Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Ba, 2024, 09:24:29 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2  (Đọc 88770 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #100 vào lúc: 04 Tháng Hai, 2010, 09:54:48 pm »


Thực hiện chỉ thị Đồng khởi toàn miền của Xứ ủy, Tỉnh ủy Vĩnh Long quyết định chọn bốn xã An Khánh, Hòa Tân, Phú Long, Mỹ Thuận làm điểm chỉ đạo.

Ngày 14-9-1960, Đồng khởi ở Vĩnh Long nổ ra, mở đầu bằng trận đánh đồn Giồng Nồi và Tầm Vu. Ý đồ của ta là đánh nhanh, diệt gọn gây tiếng vang lớn, cổ vũ quần chúng nổi dậy. Song do ta để mất yếu tố bất ngờ, quân địch đông, lại dựa vào công sự kiên cố kháng cự nên ta không dứt điểm được, buộc phải chuyển sang bao vây. Tỉnh huy động hàng ngàn quần chúng và gia đình binh sĩ ở các xã Hòa Tân, An Khánh, Phú Long, Phú Mỹ, Mỹ Thuận cùng bộ đội bao vây và kêu gọi binh lính địch ra hàng. Địch phản kích nhiều lần để phá vây, nhưng đều bị ta bẻ gãy. Sau 16 giờ, địch ở các đồn rút chạy. Hai xã An Khánh, Hòa Tân được giải phóng hoàn toàn. Hai xã Mỹ Thuận, Phú Long giải phóng cơ bản. Ta thu trên 100 súng.

Phong trào lan nhanh ra các xã Mỹ Lộc, Mậu Lộc, Ngãi Tú, Bình Minh, Loan Mỹ, Song Phú (huyện Tam Bình) rồi phát triển ra toàn tỉnh.

Trong lúc đó, ở thị xã, sáng 15-9-1960, hơn 10.000 quần chúng từ nông thôn kéo đến dinh tỉnh trưởng, đấu tranh, đưa kiến nghị chống khủng bố đàn áp, chống bắt xâu, bắt lính và xây dựng khu trù mật. Trước thái độ kiên quyết và sức mạnh cửa đông đảo quần chúng, địch buộc phải chấp nhận yêu sách, hứa sẽ giải quyết.

Đến cuối 1960, Vĩnh Long đã giải phóng hoàn toàn 3 xã, giải phóng cơ bản 30 xã với 45.000 dân.

Hòa cùng khí thế nổi dậy đồng loạt ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ, Liên tỉnh ủy miền Trung Nam Bộ quyết định lấy ngày 23-9-1960 là ngày các tỉnh trong toàn khu nổi dậy.

Chấp hành quyết định này, Thường vụ Tỉnh ủy Bến Tre đã phát động Đồng khởi đợt hai trong thời gian từ 15 đến 20 ngày. Hướng chính là huyện Giồng Trôm, hướng phụ là huyện Mỏ Cày. Điểm chỉ đạo của huyện Giồng Trôm là 5 xã: Phong Nẫm, Phong Mỹ, Châu Phú, Châu Hòa, Châu Bình. Để nghi binh, đánh lạc hướng địch, tạo điều kiện thuận lợi cho nổi dậy ở nông thôn trong hai ngày 21 và 22-9-1960, tỉnh huy động hàng vạn dân rầm rộ kéo vào thị xã tung tin “Việt cộng” sắp đánh lớn. Ngày 23-9, thị xã vắng tanh, các cửa hàng, cửa hiệu đều đóng cửa. Bọn ngụy quyền hoang mang không biết chuyện gì sẽ xảy ra. Giữa lúc đó, đại đội 2611 của tỉnh phục kích tiêu diệt gọn 1 trung đội bảo an tại Tây Thạch (huyện Châu Thành) trên đường chúng từ Mỹ Tho vào thị xã. Trung đội vũ trang huyện Giồng Trôm diệt 1 trung đội bảo an tại Lương Quới trên đường từ Giồng Trôm vào thị xã. Đêm 23-9, tự vệ thị xã diệt đồn dân vệ cầu Nhà Thương, tước vũ khí dân vệ ở cầu Cái Cối. Địch tưởng ta sắp đánh lớn, nên sáng 24-9, chúng vội vã rút 2 tiểu đoàn đang đóng ở Giồng Trôm về thị xã.

Chiều 24-9, nhân dân các xã Lương Hòa, Long Mỹ, Bình Hòa (Giồng Trôm) kết bè bằng cây dừa, đặt thuốc nổ thả trôi theo dòng nước, phá sập cầu Bình Chánh, cắt đứt đường từ thị xã đi Giồng Trôm. Đúng 17 giờ ngày 24-9, tiếng trống mõ nổi lên vang động khắp nơi. Bến Tre bừng bừng khí thế bước vào đồng khởi đợt hai. Tại xã Châu Phú ta có anh Chống đại đội trưởng đại đội bảo an là cơ sở nội tuyến. Theo kế hoạch của ta, anh Chống tập hợp đại đội bảo an rồi gom súng để kiểm tra, lúc đó một tiểu đội của đại đội 261 giả làm lính bảo an kéo thẳng vào đồn, vừa kêu gọi binh lính đầu hàng vừa xông vào tước súng địch. Nhân dân tiếp ứng đến san bằng đồn. Một mũi khác, cơ sở nội tuyến của ta dùng xe lam tiến vào bốt Nhà Thờ (Châu Phú), chiếm bốt không tốn một viên đạn.

Cùng thời gian, các xã Phong Nẫm, Phong Mỹ, Châu Bình, Châu Hòa kết hợp với lực lượng vũ trang và nội tuyến bức hàng và san bằng các đồn bốt ở dọc sông Ba Lại, mở ra vùng giải phóng rộng lớn, thu 100 súng, bắt trên 100 tù binh. Thắng lợi ở 5 xã điểm đã cổ vũ các xã khác trong toàn tỉnh nổi dậy. Trong đêm 24-9, hàng chục vạn quần chúng của gần 100 xã đồng loại nổi trống, mõ, đốt ống lói, đốt đuốc, thắp đèn sáng rực xã, ấp, đi biểu tình, thị uy, vây đồn, phát loa kêu gọi địch ra hàng. Trước khí thế mạnh mẽ của phong trào, địch trong 20 đồn, bốt ở Giồng Trôm nộp súng xin hàng. Ở Ba Tri, 10 đồn bị diệt và bức hàng. Châu Thành, Bình Đại, Thạnh Phú, hàng chục đồn bị diệt, hàng chục xã được giải phóng.

Tại Mỏ Cày địch bố phòng tương đối chặt, ngày 3-10-1960, tỉnh phải điều đại đội 261 từ Giồng Trôm sang hỗ trợ. Vượt qua sông Hàm Luông, cán bộ, chiến sĩ 261 kết hợp với nội ứng, lấy đồn Cái Quao, giải phóng xã An Định, rồi tiến xuống Hương Mỹ. Bọn dân vệ ở bốt Tân Trung hoảng sợ rút chạy. Bộ đội ta bao vây, bức hàng đồn Minh Đức. Một loạt xã ở nam Mỏ Cày nổi dậy giành quyền làm chủ. Ở bắc Mỏ Cày trung đội vũ trang huyện cùng nhân dân bức hàng các đồn Thanh Tân, Tân Phú Tây, bao vây cô lập đồn Cái Mơn. Nhiều xã kể cả vùng nhân dân theo đạo Thiên chúa cũng thừa cơ nổi dậy giành quyền làm chủ.
_____________________________________
1. Thành lập tháng 6-1960.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #101 vào lúc: 04 Tháng Hai, 2010, 09:55:25 pm »


Bị tiến công khắp nơi, trong tháng 10-1960, địch tung lực lượng ra phản kích. Hàng loạt cuộc đấu tranh chính trị trực diện của quần chúng chống địch khủng bố, càn quét lại diễn ra. Ở nhà thờ La Mã, Cái Mơn nhiều giáo dân đưa đơn kiến nghị yêu cầu cha cố không được tiếp tay cho giặc. Tại quận lỵ Trúc Giang, hơn 1.000 tín đồ các đạo giáo biểu tình phản đối quận trưởng đưa lính đi càn quét khủng bố nhân dân, đòi địch rút quân về trại. Trong khi đó, lực lượng vũ trang tỉnh tích cực đánh địch càn quét ở các vùng trọng điểm huyện Giồng Trôm và Mỏ Cày. Đại đội 261 cùng 1 trung đội của huyện vây đồn Sơn Đốc (Hiệp Hưng) diệt gọn đại đội bảo an quận và 3 tên đại úy chỉ huy chi khu, bắt sống 32 tên, phá hủy 3 xe quân sự, thu toàn bộ vũ khí. Lực lượng vũ trang tỉnh cùng bộ đội huyện Mỏ Cày phục kích ở Cầu Kinh Nhỏ (An Thới) và Cầu Kinh Lớn (An Thạch) diệt 1 đại đội bảo an, bắt sống 17 tên.

Cuối 1960, Bến Tre đã giải phóng hoàn toàn 51 xã trên tổng số 115 xã trong toàn tỉnh. 21 xã được giải phóng một phần. Nhân dân làm chủ 300/500 ấp. Hệ thống kìm kẹp của địch ở nông thôn bị phá vỡ.

Đêm 24-9-1960, Mỹ Tho bước vào Đồng khởi đợt hai. Điểm chỉ đạo của tỉnh là nam lộ 4 thuộc hai huyện Cai Lậy và Châu Thành diện là Chợ Gạo và Gò Công.

