Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 08:07:04 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Điện Biên Phủ  (Đọc 58349 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #50 vào lúc: 18 Tháng Giêng, 2010, 09:45:39 pm »

Đặc điểm của đợt tiến công thứ hai là diễn ra sau những chiến thắng giòn giã của đợt tiến công thứ nhất, cho nên, để bảo đảm chắc thắng, về mặt lãnh đạo tư tưởng, chúng ta đã chú trọng khắc phục những hiện tượng chủ quan, khinh địch, dễ đưa đến nắm tình hình địch không cụ thể, làm trận địa không đúng tiêu chuẩn, không đi sâu nắm vững và kiểm tra lực lượng chiến đấu cũng như kế hoạch tác chiến. Nhưng, đặc điểm quan trọng nhất của đợt tiến công thứ hai là tính chất gay go ác liệt của các cuộc chiến đấu, đòi hỏi một tinh thần chiến đấu anh dũng rất cao; là thời gian rất dài, bộ đội phải chiến đấu liên tục, bị tiêu hao mỏi mệt, tinh thần căng thắng; là điều kiện chiến đấu không những gay go mà lại hết sức gian khổ, sau mấy tháng chuẩn bị thường phải ẩn nấp dưới công sự, nay lại phải chiến đấu sinh hoạt ở trong hào giao thông và hầm trận địa trong một thời gian dài. Đó là chưa nói đến những khó khăn mới đo thời tiết đưa lại; mỗi một lần mưa to thì trận địa có nơi bị lở hoặc bị ngập nước. Tình hình cung cấp có lúc lại không được đầy đủ. Các cuộc chiến đấu đã diễn ra liên tiếp trong quá trình phát triển và thắt chặt trận địa tiến công và bao vây, cho nên lực lượng của ta không khỏi bị tiêu hao, đòi hỏi phải kịp thời bổ sung và chấn chỉnh để bảo đảm chiến đấu liên tục.

Trong tình hình nói trên, công tác chính trị đã đóng một vai trò cực kỳ quan trọng, tiếp tục giáo dục thật sâu rộng ý nghĩa to lớn của chiến địch, tiếp tục quán triệt quyết tâm của Trung ương là tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ, lấy mỗi một thắng lợi của quân ta, mỗi một thất bại của địch mà động viên cán bộ và chiến sĩ, lấy gương chiến đấu hy sinh của bao nhiêu anh hùng, chiến sĩ để phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng của bộ đội, giữ vững và nêu cao tinh thần quyết chiến quyết thắng. Công tác chính trị đã đi sâu giáo dục và kiểm tra việc thực hiện các nhiệm vụ cụ thể như kỷ luật trận địa, việc tổ chức sinh hoạt trong trận địa; việc bảo đảm cho cán bộ, chiến sĩ ăn uống, ngủ đủ; việc xây dựng trận địa cho đúng yêu cầu, chuyển quân ban ngày không bị lộ, bảo đảm được khô ráo, không bị ngập nước; việc giữ gìn kỷ luật vệ sinh phòng bệnh. Công tác chính trị còn phải chăm lo giữ vững lực lượng chiến đấu, bổ sung quân số, đề bạt cán bộ. Công tác phát triển Đảng, luôn luôn kiện toàn chi bộ đã được hết sức coi trọng. Việc chấp hành kỷ luật nghiêm minh, thưởng, phạt kịp thời và đúng đắn cũng là một công tác quan trọng để nâng cao tinh thần chiến đấu của bộ đội.

Đợt hai càng kéo dài, quân ta càng thu được nhiều thắng lợi ưu thế binh lực hỏa lực của ta ngày càng tăng thêm. Qua thực tiễn của các cuộc chiến đấu, chủ trương tác chiến rõ ràng là chính xác, các vấn đề chiến thuật đề ra đều được giải quyết rất cụ thể. Trong lúc đó quân địch bị thất bại ngày càng nặng và đang gặp những khó khăn chồng chất về binh lực về tiếp viện và tiếp tế cũng như về tinh thần.

Tuy nhiên, cũng chính vào lúc đó, trong cán bộ và chiến sĩ ta xuất hiện tư tưởng hữu khuynh tiêu cực, biểu lộ dưới hai hình thức: một là ngại thương vong, ngại tiêu hao, mệt mỏi, ngại khó, ngại khổ; hai là chủ quan khinh địch, chủ quan tự mãn. Bộ Chính trị theo dõi rất sát tình hình quân ta trước mặt trận đã nhận định rằng: những thắng lợi to lớn vừa qua đã tạo những điều hiện căn bản cho quân ta hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ; nhưng, vì cán bộ ta còn có khuyết điểm, chủ yếu là vì “tư tưởng hữu khuynh còn nghiêm trọng cho nên đã hạn chế thắng lơi của ta một phần”[sup](1)[/sup]. Bộ Chính trị ra chỉ thị cho các cấp ủy, các đảng viên và toàn thể các cán bộ phải: “Ra sức khắc phục tư tưởng hữu khuynh, đề cao tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, quân đội và Đảng, kiên quyết sửa chữa  những khuyết điểm vừa qua, tiếp tục thấu triệt p cđánh chắc tiến chắc, đồng thời phải ra sức tranh thủ thời gian, triệt để chấp hành mệnh lệnh, vượt qua mọi khó khăn gian khổ, hoàn thành nhiệm vụ giành toàn thắng cho chiến dịch”(2).

Trong cuộc hội nghị đại biểu đảng ủy các đại đoàn và các cơ quan, chúng ta đã triển khai một cuộc đấu tranh tư tưởng nghiêm túc và sâu sắc. Hội nghị đã nhận định tình hình địch, ta một cách khách quan, nêu rõ thắng lợi của ta, thất bại của địch, nêu rõ những điều kiện dần dần chín muồi để tiêu diệt toàn bộ quân địch, đề ra yêu cầu phải quán triệt phương châm đánh chắc tiến chắc, đồng thời phải tích cực tranh thủ thời gian, qua chiến dịch đến toàn thắng, trước mùa mưa đã gần tới.

Chúng ta đã tiến hành phê phán không nhân nhượng những biểu hiện của tư tưởng hữu khuynh tiêu cực, đã nêu rõ:

Tư tưởng của Đảng ta, của quân đội ta là tư tưởng tích cực cách mạng, là tinh thần đấu tranh bất khuất, đấu tranh đến cùng chống kẻ thù, tinh thần đấu tranh không nhân nhượng, không thỏa hiệp của giai cấp công nhân. Tư tưởng đó là tinh thần triệt để cách mạng, lúc thắng lợi không say mê, lúc khó khăn không chùn bước, bất kỳ trong hoàn cảnh nào cũng kiên trì đấu tranh đến thắng lợi cuối cùng. Trong quân đội, tư tưởng đó của Đảng là tinh thần anh dũng chiến đấu, tích cực diệt địch, triệt để chấp hành mệnh lệnh, đó là tinh thần kiên quyết vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, không sợ gian lao nguy hiểm, không sợ mỏi mệt thương vong, không sợ hy sính tính mệnh. Đó là tinh thần liên tục chiến đấu, lúc thắng lợi thì không chủ quan tự mãn, lúc thất bại thì không hoang mang dao động, bất kỳ trong trường hợp nào cũng bình tĩnh, khẩn trương, kiên trì chiến đấu”.

Sau cuộc hội nghị nói trên, một cuộc giáo dục và đấu tranh tư tưởng được triển khai sâu rộng tử các cấp ủy cho đến chí bộ, từ cán bộ cho đến chiến sĩ, trong tất cả các đơn vị tham chiến. Công tác giáo dục và đấu tranh đó là một thành công rất lớn của công tác chính trị trên mặt trận Điện Biên Phủ, là một trong những thành công lớn nhất của công tác chính trị trong lịch sử chiến đấu của quân đội ta. Nó đã đưa lại kết quả to lớn là những biểu hiện của tư tưởng sai lầm đã được khắc phục. Toàn thể đảng viên, cán bộ và chiến sĩ đều củng cố lòng tin tưởng vững chắc ở thắng lợi cuối cùng của chiến dịch, củng cố quyết tâm sắt đá, hoàn thành cho kỳ được nhiệm vụ tiêu diệt toàn bộ quân địch. Tinh thần quyết chiến quyết thắng của quân ta được nâng cao. Với một khí thế mạnh mẽ, tất cả các đơn vị đều cố gắng tiến lên, tích cực chuẩn bị cho đợt tiến công sắp tới, ra sức tạo mọi điều kiện để chuyển sang tổng công kích.


(1), (2)Nghị quyết  của Bộ Chính trị ngày 19 tháng 4 năm 1954 đối với mặt trận Điện Biên Phủ. Lưu trữ Bộ Quốc phòng. Hồ sơ 173, tờ 49-51, Phòng Trung ương.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #51 vào lúc: 19 Tháng Giêng, 2010, 08:52:37 pm »

Đợt tiến công thứ ba: đánh chiếm điểm cao cuối cùng ở phía đông, tiêu diệt một số cứ điểm khác của địch, thu hẹp hơn nữa phạm vi đóng quân và vùng trời của chúng, uy hiếp mạnh tung thâm của chúng, nắm vững thời cơ tiến hành tổng công kích, tiêu diệt toàn bộ quân địch.

Vào hạ tuần tháng 4 năm 1954, tình hình quân địch đã trở nên hết sức nguy khốn. Tuy nhiên ớ phía đông chúng vẫn còn giữ hai phần ba ngọn đồi A1 và một nửa ngọn đồi C1. Vùng trời của chúng đã bị thu hẹp rất nhiều, nhưng chúng vẫn còn thu được một phần dù tiếp tế do máy bay vận tải của chúng thả xuống.

Nhiệm vụ đề ra cho đợt hoạt động mới của quân ta là đánh chiếm các điểm cao địch còn giữ một phần ở phía đông, tiêu diệt một số vị trí ở phía tây, tiêu diệt thêm một bộ phận  sinh lực của địch, phát triển sâu hơn nữa trận địa tiến công và bao vây, phát huy  tất cả các thứ hỏa lực bắn phá tung thâm của địch, uy hiếp vùng trời còn lại của chúng, chuẩn bị chuyển sang tổng công kích(1).

Đợt tiến công thứ ba bắt đầu trong điều kiện tình hình quân địch đã trở nên trầm trọng; về phía ta, thì tinh thần chiến đấu của bộ đội rất cao, các khó khăn về cung cấp vừa được khắc phục, do đó những trận chiến đấu của đợt này đã giành được những thắng lợi giòn giã nhất. Phần lớn các đơn vị đều nổ súng đúng thời gian đã định, triệt để chấp hành mệnh lệnh, chiến đấu cực kỳ anh dũng, hoàn thành tất cả những nhiệm vụ được trên giao cho.

