người lái bị hạn chế số lượng mục tiêu nó có thể chụp ảnh. Thông thường, sự dẫn đường không tốt làm cho máy bay không người lái lệch khỏi hoàn toàn mục tiêu. Phân nửa máy bay không người lái bay theo đường vạch sẵn. Đôi khi đường vạch sẵn này là vấn đề. Hai máy bay không người lái chụp ảnh sai bệnh viện Bạch Mai bởi vì Cục tình báo quân đội đã cung cấp địa chỉ phố bị sai .
Nhấn mạnh sai sót ném bom bằng chụp ảnh bệnh viện Bạch Mai chỉ ra phạm vi mà máy bay không người lái phải trả lời cho yêu cầu của quan chức Washington hơn là chiến thuật chiến trường. Việc phá huỷ một phần những mục tiêu đã là sự chỉ trích đối với Linebacker II, vấn đề trinh sát lại thất bại hơn. Những phê phán Linebacker II ném nhiều bom gần Hà Nội; chừng nào không giết khá nhiều dân thường, thì điều đó không thành nhiều vấn đề đối với chính quyền Nixon những gì mà họ ném xuống.
Bao nhiêu máy bay bị bắn rơi không thành vấn đề, bởi vì những mất mát ít nhất cũng tặng cho kẻ thù của chính quyền Nixon ở Hà nội và ở Washington vũ khí chính trị. Những mất mát B-52 là rất đắt, bởi vì danh tiếng máy bay này là máy bay ném bom hạt nhân cũng như kích thước của nó và số lượng người trong tổ lái. Một tổ lái B-52 bình thường gồm sáu người (phi công, phi công phụ, hoa tiêu, hoa tiêu radar, sĩ quan chiến tranh điện tử, và xạ thủ) có nghĩa là Hà Nội có thể tăng nhanh thu thập tù binh Mỹ. Trong khi 5 trong số 15 chiếc B-52 bị rơi do SAM trong Linebacker II cố gắng lê ra khỏi Bắc Việt nam, thì một hoa tiêu radar biến mất, sau khi máy bay vượt qua Lào và đâm xuống đất khi hạ cánh tại U-Tapao khiến bốn người chết. Trong số 3/4 thành viên tổ lái B-52 bị Bắc Việt nam bắt, một người chết khi bị giam cầm: trung tá Keith R. Heggen, phó chỉ huy lực lượng không kích Andersen trong đợt ba đêm thứ ba. 27 người khác mất tích ở Bắc Việt Nam và sau này được coi là chết. Đối với nhiều người trong tổ lái B-52 sống sót, Linebacker II đã là cận kề cái chết. Cộng với 15 chiếc B-52 bị rơi, ba chiếc khác bị hư hại nặng và sáu chiếc nữa cũng bị hư hại nhẹ hơn.
Những mất mát B-52 đã lu mờ, nhưng không giảm bớt, việc mất mười một máy bay chiến đấu và máy bay trinh sát, không tính đến một trực thăng cứu phi công và một EB-66 gây nhiễu do hỏng động cơ. Không quân Mỹ mất hai F-111 (ít nhất một chiếc bị súng nhỏ bắn rơi) và hai F-4 trong các trận không chiến ban ngày (do MiG bắn rơi). Hải quân mất sáu chiếc gồm hai A-6, hai A-7, một F-4 và một RA-5; pháo cao xạ hạ ba chiếc, SAM hạ một chiếc, MiG hạ một chiếc, và một chiếc không rõ ai hạ. Nguyên nhân chiếc A-6 thuỷ quân lục chiến bị rơi cũng không được rõ. Mặc dù số lượng mất mát B-52 không nhiều hơn số lượng máy bay nhỏ, nhưng tổ lái B-52 lại gấp ba lần.
Vì máy bay chiến đấu bị rơi không đắt bằng B-52 trong khi họ xuất kích gấp ba lần, nên tướng Clay tư lệnh không quân Mỹ ở Thái Bình Dương có thể lý luận rằng toàn bộ việc ném bom đồng bằng sông Hồng nên trao lại cho máy bay chiến đấu. Ngày 28-12, ông tuyên bố rằng chỉ còn lại “ít mục tiêu” đáng giá hy sinh nhiều B-52 hơn. Clay bất bình việc Bộ tư lệnh không quân chiến lược nắm quyền chiến dịch và vai trò của ông bị hạn chế, lời gợi ý này không có trọng lượng ở Washington. Dù vậy, tín hiệu Hà Nội tỏ ra háo hức ký hiệp định ngừng bắn đòi hỏi tổng thống Nixon ngừng ném bom toàn bộ bắc vĩ tuyến 20 ngày 29-12.
Trước lúc này tướng Haig đang thăm tổng thống Thiệu ở Sài Gòn mang theo tối hậu thư của tổng thống Nixon: phải đi cùng Mỹ ngừng bắn bây giờ hoặc đi một mình. Bằng lời hửa của Nixon phản ứng chống lại cuộc tổng tấn công khác của Bắc Việt nam, Linebacker II có thể giúp liều thuốc đi xuống một chút dễ dàng hơn - khi tăng vũ khí của Mỹ (bao gồm máy bay và xe tăng). Haig cố gắng thúc tướng Vogt cam đoan rằng Hoa Kỳ sẽ tới để trợ giúp Nam Việt nam nếu Bắc Việt Nam tấn công, nhưng Vogt từ chối. “Tôi có thể nhìn thấy nghị quyết đang được trình Quốc hội chống lại bất cứ sự ném bom trở lại”, ông nhớ lại một năm sau khi Bắc Việt chiếm Nam Việt nam. “Và tôi cảm thấy lương tâm tôi không thể đưa ra lời cam đoan đối với những người đang ở trong hoàn cảnh này. Tôi không thể ngủ yên nhiều đêm vì lương tâm. Tôi băn khoăn những người khác có như vậy hay không”.
Logged
ngao5
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 756


« Trả lời #113 vào lúc: 29 Tháng Tư, 2010, 06:45:40 pm »

11. Được phản ánh

Năm 1975, hai năm sau khi ký hiệp định ngừng bắn ở Paris, Bắc Việt hoàn toàn xâm chiếm Nam Việt nam. Lực lượng Bắc Việt nam di chuyển không bị cản trở qua Lào hoặc qua khu phi quân sự để phối hợp với lực lượng có sẵn của họ tại Nam Việt nam. Lần này Hoa Kỳ từ chối can thiệp. Bị cáo buộc thâm nhập trụ sở Đảng Dân Chủ tại toà nhà Watergate, Richard Nixon buộc phải từ chức nhiệm kỳ tổng thống để tránh đàn hặc.
Mặc dù Gerald Ford - người kế nhiệm Nixon - cầm đầu phe thiểu số Quốc hội, ông không thể nhận hỗ trợ xứng đáng tại Quốc hội về việc Mỹ trở lại Nam Việt nam. Thiếu không lực Mỹ, quân đội Nam Việt nam tan rã trong hai tháng.
Dư vị xấu của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt nam được dịu bớt đối với không quân Mỹ bằng thành công rõ ràng của không lực Mỹ năm 1972, hậu quả thảm hại năm 1975 do thiếu không lực Mỹ. Trong khi vị đắng của nhiều người từng phục vụ trong cuộc chiến tranh chưa nguôi, thì một thất bại khác tăng thêm bởi việc cắt giảm quân số và ngân sách phát triển kỹ thuật mới dựa trên kinh nghiệm Đông Nam Á - máy bay mới,, máy bay radar mới, những phương tiện mới chống radar địch, những phương tiện mới vận hành trong bóng đêm, và vũ khí dẫn đường mới.
Di sản học thuyết chiến tranh có lộn xộn hơn nhiều di sản kỹ thuật. Tác động của cuộc chiến tranh đôi khi tăng thêm khó khăn xác định sử dụng kỹ thuật mới một cách tốt nhất như thế nào. Trong các cuộc thảo luận công khai, không quân Mỹ có xu hướng nhấn mạnh sự đóng góp ấn tượng của B-52 trong Linebacker II hơn là sử dụng bom dẫn bằng laser đánh phá cầu ở Bắc Việt Nam và xe tăng tại Nam Việt nam. Tương phản với ném bom dẫn bằng laser, B-52 ném bom diện rộng là một kỹ thuật cũ có khả năng lúc bắt đầu cuộc chiến tranh và hữu ích trong mọi thời tiết. B-52 lẽ ra đã tấn công Bắc Việt Nam đầu năm 1965 mà không bị hạn chế bởi mây hoặc SAM; radar B-52 có thể tìm những mục tiêu trong mọi thời tiết và Bắc Việt Nam đang phải triển khai SAM. Bằng cách từ chối đưa B-52 ném bom trong mọi thời tiết và ném bom nhỏ giọt những mục tiêu, tổng thống Johnson giúp gió mùa đông bắc làm chiếc khiên che đồng bằng sông Hồng của Bắc Việt nam từ những loạt bom nhẹ của máy bay trong thời tiết tốt của Sấm Rền. Sự chậm chạp đã hạn chế ném bom nhỏ giọt trong sự trì hoãn hàng năm từ tháng 11 đến tháng 4.
Linebacker II bênh vực luận cứ của không quân rằng B-52 sử dụng ở đồng bằng sông Hồng ngay lúc khởi đầu cuộc chiến, thì chiến tranh có lẽ kết thúc nhanh hơn và có những kết luận thoả đáng thoả đáng.
Tình hình năm 1972 khác nhiều so với 1965. Bắc Việt Nam công khai xâm lược và giúp đỡ lực lượng nổi dậy ở Nam Việt Nam. Xây dựng mối quan hệ với Liên Xô và Trung Quốc nhằm cắt giảm sự giúp đỡ của họ cho Bắc Việt Nam, tổng thống Nixon chỉ tìm kiếm ngừng bắn mà quân đội Bắc Việt nam ở Nam Việt nam và đem tù binh về nước. Những khác nhau đó trong bối cảnh Sấm Rền và Linebacker gây nghi ngờ về những lời tuyên bố rằng chiến tranh có thể chiến thắng bằng Linebacker II lúc bắt đầu chiến dịch Sấm Rền. Hoài nghi trong nội bộ không quân Mỹ đã biểu lộ công khai, nổi bật nhất là cuốn sách The Limits của Không lực Mỹ (New York, 1989) của thiếu tá Mark Clodfelter. Là một thanh niên rất trẻ từng tham gia chiến tranh Việt nam, vị giáo sư học viện không quân thấy “khó đo được” “sức thuyết phục” của những tướng lĩnh không quân, mà theo học không lực Mỹ có thể quyết định cuộc chiến tranh hạn chế. Clodfelter lo âu nhất về chiến tranh du kích, nhưng ông cũng băn khoăn về sự hữu ích của không lực Mỹ hình thức thông thường một của cuộc chiến tranh hạn chế dưới sự răn đe trả đũa hạt nhân.
Ngay sau khi xuất bản cuốn sách của Clodfelter, diễn ra một sự chuyển đổi tận gốc chính trị thế giới. Trong những ngày tàn lụi của Liên Xô, không lực Mỹ chứng tỏ rất hiệu quả chống lại cuộc chiến tranh thông thường do Iraq tiến hành mà không cần Đồng minh. Sự thuyết phục này là do cuộc chiến tranh Việt nam, không lực Mỹ không hiệu quả, chiến tranh vùng Vịnh dẫn tới sự ngạc nhiên lớn - không phải vì nhà độc tài Iraq - Saddam Hussein khoác lác về năng lực của ông so với chiến thắng của Hà Nội. Tháng 8-1990, Saddam nói với Dan Rather - hãng truyền hình CBS rằng “Hoa Kỳ phụ thuộc vào không quân. Không quân Mỹ chưa bao giờ quyết định một cuộc chiến tranh trong lịch sử chiến tranh”.
Vì Iraq không phải sử dụng đến vũ khí hạt nhân, sinh học hoặc hoá học, nên chiến tranh vùng Vịnh bị giới hạn không những vũ khí thông thường, mà còn những mục tiêu có thể bị bắn phá không gây nguy hiểmcho dân chúng. Sự né tránh của chính quyền Johnson về thương vong dân thường đã được khắc sâu khá triệt để đến mức nó là một phần tâm tư chiến dịch ném bom không quân Mỹ do tổng thống George Bush tiến hành. Nhưng chính tự điều này - sự kiềm chế không trói tay không lực Mỹ, bởi vì Bão táp sa mạc đã khai thác sự chính xác ném bom dẫn bằng laser thao cách mới.
Bom dẫn bằng laser trên xe tăng ở Kuwait đã có người tiền nhiệm là bom bom dẫn bằng laser từng phá huỷ xe tăng tại Nam Việt nam. Ném bom dẫn bằng laser ở Iraq, tuy thế, khác xa ném bom dẫn bằng laser ở Bắc Việt nam. Bom dẫn bằng laser trong Linebacker phá huỷ phần lớn là cầu. Bom dẫn bằng laser trong Desert Storm trước hết là phá Sở chỉ huy trung tâm của Iraq và mạng liên lạc. Không giống nhà cầm quyền Bắc Việt Nam, chế độ Iraq bị đe doạ từ khởi đầu. Máy bay trinh sát Mỹ có nhiều bức ảnh về phòng không Iraq tốt hơn là giới lãnh đạo không quân Iraqi. Bị đánh ỏng ngay từ nan đầu, phòng không Iraq chưa hề tỏ ra chống cự.
Tên lửa không đối không được cải tiến (đặc biệt Sparrows) đã hạ một số máy bay Iraq dù chúng đã bay bên trong tầm xa. Mặc dù số lượng nhiều hơn Bắc Việt Nam, đa số không lực Iraq bị phá huỷ trên mặt đất hoặc chạy sang Iran. Tương phản với những nơi trú ẩn ở những sân bay Bắc Việt nam trong Sấm Rền, những sân bay Iraq bị tấn công một cách có phương pháp - từng hầm chứa máy bay bị không kích bằng bom dẫn bằng laser.