Nam lộ 4 là vùng cơ sở ta còn rất ít và yếu, nên Tỉnh ủy đã chia vùng này thành ba khu vực và phân công cán bộ tỉnh, huyện cùng lực lượng vũ trang tăng cường cho từng khu. Khu vực một gồm 11 xã của Cai Lây. Khu vực hai gồm 8 xã của Châu Thành. Khu vực ba: 7 xã giáp ranh thị xã.

Tại các khu vực điểm, tỉnh vận dụng phương thức “phá hoang”. Lực lượng vũ trang chia nhau đi vận động quần chúng tổ chức biểu tình mít tinh trong phạm vi từng ấp, rồi lấy lực lượng ấp này loan ra thu hút lực lượng ấp khác. Cứ thế, từ một ấp lan ra toàn xã, từ xã này lan qua xã khác. Trong 4 ngày đầu, cả 8 xã điểm ở khu vực hai đều nổi dậy diệt ác, phá kìm, xé cờ ba que, ảnh Diệm, bao vây đồn bốt, bức địch rút hoặc đầu hàng. Đến ngày thứ 10, cả 11 xã ở khu vực một cũng nổi dậy giành quyền làm chủ ở nhiều xã, ấp. Riêng khu vục ba, giáp ranh thị xã, do lực lượng địch đông, chống trả quyết liệt, nên cuộc nổi dậy có yếu hơn các nơi khác. Tuy vậy, nhân dân cũng làm chủ được một số xã ấp.

Phía diện Chợ Gạo, có lực lượng vũ trang hỗ trợ, nhân dân đã nổi dậy diệt ác, phá kìm giành quyền làm chủ nhiều xóm ấp.

Kết hợp với nổi dậy đồng loạt ở nông thôn, ngày 29-9-1960, hơn 8000 người kéo đến trước dinh tỉnh trưởng đấu tranh trực diện với địch. Họ đưa kiến nghị yêu cầu chính quyền Diệm không được bắt xâu, bắt lính. Đòi thả chồng, con em, đòi không xáo canh ruộng đất. Tỉnh trưởng Mỹ Tho buộc phải đứng ra nhận đơn, để xoa dịu phong trào. Cùng với nhân dân thị xã, 40.000 người thuộc các xã ven đường 4 và 24 đã kéo vào thị trấn Cai Lậy, Tân Hiệp, Long Định, đưa đơn kiến nghị đòi dân sinh, dân chủ.

Đây là cuộc đấu tranh chính trị lớn nhất do Tỉnh ủy trực tiếp chỉ đạo.

Cuối 1960, Tỉnh ủy Mỹ Tho họp đánh giá phong trào đấu tranh trong tỉnh đã kết luận: “Ta đã giành được thắng lợi, song so với yêu cầu thì chưa đạt”. Hội nghị chủ trương tăng cường hoạt động của lực lượng vũ trang để hỗ trợ cho đấu tranh chính trị, tạo điều kiện cho nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ. Có chủ trương phù hợp, cuộc Đồng khởi của nhân dân Mỹ Tho nổi lên đều và liên tục đến cuối tháng 2-1961. Kết quả, Mỹ Tho đã giải phóng được một vùng rộng bao gồm 32 xã có thế liên hoàn từ Châu Thành đến Cái Bè, từ Chợ Gạo đến Gò Công.

An Giang vốn là một tỉnh thuộc cùng yếu. Vì vậy, đầu 1960, khi Liên tỉnh ủy Trung Nam Bộ phát động khởi nghĩa, tỉnh không thực hiện được chủ trương này. Trong lúc các tỉnh khác thuộc Trung Nam Bộ thực hiện đồng khởi đợt hai thì An Giang mới làm đợt một. Ngày 23-9-1960, lệnh Đồng khởi được phát ra trong toàn tỉnh. Vùng Bảy Núi bao gồm các huyện Tri Tôn và Tịnh Biên được chọn làm điểm chỉ đạo của tỉnh. Chỉ trong hai ngày đầu, với sự hỗ trợ của tiểu đoàn 512 (lực lượng vũ trang tỉnh), nhân dân đã gỡ 10 đồn. Tỉnh huy động 18.000 quần chúng kéo vào thị trấn Tri Tôn (đa số là người Khơme) đấu tranh chống địch khủng bố, chống gom dân, chống bắt xâu đi làm đường, xây dựng căn cứ Chi Lăng. Cuộc đấu tranh kéo dài hai ngày. Cuối cùng địch phải nhượng bộ, chấp nhận yêu sách của nhân dân. Không đầy một tháng sau, tất cả các đồn, bốt nhỏ thuộc huyện Tịnh Biên, Tri Tôn đều bị ta đánh chiếm hoặc địch bỏ chạy. Các vùng nông thôn được giải phóng gần hết. Trong khi đó, Tiểu đoàn 510 mở vùng Tân Châu, An Phú, Châu Phú, Chợ Mới. Phía Tân Châu ta diệt đồn tam giác Tân An, kết hợp nội ứng, lấy đồn Long Sơn. Quần chúng nổi dậy phá khu trù mật Tân An. Ở Chợ Mới ta diệt ác phá kìm, mở lõm, giải phóng Hội An và một số ấp khác. Huyện Châu Thành và Thốt Nốt là hai huyện cơ sở ta còn yếu. Tỉnh ủy đưa một bộ phận tiểu đoàn 512 và cán bộ đi sâu xuống xã, ấp vận động quần chúng.

Đến cuối 1960, An Giang đã mở rộng thế làm chủ ở các xã dọc biên giới và vùng Bảy Núi. Các căn cứ lõm Tân Châu, An Phú được xây dựng. Chiến tranh nhân dân phát triển ở khắp nơi trong tỉnh. Riêng vùng có đồng bào theo đạo Hòa Hảo vẫn còn là khâu yếu nhất trong phong trào khởi nghĩa của tỉnh.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #102 vào lúc: 04 Tháng Hai, 2010, 09:55:58 pm »


Kiến Phong, sau đợt một (15-1-1960), tỉnh mở tiếp các đợt 1-5, 19-5, 20-7. Trong các đợt này, đại đội 272 và 271 chống địch càn quét ở xã Mỹ Tho và Mỹ Quý (7-1960), diệt 120 tên, thu nhiều vũ khí, hỗ trợ đắc lực cho nhân dân nổi dậy diệt ác, phá kìm, giành quyền làm chủ nông thôn. Tính đến tháng 12-1960, Kiến Phong đã đánh diệt và làm bị thương 890 tên địch, bắt sống 500 tên, làm rã ngũ hàng ngàn tên khác, thu 400 súng, giải phóng hoàn toàn 7 xã, giải phóng cơ bản 12 xã, phá banh 9 khu gom dân, bức rút 9 đồn, diệt 12 đồn.

Kiến Tường bước vào Đồng khởi đợt hai (9-1960) đúng vào mùa nước lụt. Có vùng nước ngập sâu đến 3-4m. Đại bộ phận các xã giải phóng ở vùng 8 và vùng 6 phải sơ tán lên biên giới tránh nước ngập. Tỉnh ủy vừa phải lo bố trí chỗ ăn, ở cho nhân dân, vừa chỉ đạo lực lượng vũ trang tranh thủ thời cơ, tích cực tiến công địch. Lực lượng vũ trang tỉnh đã phát huy sáng kiến làm công sự bằng chuối cây, bao trấu trên ghe xuồng, lợi dụng đêm tối, trời mưa bí mật áp sát đồn địch chờ gần sáng, bất ngờ, nổ súng tiến công, gỡ hàng loạt đồn, bốt. Đến đầu 1961, tỉnh giải phóng được 9 xã và một số ấp. Riêng vùng 4, giải phóng được 3 xã Nhơn Ninh, Tân Hòa, Tân Ninh.

Tỉnh Long An, tháng 12-1960 mới bước vào Đồng khởi đợt hai, trọng điểm là Đức Hòa. Tại đây, lực lượng vũ trang tỉnh, huyện và du kích xã phối hợp diệt đồn Mỹ Hạnh (lần hai), Tân Mỹ, Bàu Trai... Các huyện Đức Huệ, Cần Giộc, Bến Lức, nhân dân mở thêm được nhiều lõm giải phóng. Đến 3-1961, tỉnh đã giải phóng hoàn toàn 12 xã, giải phóng cơ bản 67 xã khác.

Cuộc đồng khởi thắng lợi ở Nam Bộ đã có tác động mạnh đến phong trào cách mạng ở các tỉnh đồng bằng Liên khu V. Nhưng vì Liên Khu V là vùng tự do cũ, nên khi chuyển phương thức từ đấu tranh vũ trang công khai trong kháng chiến chống thực dân Pháp, sang đấu tranh chính trị “hợp pháp” và “nửa hợp pháp” thời kỳ sau Hiệp định Gíơnevơ, gặp rất nhiều khó khăn, địch lại chủ tâm đánh phá các tỉnh đồng bằng quyết liệt trong thời kỳ “tố cộng”, làm cho nhiều vùng nông thôn các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên trở thành “vùng trắng”. Đầu năm 1960, mặc dù số cơ sở bị vỡ đã giảm bớt, một số cơ sở bị đánh phá đã được phục hồi và một số cơ sở mới đã được xây dựng, phong trào cách mạng trong Liên khu V căn bản vẫn được giữ vững, song điều kiện để cho những cuộc nổi dậy cục bộ ở các tỉnh đồng bằng phát triển thành cao trào đồng khởi như ở Nam Bộ thì chưa đủ. Vì “Trong thời gian qua, địch đã tăng cường khủng bố, vơ vét và đầu độc tinh thần quần chúng, hòng tiêu diệt phong trào cách mạng ở đồng bằng, kiểm soát chặt chẽ miền núi để củng cố địa vị thống trị của chúng”1. Từ thực tiễn của tình hình Liên khu, tháng 4-1960, Hội nghị Liên khu ủy Khu V chủ trương: “Mạnh đạn phát động quần chúng ở căn cứ miền núi vũ trang chống địch càn quét. Đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang tập trung của tỉnh, khu; khẩn trương xây dựng Tây Nguyên thành căn cứ địa vững chắc để làm chỗ dựa cho đồng bằng”2.

Thực hiện chủ trương của Liên khu ủy, toàn Quân khu đã khẩn trương tổ chức xây dựng được 12 đại đội đặc công và 2 đại đội bộ binh. Liên tỉnh ba, có 2 đại đội tập trung. Tỉnh Quảng Nam có 1 đại đội đặc công, 1 đội quân báo và một số khung đại đội. Tỉnh Quảng Ngãi có 3 đại đội bộ binh và 1 đại đội đặc công. Các tỉnh khác, một đại đội. Riêng hai tỉnh Lâm Đồng và Tuyên Đức mới thành lập đội vũ trang công tác.

Tháng 7-1960, Liên khu ủy quyết định mở một đợt hoạt động đấu tranh chính trị kết hợp với quân sự trong toàn khu, nhằm mở rộng và phát triển Tây Nguyên và miền Tây các tỉnh đồng bằng thành một khu căn cứ tương đối hoàn chỉnh, giành quyền làm chủ ở một số khu vực giáp ranh miền núi và đồng bằng, phá lỏng thế kìm kẹp của địch ở đồng bằng.

Mở đầu đợt hoạt động ngày 31-7-1960, đơn vị 2/9 (lực lượng vũ trang tỉnh Bình Thuận) đánh trận Bắc Ruộng (quận lỵ Hoài Đức). Lực lượng địch đóng ở đây khá mạnh. Riêng chi khu, địch bố trí một đại đội lính bảo an (130 tên) với hệ thống đồn, bốt khá kiên cố. Đồn chính được xây dựng theo hình tam giác, ba góc là ba lô cốt. Ngoài đồn chính có một đồn tiền tiêu để bảo vệ và chi viện cho đồn chính khi bị tấn công.

Khu hành chính (tức quận lỵ) có 2 trung đội dân vệ, 1 trung đội cảnh sát, 1 chi công an quận, một tiểu đội lính bảo an canh giữ nhà ở của tên quận trưởng.

Khu dinh điền (khu dồn dân) do một trung đội dân vệ (46 tên) và lực lượng thanh niên cộng hòa đảm nhận. Xung quanh khu có hàng rào dây kẽm gai, cổng kiểm soát dân ra vào.

Tổng số địch đóng trên địa bàn quận lỵ ước chừng 300 tên. Trong khi đó lực lượng vũ trang tỉnh Bình Thuận chỉ có đơn vị 2/9 với 22 cán bộ, chiến sĩ.

Kết hợp với cơ sở mật bên trong, qua điều tra, nghiên cứu phân tích, đánh giá tình hình. Tỉnh ủy nhận định: Trên địa bàn tỉnh suốt từ đầu 1960 ta chưa có hoạt động gì lớn, nên địch rất chủ quan, không hề phòng bị. Lực lượng ta ít, nhưng cán bộ hầu hết tập kết về, được rèn luyện và trưởng thành từ chống Pháp, có kinh nghiệm, có tinh thần chiến đấu cao. Chiến sĩ được giác ngộ chính trị, có ý chí và quyết tâm cao. Nhân dân vùng căn cứ có truyền thống cách mạng, có lòng căm thù địch cao độ đang mong muốn được giải phóng, sẵn sàng nổi dậy phá khu tập trung, trở về bản làng cũ.

_____________________________________
1, 2. Trích Nghị quyết liên khu ủy Liên khu V, tháng 4-1960, tài liệu lưu trữ tại Phòng khoa học quân sự Quân Khu V.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #103 vào lúc: 04 Tháng Hai, 2010, 09:56:33 pm »


Nghị quyết lần thứ 15 của Trung ương Đảng đã được quán triệt. Cấp trên đã cho phép hoạt động vũ trang hỗ trợ cho đấu tranh chính trị, thắng lợi của Tua Hai (Tây Ninh) và Đồng khởi ở Bến Tre (đầu 1960) là nguồn cổ vũ lớn đối với Bình Thuận. Tỉnh ủy quyết định “bí mật bất ngờ, lấy ít đánh nhiều, tiêu diệt chi khu Hoài Đức, hỗ trợ cho nhân dân phá khu tập trung Bắc Ruộng, đưa dân về căn cứ, chậm nhất vào cuối tháng 7-1960 để kịp làm mùa, và tránh được mưa bão lớn”.

Ban chỉ huy trận đánh gồm các đồng chí Phạm Hoài Chương, chỉ huy trưởng, Lê Triều, chính ủy, Nguyễn Thành, Nguyễn Thanh Đức, chỉ huy phó.

Ngày 17-7-1960, tổ trinh sát do đồng chí Phạm Hoài Chương dẫn đầu đi chuẩn bị chiến trường. Từ thực tiễn chuẩn bị, chỉ huy trận đánh xác định mục tiêu và lập phương án tác chiến.

Theo phương án đã dự kiến, chiều 28-7, toàn bộ lực lượng tham gia trận đánh, gồm đơn vị 2/9, bộ đội huyện Tánh Linh (3 đồng chí) và 100 dân công. 14 giờ ngày 30-7-1960, đơn vị làm lễ xuất quân.

0 giờ 15 phút ngày 31-7-1960, trận đánh bắt đầu. Tại chi khu quân sự, sau 5 phút chiến đấu, ta đã làm chủ trận địa, thu toàn bộ vũ khí trong kho, giải thoát cho 40 tù chính trị bị địch giam giữ, bắt sống 50 tên, trong đó có tên Y Tài, đồn trưởng đồn bảo an, kiêm chi khu trưởng. Cùng lúc, bộ phận đánh quận lỵ (khu hành chính) diệt đồn dân vệ, chi công an quận và bọn cảnh sát chiến đấu. Bộ phận đánh khu dinh điền do Hồ Kim Việt chỉ huy, cũng diệt được một số dân vệ, số còn lại tháo chạy tán loạn vào trong dân.

Trận đánh kết thức nhanh chóng, ta diệt và bắt sống 300 tên, thu 150 súng các loại, giải phóng 5000 dân khỏi khu tập trung.

Bắc Ruộng là trận đánh mở đầu của lực lượng vũ trang tỉnh Bình Thuận. Đây là lần đầu tiên ở cực Nam Trung Bộ với một lực lượng quân sự ít, nhưng biết tổ chức chặt chẽ, kế hoạch chiến đấu tỉ mỉ, sử dụng lực lượng hợp lý, công tác chính trị, tư tưởng tốt, nên đã diệt được một chi khu, quận lỵ, phá khu tập trung đưa dân về bản làng cũ làm ăn sinh sống, củng cố và mở rộng được vùng căn cứ địa. Chiến thắng Bắc Ruộng là điểm mốc lịch sử của quân dân Bình Thuận trong việc chuyển từ đấu tranh chính trị hòa bình, sang đấu tranh chính trị có vũ trang hỗ trợ, đưa phong trào cách mạng trong tỉnh phát triển nhảy vọt.

Thắng lợi đó đã cổ vũ quân và dân các tỉnh Nam Trung Bộ và Tây Nguyên nổi dậy đánh địch, giành quyền làm chủ.

Đêm 29 rạng 30-8-1960 tại Ninh Thuận, một bộ phận của lực lượng vũ trang liên tỉnh 3 do đồng chí Phan Văn Hược cùng Vũ Tấn Hạt, Bùi Đức Thành chỉ huy, tiến công hai đồn Tà Lú, Ma Ty. Phối hợp với lực lượng vũ trang của liên tỉnh, du kích, thanh niên chiến đấu và nhân dân Bác Ái Đông bao vây đồn Suối Đầu. Sau ba ngày bị ta vây ép, toàn bộ lực lượng địch bỏ đồn, tháo chạy. Hơn 5000 đồng bào trong khu vực này đã nổi dậy phá banh các khu tập trung, trở về làng cũ.

Cùng thời gian, lực lượng vũ trang tỉnh Khánh Hòa tiêu diệt đồn Gia Lê. 5000 dân trong các khu dồn Bố Lạng, Gia Lô, Thác Trại nổi dậy phá tan hệ thống kìm kẹp của địch. Tháng 11-1960, ta phá khu đồn Cây Dầu, các vùng Tà Lương, Suối Hai được giải phóng.

Sau các đòn tiến công quân sự và các cuộc nổi dậy phá khu tập trung của đồng bào miền núi, vùng căn cứ địa cách mạng ở cực Nam Trung Bộ được mở ra liên hoàn trong 23 xã, với trên 30 ngàn dân thuộc 6 huyện Anh Dũng, Bác Ái (Ninh Thuận), Khánh Sơn, Vĩnh Sơn (Khánh Hòa), Tánh Linh1 và một phần Di Linh (Bình Thuận).

Trên địa bàn Tây Nguyên, từ tháng 9-1960, được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, các cuộc nổi dậy rời làng chống địch cũng liên tiếp nổ ra.

Các đêm 20, 21, 22 và 23-10-1960, một bộ phận đặc công quân khu, cùng lực lượng vũ trang Kon Tum diệt cứ điểm Măng Đen, Măng Bút, phục kích đánh địch trên đường số 5, diệt 7 xe quân sự và một đại đội địch lên giải tỏa cho Măng Đen. Nhân dân nổi dậy phá banh các khu tập trung, trở về làng cũ làm ăn và xây dựng chính quyền cách mạng.

Hướng bắc, lực lượng vũ trang Khu V tiêu diệt một loạt đồn bốt, khu đồn ở huyện Đắc Lây (huyện 40), trong đó có Đắc Tả. Đồn do 1 đại đội bảo an (C14) đóng giữ. Đây còn là nơi đứng chân của sở chỉ huy tiền phương trung đoàn 42 ngụy để chỉ huy yểm trợ cho chiến dịch “thượng du vận” ở bắc Kon Tum.
_____________________________________
1. Quận Hoài Đức - tên chính quyền Sài Gòn đặt, còn ta gọi huyện Tánh Linh.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #104 vào lúc: 04 Tháng Hai, 2010, 09:57:09 pm »


Đêm 20-10-1960, một trung đội học viên trường quân sự tỉnh và 5 chiến sĩ đặc công quân khu, tiến công đồn Đắc Tả, diệt 45 tên địch (có tên thiếu tá trung đoàn trưởng trung đoàn 42), bắt 20 tên, thu 45 súng các loại, giải tán 1.400 phu làm đường bị địch bắt giữ.

Bị đòn đau, địch đưa tiểu đoàn 10 ra phản kích hòng chiếm lại đồn. Ta tổ chức phục kích (ngày 22-10), diệt 19 tên, thu 10 súng. Có bộ đội hỗ trợ, du kích thoát ly bao vây, bức rút đồn Oay Rài xã Đác Nông (sát biên giới Việt - Lào). Nhân dân nổi dậy giải phóng một vùng rộng phía bắc tỉnh Kon Tum. Địch phải co cụm quanh các cứ điểm lớn và quận lỵ Đác Hà, Đác Sút, Đác Tô, thị xã Kon Tum.

Phối hợp với Kon Tum, ngày 23-10-1960, lực lượng vũ trang tỉnh Gia Lai tiến công tiêu diệt đồn Can Nác, sau đó đánh chiếm khu dinh điền Lệ Thanh. Nhân dân huyện 4, huyện 5 nổi dậy phá tan hệ thống kìm kẹp của địch, giải phóng một vùng rộng lớn từ Chư Pông, Đức Cơ đến An Khê nối liền với vùng giải phóng Kon Tum.

Ở Đắc Lắc, đêm 27-10-1960, lực lượng vũ trang tỉnh đánh đồn Plây Lốc, Ea Nu, Ea Thu, hỗ trợ nhân dân vùng đông bắc và thị xã Buôn Ma Thuột nổi dậy giành quyền làm chủ.

Tỉnh Lâm Đồng, các đội vũ trang công tác dựa vào các bàn đạp K’Dòn, Tờ La, Bờ Gia, tiến lên hướng BLao, Di Linh, mở rộng cơ sở ở nam bắc đường 20. Một số đội công tác từ Tà Nội, Gia Hon tiến lên hướng tây và từ Phước Bình tiến lên hướng Đà Lạt, xây dựng cơ sở ở Đồng Mang, Đa Tao, Đa Cháy.

Cùng với phong trào nổi dậy của đồng bào Tây Nguyên, nhân dân các tỉnh ven biển cũng tiến công vào bộ máy kìm kẹp của địch.

Ở Quảng Nam, tháng 9-1960, được sự hỗ trợ của đội vũ trang công tác huyện Tam Kỳ, nhân dân xã Kỳ Sanh nổi dậy, diệt ác, giải phóng thôn Tú Mỹ. Đây là thôn đầu tiên ở đồng bằng tỉnh Quảng Nam được giải phóng. Cũng thời gian này, tỉnh Quảng Nam được trên bổ sung cán bộ khung của một tiểu đoàn. Tỉnh đã vận động thanh niên ở vùng địch ra xây dựng thành 5 đại đội (H30, H21, H36, H29, H32), mỗi đại đội khoảng 30 người. Ngay sau khì thành lập, đại đội H29, H30 phối hợp với lực lượng vũ trang của quân khu, tiến công tiêu diệt đồn Ga Lâu (huyện Hiên) và đồn Sáu (huyện Giằng) diệt 4 trung đội địch, thu nhiều vũ khí.

Ngày 20-9-1960, lực lượng vũ trang tỉnh cùng đội vũ trang công tác huyện tiến công quận lỵ Hiệp Đức, diệt một đại đội bảo an, thu toàn bộ vũ khí.

Đến cuối 1960, vùng căn cứ miền núi Quảng Nam căn bản đã được giải phóng, gần 40.000 dân giành được quyền làm chủ.

Hưởng ứng đợt hoạt động do Liên khu ủy V phát động, tỉnh Quảng Ngãi tổ chức một đợt tiến công địch ở các huyện miền núi.

Đêm 15-10-1960, đơn vị 339 tiến công quận lỵ Trà Bồng. Địch ở các đồn Đá Líp, Tà Lạt, EO Chim hoảng sợ bỏ chạy. Nhân dân nổi trống mõ, tù và, phàn la, đốt đuốc truy tìm bọn ác ôn, thu vũ khí. Cùng thời gian, đơn vị 89 và du kích huyện Sơn Hà đánh đồn Hà Thành, diệt một đại đội bảo an. Đơn vị 299 và du kích Huyện Ba Tơ, Minh Long tập kích đồn Long Xuân diệt một đại đội địch. Thừa thắng, nhân dân các xã vùng thấp nổi dậy diệt ác phá kìm, giành quyền làm chủ.

Đến cuối 1960, Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi vẫn đứng vững. Vùng giải phóng mở rộng bao gồm 54 xã: Trà Bồng 19 xã, Sơn Tây 10 xã, Sơn Hà 8 xã, Minh Long 4 xã, Ba Tơ 13 xã. Trong khi đó, ở các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Mộ Đức phong trào nông dân đấu tranh chống chính sách đấu giá công điền của địch diễn ra sôi nổi.

Tại Bình Định, tháng 6-1960, Đại hội đại biểu Tỉnh đảng bộ lần thứ nhất (trong kháng chiến chống Mỹ) họp chủ trương: “Phát động phong trào chiến tranh du kích mạnh mẽ ở miền núi nhằm củng cố, bảo vệ và mở rộng căn cứ địa, đẩy mạnh hoạt động vũ trang tuyên truyền, phát động quần chúng diệt ác, trừ gian, khôi phục, phát triển cơ sở và xây dựng các lõm đồng bằng, xây dựng bàn đạp vùng giáp ranh, đưa phong trào đồng bằng lên một bước mới, lấy hai huyện Hoài Nhơn, Hoài Ân làm trọng điểm; khẩn trương xây dựng lực lượng vũ trang tập trung tỉnh, huyện và các đội vũ trang công tác, đẩy mạnh hoạt động vũ trang hỗ trợ mạnh mẽ hơn nữa cho phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng”1.

Thực hiện chủ trương này, ngày 2-9-1960, tại xã Tu Cơ Rông huyện Vĩnh Thạnh, đơn vị vũ trang tập trung đầu tiên của tỉnh lấy tên 2/9 gồm 35 đồng chí đã ra đời.

Hai mươi ngày sau khi thành lập, ngày 23-9-1960, đơn vị ra quân trận đầu, đánh vào trụ sở ngụy quyền xã Hoài Tân, huyện Hoài Nhơn (cách quận lỵ Bồng Sơn 4 km về phía bắc) do một trung đội dân vệ đóng giữ. Sau 30 phút nổ súng, toàn bộ trung đội địch bị bắt gọn, ta thu 22 súng các loại. Trận đánh nhanh, gọn ngay sát một quận lỵ ở đồng bằng, đã làm bọn địch trong vùng lo sợ. Cũng trong đêm 23-9-1960, phân đội đặc công của tỉnh phối hợp với đội vũ trang huyện Hoài Ân tập kích trụ sở ngụy quyền xã Ân Nghĩa, bắt gọn một trung đội dân vệ thu 25 súng.
_____________________________________
1. Trích nghị quyết Đại hội đại biểu Tỉnh đảng bộ Bình Định tháng 6-1960 lưu trữ tại Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Bình Định.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #105 vào lúc: 04 Tháng Hai, 2010, 09:57:38 pm »


Đối phó với các cuộc tiến công bất ngờ của ta ở đồng bằng, tháng 11-1960, địch mở cuộc càn quét, thảm sát đẫm máu ở Đá Bàn (An Lão). Chúng đã giết 32 người dân vô tội. Cuối tháng 12-1960, địch lại đưa một tiểu đoàn lính H’rê do tên Đinh Ngô chỉ huy từ Quảng Ngãi vào càn quét cướp bóc, đốt phá các xã An Dân, An Lạc, An Vịnh (An Lão). Đơn vị 2/9 phục kích ở Đất Dài, diệt một tiểu đội, buộc địch phải rút lui. Được vũ trang hỗ trợ, nhân dân nổi dậy phá khu tập trung Gò Nĩ (Đất Dài), giải phóng vùng phía Tây sông An Lão.

Nổi bật hơn cả là phong trào nổi dậy của nhân dân tỉnh Phú Yên. Thấu suốt tinh thần Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng, tháng 11-1959, Tỉnh ủy Phú Yên họp ở Suối Heo, huyện Sơn Hòa, quyết định: Đẩy mạnh đấu tranh trên cả hai vùng đồng bằng và miền núi với các hình thức hợp pháp, nửa hợp pháp và bất hợp pháp. Xây dựng lực lượng vũ trang tỉnh, huyện, lực lượng bán vũ trang xã, chuẩn bị điều kiện để khi có thời cơ thuận lợi thì nổi dậy khởi nghĩa. Sau hội nghị Tỉnh ủy, tháng 12-1959, trung đội vũ trang đầu tiên của tỉnh, quân số 33 cán bộ, chiến sĩ được thành lập, lấy phiên hiệu B95.

Ngày 16-12-1959, đơn vị ra quân trận đầu, đánh đồn Trà Kê (thuộc huyện Sơn Hòa) diệt một trung đội dân vệ thu 25 súng, hơn 1000 viên đạn và 30 quả lựu đạn. Thắng lợi của trận đánh đã củng cố niềm tin trong nhân dân, góp phần tăng cường trang bị, vũ khí cho đơn vị. Đầu năm 1960, B95 phát triển thành ba trung đội. Các huyện cũng khẩn trương tổ chức các đội vũ trang công tác.

Ngày 14-8-1960, lần đầu tiên trong kháng chiến chống Mỹ, Phú Yên tổ chức Đại hội đảng bộ tỉnh. Sau khi kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết 15 của Trung ương, Nghị quyết Liên khu ủy, đại hội chủ trương: đẩy mạnh vũ trang để hỗ trợ cho phong trào nổi dậy của quần chúng ở vùng đồng bằng.

Thực hiện nghị quyết Đại hội đảng bộ tỉnh, tháng 11-1960, lực lượng vũ trang tỉnh mở đợt hoạt động quân sự nhằm giải phóng vùng cao nguyên huyện Sơn Hòa. Mở đầu đợt hoạt động, đội vũ trang công tác hỗ trợ cho nhân dân xã Phước Tân nổi dậy diệt bọn ác ôn, xóa bỏ chính quyền địch ở cơ sở, lập ban tự quản. Tiếp theo Phước Tân, nhân dân các làng Quang Hiển, Tân Vinh, Phước Thuận, Đá Mài, Phú Mỡ nổi dậy xóa bỏ chính quyền ngụy, lập chính quyền tự quản.

Đến cuối năm 1960, miền tây huyện Sơn Hòa căn bản được giải phóng, 13.000 dân thoát khỏi ách kìm kẹp của Mỹ - ngụy. Vùng căn cứ được mỏ rộng liên hoàn bảo đảm hành lang từ Phú Yên vào Khánh Hòa.

Trong thời gian này, quán triệt tinh thần chỉ đạo của tỉnh “phải chọn những tên đầu sỏ để diệt” nhằm “đánh dập đầu rắn, bắn trúng đầu cọp, diệt một thằng làm rung cả bọn”, huyện Tuy Hòa đã chọn những tên ác ôn khét tiếng làm đối tượng hành động. Trong số này có lên Nguyễn Y Chi - cảnh sát quận (nguyên là cảnh sát xã Hòa Mỹ). Nguyễn Ân, ấp trưởng xã Hòa Xuân. Đêm 11-11-1960, tổ diệt ác của huyện đã đột nhập nhà tên Chi bắn chết hắn ngay trên giường ngủ. Tên Nguyễn Ân cũng bị giết khi cùng đồng bọn đang trên đường về ấp Lạc Long.

Việc trừng trị các tên ác ôn trong huyện đã làm địch hoang mang, quần chúng phấn khởi. Khí thế cách mạng của quần chúng lên cao. Thời cơ đã chín muồi, Tỉnh ủy quyết định lấy xã Hòa Thịnh làm thí điểm phát động nhân dân nổi dậy đánh đổ chính quyền địch, thành lập chính quyền cách mạng. Đêm 22-12-1960, cuộc Đồng khởi ở Hòa Thịnh nổ ra. Theo kế hoạch, Đào Công Văn, trung đội trưởng dân vệ - cơ sở nội tuyến của ta, tập trung vũ khí của trung đội dân vệ lại và cho lính tự do chơi bời, đánh bạc. Lúc đó, các đội vũ trang công tác huyện, chia ba mũi đánh vào trung đội dân vệ tại chợ Mỹ Xuân, trụ sở hội đồng xã ở thôn Mỹ Điền và nhà tên Tín - phó đại diện xã ở Phú Hữu. Chiến sĩ ta vừa bắn súng, vừa đốt pháo gây nhiều tiếng nổ, làm địch hoảng sợ. Một số bỏ trốn, số còn lại xin hàng. Tên Ngọc, trung đội phó ác ôn, ngoan cố chống cự, liền bị ta bắn chết. Cả trung đội dân vệ bị xóa sổ, ta thu toàn bộ vũ khí. Ở Phú Hữu, ta bắt sống tên Tín đưa về trụ sở cho nhân dân hỏi tội. Trong lúc đó, tại thôn Mỹ Điền, cơ sở của ta tổ chức liên hoan cuối năm mời bọn hội đồng xã đến dự. Chờ cho chúng nhậu nhẹt say sưa, một tổ vũ trang của ta ập vào bắt gọn cả hội đồng xã. Hàng ngàn quần chúng ở thôn cầm gậy gộc, đốt đèn đuốc, đánh thùng tôn, nổi mõ vang trời, phối hợp với lực lượng vũ trang truy tìm ác ôn rồi kéo về trụ sở xã Mỹ Xuân họp mít tinh, tuyên bố xóa bỏ ngụy quyền tay sai, lập chính quyền nhân dân tự quản.

Đồng khởi Hòa Thịnh giành được thắng lợi nhanh gọn. Đây là xã đầu tiên ở đồng bằng tỉnh Phú Yên giành được chính quyền. Sau Hòa Thịnh, các xã Hòa Đồng, Hòa Tân, Hòa Xuân, Hòa Hiệp, Hòa Mỹ vũ trang nổi dậy, diện ác phá kìm, xóa bỏ chính quyền địch, lập ban tự quản xã, thôn, tổ chức lực lượng du kích và các đoàn thể quần chúng.

Cùng với Tuy Hòa, nhân dân các huyện trong tỉnh Phú Yên nổi dậy, giành quyền làm chủ ở nhiều nơi. Phong trào cách mạng trong toàn tỉnh phát triển đều. Phú Yên xứng đáng là lá cờ đầu của phong trào Đồng khởi ở các tỉnh Trung Trung Bộ. Thành công này của Phú Yên góp phần không nhỏ vào chiến công chung của quân và dân Khu V.

Đến cuối năm 1960, nhân dân các tộc người thiểu số miền núi Khu V đã diệt và bức rút 55 đồn, bốt, cứ điểm địch (có các cứ điểm lớn như Măng Đen, Măng Bút, Hà Thành), diệt và làm tan rã gần 40 trung đội địch, phá tan hàng chục khu tập trung dân lớn. Tính cả Tây Nguyên và miền tây các tỉnh đồng bằng, quân và dân Khu V đã phá tan bộ máy ngụy quyền, giành quyền làm chủ ở 3.200 thôn trong tổng số 5.721 thôn. Căn cứ cách mạng Khu V được mở rộng dọc phía Đông Trường Sơn nối với các căn cứ ở Tây Nguyên. Non nửa triệu dân được hoàn toàn giải phóng.

Thắng lợi này bước đầu làm thay đổi cục diện chiến trường trên địa bàn Khu V. Nhân dân từ chỗ ép mình chịu đựng đã vùng lên đánh địch, giành quyền làm chủ đại bộ phận rừng núi và từng bước phá vỡ thế kìm kẹp ở đồng bằng, đưa phong trào cách mạng ở Khu V phát triển lên bước mới.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #106 vào lúc: 04 Tháng Hai, 2010, 09:59:13 pm »


*
*   *

Một năm Đồng khởi, nhân dân miền Nam từ trong thực tiễn đấu tranh chống chế độ thực dân kiểu mới của Mỹ, đã sáng tạo ra phương thức kết hợp chính trị với quân sự và binh vận, đánh sập bộ máy cai trị của địch ở cơ sở giành quyền làm chủ đại bộ phận nông thôn1. Sự sáng tạo đó thể hiện nổi bật trong sự tạo ra sức mạnh to lớn của quần chúng tiến hành nổi dậy đồng loạt, trên quy mô rộng lớn ở nông thôn, đã tác động và cổ vũ các phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, đòi hòa bình... ở thành thị, làm cho một số người trước đây tôn sùng Diệm hoặc lừng chừng, nay bắt đầu thức tỉnh. Vì vậy, cuộc Đồng khởi không chỉ đánh sập bộ máy ngụy quyền cơ sở, mà cùng với nó, các tổ chức chính trị, xã hội do Mỹ dựng lên ở nông thôn cũng tan rã theo, lực lượng vũ trang nòng cốt của chế độ Diệm dao động, nhụt ý chí, hiện tượng đào rã ngũ trong quân ngụy trở thành phổ biến2. Mâu thuẫn trong nội bộ hàng ngũ địch thêm sâu sắc. Trong báo cáo gửi Tổng thống Mỹ Ken-nơ-di, Cục tình báo Trung ương Mỹ đã thú nhận: “Một thời kỳ hết sức nghiêm trọng đối với Tổng thống Ngô Đình Diệm và Việt Nam Cộng hòa đã ở ngay trước mặt. Trong sáu tháng cuối 1960, tình hình an ninh trong nước vẫn tiếp tục ngày càng xấu đi và nay đã lên tới mức nghiêm trọng... Trên một nửa toàn bộ vùng nông thôn ở phía nam và tây nam Sài Gòn cũng như một số vùng ở phía bắc đã nằm dưới quyền kiểm soát rất lớn của Việt cộng”3.

Trong bối cảnh ấy, ngày 11-11-1960, nổ ra cuộc đảo chính lật đổ chính quyền Diệm, mà người cầm đầu, đại tá Nguyễn Chánh Thi - một sĩ quan thân tín bậc nhất của Diệm, chỉ huy trưởng một đơn vị dù thuộc lực lượng cơ động chiến lược của Sài Gòn. Quân đảo chính có sự yểm hộ của xe tăng đã chiếm các vị trí xung yếu: Bộ Tổng tham mưu, Nha Tổng giám đốc Công an, cảnh sát, trụ sở quốc hội, nhà bưu điện trung ương, sân bay Tân Sơn Nhất, đài phát thanh và bao vây cả Dinh Độc lập.

Trước áp lực quân sự của phe đảo chính, Diệm đã phải tuyên bố quyết định giải tán chính phủ hiện thời và triệu tập các tướng lĩnh quân đội Việt Nam Cộng hòa để thành lập một chính phủ lâm thời. Song, ngay sáng hôm sau (12-l l), trong lúc phe đảo chính đang hy vọng ở sự thỏa hiệp của Diệm, thì sư đoàn 7 từ Biên Hòa đã kéo về Sài Gòn cứu nguy cho Diệm. Những đơn vị thủy quân lục chiến và thiết giáp hôm qua theo phe đảo chính, nay ngả về phía Diệm. Hai bên xung đội giữ đội. Quân của Diệm phản công. Phe đảo chính dần dần tan rã. 18 sĩ quan làm đảo chính vội vã lên máy bay chạy trốn sang Campuchia. Trong số này có cả Nguyễn Chánh Thi và trung tá Vương Văn Đông (một sĩ quan chỉ huy trong lữ đoàn dù). Cuộc đảo chính tuy thất bại, song nó minh chứng hùng hồn cho sự khủng hoảng chính trị sâu sắc trong nội bộ chính phủ Diệm. Nó là hồi chuông báo hiệu sự suy tàn của chế độ độc tài, tàn bạo do Mỹ dựng nên chỉ biết dựa vào lực lượng quân đội và cảnh sát để thống trị đa số nhân dân.

Trái lại, phong trào cách mạng miền Nam phát triển mạnh mẽ, quyền làm chủ của nhân dân ở thôn, xã được xác lập, ruộng đất bị địa chủ cướp sau 1954, nay lại trở về tay nhân dân. Lực lượng vũ trang được xây dựng và từng bước trưởng thành. Trên đà phát triển đó, ngày 20-12-1960, tại xã Tân Lập, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh, đại biểu các giai cấp các dân tộc, các tôn giáo và đảng phái đã họp đại hội và tuyên bố thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam4.

Tuyên ngôn của Mặt trận nêu rõ: “Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam chủ trương đoàn kết tất cả các từng lớp nhân dân, các giai cấp, các dân tộc, các đảng phái, các đoàn thể, các tôn giáo và thân sĩ yêu nước, không phân biệt xu hướng chính trị, để đấu tranh đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và tập đoàn Ngô Đình Diệm tay sai của đế quốc Mỹ, thực hiện độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc”.

Mặt trận kêu gọi: “Tất cả hãy đứng lên, tất cả hãy đoàn kết lại. Hãy xiết chặt hàng ngũ chiến đấu dưới ngọn cờ của Mặt trận dân tộc giải phóng, đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và Ngô Đình Diệm”5.

Sự ra đời của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh yêu nước của nhân dân miền Nam chống Mỹ - Diệm, mà đỉnh cao là thắng lợi của cuộc Đồng khởi năm 1960. MTDTGPMNVN ra đời đáp ứng kịp thời yêu cầu của cách mạng và lòng mong đợi của nhân dân. Đánh giá sự kiện này, Hồ Chủ tịch đã nói: “Một mặt trận của nhân dân đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi là một lực lượng tất thắng. Hiện nay, trong cuộc đấu tranh anh dũng chống chế độ tàn bạo của Mỹ - Diệm, đồng bào ta ở miền Nam cũng có “Mặt trận dân tộc giải phóng” với chương trình hoạt động thiết thực và phù hợp với nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Do đó có thể đoán rằng đồng bào miền Nam nhất định sẽ thắng lợi, nước nhà nhất định sẽ thống nhất, Nam - Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”6.

Thắng lợi của Đồng khởi năm 1960 thật vĩ đại. Nó đã “giáng một đòn bất ngờ vào chiến lược Aixenhao, làm thất bại một hình thức thống trị điển hình của chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ”7. Nó “Đánh dấu một bước nhảy vọt quan trọng chuyển cách mạng miền Nam sang thế tiến công, phát triển cao trào cách mạng ra khắp miền với sự kết hợp cả hai hình thức đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự”8. Nó chứng minh tính đúng đắn của Nghị quyết Trung ương lần thứ 15 và tính năng động, sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo của các đảng bộ miền Nam. Thắng lợi ấy tạo ra bước phát triển nhảy vọt của lực lượng cách mạng cả quân sự và chính trị đẩy chính quyền Sài Gòn vào thời kỳ khủng hoảng triền miên kéo dài.
_____________________________________
1. Nam Bộ, nhân dân giành quyền làm chủ nhiều mức khác nhau ở 865 xã trong tổng số 1193 xã. Khu V, làm chủ 3200 thôn trong tổng số 5721 thôn.
2. Nam Bộ, trong năm 1960 đã có tới 11.500 binh sĩ bỏ ngũ.
3. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ, t 1, Việt Nam, TTX, 1971, tr. 85.
4. Từ đây trở đi cụm từ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam xin viết tắt MTDTGPMNVN.
5. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam - Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1961, tr.9.
6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 9, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1989, tr. 107.
7. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 21, (10-1973), Tlđd.
8. Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do vì chủ nghĩa xã hội, tiến nên lên giành những thắng lợi mới, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1970, tr. 5.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #107 vào lúc: 04 Tháng Hai, 2010, 10:00:49 pm »


KẾT LUẬN

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi. Chủ nghĩa thực dân cũ bị xóa bỏ, nhưng Tổ quốc Việt Nam còn tạm thời bị chia cắt ở vĩ tuyến 17. Khát vọng độc lập dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân ta mới thành hiện thực ở nửa nước phía Bắc. Nửa nước phía Nam theo quy định của Hiệp định Giơnevơ đến tháng 7-1956 sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do để thống nhất nước Việt Nam. Nhưng Mỹ liền thay chân Pháp, thiết lập chế độ thực dân mới ở miền Nam, chia cắt nước ta.

Nhân dân Việt Nam lại đứng trước một cuộc đấu tranh mới cực kỳ khó khăn. Cuộc đấu tranh đó lại diễn ra trong tình hình thế giới vô cùng thức tạp: Mỹ là cường quốc chi phối các nước tư bản chủ nghĩa; Liên Xô và Trung Quốc thi hành chính sách đối ngoại khác nhau và đều có những điểm khác với đường lối cách mạng của Việt Nam.

Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định rằng, trong thời đại ngày nay, cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ, một cường quốc chưa từng bị bại trận, mà không có sự đồng tình ủng hộ quốc tế, đặc biệt là phe xã hội chủ nghĩa, không có hậu phương vững chắc, thì không thể thắng được. Do vậy, phải có một chiến lược phù hợp và sách lược mềm dẻo, linh hoạt để phân hóa kẻ thù, tập hợp lực lượng cách mạng trong nước và ngoài nước. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau ở hai miền Nam - Bắc, nhưng đều nhằm đạt một mục tiêu chung của cách mạng Việt Nam, là hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam, thống nhất nước nhà, đưa cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Đây là thời kỳ phức tạp nhất - một thời kỳ vừa nghiên cứu tìm tòi, thể nghiệm vừa thăm dò phản ứng và tập hợp lực lượng, đề hoạch định đường lối, chủ trương, phương pháp cách mạng mới.

Để thực hiện được mục tiêu chung của cách mạng Việt Nam trong điều kiện có pháp lý của Hiệp định Giơnevơ, nhân dân ta đã kiên trì đấu tranh chính trị hòa bình suốt hơn năm năm ròng với bao mất mát, hy sinh. Nhưng Mỹ và chính quyền tay sai ở Sài Gòn đã dùng lực lượng quân sự thẳng tay đàn áp các phong trào hòa bình, trả thù và giết hại những người yêu nước ở miền Nam. Và, từ khi Ngô Đình Diệm “kiên quyết từ chối giao lưu với miền Bắc đã ngăn cản mọi trao đổi kinh tế, thậm chí cả tự do thư tín, thì miền Nam trở thành một trong những đường biên giới kiềm chế nhất thế giới”1. Rõ ràng Mỹ - Diệm đã dồn nhân dân ta ở miền Nam vào tình cảnh cực kỳ nguy hiểm, buộc phải đứng lên đấu tranh chính trị kết hợp với vũ trang để tự giải phóng mình.

Điều kiện chủ quan và khách quan lúc bấy giờ không thuận lợi cho việc tiến hành một cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam, Đảng và nhân dân ta đã phải cân nhắc, lựa chọn nhiều phương án khác nhau sao cho giải phóng được miền Nam mà vẫn bảo vệ được miền Bắc xã hội chủ nghĩa, tập hợp được lực lượng trong nước, tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của quốc tế - đặc biệt là Liên Xô, Trung Quốc. Cuối cùng, sau nhiều lần thảo luận, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 15 đã xác định được đường lối đúng đắn cho cách mạng Việt Nam, phù hợp với thực tiễn tình hình lúc bấy giờ. Để thực hiện Nghị quyết 15 của Trung ương, một mặt ta vẫn duy trì tính pháp lý của Hiệp định Giơnevơ, giữ nguyên trạng giới tuyến quân sự tạm thời, mặt khác, ta chủ trương đẩy mạnh đấu tranh chính trị có vũ trang hỗ trợ, xúc tiến xây dựng căn cứ, chuẩn bị lực lượng, tạo thời cơ để nhân dân miền Nam nổi dậy đánh đổ chính quyền tay sai của Mỹ. Đảng ta nêu khẩu hiệu: miền Nam độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập thống nhất Tổ quốc để tập hợp lực lượng, tạo thế thuận lợi cho cách mạng miền Nam. Miền Bắc tập trung xây dựng chủ nghĩa xã hội, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh ở miền Nam từ bí mật đến công khai, từ thấp đến cao, từ gián tiếp đến trực tiếp.

Năm 1959 và 1960, với quy mô và hình thức thích hợp, nhân dân miền Nam đã làm cuộc Đồng khởi vĩ đại, mở đầu cho cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược, đưa phong trào cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tiến công tránh được việc đưa quân từ miền Bắc vào miền Nam.

Đồng khởi thắng lợi đánh dấu một bước tiến nhảy vọt của cách mạng Việt Nam ở miền Nam, chứng tỏ Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng là một thành công điển hình và sáng tạo lớn của Đảng ta về đường lối cách mạng và nghệ thuật chỉ đạo chiến lược khởi sự cuộc kháng chiến phù hợp với thời cơ lịch sử. Mặc dù, Mỹ và chính quyền Sài Gòn giương chiêu bài chống cộng sản để áp đặt chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam, chia cắt lâu dài đất nước ta nhưng thực tế những người cộng sản đã giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc chống Mỹ xâm lược. Nhân dân miền Nam đã đấu tranh để tự giải phóng. Nhưng chính Bộ Quốc phòng Mỹ cũng phải thừa nhận: “Các chính quyền kế tiếp nhau ở Oasinhton, từ Tổng thống Kennơđi tới Tổng thống Níchxơn đã dùng cách giải thích về nguồn gốc chiến tranh là do Hà Nội xâm lược để biện bạch cho hành động can thiệp của Mỹ ở Việt Nam. Nhưng các nhận định của tình báo Mỹ trong những năm 1950 đã chỉ rõ chiến tranh nói chung bắt đầu như là một cuộc nổi loạn ở miền Nam chống lại chế độ thối nát và ngày càng có tính chất đàn áp của Ngô Đình Diệm”2. Bằng cao trào Đồng khởi, nhân dân miền Nam đã chủ động đánh thẳng vào chính sách xâm lược thực dân kiểu mới Mỹ, đặt đế quốc Mỹ vào thế bị động ngay từ đầu và buộc chúng phải kiềm chế sự phản ứng trong phạm vi miền Nam, nhằm đối phó với cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta. Đó là một trong những nét đặc sắc nối bật của cách mạng miền Nam, thể hiện trí tuệ thông minh, tài năng sáng tạo của Đảng ta, nhân dân ta. Sau này nhìn lại, đánh giá nguyên nhân thành công bước mở đầu cuộc kháng chiến của nhân dân ta, phía Mỹ đã nhận xét rất đúng rằng: “Những chìa khóa cho việc động viên có hiệu quả sự ủng hộ của nhân dân trong cuộc nổi dậy là một ban lãnh đạo tận tụy, thông minh, một tổ chức hữu hiệu từ trên xuống dưới, những mục tiêu lâu dài đúng đắn và một chiến lược quân sự có tác dụng hỗ trợ và củng cố các mục tiêu chính trị”3.
_____________________________________
1. Tài liệu mật Lầu Năm Góc, Tlđd.
2. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng, t. 1, Tlđd, tr. 72.
3. Tóm tắt Tổng kết chiến tranh Việt Nam của Bộ quốc phòng Mỹ, t. 1, Tài liệu lưu trữ tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam 1266/83, tr. 10.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #108 vào lúc: 04 Tháng Hai, 2010, 10:54:23 pm »


TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

I- SÁCH KINH ĐIỂN

1. Mác - Ăngghen, Lênin, Stalin: Những quan điểm cơ bản về khởi nghĩa, chiến tranh và quân đội. Nxb QĐND. 1973.
2. Mác - Ăngghen: Về chiến tranh và quân đội. Nxb QĐND. 1983
3. Ăngghen: Tuyển tập luận văn quân sự (t1 – t5). Nxb QĐND. 1960-1986.
4. Ăngghen, Lênin, Stalin: Bàn về chiến tranh nhân dân. Nxb Sự Thật. 1965.
5. Lênin: Những bài nói và viết về quân sự. t.4. Nxb QĐND. 1978.
6. Lênin: Chiến tranh du kích, Nxb QĐND. 1964
7. Hồ Chí Minh: Chiến tranh nhân dân Việt Nam. Nxb QĐND, 1980.
8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, 8, Nxb Sự Thật. 1987. 1989
9. Hồ Chí Minh với các LLVTND, Nxb QĐND. 1975.
10. Hồ Chí Minh: Về nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước, Nxb Sự Thật, 1967.
11. Hồ Chí Minh: Về đấu tranh vũ trang và LLVTND, Nxb QĐND, 1970.
12. Hồ Chí Minh: Cách mạng tháng Mười mở ra con đường giải phóng dân tộc. Nxb Sự Thật 1967.
13. Những lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch, t.3, Nxb Sự thật 1956.
14. Lê Duẩn: Cách mạng miền Nam và chiến tranh nhân dân chống Mỹ, cứu nước, Nxb QĐND, 1970.
15. Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb Sự Thật, 1976.
16. Lê Duẩn: Về chiến tranh nhân dân Việt Nam. Nxb Sự Thật, 1993.
17. Trường Chinh: Tiến lên dưới lá cờ của Đảng, Nxb Sự Thật, 1963.
18. Trường Chinh: Mấy vấn đề quân sự trong cách mạng Việt Nam, Nxb QĐND, 1983.


II- VĂN KIỆN ĐẢNG

1. Những văn kiện của Đảng về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, t. 1 (1954-1969), Lưu trữ Viện LSQS
2. Văn kiện lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, t. 1 - Nxb Sách giáo khoa Mác - Lênin. 1987.
3. Một số văn kiện của Đảng về chống Mỹ, cứu nước, t. 1, Nxb Sự Thật, t. 1985.
4. Văn kiện Lịch sử Đảng. t. 9, 10, 11 do trường Nguyễn Ái Quốc ấn hành.
5. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 15, Lưu trữ Viện LSQS.
6. Nghị quyết Xứ ủy lần thứ 4 (11-1959) và 5 (7-1960), Lưu trữ Viện LSQS.
7. Văn kiện Đại hội Đảng cộng sản Việt nam lần thứ III (1960). Ban Chấp hành Trung ương Đảng xuất bản, 1960.
8. Văn kiện quân sự của Đảng, Nxb QĐND.
9. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 21 (10-1973). Lưu trữ Viện LSQS.


III- TÀI LIỆU, SÁCH LÝ LUẬN, LỊCH SỬ, HỒI KÝ

1. Phạm Văn Đồng: Thắng lợi vĩ đại, tương lai huy hoàng, Nxb Sự Thật, 1975.
2. Võ Nguyên Giáp: Đường lối quân sự của Đảng là ngọn cờ trăm trận trăm thắng của chiến tranh nhân dân ở nước ta. Nxb QĐDN, 1973.
3. Lê Duẩn: Thư vào Nam, Nxb Sự Thật. 1985.
4. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, t2. Nxb Tuyên huấn, 1988.
5. Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, t. 1, Nxb Sự Thật, 1990.
6. Cuộc Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam. Nxb Sự Thật, 1987.
7. Sự thật quan hệ Việt Nam - Trung Quốc 30 năm qua, Nxb Sự Thật, 1987.
8. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Nxb Sự Thật, 1961.
9. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975. Những sự kiện quân sự. Viện LSQS ấn hành, 1988.
10. Cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới của đế quốc Mỹ ở Việt Nam, Viện LSQS ấn hành. 1991.
11. Mười tám năm chống Mỹ, cứu nước thắng lợi, Nxb QĐND, 1974.
12. Trần Văn Giàu: Miền Nam giữ vững thành đồng, t. 1, Nxb Khoa học xã hội, 1964.
13. Cao Văn Lượng: Lịch sử cách mạng miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1960, Nxb Khoa học xã hội, 1991.
14. Cao Văn Lượng - Phạm Quang Toàn - Quỳnh Cư: Tìm hiểu phong trào Đồng khởi ở miền Nam Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, 1981.
15. Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, t. 2, q. 1, Nxb QĐND, 1988.
16. Bước mở đầu thời kỳ lịch sử vẻ vang, Nxb Thông tin lý luận 1987.
17. Nghiên cứu văn kiện Đảng về chống Mỹ, cứu nước, Nxb Sự Thật, 1986.
18. Trận đánh 30 năm (ký sự) t. 3, Nxb QĐND, 1988.
19. Cuộc khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi. Nxb QĐND 1975.
20. Những sự kiện lịch sử Đảng, t. 3, Nxb Thông tin lý luận 1985.
21. Việt Bắc - 30 năm chiến tranh cách mạng, t. 2, Nxb QDNĐ, 1992.
22. Khu V, 30 năm chiến tranh giải phóng, t.2 Bộ Tư lệnh Quân khu V ấn hành, 1989.
23. Miền Đông Nam Bộ kháng chiến, t. 2, Nxb QĐND, 1993.
24. Thủ đô Hà Nội kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Nxb QĐND, 1991.
25. Lịch sử chống Mỹ, cứu nước Quân khu Tây Bắc, Quân khu III, Quân khu IV, Quân khu IX, Sài Gòn - Gia Định (Bản đánh máy chưa xuất bản), Lưu trữ bộ môn LSKCCM, Viện LSQSVN.
26. Việt Nam con số và sự kiện, Nxb Sự Thật, 1990.
27. Trường Sơn: Cuộc hành trình năm ngàn ngày đêm (hồi ký), Nxb Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 1992.
28. Lịch sử bộ đội đặc công. t. 1, Nxb QĐND, 1987.
29. Nguyễn Tư Cường: Nhiệm vụ đặc biệt (hồi ký). Nxb QĐND, 1987.
30. Những chặng đường lịch sử của B2 thành đồng, t. 1 (hồi ký của Thượng tướng Trần Văn Trà) Nxb QĐND. 1992
31. Hoàng Linh - Đỗ Mậu: Tâm sự tướng lưu vong (Việt Nam quê hương tôi). Nxb CAND. 1991.
32. Nam Trung Bộ kháng chiến (1945-1975). Viện lịch sử Đảng, Hội đồng biên soạn lịch sử Nam Trung Bộ xuất bản. 1992.
33. Lực lượng vũ trang nhân dân Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Nxb QĐND, 1981.
34. Quảng Nam Đà Nẵng - 30 năm chiến đấu và chiến thắng, t. 2, Nxb QĐND, 1988.
35. Quảng Ngãi: Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975). Nxb Tổng hợp Nghĩa Bình, 1988.
36. Bình Định: Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975), Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định ấn hành, 1992.
37. Phú Yên 30 năm chiến tranh giải phóng (1945-1975) Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Phú Yên ấn hành.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #109 vào lúc: 04 Tháng Hai, 2010, 10:59:22 pm »


38. Đồng Nai - 30 năm chiến tranh giải phóng. Nxb Đồng Nai, 1986.
39. Sông Bé: Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945-1975), Nxb Tổng hợp Sông Bé, 1990.
40- Cuộc kháng chiến 30 năm của quân dân Tiền Giang, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Tiền Giang ấn hành, 1988.
41. Ba Mươi năm kháng chiến của quân dân Đồng Tháp. Bộ chỉ huy quân sự Đồng Tháp ấn hành. 1990.
42. Kiến Giang 30 năm chiến tranh giải phóng. Bộ chỉ huy quân sự Kiến Giang ấn hành, 1987.
43. Minh Hải - 30 năm chiến tranh giải phóng. Nxb Mũi Cà Mau, 1986.
44. Chiến thắng Tua Hai. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Tây Ninh ấn hành, 1980.
45. 21 năm chống Mỹ, cứu nước và những bài học về toàn dân đánh giặc của Hậu Giang - Ban Tổng kết chiến tranh Hậu Giang, 1987.
46. Tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam, t. 1, lưu trữ Viện Lịch sự quân sự Việt Nam, (tài liệu đánh máy).
47. Dự thảo đề cương tỉ mỉ báo cáo tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường B2, t. 1, Lưu trữ Viện Lịch sử quân sự.
48. Quá trình cuộc chiến tranh xâm lược và quy luật hoạt động của Mỹ - ngụy trong kháng chiến chống Mỹ trên chiến trường B2, Lưu trữ Viện LSQS.
49. Dự thảo tổng kết phong trào Đồng khởi của nhân dân Bến Tre, lưu trữ Viện LSQS.
50. Cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Tây Ninh - Tỉnh ủy Tây Ninh ấn hành, 1984.
51. Công tác xây dựng và bảo vệ căn cứ địa Tây Ninh trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Tỉnh ủy Tây Ninh ấn hành, 1984.
52. Việc xây dựng và hoạt động tác chiến của các lực lượng vũ trang Tây Ninh trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Tỉnh ủy Tây Ninh ấn hành, 1984.
53. Báo cáo diễn biến 21 năm kháng chiến chống Mỹ và những bài học về toàn dân đánh giặc ở Long An, Ban Tổng kết chiến tranh tỉnh ủy Long An ấn hành, 1985.
54. Báo cáo tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Quân khu VI, t. 1, Ban Tổng kết chiến tranh B2 ấn hành, 1984.
55. Quân khu V thắng lợi và những bài học trong kháng chiến chống Mỹ, t. 1 - Nxb QĐND, 1981.
56. Chiến trường Trị Thiên-Huế trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nxb Thuận Hóa, 1985.
57. Cuộc chống Mỹ, cứu nước ở Sài Gòn - Gia Định, Ban Tổng kết chiến tranh Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh. 1991.
58. Tình hình lực lượng và hoạt động vũ trang của ta ở miền Nam và những vấn đề Quân ủy Trung ương cần bàn, kho lưu trữ BQP, hồ sơ số 61 - loại A61.
59. Dự thảo chỉ thị của Bộ Chính trị về tình hình hỗn loạn ở miền Nam và nhiệm vụ công tác cụ thể của chúng ta ở miền Nam hiện nay (20-6-1955), Cục lưu trữ Văn phòng T.Ư Đảng, Đơn vị bảo quản 01.
60. Tổng kết giai đoạn I chiến dịch tố cộng. Cục lưu trữ Văn phòng T.Ư Đảng, đơn vị bảo quản 03.
61. Báo cáo âm mưu của địch ở miền Nam, Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, đơn vị bảo quản 03.
62. Một năm đấu tranh chính trị của NDVN-1955, lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, đơn vị bảo quản 05.
63. Báo cáo tình hình đặc biệt về Quốc dân đảng của Liên khu V 1955, lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, đơn vị bảo quản 13.
64. Báo cáo tình hình ngụy quân 1954, Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, đơn vị bảo quản 15.
65. Báo cáo tình hình công giáo miền Nam, Lưu trữ văn phòng Trung ương Đảng, đơn vị bảo quản 36.
66. Điện gửi Xứ ủy Nam Bộ về tình hình Hòa Hảo, Cao Đài, Lưu trữ văn phòng Trung ương Đảng, đơn vị bảo quản 36.
67. Báo cáo tình hình quân sự miền Nam 1956, Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, đơn vị bảo quản 37.
68. Báo cáo đặc biệt tình hình Đảng ở miền Nam từ sau hòa bình đến nay (22-8-1956), Lưu trữ văn phòng Trung ương Đảng, đơn vị bảo quản 40.
69. Một số tình hình miền Nam 3 tháng đầu 1957. Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng. đơn vị bảo quản 50.
70. Tài liệu về TH MN và tinh thần đấu tranh của nhân dân chống Mỹ - Diệm, Lưu trữ Văn phòng trung ương Đảng, đơn vị bảo quản 50.
71. Báo cáo TK tình hình 1957. ĐVBA 58 (VPTUD). Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, đơn vị bảo quản 58.
72. Tình hình nhân dân và phong trào đấu tranh ở miền Nam năm 1957, Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, đơn vị bảo quản 65.
73. Một số tài liệu về bộ mặt phát xít của Mỹ - Diệm trong giai đạn 2: “Tố cộng” khủng bồ đồng bào miền Nam 1957, Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, đơn vị bảo quản 77.
74. Báo cáo tình hình năm 1958, Lưu trữ văn phòng Trung ương Đảng, đơn vị bảo quản 98.
75. Phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam năm 1958, Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, đơn vị bảo quản 105.
76. Đề cương đường lối đấu tranh thống nhất nước nhà 1956, Lưu ưữ Văn phòng Trung ương Đảng, đơn vị bảo quản 31.

IV- SÁCH VÀ TÀI LIỆU DỊCH

1.Tài liệu mật Lầu Năm Góc, Trung tâm thông tin KHKT dịch, Thư viện quân đội sao.
2. Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh Việt Nam (The secret history of the Vietnam war), VNTTX phát hành. 1971.
3. Níchxơn: Cuộc chiến tranh thực sự, Thư Viện quân đội sao lược, VL 1296/03.
4. Genrrges Chaffard: Hai cuộc chiến tranh của Việt Nam từ Valuy đến Oétmolen, t. 1, Nxb Paris La Table Ronde, 1969. (Bản đánh máy lưu trữ Viện LSQS. số VL 1139/82 ).
5. Giôdép Amtơ: Lời phán quyết về Việt Nam - Nxb QDNĐ. 1985.
6. Pitơ Aputơ: Nước Mỹ và Đông Dương từ Rudơven đến Nichxơn, Nxb Thông tin lý luận, 1986.



Hết!
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM