Kg các bạn:
Khó khăn lớn nhất trong chiến đấu của bộ đội phòng không Việt Nam là hệ thống nhiễu điện tử của Mỹ. Mỗi chiếc B52 có hàng chục máy gây nhiễu tự động kết hợp với những máy bay chuyên gây nhiễu điện tử khác đã làm hiệu suất tiêu diệt mục tiêu của SAM2 giảm rõ rệt. Tháng 7-1965 tên lửa SAM2 ngay ngày đầu tiên đã bắn rơi 3 máy bay F-4. Nhưng sau đó tỷ suất tiêu hao tên lửa lên khoảng 8-9 quả trên một máy bay Mỹ. Thời điểm tháng 12-1972 là rất khó khăn, có ngày chúng ta không bắn rơi chiếc nào.
Tren trang Web chính thức
Lịch Sử Việt Nam cũng đã ghi rõ vấn đề này
http://www.lichsuvietnam.vn/home.php?option=com_xfaq&task=answer&Itemid=55&catid=67&aid=50Câu hỏi: Câu hỏi 23: Một vài tờ báo đưa tin: có những nhà khoa học Việt Nam đã nghiên cứu cải tiến thành công bộ phận nâng cao tầm bắn cho tên lửa SAM2, nhờ đó mới hạ được B52 của Mỹ. Độ chính xác của nguồn tin đó?
Trả lời: Nguồn tin trên hoàn toàn không có cơ sở. Sự đóng góp của các nhà khoa học quân sự Việt Nam, của các chuyên gia Liên Xô cùng cán bộ nhân viên kỹ thuật. của Quân chủng Phòng không - Không quân trong quá trình cải tiến khí tài tên lửa SAM2 để chống nhiễu, chống hỏa tiễn Sơ-rai, hoặc để tránh tình trạng đạn tên lửa ta bị mất điều khiển, rơi xuống đất... là vô cùng đáng trân trọng. Năm lần cải tiến lớn đã góp phần không nhỏ nâng cao hiệu suất chiến đấu và hạn chế tổn thất cho bộ đội tên lửa, đã được ghi nhận như là những chiến công (zxc Trong việc giúp Việt Nam cải tiến tên lửa SAM2 qua quá trình chiến đấu với không quân Mỹ, các chuyên gia Liên Xô như Tổng công trình sư Sáp-cun , kỹ sư trưởng tên lửa Sa-pen-cô là những người có công lao rất lớn.). Tuy nhiên, việc cải tiến để nâng tầm bắn cho SAM2 thì không hề có.
SAM2 là chữ viết tắt của cụm từ tiếng Anh "Surface - To Air Missile Type 2" (Tên lửa đất đối không kiểu 2) do phương Tây đặt ra để gọi một loại tên lửa của Liên Xô, mang tên Đờ-vi-na, tên của một dòng sông Nga. Tên lửa Đờ vi na ký hiệu CA-75M, cải tiến từ SAM1 được Liên Xô trang bị cho Việt Nam từ đầu năm 1965.
Bản thân SAM2, tự nó đã có tính năng bắn tới độ cao 27 ki-lô-mét, độ xa 34 ki-lô-mét, vượt hơn hẳn tầm bay cao của B52 Mỹ. Ngay SAM1 cũng đã có thừa khả năng đó.
Dẫn chứng cụ thể là ngày 1 tháng 5 năm 1960, một máy bay trinh sát tầng cao kiểu U2 của Mỹ (Tổng thống Mỹ lúc này là Ây-xen-hao (Eisenhouer), do phi công Pau-ơ (Gay Powers) lái, cất cánh từ một sân bay ở Pa-kít-xtan, xâm nhập bầu trời Thủ đô Mát-xcơ-va, đã bị tên lửa SAM1 của Liên Xô bắn hạ trên vùng trời Xvéc-lốp (Sverdlovsk ) ở độ cao 20 ki-lô-mét.
Còn ở Việt Nam thì ngay từ ngày đầu ra quân, tên lửa SAM2 của ta, cụ thể là Tiểu đoàn 64, Trung đoàn H36, ngày 26 tháng 7 năm 1965 đã hạ tại chỗ một máy bay trinh sát không người lái BQM 34A của Mỹ ở độ cao 19 ki-lô-mét trên bầu trời Hà Tây. Hoặc như ngày 7 tháng 2 năm 1966, tại Hà Nội, Tiểu đoàn 84, Trung đoàn H38 cũng bắn rơi tại chỗ một chiếc BQM 34A ở độ cao 20 ki-lô-mét. Bác Hồ đã trực tiếp đến xem phòng trưng bày xác chiếc máy bay này. Và còn nhiều trường hợp khác nữa.
Ở đây xin được nói thêm về uy lực của SAM2. Đầu đạn tên lửa SAM2 chứa một khối lượng thuốc nổ bằng 200 ki-lô-gam TNT, có sức công phá rất mạnh. Khi viên đạn bay lên, còn cách mục tiêu 60 mét, hiệu ứng vô tuyến sẽ kích thích đầu đạn tự nổ. Nếu gặp đạn SAM2, cùng một lúc phải chịu đựng sức dồn ép cực mạnh của sóng xung kích, sức nóng hàng ngàn độ của một quả cầu lửa bùng lên, với số lượng 12 ngàn mảnh đạn phóng ra, pháo đài bay B52 của Mỹ dù rất to xác nhất định cũng phải rơi.
Qua những thí dụ kể trên, chúng ta thấy rõ việc cải tiến nâng cao tầm bắn cho tên lửa SAM2 là không cần thiết, mà trong thực tế là không hề diễn ra. Đây là sự hiểu lầm đáng tiếc của một vài nhà báo (zxc Có thể nhầm lẫn với việc cải tiến nâng tầm bắn cho một loại tên lửa đất đối đất của Binh chủng Pháo binh.). Một lần nữa chúng tôi xin được cải chính.
Nguồn: "Điện Biên Phủ trên không" - chiến thắng của ý chí và trí tuệ Việt Nam - Tác giả : Lưu Trọng Lân, nguyên là Phó trưởng phòng Tác huấn, Bộ Tham mưu Quân chủng Phòng không - Không quân