Độ chính xác của bom dẫn bằng laser được cải tiến có nghĩa là những mục tiêu của họ ở Iraq có thể được xác định chính xác hơn - không phải là một toà nhà công sở mà là từng căn phòng. Thêm nữa, độ chính xác của bom thường vượt hơn độ chính xác tin tình báo hoạt động của địch. Ban thân bom có thể nhìn mục tiêu, một camera truyền hình ảnh theo tín hiệu điện tử với mức độ lớn hơn, rộng hơn ở trung tâm bom rơi và nhìn thấy đến lúc nổ.
Khi một số băng video đưa ra truyền hình, công chúng Mỹ có hình ảnh mới về không lực Mỹ. Trong cuộc chiến tranh Việt nam, sự thận trọng của tổ lái nhằm tránh thương vong dân thường chưa bao giờ vượt qua được những thành phố bị san phẳng mà công chúng nhận thấy từ chiến tranh thế giới thứ hai. Trong Desert Storm, công chúng thấy được độ chính xác khá ấn tượng cuộc không kích mà không gây thương vong dân thường chút nào.
Một tai nạn dính đến thương vong dân thường ở Iraq xảy ra khi hai bom dẫn bằng laser ném vào một hầm ngầm. Sự cải tiến bom dẫn bằng laser sử dụng trong Desert Storm là khả năng đâm xuyên hầm ngầm, nhưng tin tình báo về điều này là bom không xuyên qua.
Những người vạch kế hoạch không biết rằng giới cầm quyền Iraq sử dụng hầm ngầm làm hầm trú ẩn cũng như trung tâm chỉ huy. Sự công khai về những thương vong này khiến Washington ngăn trở ném bom ở thủ đô Baghdad để nó còn sót lại sau chiến tranh vùng Vịnh. Những người chiến đấu trên bầu trời Bắc Việt Nam chẳng lạ gì thủ đoạn của kẻ địch cất đạn dược vào chỗ dân sinh sống hoặc một nơi nào khác mà bom Mỹ hướng tới sự tuyên truyền có lợi cho họ. Kinh nghiệm như thế nào chế độ Iraq trên thực tế, thua xa những người cộng sản Việt nam.
Tốt hơn người Iraq, Bắc Việt cũng có thuận lợi lớn về thời tiết xấu để ném bom. Mặc dù không lực Mỹ làm được bước đi lớn trong thập kỷ 1980 về năng lực hoạt động ban đêm, nhưng ném bom dẫn bằng laser tiếp tục phụ thuộc vào thời tiết trong trẻo. Thậm chí thời tiết Desert Storm ở Iraqi tương đối nghèo, bầu trời đủ trong trong sáu tuần lễ, bom dẫn bằng laser ném xuống Iraq hàng ngày, trừ 1 ngày. Tương phản với Bắc Việt Nam hiển nhiên khi nó làm chúng ta nhớ lại hai tuần lễ Linebacker II, ném bom dẫn bằng laser chỉ tiến hành được trong hai ngày.
Khi thời tiết xấu trong Linebacker II, tướng Vogt chỉ có bốn máy bay chiếu tia laser có thể sử dụng ở trên cao - đe doạ khu vực xung quanh Hà Nội và Hải Phòng. Hai thập kỷ sau, tướng Charles A. Horner, tư lệnh không quân trong Desert Storm (ông từng bay trong chiến dịch Sấm Rền và xác định không lặp lại sai lầm nữa), có thể gọi hơn một trăm máy bay có khả năng chiếu tia laser. Horner không phải xây dựng những đội hình lớn để bảo vệ máy bay ném bom chính xác, không những bởi vì họ giàu có hơn, mà cdo lực lượng của ông tấn công phòng không địch tức thời. Một số máy bay của ông sử dụng kỹ thuật “tàng hìng”mới để radar địch không phát hiện ra khi họ ném bom xuống trung tâm kiểm soát phòng không Iraq; Tàng hình là sản phẩm nghiên cứu mạnh mẽ chống phòng không Bắc Việt nam. Trong chiến dịch Sấm Rền, không quân Mỹ đã bị cấm tấn công sân bay địch trong hai năm. Trong Desert Storm, những sân bay Iraq bị tấn công ngay đêm đầu tiên.
Logged
ngao5
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 756


« Trả lời #114 vào lúc: 29 Tháng Tư, 2010, 06:46:23 pm »

Cường độ ném bom dẫn bằng laser trong Desert Storm là chức năng của giới lãnh đạo Mỹ và được hoạch địch trong thời tiết tốt và công nghệ cải tiến. Mặc dù một số tướng lĩnh đề xuất leo thang trong kế hoạch ban đầu Desert Storm, nhưng sự ác cảm cũ đối với chính sách leo thang đã tự nó xác nhận trong không quân Mỹ và ở Nhà Trắng. Người ta nhận ra rằng, thời gian chiến dịch quan trọng chẳng kém gì sức nặng nỗ lực. Sự thật này đã bị giầy xéo vào thập kỷ 1960 bởi chiến dịch không kích Sấm Rền.
Thực tế, phần lớn những mục tiêu ở Bắc Việt Nam trong bản danh sách gốc 94 mục tiêu đã bị ném bom, nhưng thực tế gần như không đủ sớm. Những mục tiêu lẽ ra phải bị ném bom trong vài ngày đầu tiên, thì lại bị hoãn đến hàng năm.
Trong thời gian ấy, bom vẫn rơi xuống những mục tiêu ít quan trọng hơn, đến mức khi kết thúc chiến tranh, Bắc Việt Nam thu hút gần tám trăm nghìn tấn baom. Đây là 1/10 của tám triệu tấn bom ném xuống toàn bộ Đông Nam Á, mà Nam Việt nam chịu gánh nặng của sự công kích dữ dội này và công gần tám triệu tấn đạn pháo. Chưa có mảnh đất nào trên thế giới từng bị ném bom ác liệt như vậy. Tại Đức trong thế chiến II, tỷ lệ bom nổ đạt ở mức trước 1945, nhưng cuộc chiến tranh Việt nam kéo dài gấp đôi; Nhật Bản chịu đựng 1/2 triệu tấn trong thời gian gần một năm. Tất nhiên, ném bom Đức và Nhật Bản là phá huỷ nhiều hơn, bởi vì các thành phố chính của họ bị đổ sập. Phần ném bom mạnh ở Đông Nam Á không làm gì hơn là ném xuống rừng rậm.
Không lực Mỹ ném khoảng một trăm nghìn tấn bom xuống Iraq và Kuwait trong sáu tuần - gần bằng tỷ lệ bom ném xuống Đông Nam Á, Đức, hoặc Nhật Bản. Nhưng chiến tranh vùng Vịnh kết thúc chỉ sau sáu tuần lễ, do sự cấp tập phá huỷ mục tiêu cho phép độ chính xác lớn hơn.
Một lần nữa, B-52 bị giới hạn để ném bom đồn lính ở phía nam hơn những mục tiêu đô thị ở phía bắc Iraq. Lần này, tuy thế, các máy bay chiến đấu được trang bị để tấn công những mục tiêu đô thị tốt hơn họ đã được trong chiến dịch Sấm Rền hoặc thậm chí Linebacker. Lần này tổng thống cho phép ném bom những mục tiêu đô thị từ bắt đầu.
Bom dẫn bằng laser làm cho đô thị trở thành mục tiêu có thể chấp nhận được đối với chính sách của lãnh đạo Mỹ ngay từ ban đầu Desert Storm, nhưng độ chính xác này còn là xa hơn sự thận trọng bốn năm sau khi giới quân nhân Bosnian Serb khiêu khích NATO khi Deliberate Force tiến hành chiến dịch không kích lần đầu tiên. Deliberate Force làm sống lại tên của mình. Để tránh thương vong, thậm chí thương vong lính Bosnian Serb, việc lựa chọn cẩn thận mục tiêu do tư lệnh Mỹ ở NATO, trung tướng Michael E. Ryan (Tham mưu trưởng không quân tương lai, cựu chiến binh Sấm Rền, và con trai tướng John D. Ryan, Sr., tư lệnh không quân Mỹ ở Thái Bình Dương và Tham mưu trưởng không quân trong cuộc chiến tranh Việt nam). Trong lần đầu tiên cuộc hành quân khá lớn, đa số bom ném xuống là bom được dẫn đường; máy bay Mỹ không ném những thứ khác. Dù cưỡng ép gợi lại Việt nam, ném bom dẫn đường, cùng với tình hình được ủng hộ trên mặt đất, tạo ra một chiến dịch không kích hiệu quả mà chỉ dùng dưới một nghìn bom và kéo dài chỉ hai tuần lễ.
Ba năm rưỡi năm sau chiến dịch ở Bosnia vào mùa xuân 1999, Allied Forces NATO tiến hành đã kết thúc triều đại những phần tử khủng bố Serbian ở Kosovo. Theo tính yêu cầu của những thành viên NATO, Allied Forces bắt đầu một cách thận trọng như chiến dịch trước đó. Dần dần những mục tiêu thêm vào được chấp thuận. Mặc dù, khi kết thúc, hai lần hơn 2 lần bom không dẫn đường được dùng, hơn 7 nghìn bom dẫn đường và tên lửa tấn công những mục tiêu với độ chính xác tới mức giảm thiểu thương vong dân thường và hư hại phụ. Sai lầm của tình báo dẫn đến tấn công vào Đại sứ quán Trung Quốc ở Belgrad - thủ đô Serbiane. Tuy thế, giả thuyết về chính sách leo thang được phát triển nhanh và thành công hơn Sấm Rền. Chỉ hai máy bay NATO (cả hai thuộc không lực Mỹ) bị bắn rơi, và cả hai phi công được cứu thoát. Không có việc ngừng ném bom. Những mục tiêu như sân bay và nhà máy điện (những mục tiêu như thế này được chính quyền Johnson cho phép sau hai năm Sấm Rền) bị liên quân ném bom trong mười một tuần.
Những cuộc tấn công của Allied Forces vào cở sở của chính quyền Nam Tư ở Belgrade tương phản với việc tránh né những mục tiêu ở khu đông đô thị Hà Nội trong Sấm Rền và Linebacker.
Thậm chí trong Linebacker II, phần lớn bom không kích trung tâm Hà Nội là những bom nhằm vào những mục tiêu ở ngoại ô.
Một lần nữa Allied Forces, những B-52 cũ đóng một vai trò quan trọng - nhưng chẳng thể giống những vùng Linebacker II ném bom gần những thành phố. Ngay từ đầu B-52 của liên quân đã phóng tên lửa hành trình đánh phá những mục tiêu khắp Serbia và sau đó ném bom không dẫn đường vào nơi trú quân Serb ở Kosovo. Những máy bay B-1 cũng sử dụng bom không dẫn đường, nhưng những máy bay ném bom mới nhất của không quân, B-2 tàng hình, đã bay một mạch từ Missouri để chỉ những ném bom dẫn đường trong mọi thời tiết.
Không quân Mỹ sử dụng máy bay chiến đấu (F-117, F-15, F-16, A-10) là những máy bay nổi bật sau khi cuộc chiến tranh Việt nam. Trừ B-52 và một số kiểu bom, không quân Mỹ sử dụng chỉ có rất ít những thứ còn lại sau chiến tranh Việt nam trong những hoạt động này.
Đây là một sự thật mà nhân dân cần biết. Một ngoại lệ chính là viên tư lệnh lực lượng liên quân - trung tướng Michael C. Short, đã từng lái F-4 tại Nam Việt nam. Lần này tướng Short phục vụ dưới thời tổng thống Bill Clinton - người từng phản đối chiến tranh Việt nam khi học Đại học và hiểu biết về không quân những năm ở Nhà Trắng.
Vai trò tiên phong của không quân Mỹ trong Allied Force, Deliberate Force, và Desert Storm phát triển những năm hậu Việt nam khi binh chủng này được nhìn thấy là có ưu thế trong vai trò hậu thuẫn những chiến dịch mặt đất.
Trong khi chú trọng vào phòng thủ châu Âu vào thập niên 1970 và 1980, nhiều người trong không quân Mỹ xem những phi vụ tấn công mặt đất của máy bay chiến đấu dường như bị hạn chế để ném bom lính địch và tuyến hậu cần. Việc bắn phá những thành phố Liên Xô nên là công việc của những tên lửa và máy bay ném bon hạt nhân; cái đó được tránh nếu như có thể, bởi vì nó có nghĩa là một cuộc chiến tranh hạt nhân huỷ diệt cả bạn lẫn thù. Ném bom chiến lược bắn phá đồng nghĩa với ném bom hạt nhân.
Khi không quân Mỹ phải nghĩ tới chiến tranh thông thường chống Iraq, nhiều sĩ quan không quân khó đến gần với “chiến dịch không kích chiến lược” mà cái đó lại tiến hành với bom thường thả bằng máy bay chiến đấu.
Với mức độ nào đấy, vấn đề khái niệmnày luôn hiện diện trong cuộc chiến tranh Việt nam. Một phần vì Sấm Rền và Linebacker phần đông sử dụng máy bay chiến đấu ném bom thường, các vị tư lệnh có xu hướng định rõ những chiến dịch này như chiến thuật ngăn chặn, đánh chặn hơn là một chiến dịch chiến lược.
Vì Bắc Việt phải nhập khẩu gần như tất cả tiếp liệu quân sự, một chiến dịch không kích có giới hạn ném bom Bắc Việt Nam không thể phá được nền công nghiệp mà họ phải dựa vào. Một mặt, không quân Mỹ muốn doạ giới cầm quyền địch - một đối tượng “chiến lược” về mặt truyền thống, và trong Sấm Rền, về mặt chính sách thì không thể chấp nhận được. Chính quyền Johnson giới hạn Sấm Rền quá nhiều để đánh chặn, nhưng chiến dịch Linebacker II do tổng thống Nixon tiến hành đã vượt quá đánh chặn để hăm doạ.
Thậm chí việc ngăn chặn trong Sấm Rền có một hợp thành chiến lược, đối tượng không phải đơn thuần là hạn chế dòng tiếp liệu tới Nam Việt nam mà là phải phá hoại kinh tế Bắc Việt. Viện trợ quân sự của Liên Xô và Trung Quốc có thể tăng lên với sự đánh chặn của Mỹ, nhưng Bắc Việt Nam mất nền công nghiệp mà họ đang hy vọng công cuộc hiện đại hó của mình. Mặc dù Hoa Kỳ kiềm chế từ ném bom đê điều, một phần đáng kể lực lượng nông dân chuyển hướng sang nỗ lực chiến tranh; Bắc Việt Nam phải nhập khẩu gạo. Những năm ném bom gây thiệt hại nặng nề cho hệ thống giao thông của Việt nam, đặc biệt đường sắt. Nhiều thành phố là làng mạc trên tuyến đường đường vận tải phải chịu đựng sự phá huỷ ghê gớm tương phản một cách tương đối với hư hại do ném bom hạn chế ở hai thành phố chính là Hà Nội và Hải Phòng. Năm 1973, tổng thống Nixon đưa đề nghị 3.25 tỷ dollas để tái thiết, nhưng Bắc Việt Nam để tuột số tiền này vì họ khăng khăng xâm chiếm Nam Việt nam.
Những nhà lãnh đạo Bắc Việt trở nên quen tập trung vào chiến tranh, thậm chí cả sau khi Nam Việt nam sự sụp đổ, họ khó nghĩ được một cái gì khác. Họ phải chống đỡ sự xâm lược của Trung Quốc trong khi sa lầy ở Campuchia. Cùng với gay gắt bất lợi áp đặt bởi ý thức hệ Marxist và bởi cấm vận của Mỹ, thế hệ thủ cựu cộng sản ở Hà nội đẩy đất nước của họ tụt hậu sau Thái Lan và những nền kinh tế đang bùng nổ của Đông Nam Á.
Thậm chí Trung Quốc khổng lồ nhanh chóng cổ vũ thực hành tư bản chủ nghĩa. Mãi đến tận thập kỷ 1980 một thế hệ mới lãnh đạo Việt nam thì kinh tế Việt nam bắt đầu cải tiến.
Logged
ngao5
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 756


« Trả lời #115 vào lúc: 29 Tháng Tư, 2010, 06:47:07 pm »

Ưu thế của Bộ tư lệnh không quân chiến lược bắt đầu được sáng tỏ ở Đông Nam Á. Những phi công máy bay chiến đấu đóng vai trò trọng tâm hơn phi công B-52 - những người đã tiêu phần lớn bom xuống rừng rậm Nam Việt nam. Một sự thật trần trụi là một máy bay thiết kế thả bom hạt nhân xuống Liên Xô được sử dụng thay cho yểm trợ không lực gần báo hiệu sự cần thiết xem xét lại phi vụ của Bộ tư lệnh không quân chiến lược. Thực tế, cựu phi công tham gia chiến đấu ở Việt nam, loại bỏ Bộ tư lệnh không quân chiến lược, và đặt máy bay ném bom tầm xa cùng với máy bay chiến đấu trong Bộ chỉ huy không quân chiến đấu mới.
Một thời gian dài trước sự phát triển này, tướng McConnell bắt đầu chuẩn bị con đường cho mình trở thành Tham mưu trưởng không quân. Ông cử tư lệnh không quân tài năng, tướng Momyer, chỉ huy Tập đoàn không quân số 7 và giúp Momyer thêm ngôi sao thứ tư. Đồng thời, McConnell cử tướng Ryan của Bộ tư lệnh không quân chiến lược học tập kinh nghiệm máy bay chiến đấu làm tư lệnh không quân Mỹ ở Thái Bình Dương trước khi trở thành Tham mưu trưởng không quân. McConnell sau đó thay Momyer tại Tập đoàn không quân số 7 bằng tướng Brown - người bắt đầu sự nghiệp là phi công máy bay ném bom trong chiến tranh thế giới thứ hai, nhưng đã là một phi công máy bay chiến đấu trong chiến tranh Triều Tiên. Mặc dù Brown chưa từng phục vụ ở Bộ tư lệnh không quân chiến lược, ông trở thành Tham mưu trưởng không quân năm 1973 và Chủ tịch Tham mưu trưởng liên quân một năm sau. Khi Brown tới Tập đoàn không quân số 7, McConnell cử tướng Holloway - một phi công máy bay chiến đấu ưu tú thế chiến II nắm Bộ tư lệnh không quân chiến lược; việc làm sốc này cũng đưa những người khác tới Bộ tư lệnh không quân chiến lược, và tư lệnh tiếp theo là thậm chí là phi công máy bay chiến đấu ưu tú trong thế chiến II - tướng Meyer.
Năm 1982 tướng Gabriel trở thành Tham mưu trưởng không quân, người đầu tiên lứa phi công chiến tranh Việt nam ở cương vị này. Sự thật ông đã được đưa lên đỉnh thậm chí sau khi dính líu đến vụ việc Lavelle biểu thị. Vụ Lavelle đã chia rẽ không quân Mỹ một thời gian, nhưng chỉ mình Lavelle là buồn thảm.
Trách nhiệm cần thiết của không quân đối với câu hỏi Việt nam là theo hướng thoát ra khỏi chiến tranh chiến tranh ở dạng tốt nhất nếu có thể. Vì hình như không có con đường cho phép chiến thắng cuộc chiến tranh, không quân Mỹ khoá lại con đường chiến đấu để xây dựng công nghệ của mình và bảo tồn sinh mạng quý giá của những tổ lái.
Những binh chủng khác cũng tìm kiếm những kết thúc tương tự, và trong khi không quân Mỹ làm nhiều để phát triển công nghệ mới, hải quân nhanh chóng hơn khai thác giá trị huấn luyện chiến đấu trên không thực tế. Bởi vì chiều hướng chung (được hỗ trợ bởi chính sự nghiên cứu của không quân) từ lâu chỉ ra rằng một phi công dễ bị tổn thương nhất và hiệu quả ít nhất trong vài lượt xuất kích chiến đấu ban đầu, Tập đoàn không quân số 7 tiếp theo thực hành suốt chiến tranh để tổ lái tránh khỏi gói mục tiêu 6 cho đến khi họ đã bay một vài lượt xuất kích tại Lào hoặc vùng cán xoong Bắc Việt nam. Nhưng chương trình luyện tập Top Gun của hải quân theo hướng khác và rõ ràng giúp ích không chiến cho phi công của họ trong Linebacker.
Sau chiến tranh, không quân Mỹ bắt đầu luyện tập chương trình Red Flag tại căn cứ không quân Nellis (Nevada), nơi đây các đơn vị có thể tấn công những mục tiêu mặt đất đối mặt với phòng không cực mạnh - không những máy bay chiến đấu, mà còn pháo cao xạ và SAM. Tại đây không quân đồng minh học và làm việc với người Mỹ nhiều thứ họ có được trong chiến tranh vùng Vịnh. Việc huấn luyện này cho phép những chiến dịch đáng nhớ với những mất mát thấp đáng kể từ bắt đầu chiến dịch Desert Storm.
Chiến tranh Việt nam với giá hơn một triệu người Việt nam, và hơn một triệu người Campuchia chết dưới tay Pol Pot ngay sau chiến tranh. Trong khi Hoa Kỳ mất hơn 50 nghìn người, và gấp bốn lần lính chính phủ Nam Việt nam chết trong chiến đấu. Trong cuộc chiến tranh, đa số chết chóc xảy ra tại Nam Việt nam. Ném bom của Bắc Việt nam có thể giết một vài một trăm nghìn Bắc Việt Nam.
Chiến đấu trên bầu trời Bắc Việt Nam ghi nhận một phần tư trong số hai nghìn nhân viên không quân bị giết hoặc mất tích ở Đông Nam Á. khoảng 2200 máy bay mất trong chiến tranh, hơn sáu trăm bị bắn rơi đối với Bắc Việt nam. Gần ba trăm phi công Mỹ bị bắn rơi ở đó bị bắt và trở về nước cuối chiến tranh.
Không giống đa số cựu binh Việt nam trở về với sự đối xử thậm chí khiếm nhã, nhóm những tù binh được thả được dân chúng Mỹ đón tiếp nồng nhiệt. Một sự thật bối rối là việc trao đổi tù binh bao gồm chỉ 13 người Mỹ bị bắt tại Lào (nơi đó riêng không quân Mỹ mất bốn trăm máy bay) làm người ta khiếp sợ những người cộng sản có thể còn cầm giữ tù binh Mỹ. Những gia đình có người mất tích yêu cầu Cục tình báo quân đội làm việc nhiều thập kỷ sau chiến tranh trong một nỗ lực chưa từng thấy để xác định số phận người Mỹ mất tích ở Đông Nam Á.

HẾT
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM