Để hiểu được thêm vê súng trường Cao Thắng, cân biết một chút về lịch sử của súng trường.
Súng trường, với định nghĩa cổ điển đây đủ là loại súng dùng cho bộ binh, với các thành phân cơ bản là cò, báng, nòng dài. Nhờ cò, súng được điểm hỏa chính xác để chiến đấu chứ không bắn diện tích như pháo khi sát thương. Báng tì vai và nòng dài để phân biệt với các súng cầm tay khác. Súng trường la một phát minh tập thể diễn ra trong gần suốt thế kỷ 15 của Hỏa Khí Doanh, do cha con Hồ Nguyên Trừng của chúng ta thay nhau nắm quyền. Việc sử dụng súng trường lân đầu tiên là các trận chiến với quân Mông Cổ vào thập niên 140x, 141x. Tuy nhiên, lúc đó súng chưa có cò, nên sức mạnh vẫn là dàn hàng ngang bắn diện tích. Loại súng có cò đâu tiên là loại dung cò mồi thừng "hỏa thằng câu thương", xuất hiện cuối 14xx, được chấu Âu biết đến năm 1520. Đây là loại súng trường đầu tiên của Thế Giới.
Súng trường có buồng đốt lật lên được để nạp đạn sử dụng lần đâu tiên vào chiến tranh lập quốc Mỹ, tuy nhiên, nó nhanh chóng rơi vào quên lãng. Sau này, Mỹ sản xuất trang bị lại năm 1811 và 182x. Nhiều nước như Na Uy lấy kiểu đó làm súng chính. Vẫn là thuốc nổ đen bột, đạn chì bi. NHững kiểu sau này 181x, 182x đã dùng hạt nổ thay cho đá lửa.
Vỏ giấy được dùng từ nửa đâu Thế Kỷ 19 với kiểu "súng mỳ". Nhưng ứng dụng rộng chỉ thể hiện hở súng ngắn Colt với kiểu ổ xoay nhiều buồng đốt nạp sẵn. Dung cho súng trường buồng đốt lớn vẫn hạn chế.
Ban đầu có nhiều kiểu vỏ giấy. Súng Mỳ đức sau khi cải tiến dung hạt đổ đặt ở cuối đâu đạn, kim hỏa to dài xuyên qua vỏ giấy.
Johann Nikolaus von Dreyse là người đã phát triển súng mỳ Nadelgewehr (Needle Rifle), mẫu hoàn chỉnh có từ năm 1836.
Đến trước thời Cao Thắng, kiểu vỏ đồng với hạt nổ ở tâm vỏ đạn mới xuất hiện, được dùng nhiều trong các mẫu súng 187x trở đi ở các nước tiên tiến nhất như Đức, Pháp. Mãi đến 188x mới phổ biến ở các nước dân da trắng khác. Đạn vỏ đồng có phần đuôi vỏ đạn là vách chịu lực dầy như là một phần của buồng đốt. Việc hoan thiện vỏ đạn la cuộc cách mạng lớn tiếp theo sau phát minh ra bản thân khẩu súng trường, diễn ra suốt Thế Kỷ 19, đây cũng là một phát minh tập thể, thật ra, hồi đó thợ thuyền còn thấp cổ bé họng quá trước các vị sỹ quan và quít sờ toọc, nên người ta không thèm ghi lại một vinh quang lớn của loài người, la ai đã chế ra dạng vỏ đạn mới đó. Nó mở ra hàng loạt sức mạnh mới, như bắn chính xác do liều chính xác, liều kín bền, lắp nhiều đạn và dẫn tới bắn tự động tốc độ cao.
Buồng đạn nhiều viên cũng chỉ đến 189x mới phổ biến với các đại diện lừng danh Mause, Mosin, đã là thời đại của súng trường hiện đại rồi. Đến thời chúng ta đánh tây 9 năm, súng "khai hậu", tức khẩu chỉ lắp được 1 viên đạn vẫn còn phổ biến.
Nòng xoắn có từ thời kỳ đầu tiên súng sang châu Âu, 195x. Tuy nhiên, với các súng nạp đạn trước, nong xoắn bất tiện nên không dùng. Khi có các súng nạp đạn sau, thì nòng xoắn mới mọc mũi sủi tăm lên được. Kiẻu nòng xoắn của Grass
http://jp.sedent.free.fr/FUSIL%20D%27INFANTERIE%20GRAS%20Mle%201874_fichiers/image006.jpg trên kia được gọi là khe rộng, đạn đúc gờ rộng và phải lắp đúng vào khe nòng. Do đó tốc độ lắp đạn chậm và chỉ thông dụng ở pháo. Rãnh nong được mài từ máy gia công riêng có đồ gá lớn mà Cao Thăng va cả Trân Đại Nghĩa sau nay đều không thể có được trong rừng. Tuy nhiên, rãnh nay cũng không đem lại súc mạnh gì cho súng Tây cả, trừ vao cái danh hão ma những kẻ dốt nát tự hào la đã có rãnh xoắn từ năm ấy năm nọ. Bắn rất chậm va hay tắc.
Ở Grass, người Pháp dùng gờ trên đầu đạn để cái rãnh chữ nhập rộng kia cào vào như pháo ngày nay. Dĩ nhiên, điều này làm súng hay tắc kinh khủng, hoặc năng lực đầu đạn yếu đổi lại. Và cũng vì thế mà tuổi thọ của nó ngắn ngủn khi Lebel ra đời. Mà hồi đó đang cách mạng đạn nên tuổi thọ súng nào cũng ngủn cả. Lebel đáng ra được thay thế bởi Mas đầu 190x, nhưng Pháp quá tồi về khoa học súng đạn nên chỉ đến 193x Mas mới nhiều. Phiên bản Mas dùng ở ta có máy súng sao chép CKC (SKS). Tuy nhiên, lúc đó CKC đã sử dụng đạn thế hệ mới cùng với AK rồi.
Súng Pháp còn dùng đạn bi thép dai dai sau này. Cho đến khi loại đạn đồng đỏ đúc dài xuất hiện, gọi là đạn hinh trụ. Người ta dung rãnh xoắn tam giác cho súng trường và chữ nhật hẹp cho đại bác để rạch vao đầu đạn, làm đâu đạn xoáy, chứ không phải lắp khớp vào gờ nữa. Kiểu rạch vỏ mềm này con dùng đến ngày nay. Loại đạn dung cho nòng xoắn đó chỉ xuất hiện nhiều cuối 188x và chỉ được dùng rộng rãi 189x, là những kiểu đầu của Mauser, Mosin. Hai khẩu lừng danh này còn qua một lần cải tiến đạn nữa 1898.
Trước 1898, người ta đúc đạn hình trụ với mũi tù, thuốc nhồi vô tư, tốc độ xoáy càng cao càng tốt miễn là không vỡ nòng. Đạn xoáy mạnh cố định trục đầu đạn.
Đến 1898, Mau và Mốt sử dụng thuạt phóng ngoài chính xác, với tốc độc xoáy, tốc độ dài, kích tước đầu đạn tương ứng tương đối với nhau. Đầu đạn có mũi dài đẩy tâm khí động lên trước, trục đạn ngoáy đảo rồi tự động ăn khớp với hướng bay. Điều này làm giảm tản mát và tăng tầm. Đến 1902, 1906, phương Tây mới theo Nga Đức. Pháp hơi chậm. Đến 193x, các bài toán tính đầu đạn đã phổ biến, người ta tính được thuật phóng chính xác hơn. Mosin cũng chính xác hóa lại đầu đạn nhưng về cơ bản việc này đã thực hiện từ 1898. CÒn Pháp lạc hậu hơn, đến thời điểm này cách mạng luôn với Mas.
Nói thêm là M16 lừng danh trên quảng cáo, cả M16 A0 A1 A2 đều dùng thuật phóng ngoài tăng vận tốc xoáy hết cỡ của thời kỳ trước 1898. Thuật phóng lạc hậu như vậy không bỏ được bởi nhiều lý do, lý do lớn nhất là sự dốt nát lạc hậu của những người nắm đặc quyền chính trị kinh tế Mỹ.
Thay đổi lớn về thốc nổ là chuyển sang dùng thuốc súng không khói, mạnh. Kiểu tấm giấy gấp, "giấy nổ", là nitrocellulose được keo hóa thành dạng có tên collodion bằng cồn và ê-te ether, được Paul Vieille, Pháp cho ra năm 1886 với tên thuốc nổ trắng Poudre B. Tuy nhiên, chất nổ chính là nitrocellulose yếu.
Một ưu thế của loại thuốc nổ keo hóa viên lớn là cháy chậm đều, giảm áp suất tối đa, tăng chiều dài nòng và giảm trọng lượng nòng. Sau này, nó được sử dụng để thực hiện thuật phóng trong điều khiển tốc độ cháy bằng hình dáng viên thuốc. Vào năm 1898, Nga và Đức tuy chưa tính được kết quả chính xác nhưng có phương pháp thử nghiệm quy mô lớn hồi đó để đưa ra loại đạn rất mạnh. Tuy nhiên, phần còn lại của thế giới vẫn lạc hậu cho đến 1906, Pháp lạc hậu hơn cả dân da trắng, phải đến 193x, khi các bài toán lý thuyết đã hoàn thiện.
Paul Vieille do đó không tận dụng được thế mạnh của thuốc nổ kích thước viên lớn và thuốc nổ tấm giấy gấp vẫn được dùng như là thuốc nổ chính của Pháp. Cuộn giấy nổ được nhét vào trong vỏ đạn, đây là thời điểm đánh dấu sự ra đời của Lebel (phiên bản cạc bin của nó là "mút"), đạn bi thép cầu vẫn được dùng phổ biến ở cả Lebel và Grass vài năm nữa.
Ballistite là sản phẩm của Nobel đối địch Poudre B năm 1887. Có 10% keo long não, 45% 45% nitroglycerine và 45% collodion (nitrocellulose keo hóa). Việc dùng thuốc nổ này ngày nay bị phản đối do tốc độ cháy quá nhanh, nhưng ngày đó có quan điểm là thuốc nổ mạnh là tốt (mạnh yếu khác nhanh chậm nhé). Thời điểm này, trừ Nga và Đức đang thai nghén các bài toán điều khiển tốc độ cháy cho chậm, thì quan điểm sai đó trội ở phương Tây. Ballistite được dùng cho cả súng trường Ý và một số của Pháp.
Anh cải tiến không nhiều nguyên lý Ballistite đưa ra cordite: 58% nitroglycerine, 37% nitrocellulose, 5% vaseline năm 1889. Đây là Ballistite dẻo hóa ép thành dây cuộn như cái thừng. Việc sử dụng chất hóa dẻo trong thuốc súng là một bước đi sai lầm. Tuy nhiên, khi bài toán chưa hoàn thiện thì người ta không biết đó là sai lầm. Thuốc có độ bền hóa học cao theo thời gian.
Thật ra, thuốc súng đóng góp khối lượng nhỏ trong tổng khối lượng đạn nên quan điểm dùng thuốc nổ mạnh làm thuốc súng ngày nay là buồn cười, càng buồn cười hơn khi hóa dẻo nó để cháy nhanh hơn. Nhưng trước 193x ở phương Tây nó như vậy.
Cái quan trọng chúng ta cần biết là, các thuốc súng đó, trừ Poudre B, cháy nhanh tức thì chả kém gì thuốc nổ đen cổ điển cả. Chúng chỉ có 2 ưu thế là không khói và năng lượng / khối lượng thuốc cao hơn. Nhưng vì khối lượng thuốc chỉ đóng góp phần nhỏ trong khối lượng đạn, và cũng do không điều khiển được tốc độ cháy, nên để nòng nhẹ, người ta vẫn làm vỏ đạn lớn và chỉ nhồi phần nhỏ thể tích thuốc nổ, nên dùng thuốc nổ mới không gọn hơn thuốc nổ phân dơi. Và như vậy, vào thời điểm Cao Thăng 188x, thì thuốc nổ đen vẫn là đương thời.
Vào năm 1902, Đức thể hiện sức mạnh của thuốc nhồi đầu đạn và phóng đạn viên cứng gốc TNT và nitrocellulose , thì phương Tây mới có cải tiến thuốc súng trường và đầu đạn mũi dài đến 1906. NHưng về cơ bản họ không nắm được bài toán thuật phóng ngoài, chỉ sao chép không hoàn thiện. Cho đến sau Thế chiến II, Mỹ vẫn dùng phổ biến cordite. Chỉ trong CHiến Tranh Việt Nam, quá yếu trước AK, quá bị chỉ trích bởi Đức (lúc này giỏi nhưng mâm dưới), Mỹ mới chấp nhận đạn NATO 51x7,62. Thuốc của đạn này sau được dùng cho AR-15 và trở thành M16A1 năm 1967. Còn trước đó vẫn là các phiên bản cordite cố cải tiến vô vọng.
Và vì vậy, trừ việc tỏa khói ầm ỹ, thì thuốc súng Cao Thắng không kém mấy. Mà với súng trường bắn một phút một phát thì khói cũng chả thành vấn đề.
Với kỹ thuật hồi đó, đạn bi cầu bằng đồng hay chì, vỏ đạn đồng, nòng trơn là thiết kế tuy đã chớm bắt đầu lạc hậu nhưng vẫn đương thời ở châu Âu. Mình không rõ lắm, nhưng nếu dùng đạn trụ dài trong súng đó thì tản mát lớn. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất của Cao Thắng là ông không có máy khoan nòng nên chắc nòng kém chính xác.