Nhân đọc
blog của bác Ngô Minh, có bài này:
CHUYỆN ĐÔI BỜ HIỀN LƯƠNG BÂY GIỜ MỚI KỂNgô Minh
Từ ngày 20 tháng 7-1954, Hiệp định Giơnevơ ký kết cho đến cuối năm 1964 đôi bờ giới tuyến Hiền Lương lặng im tiếng súng, nhưng đây là 11 năm diễn ra cuộc đối đầu văn hóa nóng bỏng , quyết liệt nhất giữa ta và bên kia là Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Có nhiều chuyện lạ lùng ít người biết trong cuộc đấu tranh ấy…
HIỀN LƯƠNG- CHIẾC CẦU HAI MÀU SƠNCầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải tại km 735 trên đường thiên lý Bắc -Nam là biểu tượng của sự chia cắt đất nước. Bến Hải là do người Pháp gọi từ một địa danh ở thượng nguồn có tên là Bến Hải. Sông Bến Hải xưa tên là Minh Lương. Đó là tên của một làng, nơi hợp lưu 2 sông Bến Hải và Sa Lung. Thời Minh Mạng, do húy chữ “Minh” nên tên làng , tên sông đều đổi thành Hiền Lương. Cầu Hiền Lương do Pháp xây dựng lại 5- 1952, dài 178 mét, 7 nhịp, trụ bằng bê tông cốt thép , mặt cầu lát gỗ thông, rộng 4 mét…Suốt mười mấy năm trời, bà con thân thích hai bờ sông không được qua cầu thăm viếng nhau. Một lần, một số anh em lính Sài Gòn giác ngộ đã lái xe chạy thẳng qua cầu ra Bắc , nhưng đến giữa cầu thì bị bọn cảnh sát ngụy bắn thủng lốp và bị bắt !
Từ khi sông Bến Hải thành giới tuyến, cầu Hiền Lương cũng bị chia đôi. Trước đó, giữa cầu được vạch một đường chỉ ngang, sơn trắng , rộng 1 cm, làm ranh giới hai miền . Hàng ngày cảnh sát hai miền gác, và đổi phiên qua về theo chế độ liên hợp. Mỹ- Chính quyền Sài Gòn âm mưu dùng màu sơn để chia cắt đất nước ta, chúng sơn màu xanh nửa cầu phía Nam . Chúng vừa sơn xong đầu hôm, thì trong đêm, công an ta lại sơn lại cầu bằng màu xanh cho chung màu theo ý nguyện “thống nhất non sông”. Vài hôm sau chúng lại cho người ra sơn lại phần cầu phía Nam bằng màu nâu. Cứ thế cầu Hiền Lương luôn thay đổi màu sắc. Nhà văn Nguyễn Tuân đã đến trên cầu Hiền Lương, ông đếm tỉ mỉ từng thanh ván cầu : “ Cầu chia làm hai phần, mỗi bên dài 89 mét, sơn hai màu khác nhau. Bờ bắc gồm 450 tấm ván mặt cầu, bờ nam 444 tấm “ . Hễ địch sơn một màu khác đi để tạo ra hai màu đối lập, thì lập tức ta xóa đi thành một màu chung. “Cuộc chiến sơn màu cầu” kéo dài gần 5 năm trời, cuối cùng Chính quyền Sài Gòn phải chịu 968thua để cho chiếc cầu chung một màu sơn thống nhất là màu xanh!
ĐỒN LIÊN HỢP VÀ BẾN ĐÒ ATheo Hiệp định Geneve, mỗi bên có 2 đồn cảnh sát : đồn Hiền Lương , Cửa Tùng ( bờ bắc) , đồn Xuân Hòa và Cát Sơn ở bờ nam , thường gọi là Đồn Liên hợp. Số cảnh sát mỗi đồn quy định không quá 20 người. Cảnh sát có nhiệm vụ giữ gìn quy chế khu phi quân sự , kiểm tra người qua lại giới tuyến . Ai muốn qua phải có giấy thông hành do hai đồn hai bên cấp, chỉ được vào các chợ buôn bán, không được đi sâu vào các làng xóm . Riêng cầu Hiền Lương dân không được qua . Hàng tháng vào ngày chẵn , một tổ 3 cảnh sát của ta mang sổ trực qua cầu sang bờ Nam, và vào ngày lẻ, một tổ 3 cảnh sát ngụy sang bờ bắc trao đổi công tác. Ở đồn Cửa Tùng, mỗi tuần cảnh sát hai bên “đổi bờ” một lần với một tổ 6 người. Mỗi đồn thường xuyên có 2 người trực, một ta một địch . Đến cuối tuần, hai bên cùng ký biên bản đổi bờ. Cuốn “sổ trực ban” đồn Cửa Tùng hiện vẫn còn được lưu giữ tại phòng truyền thống Vĩnh Linh. Gọi là đồn liên hợp nhưng cảnh sát Sài Gòn thì luôn luôn gây thù hằn, chia rẽ, công an ta thì kêu gọi đoàn kết thống nhất ! Nói thế cũng chưa hẳn đúng. “Anh cảnh sát người Việt Nam nào cũng có lòng yêu nước, nhưng đã ăn cơm Quốc Gia thì phải làm theo lệnh Quốc Gia” – có anh cảnh sát Sài Gòn đã tâm sự như vậy ( Quốc gia là ý chỉ chính quyền Ngô Đình Diệm).
Tại Đồn Liên hợp đã diễn ra cuộc đấu tranh căng thẳng. Rất nhiều lần cảnh sát SÀi Gòn nói xấu chế độ miền Bắc, đi đứng nghênh ngang, nói năng tục tỉu, tặng quà mỵ dân. Tháng 4-1955, một tổ cảnh sát Sài Gòn sang bờ Bắc làm việc. Chúng lân la đến tổ dệt xăm ( lưới) của phụ nữ Vinh Quang , nói xấu miền Bắc, lập tức bị các chị đáp lại thẳng thừng :” Các anh có mắt như mù, Mỹ- Diệm không độc ác sao có luật 10-59”. Vào dịp Tết năm 1960, cảnh sát bờ Nam qua đổi gác, chúng xông đến trường học phát kẹo cho học sinh, bị các em ném trả :” Cháu Bác Hồ không biết ăn kẹo Mỹ Diệm !”
Điều trớ trêu là chiến sĩ công an ta phải cùng đi với kẻ thù trên một con đò, ngồi cùng một bàn làm việc. Có những lúc địch dùng vũ lực thô bạo, khiêu khích đe dọa đến tính mạng , nhưng các chiến sĩ vẫn bình tĩnh, dũng cảm đấu trí, đấu lý vạch mặt kẻ thù. Đó là bản lĩnh văn hóa. Ngày 24/4 / 1962 ,bọn địch xúi linh mục và 150 giáo dân di cư ở bờ nam tổ chức mít tinh phản đối chế độ miền Bắc, lập tức bị các chiến sĩ ta vạch mặt bằng những lời rất thuyết phục, buộc đám biểu tình phải giải tán . Ngày 28/4/ 1962, địch cho xe quay phim, chụp ảnh miền Bắc . Hai chiến sĩ công an Dưỡng và Trọng đang trực ban ở đồn Cát Sơn ở bờ Nam đã kiên quyết buộc bọn chúng phải rời khỏi đồn Lối sống văn hóa và lòng nhân ái của chiến sĩ ta đã thức tỉnh nhiều tên sĩ quan và binh lính công an Sài Gòn . Tháng 7-1959, hai cảnh sát đồn Cát Sơn qua đò đổi gác , thuyền bị gió lật chìm. Cảnh sát bờ Nam đứng nhìn đồng đội mình bị nạn mà không cứu, cảnh sát đồn Cửa Tùng ở bờ Bắc đã nhanh chóng lao xuống sông cứu sống hai cảnh sát ngụy. Hành động đó đã cảm hóa một số cảnh sát bờ nam , làm phân hóa đội ngũ của chúng. Bởi thế mà 2 đồn cảnh sát phía Nam thường xuyên thay đổi quân để đối phó. Nhờ đó, các ciến sĩ công an ta xây dựng được nhiều cơ sở nội tuyến trong lòng địch. Đồn Công an Hiền Lương đã tiếp đón 900 đoàn khách quốc tế, 1300 đoàn khách trong nước. Các đồng chí Lê Duẩn, Tôn Đức Thắng , Trường Chính, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp đã đến đồn thăm hỏi, động viên cán bộ chiến sĩ làm nhiệm vụ bảo vệ giới tuyến.
23 giờ ngày 25-10-1965, máy bay Mỹ đã mén bom đồn Hiền Lương , làm tê liệt hoạt động của hệ thống đồn liên hợp hai bờ sông Bến Hải. Ngày 15-8-1968, Đồn bị máy bay Mỹ ném bom san bằng. Từ đó để làm nhiệm vụ bảo vệ cờ , kéo cờ và bảo vệ cầu, các chiến sĩ công an Hiến Lương đã đào hai chiếc Hầm chữ A để bám trụ, chiến đấu. Hai chiếc hầm này tồn tại cho tới năm 1973…
Tuy vẫn giữa vững không khí hoà dịu ở Hiền Lương, nhưng từ năm 1960, quân và dân Vĩnh Linh đã bí mật tiếp tế cho lực lượng cách mạng Quảng Trị bằng con đường vận chuyển qua sông ngay tại Đồn Liên hợp Cửa Tùng, gọi là bến đò Tùng Luật, mang mật danh “Bến đò A”. Đây là bến đò suốt 20 năm lặng lẽ nối hai bờ giới tuyến…Bến đò A là cơ sở đảm bảo vật chất trực tiếp cho tỉnh ủy Quảng Trị và 2 huyện Do Linh, Cam Lộ . Tất cả lương thực, đạn được, được vận chuyển dưới các đường hào, tập kết tại một số điểm ở bờ Bắc sông , đợi tối mới vượt sống qua bờ Nam , rồi chở cán bộ ,thương binh tử sĩ từ bờ Nam ra Bắc. Bến đò rộng 200 mét, nối bên này Vĩnh Quang với bên kia Cát Sơn.
Suốt 8 năm ròng từ 1965 đến 1972, bến đò A đã hứng chịu 11.500 quả bom, 36.000 quả đạn pháo, 9 lần máy bay B52 rải thảm và hơn 1.100 lần máy bay địch thả bom . Những con đò của người dân vĩnh Quang, từ Bến Đò A đã đưa qua về Bắc Nam 1, 5 triệu lượt bộ đội , 400.000 dân công, 30.000 lượt đồng bào K10, K15 ( đồng bào đi sơ tán ra miền Bắc) Trong cuộc chiến đấu sống còn đó , đã có 164 dân quân Vĩnh Quang hy sinh, 11 đồng chí hy sinh ngay tại bến đò, 30 đồng chí dân quân mang thương tật suốt đời…
Ở Đồn Liên hợp Cửa Tùng, chiến sĩ ta hàng ngày cùng đi với kẻ thù trên một con đò. Cuộc đấu trí, đấu lý diễn ra hàng ngày rất căng thẳng để duy trì quan hệ giao tiếp giữa hai bờ , cho nhân dân qua lại thăm viếng nhau, cho các gia đình được chuyển nhận bưu thiếp. Đó là hoạt động công khai ban ngày, còn khi đêm xuống, bộ đội, dân quân, trinh sát, tình báo ta lấy Bến đò A làm điểm xuất phát, vào Nam xây dựng cơ sở cách mạng bí mật. Ban ngày thì tất cả đò đều nhận chìm xuống sông, ban bên lại vớt lên , nối bến .Hơn một vạn chuyến đò đi về an toàn dưới làn bom đạn giặc ! Những chiến sĩ giao liên sông nước nổi tiếng , chèo đò ở bến đò A ngày ấy bây giờ bà con vẫn nhắc tên : Nguyễn Kháng, Nguyễn Con, Nguyễn Ngô, Nguyễn Hưởng , Võ Dẫn …
Bến đò A đã trở thành nơi xuất kích của bộ đội, dân quân đi đánh giặc ở Do Linh, Cửa Việt . Giữa năm 1967, phát hiện ra bộ đội ta thường qua lại Bến đò A, máy bay , pháo hạm Mỹ tăng cường đánh pha rất dữ dội. May nhờ quân dân Vĩnh Quang đã đào địa đạo dài 2.500 mét, sâu 15- 20 mét ở ngay Bến đò , nên có chỗ để bộ đội trú ẩn. Suốt 5 ngày từ tối 19/6 đến 24/6 năm 1967, máy bay Mỹ liên tục đã trút xuống Bến đò A và xã Vĩnh Quang 3.700 quả bom, hàng ngàn quả đạn đại bác, làm sập hai cửa hầm địa đạo “ Đồi 61” ở xóm Cửa, làm cho 61 đồng bào chiến sĩ ta chết ngạt trong hầm! Địch còn thả bom từ trường xuống sông Hiền Lương để ngăn chặn quân ta vượt sông. Nhưng các chiến sĩ Bến đò A đã có sáng kiến buộc hai ba vỏ phi xăng thả xuống sông rồi kéo, hoặc dùng thuốc nổ đánh xuống lòng sông kích nổ bom từ trường. Có lúc bí quá, phải dùng xuồng cao su để đưa bộ đội sang sông … ” Vĩnh Quang còn là bến đò A còn thông suốt”. Bây giờ đọc lại những lời thề quyết tử đó mà bồi hồi xúc động !
Bom B52, bom trường, đạn 105 ly từ Côn Tiên -Dốc Miếu, từ pháo hạm ngoài khơi liên tục trút xuống, nhưng những con đò từ Bến đò A vẫn đêm đêm xuất kích. Năm 1968, những con đò phải chuyên chở suốt đêm mới đưa hết Trung đoàn Sông Dinh vào chiến đấu ở thị xã Quảng Trị và đưa 220 tử sĩ từ Nam ra Bắc. Năm 1972, Bến đò A đã làm một việc chưa từng có : Tổ chức đưa 50 chiếc xe tăng , xe lội nước của bộ đội sang sông vào chiến trường Quảng Trị. Các chiến sĩ dân quân Vĩnh Qaung đã ngâm mình trong nước làm cọc tiêu dẫn đường. Cũng tại Bến đò A, năm 1967 và 1972, các con đò đã đưa hàng ngàn đồng bào các huyện phía Nam sang Vĩnh Linh an toàn.
Bến đò A cũng là nới xuất kích của những con thuyền tiếp tế cho đảo Cồn Cỏ. Bến đò cách đảo 15 hải lý. Những năm 1965- 1972, đường ra đảo thực sự là con đường máu. 10 người “ ra đảo” thì 6 người hy sinh. 7 năm “ ra đảo” có 21 thuyền bị địch phá hủy ngay tại bến đò, 9 thuyền bị tàu chiến địch bắt và đánh chìm, 24 đồng chí đồng bào hy sinh, 11 người bị địch bắt… Nhưng đảo Cồn Cỏ vẫn được tiếp sức hàng ngày , vẫn chiến đấu và chiến thắng ! Bến đò A đã được Nhà nước xếp hạng là Di tích lịch sử chiến tranh cách mạng …
Chỉ vùng sông nhỏ xung quanh Bến đò A ấy mà nhà văn Xuân Đức đã viết đến hai cuốn tiểu thuyết dày cộp “ Cửa gió” và “Bến đò xưa lặng lẽ”. Cả hai cuốn tiểu thuyết đều được giải thưởng Hội Nhà Văn Việt Nam, chứng tỏ đây là mảnh đất trầm tích lịch sử và tình người…