Đêm 1 tháng 5, đợt tiến công thứ ba bắt đầu. Quân ta nhanh chóng tiêu diệt quân địch còn kiểm soát một nửa đồi C1 chiếm toàn bộ ngọn đồi. Cũng trong đêm đó, quân ta đã tiến công tiêu diệt nhanh chóng hai vị trí 505 và 505A ở dưới chân các ngọn đồi phía đông nằm trên tả ngạn sông Nậm Rốm. Ở phía tây, vị trí 311A của địch cũng bị tiêu diệt gọn. Ở phân khu nam, quân ta tiêu diệt một bộ phận quân địch đóng ở phía đông bắc Hồng Cúm. Sang đêm 3 tháng 5, quân ta lại tiêu diệt thêm vị trí 311B ở phía tây(2). Trận địa tiến công và bao vây của ta càng thắt chặt lại, có nơi chỉ cách sở chỉ huy của tập đoàn cứ điểm khoảng 300 mét.

Quân địch lúc bấy giờ có những dấu hiệu muốn mở một con đường máu để phá vòng vây. Nava và các tướng tá Pháp - Mỹ đã nhận thấy rằng Điện Biên Phủ sắp bị tiêu diệt đến nơi. Chúng dự định thu thập lực lượng tổ chức thành ba cánh quân, thửa lúc ban đêm đột phá vòng vây của ta, đánh tháo về phía Lào: một cánh gồm các đơn vị dù rút theo hướng đông nam; một cánh gồm các đơn ví lê dương và Bắc Phi rút theo hướng nam; một cánh gồm các đơn vị ở Hồng Cúm rút theo hướng tây. Để tạo thêm điều kiện thực hiện kế hoạch rút chạy, Nava vội vã ném một tiểu đoàn dù thuộc địa xuống Điện Biên Phủ. Trong lúc đó, ở phía Thượng Lào, chúng sẽ cho một cánh quân tiến sang để đón. Riêng tướng Đờ Cát và một số đơn vị thì được chỉ định ở lại với thương binh tại Điện Biên Phủ. Chúng ta đã theo dõi sát những ý định và sự chuẩn bị của chúng; các đơn vị của quân ta có nhiệm vụ giữ các trận địa ở phía tây đã được lệnh kiểm soát chặt chẽ tất cả các con đường lớn và đường nhỏ đi từ Điện Biên Phủ ra biên giới Việt - Lào. Sau khỉ đã tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, quân ta đã bắt được bản mệnh lệnh mở cuộc hành binh đột phá vòng vây, dự định thực hiện vào đêm 7 tháng 5 năm 1954.


(1)Nhiệm vụ của các đơn vị từ ngày 1 đến ngày 5 tháng 5 năm 1954. (Trích mệnh lệnh của Bộ Tổng tư lệnh ngày 22 tháng 4 năm 1954):
+ Đại đoàn 312: Tiêu diệt cứ điểm 505, 505A. Dùng hỏa lực và một đơn vị nhỏ phối hấp với đại đoàn 316 chặn viện, trong lúc 316 tiêu diệt C1. Chuẩn bị và tiêu diệt vị trí 204.
+ Đại đoàn 316: Tiêu diệt cao điểm C1, giữ vững trận địa đó; đồng thời đánh lấn C2 để phối hợp với trận đánh C1 có điều kiện thuận lợi thì phát triển tiêu diệt toàn hộ C2: chuẩn bị đầy đủ để đánh chiếm những lô cốt quan trọng của địch trong vị trí A1 và chiếm giữ nhưng lô cót đó.
+ Đại đoàn 308: Tiếp tục chuẩn bị và tiêu diệt cứ điểm 311B đồng thời đánh lấn vị trí 310.
+Đại đoàn 351: Ngoài nhiệm vụ thường xuyên, có nhiệm vụ phối hợp với bộ binh trong các trận đánh điểm và đánh phản kích.
+ Trung đoàn 57: Có nhiệm vụ kiềm chế pháo binh địch và đánh lấn vào khu C (Hồng Cúm), nếu có điều kiện thì tiêu diệt. Chuẩn bị một tiểu đoàn vận động sang hướng Thượng Lào tác chiến khi có lệnh.
Trong lúc tiêu diệt A1 và đánh lấn C2 các đơn vị phải chuẩn bi lực lượng và kế hoạch để có điều kiện thuận lợi thì phát triển tiêu diệt C2 tiếp tục phát triển đánh chiếm các cứ điểm của địch còn lại phía đông sông Nậm Rốm.
(2)12 giờ ngày 1 tháng 5 năm 1954 đại đoàn 351 bắn mãnh liệt vào trận địa pháo, sở chỉ huy và cứ điểm của địch. Cụm pháo ở Hồng Cúm bị tê liệt, kho đạn nổ tung.
20 giờ 30 phút cúng ngày trung đoàn 98, đại đoàn 316 tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm C1 diệt 114 tên địch, bắt sống 44 tên. Thừa thắng quân ta đẩy mạnh vây lấn và chuẩn bị tiêu diệt cứ điểm C2 đồng thời cúng cố trận địa đã chiếm sẵn sàng đập tan phản kích của địch. Sau 32 ngày đêm giành giật quyết liệt, cuối cùng quân ta đã chiến thắng, chiếm được đỉnh đồi, khép chặt vòng vây, tiến sát vào Mường Thanh.
Trên tả ngạn sông Nậm Rốm, trung đoàn 209, đại đoàn 312 tiến công cứ điểm 505 và 505A. Trận đánh diễn ra rất ác liệt. Quân địch dựa vào địa hình hằng phẳng, liên tiếp phản kích. Với quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ, quân ta liên tục tổ chức đột kích, chia cất bao vây tiêu diệt từng bộ phận quân địch, đập tan phản kích của chúng. Đến 4 giờ ngày 2 tháng 5, quân ta đã hoàn toàn làm chủ 2 cứ điểm, tiêu diệt toàn hộ quân địch.
Ở phía tây, trung đoàn 88, đại đoàn 308 thi đua với các đơn vị ở hướng đông, nắm thời cơ địch thay quân, đã lập tức tiến công tiêu diệt cứ điểm 311A. Chỉ trong vòng 30 phút một đại đội lê dương bị tiêu diệt, ta làm chủ cứ điểm. Đêm 3 tháng 5 quân ta lại tiêu diệt và chiếm lĩnh vị trí 311B.
Phối hợp chặt chẽ với hướng chính, trung đoàn 57, đại đoàn 304 đã đánh lấn dần khu C tiêu hao nhiều sình lực địch. Ngày 2 tháng 5 địch đã phải rút khỏi khu này.
Như vậy, nhưng trận chiến đấu đầu tiên của đợt 3, quân ta đã giành được thắng lợi giòn giã.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #52 vào lúc: 19 Tháng Giêng, 2010, 08:56:29 pm »

20 giờ 30 phút ngày 6 tháng 5 năm 1954, toàn bộ pháo binh mặt trận và một đại đội hỏa tiễn mới được tăng cường bắn phá dồn dập vào bên trong tập đoàn cứ điểm.

20 giờ 45, quân ta mở cuộc tiến công vào gồi A1. Ở đây trong thời gian chuẩn bí, công binh ta đã đào một đường hầm ngầm đi sâu vào giữa ngọn đồi và đã đặt sẵn một tấn thuốc nổ. Được sự phối hợp chặt chẽ của công binh, sau tiếng nổ mạnh mẽ của bộc phá, quân ta đã chia làm nhiều mũi, tử nhiều hướng đánh vào vị trí của địch, tiêu diệt toàn bộ tiểu đoàn dù lê dương chiếm đóng ở đó. Chúng ta đã đánh chiếm điểm cao cuối cùng. Quân địch dùng bộ binh và xe tăng ra phản kích hòng chiếm lại cứ điểm quan trọng này. Đứng vững trên thế cao, với tinh thần quyết chiến quyết thắng, quân ta đã đánh cho địch thất bại phải tháo chạy về Mường Thanh(2).

Cũng trong đêm ấy, quân ta tiêu diệt quân địch và đánh chiếm đồi C2, đây là điểm cao phụ nằm giữa ngọn đồi C1 và sông Nậm Rốm. Các vị trí 506 của địch ở phía bắc cầu Mường Thanh, 310 ở phía tây cũng bị tiêu diệt. Sau các cuộc tiến công thắng lợi trên đây của quân ta, địch đã mất tất cả các điểm cao ở phía đông, lực lượng bị tiêu diệt thêm một phần quan trọng, phạm vi chiếm đóng bị thu lại rất hẹp, một chiều chỉ còn từ 700, 800m đến 1km, tinh thần binh sĩ của chúng hoang mang đến cực độ.

Mọi điều kiện đều đã đầy đủ để chuyển sang tổng công kích. Trong khi chúng ta đang đẩy mạnh công tác chuẩn bị, để bảo đảm thắng lợi cho cuộc tổng công kích thì sáng ngày 7 tháng 5 năm 1954, có những dấu hiệu rất đáng chú ý về tình hình địch. Những máy bay tiếp tế vũ khí đạn dược đều quay về Hà Nội, không thả dù nữa. Chỉ có một số máy bay tiếp tế còn thả ít nhiều dù lương thực. Trong lúc đó, lác đác ở một số nơi trong khu địch đóng quân, ta phát hiện có nhiều tiếng nổ: quân địch đang phá hủy một số vũ khí. Một số binh lính của địch vứt súng đạn xuống sông Nậm Rốm.

Chúng ta nhận định trong hàng ngũ dịch đang xảy ra tình trạng hỗn loạn. Bộ đội ta được lệnh chuẩn bí sẵn sàng.

14 giờ ngày 7 tháng 5, một đơn vị của ta mở cuộc tiến công vào vị trí 507, ở gần cầu Mường Thanh. Địch đối phó yếu ớt toàn bộ binh lính địch kéo cờ trắng ra hàng. Tiếp đó, quân ta phát triển thắng lợi tiến công tiêu diệt luôn hai vị trí 508 và 509 nằm trên tả ngạn sông Nậm Rốm.

Rõ ràng, quân địch đã rối loạn, mất hết tinh thần chiến đấu; ở một số nơi đã có những lá cờ trắng xuất hiện.

15 giờ ngày 7 tháng 5, quân ta được lệnh không chờ đến tối, nắm ngay cơ hội thuận lợi, lập tức mớ cuộc tổng công kích vào tập đoàn cứ điểm.

Các đại đoàn của ta lập tức hành động, từ phía đông và phía tây giáp công, đánh thẳng vào sở chỉ huy của địch. Mặc dầu quân địch còn khoảng một vạn tên, tinh thần của chúng đã hoàn toàn tan rã. Quân ta đánh đến đâu, đích giương cờ trắng ra hàng đến đó.

17 giờ 30 phút, quân ta đánh chiếm sở chỉ huy của địch: tướng Đờ Cát và toàn bộ bộ tham mưu của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị quân ta bắt sống. Toàn bộ địch còn lại lũ lượt kéo ra hàng. Chúng đều bị bắt làm tù binh và được ta đối đãi tử tế.

Lá cờ Quyết chiến quyết thắng của quân ta đã phất cao trên cánh đồng Điện Biên Phủ.

Ngay đêm hôm đó, quân ta tiến công quân địch ở phân khu nam. Quân địch ở đây có trên 2.000 tên định tìm đường rút chạy về phía Thượng Lào. Quân ta lập tức được lệnh chặn bắt, đến 24 giờ thì toàn bộ quân địch bị bắt làm tù binh.

Sau 55 ngày đêm chiến đấu liên tục, quân ta đã tiêu diệt toàn bộ quân địch ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã toàn thẳng. Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954 của quân ta đã kết thúc bằng một chiến thắng vĩ đại.


(1)Trận đánh tiêu diệt A1 lần này do trung đoàn 174 thuộc đại đoàn 316 phụ trách. Sau tiếng nổ của khối bộc phá lớn, các mũi xung kích từ nhưng trận địa vây lấn ở hướng đông và tây nam xung phong đánh chiếm cứ điểm. Quân ta chiếm ngay những lò cất quan trọng, khống chế đường tiếp viện của địch từ Mường Thanh lên A1. Mũi vu hồi từ hướng tây nam nhanh chóng đánh chiếm hai lô cốt lợi hại bảo vệ cửa hầm ngầm của chúng ở hường này.
Thế là, cứ điểm A1 cũng như hầm ngầm cố thủ của địch đã hoàn toàn bị bao vây. Quân địch ngoan cố chống cự, cố kéo dài cuộc chiến đấu, chờ quân cứu viện lên giải nguy như mọi lần trước. Nhưng các mũi tiến công của quân ta vẫn liên tục đánh chiếm các lô cốt, các giao thông hào, khép chặt vòng vây vào hầm ngầm, sở chỉ huy cứ điểm. Trong lúc gay go đó, lực lượng dự bị của ta đã tiến vào chiến đấu rất kịp thời. Đợt công kích cuối cùng giành được thắng lợi nhanh chóng. Toàn bộ tiểu đoàn dù lê dương phòng ngự đồi A1 đã bị tiêu diệt. Tên quan tư chỉ huy cứ điểm cúng 200 binh lính bị bắt sống.
Trải qua 36 ngày đêm chiến đấu, qua bốn lần tiến công, cuối cùng quân ta đã giành toàn thắng trên đồi A1.
(2)Đồng thời với trận chiến đấu ở Al, trung đoàn 98, đại đoàn 316 đã tiến công cứ điểm C2 do tiểu đoàn 5 dù ngụy, hai đại đội thuộc tiểu đoàn 6 dù Bắc Phi và một đại đội trợ chiến chiếm giữ. Ngay từ đầu, lực lượng thọc sâu sắc nhọn của ta tiêu diệt trận địa pháo, thọc thẳng vào bên trong trận địa phòng ngự của địch. Dựa vào công sự, quân địch ngoan cố chống cự và liên tục phản kích. Chúng cắt đứt đội hình chiến đấu của ta, cô lập mũi thọc sâu với lực lượng tiến công ở chính diện. Các đơn vị thọc sâu đã anh dũng chiến đấu trong vòng vây của địch suốt đêm 6 tháng 5 năm 1954. Tảng sáng ngày 7 tháng 5 năm 1954, bọn chỉ huy tập đoàn cứ điểm lại cố tung lực lượng cơ động ra phản kích nhằm đánh bật ta ra khỏi C2. Lúc này, từ trên đỉnh cao Al, trung đoàn 174 đã kịp thời dùng hỏa lực bắn vào sườn quân địch chi viện đắc lực cho trung đoàn 98 đập tan phản kích của địch. Thời cơ dứt điểm cứ điểm C2 đã đến. Lựu pháo bắn dồn dập gần 200 viên chi viện cho các lực lượng xung kích. Đội dự bị của trung đoàn 98 tiến vào chiến đấu. Trước sức mạnh tiến công của ta, hơn 600 tên địch đã hạ súng đầu hàng. Cứ điểm C2 đã bị ta chiếm lĩnh.
Toàn bộ quân địch phòng ngự trên dây điểm cao phía đông đã bị tiêu diệt.
Ở phía tây, trung đoàn Thủ Đô, đại đoàn 308 đã nhanh chóng tiêu diệt cứ điểm 310. Trận địa hao vây và tiến công hướng tây của ta chỉ còn cách hầm chỉ huy của Đờ Cát chưa đầy 300 mét.
Trong khi ấy, tại cứ điểm 506 và 507 dưới chân dãy đồi cao phía đông, cuộc chiến đấu của các trung đoàn 165 và 209 thuộc đại đoàn 312 cung diễn ra hết sức gay go quyết liệt. Tại 506, sau khi đánh vào bên trong cứ điểm, quân ta đã đánh bại 10 cuộc phản kích của địch. Đến 9 giờ sáng ngày 7-5-1954 được tăng cường lực lượng và hỏa lực, trung đoàn 165 đã mở cuộc tiến công tiêu diệt toàn bộ quân địch, chiếm lĩnh cứ điểm 506.
Tại 507, cứ điểm nằm dưới cánh đồng, cạnh đường số 41, cứa ngõ tiến vào Mường Thanh, trung đoàn 209 đã đột phá liên tục suốt đêm không thành công. Địch tại đây tuy bị tiêu diệt và tiêu hao một số lớn, nhưng vẫn dựa vào hàng rào dây thép gai bùng nhùng và hệ thống công sự để chống cự quyết liệt. Trung đoàn 209 tạm dừng cuộc tiến công, tổ chức lại lực lượng, nghiên cứu cách khắc phục vượt qua hàng rào dây thép gai búng nhùng để phát triển vào bên trong.
Như vậy là, trừ cứ điểm 507 còn đang giằng co quyết liệt, tất cả các mục tiêu quan trọng cần đánh chiếm trong đợt ba, quân ta đã hoàn thành một cách xuất sắc.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #53 vào lúc: 19 Tháng Giêng, 2010, 09:05:42 pm »

Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 25
chiến thắng Điện Biên Phủ


Đứng về nghệ thuật chiến dịch cũng như về chiến thuật, có thể nói rằng, với trận Điện Biên Phủ, quân đội ta đã thực hiện một bước nhảy vọt lớn.

Chỉ trong một thời gian ngắn, từ chỗ tiêu diệt một tiểu đoàn địch hay nhiều nhất là một tiểu đoàn tăng cường trong công sự vững chắc, quân đội ta đã tiến vượt hẳn lên, tiêu diệt một tập đoàn cứ điểm kiên cố với một lực lượng tinh nhuệ rất mạnh gồm hai mươi mốt mốt tiểu đoàn. Quân đội ta đã thực hiện bước tiến vượt bậc ấy trong khi trang bị vũ khí của ta chưa có sự cải tiến nào đáng kể. Chúng ta vẫn chiến đấu trong điều kiện địch có không quân tương đối mạnh, có pháo binh  mạnh, có xe tăng, còn bộ đội ta thì chưa có chiếc máy bay nào, chưa có chiếc xe tăng nào, pháo binh còn rất hạn chế.

Bí quyết của bước tiến vọt đó là sự vận dụng những phương pháp chiến thuật mới, những  phương pháp chiến thuật có ý nghĩa chiến dịch nhằm giải quyết yêu cầu mới rất cao của nhiệm vụ là phải tiêu diệt bằng được tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Phương pháp chiến thuật quan trọng nhất có ý nghĩa chiến dịch là phương pháp lần lượt tiêu diệt từng tiểu đoàn hoặc một số tiểu đoàn địch nằm trong hệ thống tập đoàn cứ điểm. Phương pháp chiến thuật ấy phù hợp với trình độ của bộ đội ta, với khả năng tác chiến hiệp đồng binh chủng của quân đội ta lúc bấy giờ. Chính phương pháp ấy tưởng chừng như đơn giản, nhưng thực tế là rất sáng tạo, đã cho phép bộ đội ta quán triệt phương châm đánh chắc thắng, tiêu diệt đích từng bộ phận, tiến tới tiêu diệt toàn bộ quân địch, thực hiện một bước nhảy vọt kỳ diệu trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Trong quá trình phát triển của chiến dịch, quân ta đã sáng tạo ra chiến thuật bao vây đánh lấn, nhanh chóng tiêu diệt từng trung tâm đề kháng của địch mà ta thì bị thương vong rất ít.

Phương pháp chiến thuật quan trọng thứ hai có ý nghĩa chiến dịch là công tác xây dựng hệ thống trận địa tiến công và bao vây. Bộ đội ta đã từng làm trận địa xuất phát tiên công có công sự cho từng trung đội đại đội, tiểu đoàn. Với biện pháp ấy, trong điều kiện địch có hỏa lực pháo binh và không quân mạnh, quân đội ta nói chung phải lợi dụng đêm tối để tiến hành tiến công, do đó, mỗi cuộc chiến đấu không thể nào kéo dài quá ba đến năm tiếng đồng hồ và như vậy thì chỉ có khả năng tiêu diệt từng tiếu đoàn độc lập của địch. Trong một thời gian khá dài, vấn đề đặt ra mà chưa được giải quyết là phải làm thế nào đểtiha được cuộc chiến đấu cả ngày lẫn đêm và trên  mọi loại địa hình, có như vậy mới mở ra khả năng tiêu diệt sinh lực lớn của địch. Sự phát triển công sự thành một hệ thống trận địa tiến công và bao vây đã giải quyết thành công một vấn đề quan trọng, mở ra khả năng nói trên. Trên cánh đồng Điện Biên Phủ, dưới bom đạn của địch, quân đội ta đã từ chỗ trước đây thường chỉ chiến đấu trong một đêm, tiến lên bám trụ, chiến đấu liên tục trong suốt năm mươi nhăm ngày đêm, thắt chặt vòng vây, tiêu diệt tập đoàn cứ điểm quân sự mạnh nhất của địch. Ở đây, cũng cần nói đến hệ thống các trận địa vững chắc của pháo binh ta đặt trên các sườn đồi núi vây quanh Điện Biên Phủ; mặc dù kẻ địch ra sức bắn phá, các trận địa pháo binh của ta vẫn  hoạt động tốt, không hề bị gián đoạn.

Phương pháp chiến thuật quan trọng thứ ba, cũng là mmột phương pháp có ý nghĩa chiến dịch, là dùng mọi cách đánh đế triệt đường tiếp tế hậu cần của địch. Trận địa tiên công và bao vây của ta ngày càng thắt chặt lại, hỏa lực pháo binh rồi đến hỏa lực bộ binh của ta đã khống chế sân bay. Cuối cùng, sân bay Mường Thanh bị chiếm hẳn. Việc tiếp tế bằng cầu hàng không ngày càng bị hạn chế, đi đến bị cắt đứt hoàn toàn. Cái mà địch đã từng cho là chỗ mạnh đã biến thành chỗ yếu chí mạng của chúng. Triệt đường tiếp tế hậu cần của địch là một thành công lớn của quân đội ta, một trong những kinh nghiệm nổi bật trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Kết quả là, mặc dù quân địch còn trên một vạn quân, nhưng chúng đã lâm vào cảnh thiếu lương thực, thiếu đạn dược, bị đẩy vào chỗ nguy khốn  nghiêm trọng, cuối cùng đã phải đầu hàng.

Phương pháp chiến thuật quan trọng thứ tứ, cũng là một phương pháp có ý nghĩa chiến dịch là tìm  mọi biện pháp để bảo vệ các tuyến hậu cần tiếp tế của ta, nhiều tuyến chi viện kéo dài từ hậu phương xa, cộng các tuyến lại thì dài hàng nghìn kilômét
(1), đi qua nhiều đèo dốc hiểm yếu, bị không quân địch bắn phá suốt ngày đêm. Ngoài những tuyến đường đã có sẵn, chúng ta đã gấp rút mở thêm đường mới, lợi dụng cả đường bộ và đường sông, sử dụng mọi phương tiện vận chuyến từ thô sơ đến hiện đại. Phải nhấn mạnh rằng sự khai thác hậu cần tại chỗ đã có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trong khi chiến dịch tiếp diễn, đạn dược, nhất là đạn pháo, cướp lấy của địch cũng đã giải quyết một phần khá lớn yêu cầu chiến đấu cho pháo binh của ta. Bằng những biện pháp hết sức tích cực và sáng tạo, và một sự cố gắng to lớn, chúng ta đã bảo đảm thành công vấn đề tiếp tế hậu cần cho chiến dịch. Do đó, cái mà địch cho là chỗ yếu không thể khắc phục của ta đã trở thành một nhân tố bắt ngờ, góp phần quan trọng vào thắng lọi của chiến dịch.

Vấn đề phương pháp chiến thuật có một nội dung hết sức phong phú trong chiến dịch Điện Biên Phủ; trên đây chỉ nêu lên một số phương pháp chủ yếu, nhằm nói lên tầm quan trọng của các phương pháp chiến thuật đổi với thắng lợi của một chiến dịch.


Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, mối quan hệ giữa chiến lược, nghệ thuật chiến dịch với phương pháp chiến thuật hết sức rõ rệt. Có chiến lược đúng mới có thể có nghệ thuật chiến dịch và phương pháp chiến thuật đúng. Nhưng chí có chiến lược đúng cũng chưa đủ, phải có nghệ thuật chiến dịch đúng và phương pháp chiến thuật  đúng mới bảo đảm giành được thắng lợi trong chiến tranh. Thậm chí có chiến lược đúng, có nghệ thuật chiến dịch đúng mà phương pháp chiến thuật sai cũng có thể đưa đến thất bại về chiến dịch, gây ra ảnh  hưởng tiêu cực về chiến lược, có khi ảnh  hưởng nghiêm trọng. Đây là cả một hệ thống hữu cơ của tư tưởng tác chiến trong khoa học và nghệ thuật quân sự cách mạng. Nội dung chủ yếu của tư tưởng tác chiến ấy là phải thể hiện tư tưởng chủ động, tư tưởng tiến công ở trình độ cao nhất, hết hợp tinh thần kiên quyết với trí thông minh sáng tạo, giải quyết triệt để những mâu thuẫn giữ đối kháng được đặt ra trong cuộc chiến đấu quyết liệt giữa ta và địch, vô luận trong điều kiện lực lượng ta nhiều hay ít, vũ khí trang bị hiện đại hay thô sơ, đểu phải tạo nên cho được một sức mạnh áp đảo cụ thể trong những tình huống cụ thể, tiêu diệt bằng được một kẻ địch mà lực lượng ta thì càng đánh lại càng mạnh thêm lên.

Trong những năm kháng chiến chống Mỹ quyết liệt, nghệ thuật quân sự và tư tưởng tác chiến độc đáo và sáng tạo của quân đội ta đa phát triển đến những đỉnh cao mới. Trong khi quân đội ta ngày càng trưởng thành, vũ khí trang bị ngày càng hiện đại, chúng ta càng phải phát huy những  cái gì là tinh túy nhất, là sáng tạo nhất trong truyền thống quân sự vô cùng quý giá của nhân dân ta, của dân tộc ta. Với vũ khí thô sơ và tương đối hiện đại, quân đội ta đã phát huy quyền làm chủ của con người đối với kỹ thuật, tạo nên sức mạnh kỳ diệu để thắng mọi kẻ địch. Với trang bị kỹ thuật ngày càng hiện đại, chúng ta càng phải phát huy quyền làm chủ và vai trò quyết định của con người, tạo nên sức mạnh mới, mạnh hơn gấp trăm lần đế chiến thắng mọi kẻ thù, bảo vệ vững chắc Tổ quốc thân yêu. Với ý nghĩa đó, kinh nghiệm của Điện Biên Phủ mãi mãi còn có sự cống hiến quan trọng.


(1)Các tuyến chủ yếu là: tuyến chi viện từ Thanh Hóa đến Điện Biên Phủ, tuyến chi viện từ Cao Bằng đến Điện Biên Phủ, tuyến chi viện từ Lai Châu đến Điện Biên Phủ.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #54 vào lúc: 19 Tháng Giêng, 2010, 09:07:47 pm »

VI
Ý NGHĨA TO LỚN CỦA CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ VĨ ĐẠI
VÀ CỦA CÁC CHIẾN THẮNG ĐÔNG XUÂN NÓI CHUNG


Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ và nói chung các chiến thắng Đông Xuân 1953 - 1954 là những chiến thắng to lớn nhất của lực lượng vũ trang nhân dân và của nhân dân ta từ trước đến nay. Các chiến thắng vĩ đại đó đã đánh dấu một sự tiến bộ vượt bậc, một sự chuyển biến lớn lao trong quá trình phát triển tiến lên của cuộc kháng chiến cứu nước của nhân dân ta chống đế quốc Pháp xâm lược có bọn can thiệp Mỹ giúp sức, góp phần quyết định vào thắng lợi của cuộc kháng chiến.

Phân tích hình thái mới của cuộc kháng chiến, chúng ta nhận thấy nổi bật lên những điềm sau đây:

Một là, trong cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954 chúng ta đã mở nhiều chiến dịch tiến công trên nhiều hướng của chiến trường cả nước.

Từ năm 1950 trở đi, với chiến dịch Biên giới, hình thái tiến công trên từng hướng chiến lược đã xuất hiện. Trong mỗi một mùa tác chiến hoặc trong mỗi một thời gian nhất định, bộ đội chủ lực ta đã có khả năng mở chiến dịch tiến công thắng lợi trên một hướng nhất định của chiến trường chính, tức là chiến trường Bắc Bộ. Trong những năm tiếp sau, chúng ta luôn luôn giữ quyền chủ động trên chiến trường chính; những cố gắng lớn lao của địch để giành lại chủ động ở Bắc Bộ đã bị quân ta đánh bại.

Bước vào mùa thu, mùa đông năm 1953 và mùa xuân 1954, bộ đội chủ lực ta không những đã có khả năng mở những chiến dịch tiến công trên nhiều hướng, mà quan trọng hơn nữa là không những mở chiến dịch tiến công trên chiến trường Bắc Bộ mà cả trên chiến trường Liên khu 5; đồng thời bộ đội tình nguyện ta đã phối hợp với Quân giải phóng Phathét Lào mở những chiến dịch tiến công ở Thượng Lào, Trung Lào và Hạ Lào. Phạm vi cuộc tiến công chiến lược Thu Đông 1953 của ta đã vượt ra ngoài chiến trường chính, bước đầu mở rộng đến chiến trường miền Nam, chiến trường Đông Dương.

Hai là, bước qua thời kỳ thứ hai của cuộc tiến công chiến lược Thu Đông đó thì trên mặt trận chính diện chủ yếu, tức là mặt trận Điện Biên Phủ, chúng ta đã tập trung đại bộ phận bộ đội chủ lực tinh nhuệ của ta, mở cuộc tiến công lớn vào tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của địch, do một bộ phận quan trọng bộ đội tinh nhuệ của địch phòng giữ.

Trước đây, kể cả trong thời kỳ đầu của cuộc tiến công Thu Đông, phương hướng tác chiến của ta là nhằm những hướng chiến lược quan trọng mà địch tương đối sơ hở để tiến công tiêu diệt một bộ phận sinh lực của địch.

Bước vào chiến dịch Điện Biên Phủ thì chúng ta đã chuyển lên tập trung chủ lực của ta tiêu diệt chủ lực của địch, đánh vào một tập đoàn cứ điểm mà địch cho là không thể nào công phá được. Chiến dịch Điện Biên Phủ mang tính chất đầy đủ của một trận quyết chiến về chiến lược.

Ba là, trong cuộc tiến công Đông Xuân 1953 - 1954, đã diễn ra một sự biến chuyển mới về hình thức tác chiến.

Vận động chiến thường bao gồm cả đánh công sự vững chắc, trước đây đã tiến lên giữ địa vị chủ yếu trên chiến trường Bắc Bộ, thì nay đã phát triển rộng khắp hơn, tiến lên giữ địa vị chủ yếu trên chiến trường Liên khu 5 và trên chiến trường nước bạn.

Biến chuyển to lớn hơn nữa là nếu trước đây, khi cả trong thời kỳ đầu của cuộc tiến công Đông Xuân hình thức tác chiến phổ biến của chủ lực là đánh vận động, thì bước vào chiến dịch Điện Biên Phủ điểm trung tâm của chiến trường cả nước, quân đội ta đã vận dụng hình thức tác chiến mới: chiến dịch tiến công trận địa trên một quy mô lớn.

Trong lúc đó trên chiến trường sau lưng địch, du kích chiến vẫn giữ một địa vị hết sức quan trọng, ở Bình-Trị-Thiên và Nam bộ vẫn giữ địa vị chủ yếu. Qua những biến chuyển và phát triển vượt bậc của phạm vi các chiến dịch tiến công, của tính chất và hình thức tác chiến của chiến dịch Điện Biên Phủ, quân ta đã thu được những thắng lợi lớn lao chưa từng thấy. Những thắng lơi đó đã đưa cuộc kháng chiến của nhân dân ta từ hình thái tiến công trên từng hướng chiến lược lên hình thái tiến công trên nhiều hướng chiến lược với quy mô ngày càng lớn, từ thế chủ động chiến lược trên chiến trường Bắc Bộ tiến lên giành chủ động trên chiến trường cả nước. Ý nghĩa chiến lược to lớn của chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại và các chiến thắng Đông Xuân là ở chỗ đó.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #55 vào lúc: 19 Tháng Giêng, 2010, 09:08:50 pm »

Trong chiến dịch lịch sứ Điện Biên Phủ và các chiến dịch Đông Xuân nói chung, chúng ta đã tiêu diệt một bộ phận rất quan trọng lực lượng của địch.

Điện Biên Phủ là trận đánh tiêu diệt lớn nhất và điển hình nhất của quân đội ta từ trước đến nay, trận chiến thắng lớn nhất của nhân dân ta trong gần 100 năm đấu tranh chống thực dân Pháp. Trận Điện Biên Phủ cũng được coi là một trong những trận đánh tiêu diệt lớn nhất trong lịch sử đấu tranh vũ trang của các dân tộc nhỏ chống quân đội xâm lược của bọn đế quốc thực dân. Tại Điện Biên Phủ, quân ta đã tiêu diệt và bắt làm tù binh trên 16.000 tên địch, trong đó có toàn bộ cơ quan chỉ huy của tập đoàn cứ điểm, có 1 tên tưởng, 16 tên quan năm, 1.749 sĩ quan và hạ sĩ quan. Lực lượng của địch bị tiêu diệt bao gồm 17 tiểu đoàn bộ binh tinh nhuệ (trong đó có 7 tiểu đoàn dù), 3 tiểu đoàn pháo binh, gần 1 tiểu đoàn công binh, tổng cộng là 21 tiểu đoàn.

Nhìn chung trên các chiến trường cả nước thì trong cuộc tiến công Đông Xuân này, quân ta đã tiêu diệt 11 vạn 2 nghìn tên địch, tức là một phần tư toàn bộ lực lượng vũ trang của địch ở Đông Dương, trong số đó có 25 tiểu đoàn bị tiêu diệt hoàn toàn.

Số máy bay oanh tạc, chiến đấu và vận tải, kể cả máy bay oanh tạc B.24 và máy bay vận tải hạng nặng C.119 của Mỹ bị bắn rơi và phá hủy ở Điện Biên Phủ là 62 chiếc, tính cả các chiến trường cả nước là 177 chiếc, tức là một bộ phận rất quan trọng lực lượng không quân của địch ở Đông Dương.

Từ khi đế quốc Pháp trở lại gây chiến tranh xâm lược, chưa bao giờ trong một thời gian tương đối ngắn, quân địch bị một tổn thất nặng nề như vậy. Đối với địch, tổn thất lại nặng nề hơn nữa là ở chỗ đại bộ phận lực lượng bị quân ta tiêu diệt lại bao gồm những sinh lực tinh nhuệ nhất của chúng, tức là các tiểu đoàn quân dù, các tiểu đoàn Âu - Phi, mà chúng coi là “mũi nhọn của ngọn giáo” là “quả đấm tiến công”, là nòng cốt của khối cơ động chiến lược của Nava.

Những thất bại nặng nề nói trên đã làm cho bộ tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp phải kinh hoàng, làm cho tinh thần tướng tá và binh sĩ của chúng đã kém sút lại càng suy sụp nhanh chóng.

Trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ và các chiến dịch Đông Xuân nói chung, chúng ta đã giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn có tính chất quan trọng về chiến lược.

Ở Bắc Bộ, sau khi Lai Châu và Điện Biên Phủ được giải phóng, trên toàn bộ khu Tây Bắc của ta lần đầu tiên không còn bóng quân xâm lược. Căn cứ địa của cuộc kháng chiến đã được mở rộng, bao gồm toàn bộ miền rừng núi Bắc Bộ, đi tử Việt Bắc đến Tây Bắc, Hòa Bình, lại được nối liền với khu giải phóng rộng lớn của nước bạn ở Thượng Lào. Quân địch lúc đó chỉ còn đóng ở đồng bằng Bắc Bộ.

Ở Liên khu 5, vùng tự do của ta mà địch rắp tâm đánh chiếm, này lại được mớ rộng rất nhiều. Một địa bàn quan trọng rộng lớn ở miền bắc Tây Nguyên chiến lược đã được giải phóng. Thế uy hiếp của địch ớ sau lưng các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định đã bí phá tan. Vùng tự do của ta đi từ bờ biển đến biên giới Việt Lào, nối liền với khu giải phóng của nước bạn ở Hạ Lào, gây nên một thế uy hiếp mới đối với địch ở miền nam Đông Dương.

Trên các chiến trường sau lưng địch, ở đồng bằng Bắc Bộ, Bình-Trị- Thiên và Nam Bộ, các căn cứ du kích và vùng du kích được mở rộng rất nhiều. Hình thái chiếm đóng của địch nhiều nơi đã từ diện biến thành tuyến và điểm. Phạm vi vùng bị tạm chiếm ở đồng bằng Bắc Bộ bị thu hẹp; ba phần tư đất đai vùng sau lưng địch đã được giải phóng.

Ở Lào, Quân giải phóng Phathét Lào và bộ đội tình nguyện Việt Nam đã giải phóng tỉnh Phongsalỳ và vùng lưu vực sông Nậm Hu, mở rộng căn cứ địa Thượng Lào. Vùng giải phóng ở Trung Lào và ở Hạ Lào cũng được mở rộng. Trên toàn nước bạn, hơn một nửa đất đai và một nửa dân số đã được giải phóng:

Do những thắng lợi lớn lao của quân ta và bạn như trên đã nói, qua cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân của ta mà đỉnh cao nhất là chiến dịch Điện Biên Phủ, kế hoạch quân sự Nava của đế quốc Pháp - Mỹ đã bị phá sản hoàn toàn.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #56 vào lúc: 19 Tháng Giêng, 2010, 09:10:47 pm »

Quân địch bị tổn thất trầm trọng về sinh lực. Cái gọi là “khối lực lượng cơ động chiến lược” của Nava đã bị tiêu diệt một bộ phận rất quan trọng, bộ phận còn lại thì bị buộc phải phân tán đến mức độ không còn là cơ động nữa. Tinh thần binh sĩ hết sức hoang mang. Lực lượng quân ngụy mới tăng thêm đã tan rã từng mảng lớn. Điều nghiêm trọng hơn nữa đối với địch là: tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, quân ta đã đánh bại hình thức phòng ngự cao nhất, mạnh nhất của chúng, đặt quân địch trước nguy cơ các hệ thống phòng ngư khác đều yếu hơn Điện Biên Phủ nhiều sẽ tiếp tục sụp đổ.

Trong tình hình nguy khốn đó, quân địch đương nhiên không còn nghĩ đến những cuộc tiến công chiến lược đã đề ra trong kế hoạch Nava, càng không thể nghĩ đến khả năng giành lấy những thắng lợi có tính chất quyết định theo như ước tính của bọn hiếu chiến Pháp - Mỹ. Lúc bấy giờ, điều lo lắng lớn nhất của chính phủ Pháp là làm thế nào để bảo toàn lực lượng còn lại của quân đội viễn chinh tránh khỏi nguy cơ bị tiêu diệt. Trung tuần tháng 5 năm 1954, tướng Êly đến Sài Gòn, mang theo chỉ thị của chính phù Pháp cho tướng Nava: cần thực hiện thu hẹp ngay phạm vi chiếm đóng ở đồng bằng Bắc Bộ về vùng “châu thổ có ích”, chuẩn bị sẵn sàng khi cần thì có thể tiến hành việc rút quân về miền nam vĩ tuyến 18. Tinh thần của chỉ thị đó là phải lấy việc giữ gìn lực lượng còn lại của quân đội viễn chinh làm mục tiêu chủ yếu, coi đó là nhiệm vụ ưu tiên. Kế hoạch rút quân của địch đã được tiến hành trong hạ tuần tháng 6 và thượng tuần tháng 7 năm 1954. Quân địch đã rút chạy khỏi thị xã Việt Trì, phân khu chợ Bến, và toàn bộ khu nam đồng bằng bao gồm các tỉnh và thị xã Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, Phát Diệm, Bùi Chu. Trong cuộc rút chạy này, quân địch đã bị quân ta truy kích tiêu diệt một bộ phận. Hàng vạn lính ngụy đã bỏ hàng ngũ quân địch trở về với nhân dân.

Chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại và các chiến thắng Đông Xuân nói chung đã mớ ra một cục diện chính trị mói, góp phần quyết định vào thắng lợi của Hội nghị Giơnevơ năm 1954.

Chiến thắng Điện Biên Phủ đến giữa lúc Hội nghị Giơnevơ năm 1954 sắp họp để bàn về việc lập lại hòa bình ở Đông Dương.

Chiến thắng đó đã đánh bại âm mưu của bọn thực dân hiếu chiến Pháp và bọn can thiệp Mỹ muốn kéo dài và mở rộng chiến tranh xâm lược ở Đông Dương và đang tìm cách phá hoại Hội nghị Giơnevơ. Nội các phản động Lanien-Biđôn, từ trước đã nêu lên chủ trương “đánh đến cùng”, “quốc tế hóa chiến tranh Đông Dương”, bị đổ. Nội các của phái chủ hòa do Măngđét Phrăngxơ đứng đầu lên thay thế. Mặc dầu đế quốc Mỹ và bọn hiếu chiến Pháp vẫn tiếp tục tìm cách phá hoại, sau hơn bảy mươi ngày thương lượng, hội nghị đã thành công.

Đoàn đại biển nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tại hội nghị đã nêu lên lập trường căn bản của nhân dân và Chính phủ ta là: hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ, coi đó là nguyện vọng thiết tha và quyền lợi chính đáng mà nhân dân Việt Nam quyết hy sinh phấn đấu đến cùng để thực hiện. Dựa vào khối đoàn kết chiến đấu của toàn dân ta, có các chiến thắng Đông Xuân nhất là chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại làm hậu thuẫn, dựa vào sự đoàn kết của nhân dân ba nước Việt Nam, Cămpuchia và Lào, được sự ủng hộ hết lòng của các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác, được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân Pháp và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, nhân dân ta đã giành được thắng lợi lớn về ngoại giao.

Hiệp định Giơnevơ được ký kết ngày 21 tháng 7 năm 1954, hòa bình được lập lại ở Đông Dương trên cơ sở tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam và hai nước bạn Cămpuchia và Lào. Sau gần 100 năm đấu tranh giải phóng dân tộc, sau tám, chín năm kháng chiến anh dũng và gian khổ của toàn dân ta, miền Bắc nước ta đã được hoàn toàn giải phóng. Những điều khoản chính trị nhằm thực hiện hòa bình thống nhất nước Việt Nam bằng tổng tuyển cử tự do cũng được quy định.

Thắng lợi của Hội nghị Giơnevơ là một thắng lợi to lớn của nhân dân ta và của nhân dân thế giới đang đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, là một thất bại nặng nề của đế quốc Pháp và can thiệp Mỹ.

Chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại và các chiến thắng Đông Xuân nói chung đã có ảnh hưởng rộng lớn trên thế giới.

Trong khi bọn đế quốc hiếu chiến hoang mang, thất vọng thì các tin chiến thắng của quân và dân ta trên các chiến trường cà nước, đặc biệt là tin chiến thắng Điện Biên Phú, đã làm nức lòng nhân dân tiến bộ toàn thế giới.

Chiến thắng Điện Biên Phủ không những là thắng lợi to lớn của nhân dân ta mà còn được các nước xã hội chủ nghĩa anh em coi như thắng lợi của bản thân mình. Điện Biên Phủ được coi là thắng lợi to lớn của các dân tộc nhỏ yếu đang đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới, giành tự do và độc lập. Điện Biên Phủ đã trở nên niềm tự hào của các dân tộc bị áp bức, là một cống hiến lớn lao của nhân dân ta vào cao trào giải phóng dân tộc đang dâng lèn mạnh mẽ từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, báo hiệu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới. Điện Biên Phủ còn là thắng lợi to lớn của các lực lượng hòa bình trên thế giới. Không có thắng lợi Điện Biên Phủ thì chắc chắn Hội nghị Giơnevơ không thu được kết quả, hòa bình không được lập lại ở Đương Dương. Điều đó càng chứng tỏ rằng, chiến thắng Điện Biên Phủ nói riêng và nói chung thắng lợi của cuộc kháng chiến của nhân dân ta, thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức chống chủ nghĩa đế quốc thực dân dưới mọi hình thức, có tác dụng cực kỳ quan trọng làm suy yếu chủ nghĩa đế quốc, làm thất bại âm mưu xâm lược và gây chiến của chúng, góp phần trọng đại vào việc bảo vệ hòa bình trên thế giới.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #57 vào lúc: 19 Tháng Giêng, 2010, 09:13:04 pm »

*

Chiến thắng Điện Biên Phủ và nói chung các chiến thắng Đông Xuân rất vĩ đại.

Qua các chương đã trình bày ở trên, chúng ta đều nhận rõ rằng nhân tố chủ yến nhất, cơ bản nhất của thắng lợi đó là đường lối chính trị và đường lối quân sự đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh, là sự chí đạo chiến lược và chiến dịch đúng đắn và sáng tạo trong Đông Xuân 1953 - 1954.

Đường lối đó là đường lối của chủ nghĩa Mác - Lê Nin vận dụng vào thực tiễn cụ thể của cách mạng nước ta; là đường lối chiến tranh nhân dân, chiến tranh toàn dân và toàn diện, áp dụng vào điều kiện cụ thể cuộc đấu tranh vũ trang cách mạng ở nước ta. Đường lối đó thấm nhuần những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê Nin về chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ tranh cách mạng, phát huy những truyền thống và kính nghiệm đánh giặc lâu đời của dân tộc ta, kết hợp kinh nghiệm của bản thân ta với kinh nghiệm quý báu của quân đội các nước xã hội chủ nghĩa anh em, căn cứ vào điều kiện cụ thể của cuộc đấu tranh vũ trang cách mạng ớ nước ta mà vận dụng một cách sáng tạo.

Chúng ta còn nhớ, vào mùa hè năm 1953, nhân dân ta đang đứng trước những khó khăn mới rất lớn. Thực dân Pháp, được can thiệp Mỹ tăng cường viện trợ, đang ra sức thực hiện kế hoạch tiếp tục và mở rộng chiến tranh ở Đông Dương. Trong một thời gian ngắn, quân địch đã tăng cường lực lượng khá nhanh, tập trung một khối cơ động chiến lược khá lớn, liên tiếp mở những cuộc hành binh nhằm “bình định” vùng tạm chiếm, giành giật sức người sức của với ta một cách quyết liệt, đồng thời uy hiếp vùng tự do của ta, hòng nhanh chóng tiến lên giành quyền chủ động chiến lược.

Đứng trước âm mưu thâm độc của một kẻ địch có kinh nghiệm và hung ác như vậy, với kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng và lãnh đạo đấu tranh vũ trang đã tích lũy từ lâu, với tinh thần triệt để cách mạng của một đảng tiên phong, với quyết tâm tiêu diệt địch, đưa kháng chiến đến thắng lợi, Trung ương Đảng ta đã phân tích tình hình một cách khách quan và khoa học, đánh giá đúng kẻ địch, nhận rõ những mâu thuẫn nội tại của chúng, thấy chỗ mạnh của chúng đồng thời cũng thấy chỗ yếu của chúng, thấy khó khăn của ta đồng thời cũng thấy hết khả năng chiến đấu to lớn của lực lượng vũ trang và nhân dân ta.

Trung ương Đảng ta đã đề ra phương hướng chiến lược chính xác là tập trung lực lượng đánh vào những nơi quan trọng mà địch tương đối yếu nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực của chúng, đồng thời buộc chúng phải phân tán lực lượng để đối phó với ta trên những hướng xung yếu mà chúng không thể bỏ, tạo điều kiện mới để tiêu diệt thêm sinh lực của địch. Sự chỉ đạo chiến lược tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt đó đã phá vỡ từng bước khối cơ động chiến lược của Nava và đưa các chiến dịch tiến công Đông Xuân của ta trên khắp các chiến trường cả nước đi đến những thắng lợi to lớn.

Đến khi chủ lực của địch đã bị phân tán khắp nơi, một bộ phận tinh nhuệ nhất lại được tập trung ở Điện Biên Phủ, thì Trung ương Đảng ta đã phân tích một cách toàn diện cục diện chiến sự cả nước, phân tích đúng đắn những chỗ mạnh rất lớn và những điểm yếu cũng rất căn bản của địch ở Điện Biên Phủ. Với một lòng tin tưởng mãnh liệt vào khả năng chiến đấu và sáng tạo của lực lượng vũ trang nhân dân và của nhân dân ta, Trung ương Đảng đã hạ quyết tâm chiến lược: tập trung toàn lực tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ.

Về chỉ đạo chiến dịch, trên cơ sở quán triệt quyết tâm của Trung ương Đảng, mục đích của cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954, nhiệm vụ của chiến dịch Điện Biên Phủ, Bộ chỉ huy chiến dịch đã giải quyết thành công nhiều vấn đề về tổ chức và thực hành chiến dịch.

Những vấn đề nổi bật là: xác định phương châm và cách đánh của chiến dịch; tạo ưu thế tuyệt đối về binh lực và hỏa lực cho từng trận đánh, trong điều kiện lực lượng chiến dịch của ta không hơn địch bao nhiêu về binh lực, còn về hỏa lực thì kém chúng; tác chiến hiệp động binh chủng; đánh thắng trận đầu; xây dựng trận địa tiến công và bao vây; tạo và nắm thời cơ chuyển đợt chiến dịch; phát triển chiến thuật đánh công sự vững chắc v.v...

Quyết tâm chiến lược sáng suốt và kiên quyết của Trung ương Đảng ta cũng như sự chỉ đạo chiến dịch đúng đắn và sáng tạo trong chiến dịch lịch sử này đã đưa lực lượng vũ trang và nhân dân ta đến những thắng lợi vĩ đại.

Nhân tố quyết định thứ hai của chiến thắng Điện Biên Phủ và nói chung của các chiến thống Đông Xuân là tinh thần quyết chiến quyết thắng, tinh thần đoàn kết chiến đấu của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Tinh thần quyết chiến quyết thắng của quân và dân ta trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ và nói chung trong các chiến dịch Đông Xuân là sức mạnh vô cùng tận của quần chúng nhân dân, nhất là quần chúng công nông đông đảo, khi đã thấm nhuần đường lối chính trị đúng đắn của Đảng, khi đã vùng lên chiến đấu vì những nguyện vọng cơ bản và thiết tha nhất của mình, vì độc lập cho Tổ quốc, vì ruộng đất cho dân cày, để mở đường tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Tinh thần quyết chiến quyết thắng của quân và dân ta kế tục và phát triển truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc ta, là tinh thần quật cường và tài thao lược của một dân tộc dân không đông lắm, đất không rộng lắm, đã có mấy nghìn năm lịch sử đoàn kết chống ngoại xâm, đã từng đánh thắng những đội quân xâm lược đông hơn gấp nhiều lần. Đó là tinh thần yêu nước của một dân tộc đã từng lập nên nhưng chiến công lừng lẫy: Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa… Đó là chí khí anh hùng của một quân đội cách mạng non trẻ, đem sức mạnh của chính nghĩa, của khối đoàn kết toàn dân mà chống lại quân đội hùng mạnh của một nước đế quốc xâm lược. Tinh thần đó cũng tức là tinh thần triệt để cách mạng của giai cấp công nhân mà Đảng ta đã dày công giáo dục cho quân đội, là quyết tâm cao độ đánh đổ chủ nghĩa đế quốc và bè lũ tay sai, là tinh thần chiến đấu anh dũng tuyệt vời, khắc phục mọi khó khăn, vượt qua mọi gian khổ, là chủ nghĩa anh hùng cách mạng đặt lợi ích của nhân dân, của dàn tộc, của cách mạng lên trên hết, sẵn sàng hy sinh tất cả vì lợi ích của cách mạng.

Tinh thần đó đã được hun đúc rèn luyện trải qua quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài của nhân dân ta. Đặc biệt trong Đông Xuân 1953 - 1954, chính sách phát động quần chúng triệt để giảm tô thực hiện cải cách ruộng đất đã có một tác dụng lớn lao, nâng cao tinh thần yêu nước và giác ngộ giai cấp, nâng cao tinh thần tích cực cách mạng của nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân ta.

Trong quân đội, sau nhiều đọt chỉnh huấn chính trị về mục tiêu đấu tranh của cách mạng dân tộc dân chủ và nhiệm vụ quân đội nhân dân, đặc biệt là sau cuộc chỉnh quân chính trị về chính sách cải cách ruộng đất, cán bộ và chiến sĩ của ta mà tuyệt đại đa số xuất thân là nông dân đã củng cố thêm một bước lập trường giai cấp, nâng cao thêm một bước tinh thần tích cực diệt địch, ai nấy đều hăng hái xông ra mặt trận với một khí thế cách mạng rất cao, xung phong nhận những nhiệm vụ khó khăn nhất, sẵn sàng triệt để chấp hành mệnh lệnh tiêu diệt quân địch, giành lấy thắng lợi.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #58 vào lúc: 19 Tháng Giêng, 2010, 09:15:56 pm »

Với một khí thế như vậy, không có một khó khăn nào mà quân ta không vượt qua, không có kẻ địch nào mà quân ta không tiêu diệt được, không có nhiệm vụ nào mà quân ta không hoàn thành. Dựa vào máy bay, xe tăng, đại bác, với sự tính toán hết sức chủ quan kẻ địch cho rằng quân ta không thể mở đường được, không thể kéo pháo vào trận địa được. Trái với ước lượng của chúng, quân ta đã làm được việc đó. Cậy có binh lực lớn, vũ khí hiện đại, hỏa lực mạnh, trận địa kiên cố, địa hình bằng phẳng có thể lợi dụng được, chúng cho rằng quân ta không thể nào tiếp cận được mà không khỏi bị tiêu diệt, không thể nào đánh được các trung tâm đề kháng của chúng, càng không có khả năng tiến hành một cuộc chiến đấu liên tục cả ngày lẫn đêm nhằm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của chúng. Trái với dự đoán của chúng, những việc mà chúng cho là không thể làm được, quân ta đã làm được. Quân ta đã tiêu diệt toàn bộ quân địch tại tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Trong cuộc chiến đấu vĩ đại trên mặt trận Điện Biên Phủ cũng như trên các chiến trường cà nước trong Đông Xuân 1953 - 1954, lực lượng vũ trang nhân dân ta đã nêu biết bao nhiêu tấm ngưỡng hy sinh chiến đấu, xả thân vì nước vì dân rất đáng kính phục, mãi mãi tiêu biểu cho truyền thống tốt đẹp của quân đội ta. Bế Văn Đàn lấy thân mình làm giá súng. Hoàng Văn Nô, người dũng sĩ đâm lê, đã liên tiếp đâm chết nhiều tên địch, cho đến khi bị tử thương mà vẫn còn ở trong tư thế hiên ngành diệt địch. Tô Vĩnh Diện đã không chút do dự hy sinh tính mệnh để bảo vệ pháo. Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai. Đó là những chiến sĩ quân báo một mình dùng mưu trí bắt sống nhiều địch, những chiến sĩ lái xe bị thương không rời tay lái, những chiến sĩ công binh vật lộn với bom chờ nổ, những chiến sĩ quân y, vận tải lăn mình trong khói lửa để chuyển đạn, tải thương, những chiến sĩ thông tin liên lạc quên mình để bảo vệ đường dây liên lạc v.v… và biết bao nhiêu tấm gương chói lọi không sao kể xiết. Đó là những đơn vị ở mặt trận Điện Biên Phủ cũng như ở các mặt trận phối hợp, dù là bộ đội chủ lực bộ đội địa phương hoặc dân quân du kích, tất cả đều đã khắc phục không biết bao nhiêu gian khổ, khó khăn và đều đã lập nên những chiến công rực rỡ, góp phần vào thắng lợi của chiến dịch.

Nhân dân ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ và nói chung trong các chiến dịch Đông Xuân đã nêu cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, hết lòng phục vụ tiền tuyến, đoàn kết chiến đấu bên cạnh bộ đội, thực hiện khẩu hiệu “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”.

Tại khắp nơi trong nước, ở chiến trường chính cũng như ở các chiến trường phối hợp, ở vùng tự do cũng như ở vùng sau lưng địch, nhân dân ta đã dồn sức người sức của cho các mặt trận. Ờ mặt trận Điện Biên Phủ, để khắc phục những khó khăn lớn về cung cấp cho một chiến dịch quy mô lớn, thời gian dài, với một binh lực lớn, trên một chiến trường rừng núi xa hậu phương hàng trăm kilômét, nhân dân ta đã có một tinh thần anh dũng và đoàn kết chiến đấu với quân đội rất cao. Nhân dân ta đã làm được một việc vĩ đại hoàn toàn ngoài sức tưởng tượng của địch.

Bom đạn của máy bay địch, gian khổ của đường dài, không ngăn cản được bước tiến của các đoàn dân công, các đoàn vận tải trên khắp các trường lớn, đường con, dòng sông, ngọn suối ngày đêm qua lương thực, đạn dược đến Điện Biên Phủ cho bộ đội đánh giặc. Biết bao nhiêu tấm gương hy sinh chiến đấu, vượt qua gian khổ, khắc phục khó khăn đáng kính phục đã xuất hiện. Nhân dân vùng Tây Bắc mới giải phóng, còn nghèo khổ, đã hăng hái góp phần lương thực còn lại cho bộ đội. Những đoàn xe đạp thồ đã nâng mức trọng tải mỗi xe lên tới hàng tạ, có khi đến ba tạ. Dân công chở thuyền, mảng trên sông phần nhiều là phụ nữ đã vượt qua biết bao dòng nước xiết, khắc phục biết bao nhiêu ghềnh thác hiểm nghèo. Tại tuyến lửa, nhân dân đã chiến đấu sát cánh với bộ đội, lăn mình trong khói lửa tải đạn, tải thương binh. Tại các bệnh viện, trên đường tải thương, nhân dân đã săn sóc thăm hỏi thương binh như con em ruột thịt. Trên các tuyến đường, nhân dân đã ngày đêm lăn lộn làm đường, sửa đường dưới sự uy hiếp của máy bay địch, ngay trên những quả bom chờ nổ.

Nhân dân ta không những cung cấp cho bộ đội mọi nhu cầu chiến đấu và chiến đấu bên cạnh bộ đội mà còn chăm lo cho bộ đội từ cái kim, sợi chỉ, miếng quà, tấm bánh, gửi hàng nghìn bức thư cổ vũ thăm hỏi chiến sĩ, gửi đến cho chiến sĩ cả tấm lòng thương yêu đùm bọc của toàn dân, truyền cho chiến sĩ cả nhiệt tình của hàng triệu nông dân đang phấn khởi sôi nổi tiến hành công cuộc cải cách ruộng đất.

Tinh thần đoàn kết chiến đấu, tinh thần quyết chiến quyết thắng của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh rõ ràng là nhân tố quyết định thắng lợi chiến dịch Điện Biên Phủ cũng như của các chiến dịch Đông Xuân. Điều đó chứng minh rằng truyền thống yêu nước lâu đời của dân tộc khi đã được phát huy mạnh mẽ và tư tưởng cách mạng, đường lối cách mạng, khì đã đi sâu vào quần chúng nhân dân thì trở nên một sức mạnh vật chất vĩ đại, vô địch. Điều đó càng chúng minh rằng hậu phương vững chắc là một nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi trong cuộc chiến tranh cách mạng.

Nhân tố thứ ba quyết định thắng lơi của chiến dịch Điện Biên Phủ cũng như của các chiến dịch Đông Xuân là sự phối hợp chặt chẽ của Quân giải phóng Phathét Lào, sự giúp đỡ hết lòng của nhân dân nước bạn đối với bộ đội tình nguyện ta, là sự ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của nhân dân yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới.

Vốn cố truyền thống đoàn kết lâu đời chống kẻ thù chung là đế quốc Pháp xâm lược, nhân dân và lực lượng vũ trang hai nước Việt - Lào đã chung sức, chung lòng, đồng cam cộng khổ, sát cánh bên nhau chiến đấu. Thắng lợi của mỗi nước trong cuộc kháng chiến là kết quả của sự phối hợp đấu tranh chặt chẽ giữa nhân dân và lực lượng vũ trang hai nước Việt - Lào.

Dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Lào yêu nước, Quân giải phóng Pathét Lào, ngay từ khi mới thành lập đã phải đương đầu với kẻ thù có số quân đồng, trang bị mạnh hơn nhiều lần, nhưng với lòng yêu nước nồng nàn, với ý chí chiến đấu cao, được nhân dân các nước các dân tộc thương yêu, đùm bọc, chung sức chiến đấu, đã càng đánh càng mạnh, càng mạnh càng thắng lớn.

Quân giải phóng Pathét Lào đoàn kết, phối hợp chặt chẽ với quân tình nguyện Việt Nam trong chiến đấu và công tác, đã giành được thắng lợi ngày càng lớn, góp phần quan trọng vào việc tạo nên những bước chuyển biến trong cục diện chiến trường ba nước Đông Dương. Đặc biệt trong Đông Xuân 1953 - 1954, thắng lợi của Quân giải phóng Phathét Lào và quân tình nguyện Việt Nam ở Trung Lào, Hạ Lào và lưu vực sông Nậm Hu đã gây cho địch những tổn thất nặng nề, giải phóng những vùng rộng lớn, đã tạo điều kiện thuận lợi cho quân đội ta tiêu diệt địch trên chiến trường Việt Nam, nhất là trên mặt trận chính diện chủ yếu: Điện Biên Phủ.

Nhân dân Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác đã coi cuộc chiến đấu của lực lượng vu tranh và nhân dân ta như tiền tuyến chống chủ nghĩa đế quốc của cả hệ thống xã hội chủ nghĩa, đã theo dõi hàng ngày tình hình chiến sự trên mặt trận Điện Biên Phủ, đã kịch liệt lên án những âm mưu và hành động kéo dài và mở rộng chiến tranh của đế quốc Pháp - Mỹ, hết lòng ủng hộ và cổ vũ cuộc chiến đấu của nhân dân ta.

Ở đây một lần nữa, cần nhắc đến tác dụng hết sức to lớn của những kinh nghiệm về đấu tranh vũ trang của nhân dân Liên Xô và nhân dân Trung Quốc đối với cuộc kháng chiến của ta.

Trong khi cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung đi đến bước quyết liệt với một tinh thần quốc tế chủ nghĩa cao cà, nhân dân Pháp và Đảng cộng sản Pháp đã ra sức ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta, đẩy mạnh cuộc đấu tranh anh dũng đòi chấm dứt cuộc “chiến tranh bẩn thỉu” ở Đông Dương, chống lại chính sách xâm lược của thực dân hiếu chiến Pháp.

Nhân dân các dân tộc bị áp bức, nhân dân tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới cũng theo dõi cuộc chiến đấu của nhân dân ta, nhất là cuộc chiến đấu trên mặt trận Điện Biên Phủ, với một sự đồng tình sâu sắc, với một lòng ủng hộ nhiệt liệt, coi thắng lợi Điện Biên Phủ như thắng lợi của bản thân mình.

Chúng ta rất coi trọng sự đồng tình ủng hộ của các lực lượng hòa bình, dân tộc độc lập, đân chủ và xã hội chủ nghĩa đối với cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân ta và coi đó là một nhân tố rất quan trọng đã đưa chúng ta đến thắng lợi.

Trên đây là những nhân tố quyết định thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ vĩ đại và nói chung của các chiến dịch Đông Xuân.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #59 vào lúc: 19 Tháng Giêng, 2010, 09:17:00 pm »

Đứng về phía thực dân xâm lược Pháp, sau khỉ Điện Biên Phủ thất thủ, quân đội viễn chinh bị thất bại thảm hại, kế hoạch quân sự Nava bị phá sản hoàn toàn, thì từ các nhà quân sự có tên tuổi cho đến các chính khách, các nhà văn, nhà báo, ngườí ta đã biết rất nhiều về Điện Biên Phủ và đã nêu lên nhiều ý kiến khác nhau về nguyên nhân thất bại, kẻ thì quy trách nhiệm cho chính phủ Pháp, kẻ thì quy trách nhiệm cho tướng Nava. Cuộc tranh luận sôi nổi đó đến nay vẫn chưa chấm dứt.

Chúng ta đều biết rằng lúc đầu, khì tướng Nava quyết định đánh chiếm Điện Biên Phủ để ứng cứu cho Lai Châu, bảo vệ Thượng Lào, thì từ các nhà chiến lược cho đến các chính khách lớn nhỏ, kể cả các giới chính trị và quân sự của Mỹ, đều hết sức tán dương và ca ngợi. Chính tướng Cônhi cũng coi việc đánh chiếm Điện Biên Phủ là một cuộc hành binh rất đúng lúc và đúng nơi, lại còn nói thêm rằng nếu có quyền quyết định và có đủ khả năng thì từ trước đã chuyển toàn bộ tập đoàn cứ điểm Nà Sản lên Điện Biên Phủ. Còn tướng Xa lăng thì cho rằng “đánh chiếm Điện Biên Phủ là cần thìết”. Ngay thủ tướng Pháp Lanien, tuy không trực tiếp quyết định việc này, nhưng khi nhận được báo cáo thì không những hết sức tán thành mà còn cho rằng “quyết định chủ động của tướng Nava không hề bị một chuyên gia quân sự nào kể cả ở Pháp và ở nước ngoài chê trách cả”.

Sau khi tướng Nava hạ quyết tâm chiến lược ngày 3 tháng 12 năm 1953, “phòng giữ Điện Biên Phủ bằng bất cứ giá nào” và hiếp nhận chiến đấu với chủ lực ta nhằm gây cho chủ lực ta một tổn thất nặng nề, thì một lần nữa tử các tướng tá cho đến các chính khách Pháp - Mỹ cũng đều nhất trí nhận định rằng, “tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ là pháo đài không thể công phá”. Tướng Nava và các bộ hạ của y như Cônhi, Đờ Cát đều cho rằng Điện Biên Phủ là tập đoàn cứ điểm mạnh nhất ở Đông Dương. Bộ trưởng bộ quốc phòng Plêven, bộ trưởng bộ quốc gia liên kết Mác Giắckê, tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp tướng Êly cũng đều đã đích thân đến Điện Biên Phủ để quan sát tại chỗ hệ thống phòng ngự vững chắc của tập đoàn cứ điểm và ai nấy đều tin tưởng chiến trường này quả là chiến trường lý tưởng được chuẩn bị hết sức chu đáo để tiêu diệt chủ lực của ta. Tướng Ô Đanien, tổng tư lệnh quân đội Mỹ ở Thái Bình Dương, cũng đều chung một ý kiến.

Mãi đến hạ tuần tháng 12, khi có tin đại bộ phận chủ lực của ta tiếp tục tiến quân về hướng Điện Biên Phủ, bộ tổng chỉ huy quân đội viễn chinh mới bắt đầu lo lắng, cho rằng, nếu xảy ra cuộc giao chiến thì “chưa chắc đảm bảo thắng lợi một trăm phần trăm”. Tuy nhiên, các tướng tá Pháp - Mỹ chưa đánh giá hết nguy cơ lớn đang đe dọa tập đoàn cứ điểm. Lúc bấy giờ, cũng có ý kiến nên rút khỏi Điện Biên Phủ, nhưng cả tướng Nava và tướng Cônhi đều cho rằng, cần phải “kiên trì phòng giữ căn cứ Điện Biên Phủ bằng bất cứ giá nào”, nếu rút Điện Biên Phủ thì sẽ “tổn thương đến tinh thần của bộ đội đồn trú đang phấn chấn trước viễn cảnh của một trận phòng ngự thắng lợi”. Còn đại tá Đờ Cát thì từ chỗ “kiên quyết phải kéo đối phương xuống thung lũng này” để tiêu diệt, đi đến chỗ không thật tin tưởng lắm, cho rằng, “trận đánh sẽ gay go, nhưng nếu được tăng cường hai, ba tiểu đoàn dự bị thì sẽ giữ vững trận địa”. Nhưng thời gian kéo dài, quân địch vẫn không thấy quân ta mở cuộc tiến công vào tập đoàn cứ điểm, mà lại có những cuộc hành binh lớn về phía Thượng Lào. Tướng Nava cho rằng “ngọn trào tiến công” của đối phương đã chấm dứt. Do nhận định như vậy nên Nava đã mang một bộ phận chủ lực tiếp tục chiến dịch Átlăng ở miền Nam.

Trong thời gian Điện Biên Phủ bị quân ta tiến công, thì bộ tổng chỉ huy quân đội viên chinh đã từng có nhiều dự định, tuy rốt cuộc không được thực hiện, nhưng mãi đến nay họ vẫn chưa đánh giá được những dự định ấy nếu được thực hiện thì sẽ đưa đến những kết quả thế nào, thành công hay thất bại.

Quân địch đã từng có dự định đánh lên Thái Nguyên hay Tuyên Quang, Yên Bái, để cắt đứt đường giao thông tiếp tế của ta. Chúng ta có thể khẳng định rằng nếu quân địch mở một cuộc hành binh lên hướng đó thì không những không phá được giao thông tiếp tế của ta, mà chắc chắn bị bộ phận chủ lực của quân ta giấu kín ở đó nắm ngay thời cơ mà gây cho chúng những tổn thất nặng nề.

Quân địch đã từng có dự định rút quân khỏi Điện Biên Phủ bằng đường hàng không. Việc này nếu làm sớm thì có thể quân địch chỉ bị quân ta tiêu diệt một bộ phận; nhưng từ hạ tuần tháng 12 trở đi, chủ lực ta đã tập trung ở xung quanh Điện Biên Phủ, luôn luôn bám sát địch, nếu địch rút quân thì chắc chắn bị thiệt hại nặng.

Đến lúc quân địch ở Điện Biên Phủ đã lâm vào tình trạng nguy khốn, thi địch đã từng có dự định đột phá vòng vây rút về phía Thượng lào. Nếu dự đình này được thực hiện thì chắc chắn toàn bộ sinh lực của địch sẽ bị tiêu diệt sạch trong những trận chiến đấu quyết liệt vì quân ta đã kiểm soát tất cả các con đường lớn, nhỏ đưa đến biên giới Việt - Lào; dù quân địch lúc đầu có chạy thoát được một bộ phận thì trên chiến trường rừng núi Thượng Lào ở gần Điện Biên Phủ chúng cũng nhất định bị tiêu diệt.

Cũng đã có lúc theo đề nghị của Chính phủ Lanien Biđôn, bọn hiếu chiến Mỹ, như bộ trưởng bộ ngoại giao Đalét, tham mưu trường lục quân Mỹ, tướng Rátpho, muốn lợi dụng dịp hiếm có này đưa máy bay oanh tạc hạng nặng của Mỹ can thiệp vào Đông Dương đề cứu nguy cho Điện Biên Phủ. Chúng ta có thể nói rằng, nếu bọn hiếu chiến Mỹ thực hiện kế hoạch tăng cường can thiệp của chúng thì khó khăn của chúng ta có thể tăng thêm, nhưng chung quy cũng không thể cứu vãn được tình thế của quân đội viễn chinh, không cứu nguy được cho Điện Biên Phủ, v.v. Chính các giới chính trị và quân sự ở Mỹ cũng đã thấy điều đó; không những họ lo ngại trước dư luận phản đối của nhân dân tiến bộ trên thế giới, kể cả nhân dân Mỹ, mà họ càng không dám tái diễn ở Đông Dương một cuộc chiến tranh Triều Tiên thứ hai. Vì vậy mà chính Aixenhao cũng phải tuyên bố không đồng tình với việc tăng cường can thiệp đó, cho rằng, nếu làm như vậy thì không những sẽ là một “tấn bi kịch” cho nước Mỹ mà “còn có thể dẫn đến chiến tranh ở Đông Dương hoặc Đông Nam Á”. Sớcsin, lúc đó là Thủ tướng Anh cũng nói thẳng là, “không nên can thiệp” vì “can thiệp là sai lầm về chiến lược”, lại nói rằng, “chỉ có Giơnevơ mới là khả năng tốt nhất”.

Trong cuộc bình luận về “tài thao lược” của tướng Nava sau khi trận đánh đã kết thúc, những ý kiến tương đối xác đáng của các nhà quân sự tư sản là: tướng Nava cho quân nhảy dù đánh chiếm Điện Biên Phủ là có thể hiểu được, nhưng quyết định chọn Điện Biên Phủ làm nơi quyết chiến chiến lược với chủ lực của ta là sai, sai ở chỗ đánh giá quá cao lực tượng của mình, đánh giá quá thấp lực lượng của đối phương. Hoặc giả, họ còn cho rằng, trong lúc đã quyết định tập trung bộ đội tinh nhuệ ở Điện Biên Phủ để quyết chiến với ta mà lại còn mang một bộ phận chủ lực mở chiến dịch Átlăng, dùng binh như vậy là phạm sai lầm về chiến lược, vì làm như vậy tức là phân tán chủ lực, một điều mà tướng Nava lúc nào cũng tuyên bố là hết sức tránh. Những ý kiến trên đây là xác đáng, nhưng sau khi tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đã bị tiêu diệt thì những ý kiến ấy không phải là những cao kiến ghê gớm gì mà đó chỉ là sự thật hai năm rõ mười, bất cứ một ai cũng đều thấy cả. Vấn đề là ở chỗ, nếu các nhà quân sự tư sản nói trên ở vào địa vị của tướng Nava thì liệu họ có thoát khỏi cách nhìn nhận vấn đề theo chiến tranh cổ điển, theo quan điểm chiến lược tư sản, liệu họ có thấy hết những khả năng to lớn của các lực lượng vũ trang nhân dân trong chiến tranh cách mạng, của cả một dân tộc có truyền thống quật cường bất khuất, có đường lối cách mạng và kháng chiến đúng đắn, đang đứng dậy chiến đấu để tự giải phóng hay không?

Cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Pháp ở Đông Dương đã kéo dài tám, chín năm. Mặc dầu quân địch đã ra sức tăng cường lực lượng đến gần nửa triệu quân, hy sinh hàng chục vạn binh sĩ, bỏ vào cuộc “chiến tranh bẩn thỉu” đến 2.688 tý tiền Pháp, tốn không biết bao nhiêu của cải, đổ không biết bao nhiêu máu của nhân dân Pháp, 20 nội các lần lượt thay thế nhau ở Pháp, 7 cao ủy, 8 tổng chỉ huy lần lượt thay thế nhau ở Đông Dương, cuộc chiến tranh xâm lược vẫn ngày càng nguy khốn, đi từ thất bại này đến thất bại khác, từ sai lầm chiến lược này đến sai lầm chiến lược khác, cuối cùng đưa đến thất bại thảm hại trên mặt trận Điện Biên Phủ. Đó là vì cuộc chiến tranh của đế quốc Pháp là chiến tranh phi chính nghĩa. Cuộc chiến tranh đó đã vấp phải tinh thần đấu tranh bất khuất của cả một dân tộc. Cho nên, không có một tướng soái tài giỏi nào, dù là Lơcle, Tátxinhi, Nava hay một người nào khác, có thể cứu thoát quân đội viễn chinh khỏi thất bại. Cũng không có một sức mạnh vũ khí nào, dù là đại bác, xe tăng, hay máy bay oanh tạc hạng nặng, kể cả bom nguyên tử của đế quốc Mỹ nữa, có thể cứu vãn được tình thế. Nói cho đến cùng, nếu trong Thu Đông năm 1953, quân địch không nhảy dù đánh chiếm Điện Biên Phủ hoặc đánh chiếm rồi rút quân không chọn Điện Biên Phù là điểm quyết chiến với ta, thì sớm hay muộn một trận Điện Biên Phủ cũng sẽ diễn ra, dù thời gian và địa điềm có thể khác; và rốt cuộc, cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Pháp - Mỹ cũng nhất định đi đến thất bại nhục nhã.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM